Trung Tướng Ngô Du,
Thế Trận QĐ 2 Tại Cao Nguyên
Dại tá Trịnh Tiếu (Trưỡng Phòng 2, QĐ
2)
1. Tướng Ngô Du và Quân đoàn II
:
Tháng
8/1970, Thiếu tướng Ngô Du, quyền Tư lịnh Quân đoàn IV (sau khi Thiếu
tướng Nguyễn Viết Thanh tử trận), đã được Tổng thống Thiệu bổ nhiệm chức
vụ Tư lịnh Quân đoàn II và Quân khu II.
Tướng
Ngô Du, theo nhận xét của các giới chức Hoa Kỳ, là một tướng lãnh thông
Minh, giỏi về tham mưu, hăng say phục vụ cho đất nước và quân
đội.
Trung
Tướng Ngô Dzu
Ông
đến Pleiku với vài sĩ quan thân tín của ông, lập một bộ tham mưu riêng để
làm việc.
Trong thời
gian này, tôi (Đại tá Trịnh Tiếu) là Trưởng Phòng Nhì Quân đoàn II và Quân
khu II từ thời Trung tướng Vĩnh Lộc và Lữ Lan. Đây là lần đầu tôi phục vụ
dưới quyền Tướng Ngô Du mặc dù đến năm này (1970) tôi đã phục vụ trong
quân đội được 17 năm. Những ngày đầu làm việc với Tướng Ngô Du, tôi phải
trải qua một thời gian trắc nghiệm khả năng chuyên môn và thủ tục tham mưu
theo sách vở Hoa Kỳ thật gay go. Có những buổi ông gọi tôi lên văn phòng
của ông hàng giờ để nhận xét xem tôi có hiểu những danh từ chuyên môn về
tình báo theo sách vở tham mưu của quân đội Hoa Kỳ mà ông đã biết. Rất may
là tôi đã tốt nghiệp khóa tình báo cao cấp tại Hoa Kỳ vào năm 1968. Tôi
trả lời ông rất rõ ràng và đầy đủ những gì ông muốn trắc nghiệm tôi, lúc
đó tôi có cảm tưởng ông là vi. Tướng chỉ huy trưởng tham mưu Hoa Kỳ, vì
ông rất giỏi về thủ tục tham mưu.
Tướng
Ngô Du giữ chức vụ Tư lịnh Quân đoàn II vào một thời gian rất thuận lợi
cho ông, vì trước đó 3 tháng (5/1970), Tướng Lữ Lan đã tổ chức một cuộc
hành quân vượt biên qua lãnh thổ Cam-bốt đánh thẳng vào Quân khu 702 của
CS tại tỉnh Ratanakiri. Quân đội at đã phá hủy toàn bộ khu hậu cần của CS
tại mật khu này, at tịch thu rất nhiều vũ khí nặng của địch, như súng
phòng không, cối 120 ly, đại liên 12.7 và hỏa tiễn, v.v…
Còn
những mật khu nhỏ của CS trong lãnh thổ Quân khu II, Sư đoàn 22BB và Sư
đoàn 23BB cùng với địa phương quân đã thanh toán.
Trong thời gian này, CS rất yếu, các đơn vị chính quy của địch hầu như bị tê liệt, vì thế Tướng Ngô Du đặt hết trọng tâm vào công tác bình định và phát triển tại Quân khu II. Ông say mê làm việc suốt ngày đêm, vợ con ông đều để lại Saigon.
Trong thời gian này, CS rất yếu, các đơn vị chính quy của địch hầu như bị tê liệt, vì thế Tướng Ngô Du đặt hết trọng tâm vào công tác bình định và phát triển tại Quân khu II. Ông say mê làm việc suốt ngày đêm, vợ con ông đều để lại Saigon.
Bà
Ngô Du đặc biệt không bao giờ tham gia vào công việc của chồng. Có nhiều
đêm, Tướng Ngô Du gọi tôi qua để thảo luận tình hình vào lúc 2, 3 giờ
sáng. Ông cũng thường điện thoại các Tỉnh trưởng trong vùng cũng vào giờ
này.
2.
Tướng Ngô Du và cố vấn John Paul Vann :
John
Paul Vann, Trung tá Bộ Binh làm cố vấn Sư đoàn 7BB tại vùng IV từ năm
1962-1963. Sau đó, ông về Hoa Kỳ, xin giải ngũ để tiếp tục đại học. Đến
năm 1966, ông sang VN trở lại và làm cố vấn dân sự cho các chương trình
bình định và phát triển. Tướng Ngô Du rất tâm đắc với Paul Vann về kế
hoạch bình định phát triển tại vùng IV trước đây. John Paul Vann thông
Minh, can đảm, hiếu thắng, kiêu căng, tự phụ và thích làm anh hùng cá
nhân. Sau khi Tướng Ngô Du được bổ nhiệm Tư lịnh Quân đoàn II thì Paul
Vann cũng muốn chức vụ cố vấn Quân đoàn II, mặc dù ông là dân sự. Dịp may
đến với Paul Vann : Tháng
4/1971, quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại VN phải giảm quân số, từ 543,500 xuống còn 270,000 quân. Vị tướng đang làm cố vấn cho Tướng Ngô Du cũng được lịnh về Mỹ trong đợt giảm quân này. Paul Vann liền nắm cơ hội hiếm có, vận động ngầm vơi Tướng Ngô Du xin Hoa Kỳ bổ nhiệm Paul Vann làm cố vấn Quân đoàn II.
4/1971, quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại VN phải giảm quân số, từ 543,500 xuống còn 270,000 quân. Vị tướng đang làm cố vấn cho Tướng Ngô Du cũng được lịnh về Mỹ trong đợt giảm quân này. Paul Vann liền nắm cơ hội hiếm có, vận động ngầm vơi Tướng Ngô Du xin Hoa Kỳ bổ nhiệm Paul Vann làm cố vấn Quân đoàn II.
Một
điều rất khó xử cho Đại tướng Hoa Kỳ Creighton Abrams lúc bấy giờ là làm
thế nào để một vị dân sự chỉ huy Hoa Kỳ còn lại tại Quân đoàn II. Trong
lịch sử Hoa Kỳ, chưa bao giờ có một dân sự giữ chức vụ cấp tướng và chỉ
huy các đơn vi. Hoa Kỳ tại mặt trận trong thời chiến, trường hợp của Vann
là một biệt lê…
Theo
ước tính của các tướng lãnh Hoa Kỳ tại VN, vào năm 1972, CS sẽ mở nhiều
mặt trận lớn tại Quân đoàn I và Quân đoàn II, vì thế kế hoạch bình định và
phát triển phải đặt hàng đầu trong năm 1971, để các dơn vị chính quy của
ta rãnh tay đối đầu với địch vào năm 1972. Quân đoàn II cần có một cố vấn
nhiều kinh nghiệm về bình định phát triển, hợp tác chặt chẽ với Tướng Ngô
Du, Tưlịnh Quân đoàn. Người cố vấn đó không khác ai ngoài Paul Vann, vì
ông đã xuất sắc trong chức vụ này. Tháng 5/1971, Paul Vann đã được Tướng
Abrams bổ nhiệm làm cố vấn Tư lịnh Quân đoàn II và Quân khu
II.
3. Tin tình báo Hoa Kỳ
:
Tháng
12/1971, tôi đang làm việc tại văn phòng, Đại tá Cahn, cố vấn tình báo của
tôi, đến mời tôi qua văn phòng cố vấn Paul Vann (cũng ở tại Bộ tư lịnh
Quân đoàn, gần văn phòng Tướng Ngô Du) để thảo luận tình hình. Mở đầu, ông
Vann hỏi tôi :
-
Đại tá có biết Sư đoà 320 của CS Bắc Việt hay không ?
Tôi
trả lời :
-
Sư đoàn 320 là sư đoàn nổi tiếng tại Điện Biên Phủ trong thời gian chiến
tranh với Pháp vào năm 1954.
-
Đại tá có biết sư đoàn này đang ở đâu không ?
-
Vị trí đóng quân của các sư đoàn CS miền Bắc, Phòng Nhì của Bộ Tổng tham
mưu nắm rất vững, tôi sẽ hỏi và tin cho ông biết sau.
Paul
Vann nói tiếp :
-
Tôi có nguồn tin chính xác, sư đoàn này đang dưỡng quân tại Thanh Hóa,
trong tháng 2/1972 này sẽ di chuyển vào vùng Tam Biên Việt – Miên – Lào,
và sẽ tham chiến với ta vào tháng 2/1972.
Ông
nói thêm :
“Kỳ
này tôi nghỉ phép Giáng sinh 15 ngày tại Hoa Kỳ. Vậy Đại tá cố gắng dùng
các phương tiện về tình báo của Đại tá để xác nhận chính xác vị trí của Sư
đoàn 320, sư đoàn này chuyển vào vùng Tam Biên. Tướng Ngô Du và tôi sẽ có
kế hoạch tiêu diệt sư đoàn này”.
Tôi
cám ơn về những tin tức vừa cho. Trước đây, tôi đã có dịp đi quan sát phi
trường N.K.P. của Hoa Kỳ nằm trên lãnh thổ Thái Lan, đối diện với tỉnh
Thakkhet của Lào. Tại phi trường này, khi phi cơ cất cánh lên cao độ thì
có thể quan sát được đèo Mụ Gia trên đường đi qua biên giới Viêt – Lào,
nằm giữa Vinh và Đồng Hới. Với những phương tiện tình báo điện tử rất tối
tân, Hoa Kỳ có thể biết được sự di chuyển của CS từ Bắc vào Nam, vì thế
tôi tin những tin tức tình báo của Hoa Kỳ trên lãnh thổ Bắc Việt là chính
xác.
4.
Tung màng lưới tình báo điện tử vào tháng 1/1972 :
Tôi
cho thả rất nhiều chùm điện tử (được ngụy trang như những cây nhỏ trong
rừng) trên đường mòn Hồ Chí Minh để báo động khi có người đi qua. Các máy
điện tử đều hướng về Mật khu 609, nơi trú quân của Tướng Hoàng Minh Thảo,
Tư lịnh Mặt trận B3 của CS tại vùng Attopeu (Nam Lào) để dò bắt các mật
điện của Bộ tư lịnh này.
Hàng
ngày đều có máy bay không thám của Quân đoàn và phi cơ chụp không ả?nh của
Bộ Tổng tham mưu CS, chụp ảnh một khu vực rộng lớn trên đường mòn Hồ Chí
Minh để theo dõi các hoạt động của địch trên các đường mòn đưa vào lãnh
thổ Quân khu II. Các toán viễn thám, biệt kích, trinh sát và tình báo đã
được thả xuống khắp nơi tại vùng ba biên giới để rình bắt các cán binh CS
đi lẻ tẻ trong rừng.
Quả
nhiên, đến cuối tháng 1/1972, các toán thám báo đã bắt được một cán binh
CS nhỏ tuổi (khoảng 17 tuổi). Người này khai thuộc Sư đoàn 320 vừa mới
hành quân đến vùng ba biên giới. Tù binh khai Sư đoàn 320 di chuyển ngày
đêm, đúng một tháng từ Thanh Hóa đến vùng dương sự vừa bị bắt. Tôi liền
trình lên Tướng Ngô Du và cố vấn Paul Vann các tin tức mà tù binh này đã
cung cấp.
5.
Kế hoạch tiêu diệt Sư đoàn 320 bằng B-52 của Tướng Ngô Du và John Paul
Vann :
Tướng
Ngô Du và Paul Vann không muốn các đơn vị bộ binh VNCH tiến sâu vào các
mật khu kiên cố đầy rừng núi hiểm trở để tiêu diệt địch như Tướng
Westmoreland đã làm trước đây trong chiếc dịch “Tìm và Diệt”. Năm 1967, Lữ
đoàn 173 Nhảy Dù và Sư đoàn 4 Hoa Kỳ đã thiệt mất 287 người và trên 1000
người bị thương tại Mật khu 609 của Tướng Hoàng Minh Thảo, nhưng Tướng
Westmoreland tuyên bố chiến thắng tại Hoa Thịnh Đốn. Paul Vann muốn bắt
chước Tướng Walton Walker trong kế hoạch đánh bại quân Bắc Triều Tiên năm
1953. Vì thế, 2 ông đã đưa ra kế hoạch du. Sư đoàn 320 tiến sâu vào trong
lãnh thổ Quân đoàn II (vùng Tân Cảnh – Dakto thuộc Kontum) để tiêu diệt
toàn bộ sư đoàn thiện chiến này bằng pháo đài bay B-52. Paul Vann hứa với
Tướng Ngô Du rằng ông có thể xin Đại tướng Abrams tất cả 25 “Box” của pháo
đài bay B-52 mà Hoa Kỳ đang dùng để yểm trợ cho VN trên 4 vùng chiến thuật
mỗi ngày, để tiêu diệt tối đa quân địch tại Quân đoàn II.
(Mỗi
“Box” B-52, bề dài 3 km, bề ngang 1 km, được thả bằng 3 chiếc B-52 chứa
trên 100 quả bom đủ loại, từ 100 lbs đến 500 lbs).
Sư
đoàn 22BB tại Bình Định được lịnh di chuyển 2 trung đoàn và Bộ Tham mưu
một của sư đoàn lên Tân Cảnh để giao chiến với Sư đoàn 320 của CS Bắc
Việt. Quân đoàn dự trù CS sẽ tăng cường Sư đoàn 2 Sao Vàng cho mặt trận
này. Tướng Ngô Du thiết lập thêm 2 căn cứ hỏa lực là căn cứ 5 và 6 trên
các sườn đồi phía Nam Tân Cảnh để yểm trợ hỏa lực pháo binh cho Sư đoàn
22BB. Toàn bộ pháo binh và chiến xa cơ hữu của sư đoàn cũg được điều động
lên vùng này. Ngoài ra, Quân đoàn còn tăng cường thêm Biệt Động Quân để
củng cố vững chắc đồn biên phòng Ban Het, cửa ngõ đi vào lãnh thổ Quân
Đoàn II và Quân khu II. Nhiệm vụ của Sư đoàn 22BB là dụ cho địch xuất hiện
và đi vào thật sâu để Không quân Hoa Kỳ tiêu diệt bằng B-52.
Paul
Vann
Sau
khi dàn binh bố trận xong, Tướng Ngô Du mời Đại tướng Cao Văn Viên lên
quan sát mặt trận vào cuối tháng 2/1972.
Qua
một ngày đi thăm tất cả các đồn bót và công sự bố phòng của ta, trước khi
ra về, Đại tướng đã bắt tay thân mật Tướng Ngô Du và Paul Vann và nói:
”Tôi chưa thấy một cuộc phối trí quân sự nào chu đáo và đầy đủ như sự
phối trí này. Tôi tin tưởng 2 ông sẽ đập nát Sư đoàn 320 bằng hỏa lực
không quân và pháo binh của VN và Hoa Kỳ. Chúc 2 ông thành công tốt
đẹp”.
6.
Những trục trặc đáng tiếc :
Quân
đoàn II có 2 sư đoàn chính quy là Sư đoàn 22BB và Sư đoàn
23BB.
Sư
đoàn 22BB chịu trách nhiệm lãnh thổ 5 tỉnh phía Bắc Quân đoàn II gồm Bình
Định, Phú Yên, Phú Bổn, Pleiku và Kontum.
Sư
đoàn 23BB chịu trách nhiệm lãnh thổ 7 tỉnh còn lại của Quân đoàn II là Ban
Mê Thuộc, Tuyên Đức, Quảng Đức, Khánh Hoà, Cam Ranh, Ninh Thuận và Bình
Thuận. Sư đoàn 22BB do Thiếu tướng Triễn làm Tư lịnh; Sư đoàn 23BB do
Thiếu tướng Cảnh làm Tư lịnh. 2 vị tư lịnh này lập được nhiều chiến công
trên các mặt trận tiêu diệt địch tại Quân đoàn II nhiều năm trước
đây.
Paul
Vann đề nghi. Tướng Ngô Du thay thế 2 vị tư lịnh này viện lý do sau đây:
Mặt trận sắp tới sẽ sôi động và gây cấn, cần phải có các tư lịnh sư đoàn
năng động, trẻ tuổi.
2
Tướng Triễn và Cảnh đã lớn tuổi.
Như
tôi (Đại tá Trịnh Tiếu) đã nói trên, John Paul Vann rất năng động, hiếu
thắng và kiêu căng, nên ông chỉ thích các đại tá trẻ, có can đảm làm tư
lịnh sư đoàn.
Tướng
Ngô Du bị bất ngờ trước ý kiến này của Paul Vann, nên đã nói với Paul Vann
biết rằng việc bổ nhiệm tư lịnh sư đoàn là do Tổng thống Thiệu quyết định,
ông không có quyền. Hơn nữa, 2 vị tướng tư lịnh nói trên không phạm lỗi
gì, nên không thể đề nghị thay đổi đươc.
Nhưng
Paul Vann nhất quyết đề nghị thay thế 2 vị tư lịnh sư đoàn.
Tướng
Triễn và Tướng Cảnh biết được những khó khăn của Tướng Ngô Du trong lúc
mặt trận sắp bùng nổ nên 2 ông đã nói với Tướng Ngô Du rằng vì “đất nước
và quân đội”, 2 ông sẽ sẵn sàng làm đơn lên Tổng thống xin từ chức vì lý
do sức khoẻ để Tướng Ngô Du tiện việc sắp xế.
Thái
độ của 2 Tướng này đã làm cho quân nhân các cấp ở trong Quân doàn khâm
phục.
Paul
Vann đề nghị: ”Đại tá Lý Tòng Bá và Đại tá Lê Minh Đảo, là các sĩ quan
trẻ, năng động và có nhiều kinh nghiệm chiến trường mà tôi biết tại Quân
đoàn III.Tướng Ngô Du hỏi : “Quân đoàn II có nhiêu Đại tá trẻ và
giỏi như Đại tá Lê Đức Đạt. Đại tá Tôn Thất Hùng, và nhiều Đại tá khác,
tại sao ông không đề nghị ?”.
Paul
Vann trả lời: ”Đại ta Lê Đức Đạt mang tiếng tham nhũng tại Quân đoàn
III, nên tôi không đề nghị, còn Đại tá Tôn Thất Hùng tôi chưa có cơ hội
được biết khả năng của ông ta”.
Tình
hình quân sự tại mặt trận càng ngày càng khẩn trương, Tướng Ngô Du cần
phải thỏa mãn gấp điều kiện của Paul Vann, nhưng ông chỉ thỏa mãn
50%.
Ông
đề nghị Tổng thống Thiệu bổ nhiệm Đại tá Lý Tòng Bá làm Tư lịnh Sư đoàn
23BB và Đại tá Lê Đức Đạt làm Tư lịnh Sư đoàn 22BB.
Sở
dĩ Tướng Ngô Du đề nghị Đại tá Lê Đức Đạt là vì Đại tá Đạt đang là Tư lịnh
phó Sư đoàn 22BB, lên thay thế Tư lịnh sư đoàn là hợp lý.
Hơn
nữa, Đại tá Đạt rất thân với Đại tướng Cao Văn Viên, nên ông nghĩ rằng khi
Đại tá Đạt lên làm Tư lịnh tại mặt trận thì Đại tướng Viên sẽ yểm trợ tối
đa cho Đại tá Đạt.
Paul
Vann rất giận Tướng Ngô Du đã không đề nghị Đại tá Lê Minh Đảo trong chức
vụ Tư lịnh Sư đoàn 22BB.
Đại
Tá Lê Đức Đạt
Đại
tá Đạt làm Tư lịnh tại mặt trận Tân Cảnh được một tuần lễ thì địch bắt đầu
chạm súng lẻ tẻ với ta tại nhiều nơi.
Đại
tướng Cao Văn Viên liền tăng cường cho Đại tá Đạt một Lữ đoàn
Dù.
Tướng
Ngô Du đã thổ lộ với tôi trên trực thăng chỉ huy của ông là Paul Vann là
một người Mỹ rất hăng say muốn giúp VN, nhưng không thông cảm cho hoàn
cảnh và tình cảm của người VN.
7.
Mặt trận bùng nổ :
Theo
tin tức khai thác được của các tù binh CS thì mặt trận sẽ bùng nổ lớn vào
trung tuần tháng 3/1972, nhưng Hà Nội đã ra lịnh cho Tướng Hoàng Minh Thảo
tấn công vào đầu tháng 4/1972 để phối hợp nhịp nhàng với các mặt trận khác
tại Quân đoàn I (Quảng Trị) và Quân đoàn III (Bình Long).
Theo
tin tức tình báo mà Phòng II chúng tôi thu thập được vào giờ chót thì
Tướng Hoàng Minh Thảo sẽ xử dụng Sư đoàn 2 của CS Bắc Việt đương đầu với
các đơn vị của Sư đoàn 22BB để cầm chân sư đoàn này tại Tân Cảnh, còn Sư
đoàn 320 của CS sẽ tiến quân vào Kontum.
Để
đối phó với tình thế mới, Tướng Ngô Du đã xử dụng Lữ đoàn Dù vừa được Đại
tướng Viên tăng cường, tiến chiếm dãy đồi phía Tây sông Polco và thiết lập
2 căn cứ hỏa lực mới là “Charlie” và “Delta” để ngăn chặn Sư đoàn 320 của
CS. Kế hoạc phối trí này rất tốt đẹp lúc đầu.
Vào
4g sáng ngày 3/4/1972, Sư đoàn 320 tấn công biển người vào căn cứ “Delta”,
nhưng đã gặp sức kháng cự vô cùng mãnh liệt của các chiến sĩ Dù (Mũ
đỏ).
Sau
nhiều đợt tấn công và pháo kích tới tấp bằng hỏa tiển 122 ly và cối 120
ly, địch chỉ chiếm được hàng rào đầu tiên vào căn cứ.
Tướng
Ngô Du và tham mưu lên căn cứ Võ Định trên Quốc lộ 14 để chỉ huy mặt
trận.
Cố
vấn Paul Vann được tin này rất phấn khởi, cũng bay lên quan sát 2 căn cứ
“Delta” và “Charlie”. Paul Vann thấy rõ một số Cộng quân đông đảo đang bao
vây quanh căn cứ “Delta” giữa hàng rào thứ nhất và thứ hai, ông liền gọi
các phi tuần của Không lực Hoa Kỳ cất cánh từ Thái Lan qua oanh kích liên
tục chung quanh căn cứ “Delta”, ông còn gọi thêm các phi cơ Stinger và
Spectre, được trang bị đặc biệt đại bác Bofors và đại liên Volcan để yểm
trợ căn cứ này.
Chiều
ngày 3/4/1972, Cộng quân chưa chiếm dược đồn nhưng các chiến sĩ Dù đã cạn
hết đạn dược, thuốc men và nước uống.
Trực
thăng Chinook của ta được lịnh Tướng Ngô Du tiếp tế khẩn cấp đạn dược và
thuốc men vào căn cứ “Delta” để các chiến sĩ có thể bảo vệ căn cứ trong
đêm nay. Nhưng trực thăng đã bị hỏa lực phòng không của địch bắn rới ngoài
đồn.
Thấy
thế, Paul Vann đã liều lĩnh xử dụng trực thăng nhỏ, loại mới nhất của quân
đội Hoa Kỳ, là OH58 Kiowa, chỉ có 2 chỗ ngồi để tiếp tế. Đích thân ông lái
máy bay còn Trung úy Huỳnh Văn Cai, người được Tướng Ngô Du chỉ định làm
sĩ quan tùy viên cho Paul Vann, đạp từng thùng đạn, thùng thuốc xuống giữa
căn cứ, mặc dù súng phòng không địch đủ loại 14.5 ly, 12.7 ly bắn lên tới
tấp.
Bất
chấp mọi nguy hiểm, Paul Vann đã tiếp tế cho đơn vị Dù các chuyến đầy đủ
dạn dược, mìn chiếu sáng, thuốc men và nước uống, để đơn vị này có thể cầm
cự với địch quân đêm sắp tới.
Chuẩn
tướng George Wear, Tư lịnh phó, và Đại tá Joseph Pizzi, Tham mưu trưởng
của Paul Vann phải kêu lên:
”Thật
điên rồ !”.
Tướng
Ngô Du phải khâm phục hành động táo bạo của Paul Vann.
Kết
quả, Sư đoàn 320 của CS bị thảm bị thảm bại nặng nề tại căn cứ
“Delta”.
Tướng
Hoàng Minh Thảo phải bổ sung quân số cấp tốc cho sư đoàn này và sau đó 10
ngày (14/4/1972) lại cho mở cuộc tấn công vào căn cứ
“Charlie”.
Lần
này Lữ đoàn Dù do Trung Tá Nguyễn Đình Bảo chỉ huy bị một hỏa tiễn 122 ly
trúng vào hầm chỉ huy làm Trung tá Bảo tử trận ngay giây phút đầu
tiên.
Những
sĩ quan còn lại của Trung tá Bảo thấy địch quá đông nên đã rút khỏi căn cứ
và bỏ xác Trung tá Bảo lại trong hầm.
Ngày
20/4/1972, tình hình tại Quảng Trị (Quân đoàn I) quá nặng, nên Đại tướng
Viên phải rút Lữ đoàn Dù tại Kontum để tăng cường cho mặt trận Quảng
Trị.
Tình
hình quân sự tại mặt trận Tân Cảnh bắt đầu đen tối. Tướng Ngô Du vô cùng
lo lắng.
8.
Không tin nhưng phải làm:
Câu
chuyện sau đây do chính Trung tá Trần Hữu Công, Chánh văn phòng của Tướng
Ngô Du, kể lại cho tôi:
Thân
sinh Tướng Ngô Du là cụ Ngô Khôi, một viên chức của chính quyền thuộc địa
Pháp. Đang sống tại Qui Nhơn, thấy con mình quá lo âu cho chiến trường sắp
đến, nên đã vội lên Pleiku và nói với Tướng Ngô Du như sau: ”Con à, cha
biết trách nhiệm của con rất nặng đối với đất nước và quân đội, nhất là
sinh mạng của các chiến sĩ. Vậy con phải xin ơn trên phù hô… Cha đề nghị
con xuống Qui Nhơn, ở đó có đền Đức Thánh Trần. Dân địa phương rất tin vào
sự thiêng liêng của ngài. Con mang lễ vật đến xin ngài phù hộ, cứu độ sinh
mạng đồng bào và các chiến sĩ trong vùng trách nhiệm của
con”.
Lắng
nghe lời dặn của cha, Tướng Ngô Du đã vâng dạ rất lễ phép, nhưng ông không
thi hành vì ông theo đạo Thiên Chúa.
Tuy
nhiên, Tướng Ngô Du giao nhiệm vụ này cho Trung tá Công. Khi Trung Tá Công
đem lễ vật vào đền thì vị sư trụ trì nhìn thẳng vào Trung tá và nói rõ:
”Ông không có niềm tin thì đến đây làm gì ? Hãy mang lễ vật rở về
“.
Trung
tá Công giật mình hoảng sợ, đã cố trình bày lý do tại sao ông cần phải đến
cầu xin Đức Thánh Trần và xin vị sư đó giúp cho.
Vị
sư này chấp nhận và cùng với Trung tá Công khấn vái.
Lễ
lạc xong, nhà sư đưa cho Trung tá Công một lá bùa, bảo đốt ra tro và rải
xuống những vị trí nào thấy nguy hiểm nhất.
Trung
tá Công đã làm đúng theo lời vị sư, ông dùng trực thăng rải xuống đồn Ben
Het (giáp biên giới Lào) theo lịnh của Tướng Ngô Dụ
Ngày
28/4/1972, CS tấn công đồn này bằng 10 chiến xa T54, nhưng đã bị Paul Vann
điều động 2 trực thăng võ trang Cobra trang bị hỏa tiễn chống chiến xa,
được điều khiển bằng tia Laser bắn rất chính xác, tiêu diệt 5 chiến xa T54
tại chỗ, 5 chiếc còn lại phải chạy trốn qua biên giới Lào. Sau đó ta rút
quân khỏi đồn này, vì vị trí quá xa và hẻo lánh.
9.
Đại tá Lê Đức Đạt, Tư lịnh Sư đoàn 22BB và John Paul
Vann:
Các
toán biệt kích và viễn thám của ta phục kích sâu trong rừng, hằng đêm đều
nghe tiếng chiến xa của CS di chuyển. Tôi báo động về sự xuất hiện của
chiến xa T54 để Tướng Ngô Du và Paul Vann tìm cách đối phó.
Tướng
Ngô Du tin những báo cáo của tôi, nhưng Paul Vann thì hoài nghi. Ông cho
rằng đó chỉ là loại xe thường, hoặc là T76S, chiến xa lội nước hạng nhẹ
không đáng kể của CS. Đối với Paul Vann phải trông thấy tận mắt mới
tin.
Tướng
Hoàng Minh Thảo thấy Lữ đoàn Dù đã rút, nên ông có kế hoạch tấn công cấp
tốc để dứt điểm Sư đoàn 22BB tại Tân Cảnh bằng Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2
Sao Vàng bằng chiến xa T54 và hỏa tiễn Sagger do Liên Xô chế tạo. Chiến xa
T54 và hoả tiễn Sagger là 2 loại vũ khí tối tân được sử dụng lần đầu tiên
tại chiến trường Miền Nam trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
T54
là loại chiến xa bọc sắt cứng, dày, tương đương với chiến xa M48 của Hoa
Kỳ.
Hỏa
tiễn Sagger mà ta gọi là AT3, là loại hoả tiễn chống chiến xa bằng giây.
Giống như hỏa tiễn Tow của Mỹ, nhưng tầm xa kém (hỏa tiễn Tow tầm xa 3000;
hoả tiễn Sagger 200 m).
Trong
những ngày 20, 21 và 22/4/1972, các sư đoàn địch áp sát bao vây Tân
Cảnh.
Khi
đã khám phá đầy đủ các vị trí của địch xuất hiện, tôi trình Tướng Ngô Du
phải diệt địch ngay bằng B52 theo như kế hoạch trước đây mà ông và Paul
Vann đã tính toán. Nhưng Paul Vann đã từ chối xử dụng B-52, vì trong thâm
ý, ông không muốn yểm trợ cho Đại tá Lê Đức Đạt.
Tướng
Ngô Du nổi giận la to: ”Ông Paul Vann, ông là bạn hay là kẻ thù của
tôi?”.
Paul
Vann làm thinh bỏ đi. Ông dùng trực thăg bay xuống mặt Bắc Bình
Định.
Thời
gian này, mặt trận mặt Bắc Bình Định cũng rất sôi động. Tướng Ngô Du chỉ
dịnh Đại tá Trần Hiếu Đức, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 40 thuộc Sư đoàn
22BB làm Tư lịnh chiến trường, chịu trách nhiệm bảo vệ 3 quận Hoài Ân,
Bồng Sơn và Tam Quang. Sư đoàn 3 Sao Vàng CS được lịnh phối hợp nhịp nhàng
với các mặt trận khác nên đã tung quân bao vây quận Hoài Ân. Tại đây, Paul
Vann cũng gây khó khăn cho Đại tá Đức về yểm trợ hỏa lực trong khi bị áp
lực nặng nề của địch. Đại tá Đức liền ra lịnh rút bỏ quận Hoài Ân để cố
thủ quận Bồng Sơn.
Ngày
21/4/1972, Paul Vann bay lên Tân Cảnh thăm Đại tá Philip Kaplan, cố vấn
cho Đại tá Lê Đức Đạt.
Tại hầm chỉ huy, mặc dù biết Paul Vann không ưa thích, Đại tá Đạt vẫn trình bày đầy đủ chi tiết cho Paul Vann rõ. Paul Vann đã có hành dộng thiếu lịch sự, ông chỉ mạnh vào bản đồ và nói cộc lốc bằng giọng mũi: ”Đại tá Đạt, ông sẽ là vị Tư lịnhSư đoàn VN đầu tiên làm mất Sư đoàn và bại trận”.
Tại hầm chỉ huy, mặc dù biết Paul Vann không ưa thích, Đại tá Đạt vẫn trình bày đầy đủ chi tiết cho Paul Vann rõ. Paul Vann đã có hành dộng thiếu lịch sự, ông chỉ mạnh vào bản đồ và nói cộc lốc bằng giọng mũi: ”Đại tá Đạt, ông sẽ là vị Tư lịnhSư đoàn VN đầu tiên làm mất Sư đoàn và bại trận”.
Đại
tá Đạt rất tức giận, ông đã vứt điếu tuốc đang hút xuống đất, cười gằn và
bảo Paul Vann: ”Ồ, chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra”.
Ngày
23/4/1972, một Tiểu đoàn Bộ Binh của Sư đoàn 22 chạm súng với địc rất sớm,
không quá xa Bộ tư lịnh sư đoàn, đồng thời địch pháo kích tới tấp vào căn
cứ Tân Cảnh bằng hỏa tiễn 122 ly. Chiến xa bảo vệ Bộ tư lịnh của sư đoàn
của Đại tá Đạt gồm 10 chiếc được điều động ra để chống lại địch, đã bị hỏa
tiễn Sagger bắn cháy mất 8 chiếc, còn lại 2 chiếc thì bị đứt
xích.
Người
bạn rất thân với tôi trước đây tại Qui Nhơn là Thiếu tá Như cùng Đại úy
Kenneth Yonan, 23 tuổi, xuất thân từ trường Wespoint, đã leo lên tháp nước
cao tại căn cứ, xử dụng đại liên 12.7 ly để tấn công địch, cũng bị hỏa
tiễn Sagger bắn, bồn nước nổ tung và cả hai người chết tại chỗ. Các đơn vị
của ta chạm súng suốt ngày với địch tại Tân Cảnh. Tướng Ngô Du sử dụng tối
đa hỏa lực không quân để yểm trợ cho Đại tá Đạt.
Khoảng
10g tối ngày 23/4/1972,
quận Dakto cách Tân Cảnh 2 km về phía Bắc, do Địa Pương Quân và Nghĩa Quân
người Thượng bảo vệ, đã quan sát thấy đèn của 11 chiến xa T54 đang tiến về
hướng quận. Quân đoàn liền điều động C-130 Spectre lên thả trái sáng.
Chiến sĩ ta trong các hầm chiến đấu cá nhân đã thấy tất cả 15 chiếc chiến
xa T54 của địch xếp hàng dọc chạy tiến về Tân Cảnh. Phi cơ C-130 tác xạ để
ngăn, không cho chiến xa địch tiến, nhưng vô hiệu quả, vì loại phi cơ này
không có loại đạn chống chiến xa.
Khoảng
2g sáng ngày 24/4/1972, 15 chiến xa địch đã bao vây căn cứ Tân
Cảnh.
Đại
tá Philip Kaplan yêu cầu Paul Vann lên cứu ông vào lúc 4g khi trời chưa
sáng tại bãi đáp rất nhỏ bên cạnh bãi mìn.
Đại
tá Kaplan cho Đại tá Đạt biết và yêu cầu cùng lên trực thăng cấp cứu của
Paul Vann nhưng Đại tá Đạt từ chối.
Đại
tá Đạt biết tình hình rất bi đát, địch sẽ tràn ngập căn cứ vào khoảng 7g
sáng, nhưng ông không yêu cầu Tướng Ngô Du lên cứu như Đại tá Kaplan đã
làm. Ông ra lịnh cho tất cả các sĩ quan và binh sĩ còn lại tìm cách thoát
ra ngoài trước khi trời sáng.
Đại
tá Tôn Thất Hùng đã thoát được nhưng bị thương; ông chạy vào một buông
Thượng gần đó. Nhờ nói được tiếng Thượng rất rành, nên đã được một gia
đình người Thượng che dấu và bảo vệ ông, đưa ông về đến thị xã Kontum sau
15 ngày đi loanh quanh trong rừng.
3
tháng sau, ông cùng gia đình lên Pleiku để đền ơn cho gia đình người
Thượng này đang sống trong trại tị nạn.
Đại
tá Lê Đức Đạt đã ở lại trong căn cứ Tân Cảnh. Theo
lời Đại tá Kaplan, có lẽ Đại tá Đạt đã tự sát sau khi đồn Tân Cảnh bi Cộng
quân tràn ngập.
Đó
là ngày 24/4/1972, lúc 10g sáng.
Ai
cứu Kontum trong cơn hấp hối ?
Sau
khi mặt trận Tân Cản bị thảm bại, Tư lịnh Sư đoàn 22BB chết mất xác tại
mặt trận, thành phần Bộ tham mưu sư đoàn và chỉ huy trưởng các cấp cũng
như binh sĩ bị bắt làm tù binh hay bị chết, chỉ một số rất ít chạy được về
Kontum.
Sư
đoàn 22B tan rã, vì thế, phòng tuyến kiên cố nhất để bảo vệ thị xã Kontum
coi như không còn nữa.
Toà
hành chánh tỉnh Kontum với dân số 25,000 người sống trong thị xã đã hoang
mang giao động cao độ, chuẩn bị tản cư.
Tướng
Ngô Du rất khổ tâm trong thời gian này. Ông bị xúc động khi được tin Đại
tá Lê Đức Đạt tử trận.
Những
hy vọng thắng trận vinh quang mà ông ấp ủ trong lòng trên 3 tháng nay đã
tiêu tan và biến thành thảm bại cay đắng vì có những bất đồng giữa ông và
Paul Vann, và thành kiến không tốt đẹp của Paul Vann đối với Đại tá Lê Đức
Đạt. Do đó, bịnh tim của ông bị tái phát.
Thông
thường chiến thuật Cộng quân là thừa thắng xông lên. Do đó, chúng tôi
không loại bỏ giả thuyết Cộng quân sẽ đánh Kontum, vì nơi đây chỉ có Địa
Phương Quân và Nghĩa Quân trấn giữ.
Tướng
Ngô Du phải cho tái phối trí lực lượng, điều động 2 Trung đoàn Bộ Binh từ
Ban Mê Thuột lên cố thủ Kontum, chỉ để lại một Trung đoàn phòng thủ 7 tỉnh
phía Nam của Quân đoàn.
Đại
tá Lý Tòng Bá, Tư lịnh Sư đoàn 23BB, được chỉ định làm Tư lịnh mặt trận
Kontum. Tướng Ngô Du chỉ mong Tướng Hoàng Minh Thảo hoãn tấn công vào
Kontum 5 ngày thôi, thì ông và Đại tá Lý Tòng Bá đủ thời gian phối trí
quân và đào công sự vững chắc phòng thủ thị xã này.
Đường
chuyển quân và tiếp vận chính giữa Pleiku – Kontum là Quốc lộ 14 rất yên
tĩnh trong 3 ngày đầu, đến ngày thứ tư thì Cộng quân chiếm và đóng chốt
đèo Chu Pao, giao thông bị gián đoạn.
Rất
may khi địch chiếm đèo Chu Pao thì ta vừa chuyển quân xong. Cộng quân
không tiến quân tiếp vào Kontum sau 5 ngày như Tướng Ngô Du dự tính mà đến
20 ngày sau.
Như
vậy, chúng ta có thể tin rằng Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2 của Cộng quân đã bị
tổn thất khá nặng trong các cuộc chạm súng trước đây với Lữ đoàn Dù và Sư
đoàn 22BB. Các chiến xa T54 của địch cũng bị tiêu hao một số tại phi
trường Dakto do Không quân VN bắn cháy và một số tại đồn Ben Het do Cobra
của Hoa Kỳ phá hủy. Vì thế, Tướng Hoàng Minh Thảo cần có thời gian củng cố
lại đơn vị của ông chớ không thể mở cuộc tấn công mới ngay
được.
Phối
trí quân xong tại Kontum, Tướng Ngô Du ngã bịnh nặng, không ăn, không ngũ.
Tôi thấy ông ngày đêm ôm tim và nhăn nhó.
Trước
đó một ngày, ông đã điện thoại Tổng thống Thiệu và yêu cầu Tổng thống đề
cử người thay thế ông.
Tại
Saigon, TT Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên tham khảo ý kiến với nhiều vị
Trung tướng, nhưng không ông nào chịu lên làm Tư lịnh Quân đoàn II, vì
biết tình hình rất đen tối tại đây.
Cuối
cùng, TT Thiệu chọn Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn, vì Tướng Toàn đồng ý tử
thủ tại Kontum.
Đại
tá Lý Tòng Bá, người mà Paul Vann khẩn thiết yêu cầu Tướng Ngô Du đề nghị
TT Thiệu đề cử làm Tư lịnh Sư đoàn 23BB, nay đang nằm tại mặt trận
chính.
Paul
Vann làm việc tại Kontum với Đại tá Lý Tòng Bá trong lúc chưa có cố vấn
của Sư đoàn.
Paul
Vann nhớ đến Đại tá Rhotenberry là người làm cố vấn cho Đại tá Bá tại Bình
Dương.
Khi
đưa Đại tá Rhotenberry đến Kontum, Paul Vann nói : ”Ông và tôi phải hết
sức yểm trơ. Đại tá Bá vì tôi đã hứa với Đại tướng Abrams là không để mất
Kontum. Nếu mất Kontum, thì Kissinger, Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ tại Hoà đàm
Paris, sẽ gặp nhiều khó khăn”.
+
Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn và Quân đoàn II:
Tướng
Nguyễn Văn Toàn
Đầu
tháng 5/1972, TT Thiệu bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn giữ chức vụ Tư
lịnh Quân đoàn II thay thế Trung tướng Ngô Du.
Trước
khi nhận nhiệm vụ, Tướng Toàn trình diện Đại tướng Cao Văn Viên và yêu cầu
Đại tướng thỏa mãn cho ông về những thay đổi nhân sự.
Ông
cho rằng Quân đoàn II thất trận là do Bộ Tham mưu Quân đoàn thiếu khả
năng.
Đến
Pleiku, việc đầu tiên của Tướng Toàn là tập hợp các sĩ quan Quân đoàn lại
và xỉ vã nặng lời. Ông chỉ trích Bộ Tham mưu của Quân đoàn yếu kém, thiếu
khả năng tham mưu nên tình hình Quân đoàn mới đen tối như hiện nay. Ông
giận dữ và tỏ ý muốn đưa hết các sĩ quan trong Bộ Tham mưu ra tuyến đầu
với các đơn vị tiểu đoàn và trung đoàn để chiến đấu.
Sau
khi nghe tường trình về tình hình, ông chỉ thị Đại tá Vĩnh Phúc, Trưởng
phòng IV Quân đoàn, ra làm việc tại phi trường Kontum tiếp nhận vũ khí và
đạn dược từ Saigon không vận ra. Thời gian này phi trường Kontum luôn luôn
bị pháo kích bằng hỏa tiễn 122 ly, nên có một vài phi cơ C-130 tiếp vận
của ta đã bị trúng đạn bốc cháy.
Tướng
Toàn kêu Trưởng phòng II cùng với ông lên Kontum. Tôi liền cầm bản đồ theo
ông lên trực thăng của Tư lịnh. Trên trực thăng chỉ huy, chỉ có ông và tôi
cùng sĩ quan Đại úy tùy viên. Tôi thấy Tướng Toàn rất lo âu, mồ hôi nhễ
nhại, mặc dù khí hậu Cao nguyên không nóng.
Ông hỏi tôi : “Anh cho tôi biết, chúng ta có đủ khả năng giữ vững được Kontum không ?”.
Ông hỏi tôi : “Anh cho tôi biết, chúng ta có đủ khả năng giữ vững được Kontum không ?”.
Thời
gian bay lên Kontum chỉ 20′ nên tôi phải trả lời ông rất ngắn
gọn.
Căn
cứ theo các chuyện đã xảy ra tại mặt trận Tân Cảnh, tôi tính toán kỹ và
nói : “Thưa Thiếu tướng, ta có thể giữ được, mặc dù quân địch có đến 3
sư đoàn (Sư đoàn 320, Sư đoàn 2 và Sư đoàn 968), ta chỉ có một (Sư đoàn
23BB). Điều kiện là Thiếu tướng và cố vấn Paul Vann phải thảo luận với
nhau không có gì trục trặc xảy ra. Đại tá Lý Tòng Bá là người quen rất
thân với Paul Vann đang ở lại mặt trận nên sẽ được Paul Vann giúp đỡ tận
tình”.
Sau
này tôi mới biết câu trả lời của tôi đã trùng hợp với lời khuyên của Đại
tướng Cao Văn Viên trước khi Tướng Toàn đi nhận chức: ”Ông lên trên đó
phải chiều cố vấn Paul Vann mới xong được”.
Tướng
Lý Tòng Bá
Đến
Kontum, Đại tá Lý Tòng Bá và Đại tá Rhotenberry hương dẫn Tướng Toàn thăm
tuyến đầu bảo vệ Kontum về phía Bắc 5 km. Tại đây, các sĩ quan các cấp và
các binh sĩ Sư đoàn 23BB, mỗi người một chiếc xẻng cá nhân, đang hăng say
đào công sự phòng thủ.
Tướng
Toàn vui vẻ an ủi, khích lệ và nhắc nhủ mọi người phải cố gắng chuẩn bị
chiến đấu, quyết tâm tử thủ, không để CS chiếm một tấc đất nào tại
Kontum.
Ông
chỉ thị cho Đại tá Lý Tòng Bá và các Trung đoàn trưởng, Tiểu đoàn trưởng
phải chọn một số binh sĩ can đảm để thành lập ngay các tổ chống chiến xa
bằng súng M72 Law, cho các binh sĩ này thực tập tác xạ vào các chiến xa hư
của ta vào ngày kế để họ tin tưởng rằng vũ khí M72 Law của Mỹ có thể tiêu
diệt được các chiến xa T54 của Cộng quân.
Ông
cho Đại tá Bá biết ông sẽ cho không vận trung đoàn còn lại của Sư đoàn
23BB tại Ban Mê Thuột lên Kontum để Đại tá Bá có đầy đủ quân số và thống
nhất chỉ huy.
Về
hành chánh, Tướng Toàn chỉ thị Đại tá Nguyễn Bá Long tự Thìn, Tỉnh trưởng
Kontum, phải lo trấn an và ủy lạo dân, làm cho họ tin tuởng vào chính phủ
và quân đội. Khuyến khích dân chúng phải hết sức ủng hộ Quân đoàn để tử
thủ.
Trở
về Pleiku, Tướng Toàn bàn ngay với cố vấn Paul Vann nhiều giờ về kế hoạch
bảo vệ Kontum. Sau đó, ông chỉ thị Đại tá Hoàng, Tham mưu phó Chiến Tranh
Chính trị Quân đoàn xử dụng phi cơ C47 của ông đi Phan Thiết và Saigon mua
cá tươi và xoài tượng đem lên phân phát cho các binh sĩ tại Kontum để bữa
ăn có thêm chất tươi.
Về
hành quân, Tướng Toàn chỉ thị Trung tá Nguyễn Đức Dung chỉ huy Lữ đoàn 2
Thiết Giáp với một Liên đoàn Biệt Động Quân tăng cường phải đem các chiến
xa lên Kontum bằng mọi giá. Ông nói rằng không cần thanh toán các lực
lượng địch chốt tại đèo Chu Pao mất thời giờ, phải mở Quốc lộ 14bis vòng
quanh sau lưng địch để đi; ông chỉ thị trong 3 ngày phải thực hiện xong
cuộc hành quân này.
Cuộc
hành quân của Trung tá Dung gặp rất nhiều khó khăn vì sức kháng cự của
Cộng quân rất mãnh liệt. Nhưng với quyết tâm thi hành đúng chỉ thị của Tư
lịnh Quân đoàn, Lữ đoàn 2 Thiết Giáp và Biệt Động Quân đã thanh toán và đè
bẹp các lực lượng của Cộng quân, mở được Quốc lộ 14bis quanh đèo Chu Pao
đem nhiều chiến xa lên mặt trận Kontum đúng ngày N+3. Đoàn xe thiết giáp
và Biệt Động Quân qua cầu Dak-Bla tiến vào Kontum, đồng bào trong thị xã
chạy ra xem rất đông, nồng nhiệt chào mừng và hoan hô vang
trời.
Đây
là chuyện chưa từng có trước đây. Tướng Toàn gắn cấp bậc Đại tá tại mặt
trận cho Trung tá Nguyễn Đức Dung ở đầu cầu Dak-Bla.
Tính
đến ngày thứ ba, kể từ ngày nhận chức, Tướng Toàn đã tăng cường cho Đại tá
Lý Tòng Bá Bá một Trung đoàn Bộ Binh, một Liên đoàn Biệt Động Quân, trên
20 chiếc xa thiết giáp, nhiều đạn dược, nguyên liệu, và thuốc men mới được
không vận từ Saigon lên. Số đạn dược và nhiên liệu này đủ để bảo đảm cho
các đơn vị tại Kontum phòng thủ trong thời gian một tháng.
Tình
hình Kontum bắt đầu sôi động. Các hỏa tiễn 122 ly của địch cứ đều đều rót
vào các căn cứ quân sự và phi trường Kontum làm tinh thần dân và quân luôn
luôn bị căng thẳng.
Về
tình báo, Tướng Toàn chỉ thị tôi phải báo cáo cho ông biết trước ngày giờ
Cộng quân tấn công vào Kontum và làm gấp kế hoạch trải thãm B52 phía Bắc
tuyến đầu của ta để ông và Paul Vann áp dụng kế hoạch khi địch tấn công.
Hôm sau, tôi trình lên ông kế hoạch 100 “Box” B52 (mỗi Box chiều dài 3 km,
chiều ngang 1 km) chận đứng các mũi tấn công và tiêu diệt các ổ phòng
không của địch, căn cứ vào địa hình, địa vật và tin tức bằng không ảnh.
Tướng Toàn và Paul Vann đã chấp thuận hoàn toàn ý kiến của
tôi.
Tướng
Hoàng Minh Thảo của CS bị thảm bại trong đợt đầu tấn công vào
Kontum:
Tướng
Toàn rất chú trọng đến vai trò tình báo. Lần đầu tiên trong binh nghiệp
tôi phục vụ dưới quyền ông. Sau vài ngày làm việc, tôi thấy ông có vẻ có
phần tin tưởng nơi tôi, nên tôi càng lo và cố sứ chu toàn nhiệm vụ. Tôi
đốc thúc các phần hành chuyên môn, nhất là các toán tình báo kỹ thuật,
ngày đêm bám sát địch, không được chểnh mảng trong nhiệm vụ giao
phó.
Ngày
13/5/72, nhân viên kỹ thuật báo cáo đã bắt được mật điện của B3. Trong mật
điện này, Bộ tư lịnh B3 CS đã ra lịnh như sau: ”Mũi tấn công hướng Bắc – Sư đoàn 2 – Stop –
Tăng cường mỗi sư đoàn 10 T54 – Stop – Ngày giờ tấn công hướng Tây Bắc Sư
đoàn 320 – Stop – Ngày giờ tấn công 05g00 ngày 14/5/72 –
Stop”.
Tôi
vội vàng trình ngay tin này cho Tướng Toàn. Đọc xong mật điện, ông liền
bảo tôi theo ông lên Kontum.
Trong
giao thông của tuyến đầu, Tướng Toàn và Đại tá Lý Tòng Bá đi từng hầm để
nhắn nhủ từng binh sĩ hãy can đảm nằm yên tại chỗ khi địch tấn
công.
Tướng
Toàn nói: ”Khi địch nổ súng thì sẽ có B52 thả ngay trên đầu địch. Các
em phải chịu khó bịt tai lại và hả miệng để bớt áp lực của bom
nổ”.
Áp
lực của bom sẽ rất lớn đối với các binh sĩ của ta vì theo kế hoạch đã vạch
sẵn, B52 sẽ thả bom sát quân ta, ở mức an toàn là 500m thay vì 1000m như
thường lê…
Tại
hầm chỉ huy Sư đoàn 23, Tướng Toàn, Paul Vann, Đại tá Bá, Đại tá
Rhotenberry nghiên cứu trên bản đồ và thảo luận vị trí từng Box B52 sẽ dội
bom xuống và thời gian dội. Paul Vann gọi máy yêu cầu Trung tướng chỉ huy
Không quân chiến lược Hoa Kỳ (Strategic Air Command) tại Thái Lan để thảo
luận với ông về thể tức chuyển đổi các Box B52 cho thật hợp với tình hình
mặt trận dưới đất. Paul Vann cũng điện đàm với Đại tướng Abrams tại Saigon
khẩn khoản cho ông được xử dụng hết tất cả 25 Box B52 dành để yểm trợ cho
4 vùng chiến thuật trong ngày 14/5/72, để Quân đoàn II có thể tiêu địch
tối đa.
Đề
nghị này được Đại tướng Abrams chấp thuận. Đêm 13 rạng 14/2/72, Tướng
Toàn, Paul Vann và 2 Bộ tham mưu Việt – Mỹ đều thức suốt đêm theo dõi tình
hình từng phút và hồi hộp chờ đợi.
Phi
đoàn A37 của Sư đoàn 6 Không quân tại Pleiku túc trực 100%.
Chiếc
trực thăng của Chuẩn tướng John Hill, Tư lịnh phó của Paul Vann cấp tốc
gắn 2 đại liên 12.7 ly bên hông và các xạ thủ luôn túc trực ở trực
tăng.
Tướng
John Hill đang nghĩ dưỡng sức ở Cam Ranh để chờ ngày về nước, cũng đã tình
nguyện ở lại để giúp Paul Vann đối phó với CS tại mặt trận
Kontum.
Nhiều
cặp phi cơ trực thăng võ trang Cobra của Hoa Kỳ đã ở trong tư thế sẵn sàng
chiến đấu kể từ 12g đêm.
2
đoàn B52 cất cánh từ đảo Guam và Sattahip ở Thái Lan đã cất cánh và xuất
hiện trên bầu trời biển Thái Bình Dương.
Tất
cả hồi hộp chờ đợi giờ G (tức 5g00 sáng).
Kém
5 phút đến 5g, Đại tá Bá báo cáo trên máy rất lớn, địch đã bắt đầu nổ
súng.
Trực
thăng của Chuẩn tướng John Hill với 2 đại liên 12.7 ly cất cánh đầu tiên,
tiếp theo là trực thăng của Paul Vann và sau cùng là trực thăng chỉ huy
của Tướng Toàn bay về hướng Kontum trong sương mù.
Paul
Vann ra lịnh cho phi hành đoàn B52 vào vùng đúng 5g ngày
14/2/72.
Tất
cả 25 Box B52 đồng loạt bấm nút thả xuống trên 3000 quả bom đủ loại, từ
100 lbs đến 500 lbs, trên đầu Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2 của Cộng quân,
tiếng nổ long trời lỡ đất, khói bụi bay mịt mù. Diện tích trải thảm của
các B52 là 75 km2.
Tiếp
theo từng đoàn A37 và AD6 của Sư đoàn 6 Không quân VNCH bay vào mục tiêu
tiếp tục bắn vào các chiến xa và các ổ phòng không địch.
Vì
bị áp lực quá mạnh của bom, nhiều đoàn quân của Cộng quân bị ngất ngư, đã
hốt hoảng chạy lui về phía sau, lại bị trực thăng của Chuẩn tướng John
Hill và trực thăng võ trang Cobra bọc hậu thanh toán rất
nhiều.
Tại
tuyến đầu, 9 chiến xa T54 của địch nằm ngoài khu ném bom của B52 đã hốt
hoảng lao vào phía ta và đã bị các chiến xa của ta bắn cháy mất 6
chiếc.
3
chiếc còn lại bỏ chạy, nhưng vì các chiến binh của Cộng quân điều khiển
các xe này đã bị sức dội quá mạnh của B52, không còn chủ động được, nên
các binh sĩ của ta đã nhào ra bắt sống.
Một
giờ sau, Tướng Toàn và Paul Vann bay vào vùng thả bom B52 để kiểm soát thì
thấy vô số xác của Cộng quân trong các hố bom, không thể đếm hết đươc.
Paul Vann thấy một số Cộng quân đang lảo đảo đi trong các hố bom B52, đã
hạ thấp trực thăng xuống cho Trung úy Huỳnh Văn Cai, Trung úy tùy viên,
dùng M16 thanh toán.
Không
quân ta và Không quân Hoa Kỳ tiếp tục thanh toán tàn quân và các ổ phòng
không địch trong vùng suốt ngày 14/5/72.
Trong
các cuộc oanh kích này, Không quân ta bị thiệt mất một AD6 do Thiếu tá
Phạm Thặng làm hoa tiêu. Phòng không địch đã bắn trúng chiếc phi cơ do
Thiếu tá Thặng lái khiến ông bị tử thương và chiếc phi cơ rớt ở phía Nam
Kontum (Thiếu tá Phạm Thặng là anh ruột của Đại úy Phạm Thục, hoa tiêu
trực thăng, là em rể tôi).
Kế
hoạch trải thảm B52 đã dứt điểm cuộc tấn công đầu tiên của 2 sư đoàn Cộng
quân vào Kontum. Trong trận này, chắc chắn Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lịnh
mặt trận B3, đã phải ôm hận vì đã gặp phải một đối thủ nguy hiểm là Tướng
Toàn, một vị tướng có nhiều kinh nghiệm khi điều khiển chiến
trường.
Theo
ước tính về phía Hoa Kỳ, trong cuộc tấn công này, địch đã thiệt mất 1000
người và 20 chiến xa T54.
Quân
ta đã thắng trận đầu. Các chiến xa T54 của địch mà ta đã bắt sống được
mang về triển lãm tại Saigon. Sau trận đánh này, các binh sĩ VNCH đã đặt
tên cho Paul Vann là “ông B52″.
Cuối
cùng cộng sản đại bại tại Kontum
Thị
xã Kontum được xây cất bên cạnh bờ sông Dak-Bla nằm về hướng Bắc. Sông
Dakbla uốn quanh như con rồng rất đẹp và cảnh 2 bên bờ sông rất thơ mộng,
nước sông chảy mạnh từ hướng Đông qua hướng Tây. Dân số Kontum độ 25,000
người, cả Kinh lẫn Thượng, đa số sinh sống trong thị xã và các vùng phụ
cận thị xã. Khoảng 70% dân theo đạo Thiên Chúa. Vì thế, Toà Giám mục giáo
phận Kontum (gồm Kontum và Pleiku) đã được đặt ở số 44 Trần Hưng Đạo,
Kontum, do Đức cha Seitz, một giáo sĩ thừa sai người Pháp làm Giám mục.
Ông nói và viết thông thạo cả tiếng Việt lẫn tiếng Thượng. Ông đã bị Cộng
quân trục xuất sau 30/4/75.
Kế
hoạch phòng thủ Kontum được giao cho Sư đoàn 23BB của Đại tá Lý Tòng Bá.
Sư đoàn này có nhiệm vụ đảm trách 3 mặt nặng nhất của tỉnh là Đông, Tây và
Bắc. Hướng Nam có phần nhẹ hơn nhờ có chướng ngại Vật của thiên nhiên là
con sông Dakbla, nên giao cho Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đảm
nhiệm.
Sự
thảm bại cay đắng trong trận ngày 14/5/72, Tướng Hoàng Minh Thảo và các
Cộng quân đã phải kiểm thảo rất chu đáo để rút kin nghiệm.
Một
câu hỏi quan trọng đã được Tướng Hoàng Minh Thảo đặt ra: Tại sao đối phương biết rõ được lực lượng và
ngày giờ Cộng quân sẽ tấn công để xử dụng B52 ồ ạt ? Tướng Thảo
đoán rằng có thể kỹ thuật rà bắt điện đài của đối phương rất cao nên đã
bắt được tất cả những mật lịnh mà Bộ tư lịnh B3 của ông đã đánh
đi.
Rút
kinh nghiệm, ông không xử dụng điện đài nữa mà xử dùng điện thoại và người
để liên lạc.
Vì
thế, sau ngày 14/5/72, cả toán kỹ thuật của Quân đoàn II đều ngạc nhiên
không thấy địch lên máy nữa.
Tôi
làm phúc trình lên Tướng Toàn về sự việc này và ước tính địch còn khả năng
tấn công ta vài đợt nữa trong những ngày sắp tới.
Quân
đoàn nên cẩn thận, không nên khinh địch. Tôi đã liên lạc với ông Archer,
Trưởng toán Tình báo của Toà Đại sứ Hoa Kỳ và mượn được 2 máy nghe lén
điện thoại. Loại máy này rất tối tân, chỉ nhỏ bằng nắm tay, ta chỉ cần đâm
vào dây điện thoại của địch bằng một cây kim rồi cắm máy chui vào bụi cây
cách nơi cắm vài trăm thước cũng nghe được các cuộc điện đàm của địch. Tôi
liền cho các biệt kích lọt vào các khu hậu cần của địch, xử dụng máy điện
thám nghe lén điện thoại của địch, nhưng chưa ghi nhận được điều gì quan
trọng.
Vinh
nhục trong ngành tình báo :
Ngày
20/5/72, Thiếu tá Hưng, Trưởng phòng II Tiểu khu Kontum, báo cho tôi biết
một tin động trời là đặc công CS đã vượt qua sông tiến vào chiếm được gần
nửa thành phố. Bị bất ngờ, tôi hoảng hốt chạy vội vào Trung tâm hành quân
của Quân đoàn để tìm hiểu thật hư.
Đại
tá Long, Tỉnh trưởng Kontum, cho tôi biết độ 2 tiểu đoàn đặc công của Cộng
quân đã lợi dụng đêm tối có nhiều sương mù, lội qua sông và tiến chiếm
được phi trường, kho đạn và khu Tòa Giám mục trong thành phố.
Cuộc giao tranh giữa Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của Tiểu khu với đặc công của địch rất dữ dội. Khu dân chúng và khu Tòa Hành chánh chưa có địch xuất hiện.
Cuộc giao tranh giữa Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của Tiểu khu với đặc công của địch rất dữ dội. Khu dân chúng và khu Tòa Hành chánh chưa có địch xuất hiện.
Đúng
5g sáng, Tướng Toàn được báo cáo về cuộc tấn công này, ông đã hối hả chạy
vào Quân đoàn. Vừa gặp tôi ông liền quát tháo om sòm và dọa đưa tôi ra Tòa
án Quân sự. Ông hỏi: ”Tại sao để cho đặc công Cộng quân vào chiếm thị
xã Kontum mà không hay biết ?”.
Tôi
nghiêm người đứng chịu trận. Biết nói gì bây giờ ? Binh sĩ ta hời hợt, mới
thắng một trận mà đã khinh dịch. Cấp chỉ huy của ta thiếu đôn đốc và kiểm
soát.
Cộng
quân rất tinh ranh, chúng biết được yếu điểm của ta nên đã lợi dụng địa
hình địa vật xử dụng đặc công len lỏi vào thị xã bằng hướng phòng thủ yếu
nhất.
Lúc
6g sáng ngày 20/5/72, Tướng Toàn và tôi bay lên Kontum. Trên trực thăng,
tôi không dám nhìn thẳng vào ông vì biết ông đang nóng giận và lo
âu.
Đến
Bộ Chỉ huy của Đại tá Lý Tòng Bá, chúng tôi thấy nơi đây đang bị pháo kích
nên trực thăng phải tìm cách lượn quanh tránh đạn mới đáp xuống được. Trực
thăng vừa đáp xuống thì chúng tôi thấy Đại tá Bá và Bộ Tham mưu của ông
đang hốt hoảng chạy ra khỏi hầm chỉ huy và hình như đang muốn di chuyển đi
nơi khác.
Mặc
dù tiếng đại liên và AK47 nổ chát chúa rất gần, Tướng Toàn vẫn bình tĩnh
nói lớn với Đại tá Bá: ”Tử thủ, ông và tôi không chết nơi đây đâu !
Không chạy đi đâu hết”.
Ông
yêu cầu Đại tá Bá cho biết tình hình như thế nào. Đại tá Bá chỉ vào khu
nghĩa địa của thành phố cách hầm chỉ huy của ông độ 300 m và cho biết một
đại đội đặc công của địch đang cố thủ ở đó. Ông đã xử dụng một đại đội
trinh sát tinh nhuệ nhất của sư đoàn vào nằm chiếm lại khu vực này nhưng
gặp sự kháng cự rất mãnh liệt, 2 chiến xa bị cháy, đại đội trinh sát không
tiến lên được.
Tướng
Toàn bảo đưa máy cho ông chỉ huy và chỉ thị trong máy :
-
Tư lịnh Quân đoàn ra lịnh ! Bằng mọi giá phải thanh toán sạch đặc công
Cộng quân đó. Tôi đang đứng đằng sau các anh và chờ kết
quả”.
Bên
kia đầu máy trả lời :
-
Nghe lịnh ! Tin Mặt Trời rõ ! Tôi đang thi hành !
Tiếng
đại lên trên 3 chiến xa đang nổ dòn trong khu nghĩa địa.
Trong
khi đặc công tràn vào thành phố, Chuẩn tướng John Hill dùng trực thăng có
gắn 2 khẩu đại liên 12.7 ly bay quan sát vùng Võ Định (Bắc Kontum 15 km)
và thấy nhiều đơn vị Cộng quân di chuyển về hướng Nam, ông liền tác xạ
liên tục và báo cho Paul Vann biết để xử dụng B52.
Ngay
hôm đó, Paul Vann đã xử dụng trên 10 Box B52 để làm giảm áp lực của địch.
Thiếu Tướng Toàn quan sát mặt trận và chỉ thị thêm cho Đại tá Bá đề phòng
tuyến đầu vì địch có ý định tấn công phía trước trong khi ta đang bấn loạn
bên trong.
Sau
một giờ đánh nhau
ác liệt với đặc công của địch, Đại đội trưởng Trinh Sát báo cáo trong
máy:
-
Trình Mặt Trời ! Tôi đã thanh toán xong đặc công tại khu nghĩa
địa.
Tướng
Toàn đáp :
-
Tốt ! Tôi sẽ thưởng công cho anh !
Đại
tá Nguyễn Bá Long tự Thìn, Tỉnh trưởng Kontum, chạy qua trình diện Tướng
Toàn đã bị xỉ vả một trận tơi bời.
Sau
đó, Tướng Toàn bảo Đại tá Long cùng ông lên xe chạy thẳng vào khu Tòa Giám
mục và nói:
“Có
gì ông chết tôi cũng chết”.
Đại
tá Long hướng dẫn Tướng Toàn đến quan sát các ổ kháng cự của đặc công Cộng
quân trong các tòa nhà được xây cất kiên cố từ thời Pháp trong khu Tòa
Giám mục, đang chống trả với Địa Phương Quân.
Tướng
Toàn liền tăng cường cho Đại tá Long 5 chiến xa, một Liên doàn Biệt Động
Quân và chỉ thị nếu cần phải bắn sập một vài tòa nhà trong khu Tòa Giám
mục để tiêu diệt đặc công thì cứ làm, sau này chính phủ sẽ xây cất lại,
nhưng phải cố gắng đừng gây thiệt hại về nhân mạng cho dân chúng đang ở
trong khụ 2 ngày sau, Đại tá Bá và Đại tá Long mới thanh toán sạch sẽ các
lực lượng đặc công Cộng quân trong thành phố.
Bên ta thiệt hại nhẹ…
Bên ta thiệt hại nhẹ…
Anh
hùng và mỹ nhân :
Gia
đình Đại tá Long được đưa về Saigon khi Kontum bắt đầu sôi động. Sau vụ
đặc công xâm nhập vào thành phố, Đại tá Long và tất cả các sĩ quan mật khu
kiểm soát chặt chẽ các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân hơn. Hàng đêm,
ông và một số sĩ quan đi khắp nơi trong thành phố để đôn đốc Nghĩa Quân và
Nhân Dân Tự Vệ tăng cường canh phòng cẩn mật.
Như
mọi người trong thị xã Kontum đều biết, tại đây có cô gái lai Pháp rất
xinh đẹp và dễ tương tên Lucie, cô là chủ một tiệm sách nằm giữa thị xã,
các sĩ quan trẻ tuổi thường đến mua sách và trò chuyện đùa giỡn với cô.
Đại tá Long, Tỉnh trưởng Kontum, khi đi kiểm soát vùng cũng vài lần ghé
lại tiệm sách này để “thăm dân cho biết sự tình”. Không biết ai đã báo cáo
lại chuyện này với bà Long tại Saigon, bà liền cấp tốc tìm phương tiện bay
lên Kontum này và chạy vào Tòa Hành chánh tỉnh la lối om sòm, đập nát kính
chiếc xe Toyota của Đại tá Tỉnh trưởng. Bị mất mặt, Đại tá Long lôi bà về
tư thất đánh cho một trận và bắt bà phải trở về lại Saigon.
Năm
1970, khi Đại tá Long làm Tỉnh trưởng tỉnh Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà
Lạt, bà Thủ tướng Khiêm thường hay lên đây nghỉ mát, nên bà Long có dịp
tiếp xúc và chuyện trò với bà Khiêm. Nhờ sự quen biết đó nên khi về tới
Saigon, bà Long đã chạy ngay vào nhà bà Khiêm khóc lóc, vạch lưng vạch
ngực cho bà Khiêm xem các dấu vết đánh của Đại tá Long. Phụ nữ thường hay
bênh nhau, nên bà Khiêm đã chở bà Long sang gặp bà Thiệu để trình bày mọi
chuyện.
Nghe
bà Long kể lể, bà Thiệu xúc động liền yêu cầu TT Thiệu cách chức Đại tá
Long. Hôm sau, Quân đoàn nhận được mật điện của TT Thiệu chỉ thị Tư lịnh
Quân đoàn II đề cử một sĩ quan khác giữ chức vu. Tỉnh trưởng Kontum thaỵ
thế Đại tá Nguyễn Bá Long trong 24 giờ. Lý do sẽ cho biết
sau.
Trong
trận chiến Kontum, Đại tá Long là người có chiến công. Trực thăng chỉ huy
của Đại tá Long đã một lần bị địch bắn rơi, nhưng rất may ông không chết
và được cứu thoát. Tôi được biết Đại tá Long đã cưới bà này làm vợ trong
một hoàn cảnh đặc biệt, vì lòng nhân đạo hơn là vì tình. Nhưng nay, vì một
sự ghen tương nhãm nhí của bà vợ và sự nóng giận không kềm chế của Đại tá
Long đã làm cho ông thân bại danh liệt. Năm 1974, Đại tá Long bị giải ngũ.
Sau 30/4/75, Đại tá Long phải đi học tập cải tạo và bị chuyển ra Bắc. Ông
là Đại tá Quân lực
VNCH đầu tiên chết trong trại cải tạo tại miền Bắc. VC bắt ông phải đi gánh nước hàng ngày, ông bị té bể xương chậu (xương mông) và nằm đau đớn cho tới chết vì cán bộ trại giam không cho ông thuốc men hay đưa đi bệnh xá để cứu chữa. Đại tá Nguyễn Bá Long tự Thìn đã tốt ngiệp khóa 8 Sĩ Quan Đà Lạt và đậu thủ khoa. Ông là một sĩ quan rất giỏi về cả tham mưu lẫn tác chiến.
VNCH đầu tiên chết trong trại cải tạo tại miền Bắc. VC bắt ông phải đi gánh nước hàng ngày, ông bị té bể xương chậu (xương mông) và nằm đau đớn cho tới chết vì cán bộ trại giam không cho ông thuốc men hay đưa đi bệnh xá để cứu chữa. Đại tá Nguyễn Bá Long tự Thìn đã tốt ngiệp khóa 8 Sĩ Quan Đà Lạt và đậu thủ khoa. Ông là một sĩ quan rất giỏi về cả tham mưu lẫn tác chiến.
+
Kontum kiêu hùng :
Cuộc
tấn công của đặc công Cộng quân đã bị ta thanh toán trong 3 ngày. Các đơn
vị chính qui của Cộng quân được bố trí xung quanh để tiến vào thị xã hợp
đồng tác chiến với đặc công đã bi. B52 và Không Quân ta tiêu diệt. Cuộc
tấn công đợt 2 của Tướng Hoàng Minh Thảo tiến chiếm Kontum coi như thất
bại. Cộng quân điên cuồng trả đũa trong những ngày kế tiếp bằng những hỏa
tiễn 122 ly rót vào thị xã liên tục ngày đêm, bất kể khu quân sự hay dân
sự. Kontum luôn luôn ở trong tình trạng căng thẳng.
Tôi
làm tờ trình ước tính tình báo lên Tướng Toàn và Paul Vann là địch còn khả
năng tấn công ta đợt 3 trong vòng 10 ngày tới. Sư đoàn 968 trừ bị của mặt
trận B3 của Tướng Hoàng Minh Thảo còn chưa ra quân. Ước tín mức độ và
cường độ đợt 3 yếu hơn đợt 1. Tướng Toàn và Paul Vann tiếp tục nghiên cứu
và xử dụng kế hoạc 100 Box B52 mà tôi đã trình khi Tướng Toàn mới nhận
chức. Paul Van có uy tín với Đại tướng Abrams nên được xử dụng nhiều Box
B52 hơn các Quân đoàn khác.
Đúng
5g sáng ngày 28/5/72, Cộng quân tấn công đợt 3 vào Kontum bằng 3 mũi chính
:
-
Mũi từ hướng Bắc do lực lượng Sư đoàn 2 Cộng quân.
-
Mũi 2 từ hướng Tây Bắc do lực lượng Sư đoàn 320.
-
Mũi 3 từ hướng Nam do lực lượng Sư đoàn 968.
Trong
đợt tấn công này địch không dùng chiến xa T54.
Trong
đợt tấn công này địch không dùng chiến xa T54.
Mũi
1 và 2 đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của các chiến sĩ can trường của Sư
đoàn 23BB. Địch đã xung phong nhiều đợt để cố chiếm tuyến phòng thủ đầu
của ta nhưng đều bị đẩy lui. Phi cơ chiến đấu của Sư đoàn 6 Không Quân tại
Pleiku xuất trận liên tục để yểm trợ quân ta tại tuyến đầu.
Mũi
3 do lực lượng Sư đoàn 968, một lực lượng trừ bị của Tướng Hoàng Minh Thảo
phụ trách. Lực lượng này mới tham gia trận Kontum lần đầu, chưa nếm mùi
B52 nên khí thế có vẻ mạnh hơn mũi 1 và 2.
Sông
Dakbla bọc quanh phía Nam thị xã là một chướng ngại vật thiên nhiên ngăn
chặn không cho địch tiến quân một các dễ dàng. Sư đoàn 968 cố gắng vượt
sông nhưng bị các phòng tuyến của Địa Phương Quân và Nghĩa Quân ngăn chặn.
Paul Vann đã xử dụng các phi tuần của Không Quân Hoa Kỳ cất cánh từ Thái
Lan trợ chiến, sau đó ông mới gọi các phi vu. B52 đến trải
thảm.
Trong
ngày 28/5/72 này, Paul Vann cũng đã được Đại tướng Abrams cấp hết 25 Box
B52 cho mặt trận Kontum. 2 bên quần thảo nhau suốt ngày; đến tối địch vẫn
không chiếm đươc vị trí nào của ta. Tướng Hoàng Minh Thảo thấy không thể
kéo dài cuộc tấn công vì sợ B52 đến dội bom, đã ra lịnh rút lui thật
nhanh.
Tại
cuộc Hoà đàm Ba Lê, có lẽ Lê Đức Thọ cũng điên đầu vì Cộng quân chưa tạo
được một chiến thắng quân sự nào tại Kontum, Quảng Trị hay Bình Long để
yểm trợ yêu sách với Kissinger.
Trận
chiến Kontum kéo dài đến 3 tháng (3, 4, 5/72) mà Cộng quân chẳng những
không chiếm được vị trí nào mà còn bị thiệt mất một số quân khá
lớn.
Theo
ước tính của giới chức quân sự Hoa Kỳ, trong trận đánh kéo dài này, mặt
trận B3 của Tướng Hoàng Minh Thảo bị thiệt mất khoảng một sư đoàn rưỡi, 30
chiến xa T54 và nhiều đại pháo, phòng không bị thiêu hủy.
Sau
trận này, Sư đoàn 2 Sao Vàng của Cộng quân đã hoàn toàn bị xóa
tên.
Kontum
đáng mặt kiêu hùng,
Sánh vai Quảng Trị so cùng Bình Long.
Ngày
31/5/72, TT Thiệu lên Kontum ủy lạo binh sĩ và gắn cấp bậc Chuẩn tướng cho
Đại tá Lý Tòng Bá.
KBC
16
Đại tá Trịnh Tiếu | |||||
|
Nhấp vào đây để Trả lời, Trả lời tất cả hoặc Chuyển tiếp
|
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét