Pháp: Phong trào đòi quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam
Đăng ngày: 20.07.2014
VRNs (20.07.2014) – Sài Gòn – Giữa tháng
05. 2014 vừa qua, LS Lê Trọng Quát, từ Paris đã thay mặt Phong Trào Dân
Tộc Tự Quyết Việt Nam, trong tư cách là Chủ Tịch, đã gởi một lá thư Kêu
gọi cho Quyền Tự Quyết của Dân Tộc Việt Nam gở đến các quốc gia dân
chủ, liên minh Âu Châu, Liên hiệp quốc và các nhà đấu tranh cho tự do,
nhân quyền trên thế giới.
Ls. Lê Trọng Quát, đã từng là Cựu Quốc-Vụ-Khanh Chính
Phủ VNCH, Chủ Tịch các Ủy Ban Nội-Vụ và Quốc-Phòng Quốc Hội VNCH Hội
Thẩm Viện Bảo Hiến VNCH.
—-
—-
Quang cảnh ký hiệp định Paris – 1973
Kính gửi quý Vị:
- Lãnh Đạo và Dân Biểu Nghị Sĩ các Quốc Gia Dân Chủ
- Lãnh Đạo và Dân Biểu Khối Liên Hiệp Âu Châu
- Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc
- Tranh đấu cho Tự Do và Nhân Quyền trên Thế giới
- Lãnh Đạo và Dân Biểu Nghị Sĩ các Quốc Gia Dân Chủ
- Lãnh Đạo và Dân Biểu Khối Liên Hiệp Âu Châu
- Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc
- Tranh đấu cho Tự Do và Nhân Quyền trên Thế giới
Chủ đề: Lời kêu gọi cho Quyền Tự Quyết của Dân Tộc Việt Nam
Kính thưa quý Vị, Bức màn sắt đã hai lần rủ xuống nước Việt Nam
Lần thứ nhất vào tháng tám 1945, cộng sản VN đã áp lực
Vua Bảo Đại thoái vị sau khi ông đã tiếp thu nền độc lập hoàn toàn cho
quốc gia ngay khi quân đội Nhật Bản chiếm đóng lãnh thổ, đầu hàng Đồng
Minh. Cuộc chiến tranh Việt Nam thứ nhất, thường được gọi là chiến tranh
Đông Dương vì lan rộng qua Lào, Miên, chấm dứt với Hiệp Định Genève
ngày 20 tháng 7, 1954, phân chia tạm thời Việt Nam ra hai miền Bắc, Nam,
ranh giới ở vĩ tuyến 17. Thay vì xây dựng một chế độ dân chủ đặng cho
dân chúng có thể, hai năm sau, tham dự một cuộc tổng tuyển cử tự do trên
cả nước đặng thống nhất quốc gia chiếu theo Hiệp Định, Cộng sản Bắc
Việt đã thiết lập một hệ thống độc tài toàn trị theo mô hình Staline,
nhận chìm Miền Bắc VN trong một bể máu với hơn một trăm ngàn nạn nhân
của một cuộc cải cách ruộng đất dã man kéo dài nhất trong lịch sử
(1953-1956).
Khiếp đảm, non một triệu người Miền Bắc đã vội vàng
khăn gói di cư vào Miền Nam nhờ sự qui định của Hiệp Định Genève, tạo
thành một cuộc di dân lớn lao nhất từ xưa đến nay ở Việt Nam. Thế nhưng,
bọn lãnh đạo cộng sản vẫn còn tham vọng quyền lực, chuản bị ráo riết
cuộc chiến tranh thứ hai với mục tiêu sau cùng là thôn tính Miền Nam,
bành trướng qua Lào và Cao Miên. Hiệp định hòa binh thứ nhất đã bị vi
phạm lanh chóng, lôi cuốn dân tộc Việt Nam vào tấn thảm kịch mới kéo
dàihai thập niên: 1956-1975!
Lần thứ hai ngày 30 tháng tư 1975, chúng hoàn tất cuộc
xâm chiến Việt Nam Cộng Hòa, dẫm lên Hiệp Định Paris ngày 27 tháng
giêng 1973 «chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình ở Việt Nam» và Văn
kiện chung kết ngày 2 tháng 3, 1973 trong đó, dưới danh nghĩa «Chính phủ
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa», chúng cam kết cùng với mười một chính phủ
khác – các chính phủ Pháp, Hoa Kỳ, Anh, Nga Sô, Trung quốc, Gia-nã-đại,
Ba lan, Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam VN), Nam Dương, Hung-gia–lợi và Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam (do CS Bắc Việt dựng lên và giải tán một năm
sau khi chúng thôn tính Miền Nam) – trước sự hiện diện của Tổng Thư Ký
Liên Hiệp Quốc, cam kết «đảm bảo chấm dứt chiến tranh, duy trì hòa bình ở
VN, tôn trọng các quyền cơ bản của dân tộc VN và quyển tự quyết của
nhân dân Miền Nam VN, và góp phần duy trì và đảm bảo hòa bình ở Đông
Dương………».
Từ gần 40 năm nay, dân tộc VN tưởng niệm ngày 30 tháng
tư đen 1975 bi thảm, ngày từ đấy đất nước của họ đã trở thành một trại
giam (goulag) khổng lồ gợi nhớ đến những trại giam của thời Nga Sô những
thập niên năm mươi và sáu mươi của thế kỷ trước. Sau khi « giải phóng »
Miền Nam VN, non 500.000 người ở Miền Nam, công chức, quân nhân, bác
sĩ, nhà báo, nhà văn, tu sĩ, của « chế độ củ » bị tống giam trong khoảng
một trăm trại tập trung mạo danh là « trại cải tạo », nơi nhiều nghìn
người đã bỏ mình vì kiệt sức, ngược đãi hay tra tấn. Thời hạn giam giử
trung bình, luôn luôn khổ sai, là tám đến mười năm, nhưng người chiếm kỷ
lục « thâm niên » là ông Nguyễn Hữu Cầu mới được trả tự do cách đây mấy
tuần, sau ba mươi bảy năm ngục tù! Đứng bên cạnh ông, Nelson Mandela
chỉ là một bóng mờ nhạt.
Trong lúc ấy, ngoài các trại giam, bất cứ người công
dân nào cũng có thể bị hành hung, bắt bớ, giam cầm vì bất cứ lý do nào,
ngay chỉ vì bày tỏ một ý kiến không thuận lợi cho một chính sách của
chính phủ, của đảng cộng sản, hay vì phản đối một việc trưng thu đất đai
mà không được bồi thường thỏa đáng.
Nhiều trăm vụ như vậy chà đạp trắng trợn nhân quyền và
các quyền công dân căn bản đã được các nạn nhân, các tổ chức bảo vệ
nhân quyền, tố cáo với các chính phủ các quốc gia dân chủ trên thế giới,
với Liên Hiệp Quốc và gần đây nhất, được trình bày trước Hội Đồng Nhân
Quyền, nơi mà oái oăm tột cùng, Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa mới vừa an tọa
chểm chệ trong chiếc ghế thành viên chính thức !
Sự kiện phóng thích không điều kiện vài người dân sau
nhiều năm giam giữ chỉ nhằm xoa dịu dư luận quốc tế trong lúc sự đàn áp
càng khắc nghiệt khắp nước. Có ai có thể tin rằng những người Việt yêu
nước biểu tình chống chính sách bành trướng của Trung Cọng nhắm vào Việt
Nam, chiếm đóng quân sự quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường
Sa, lãnh hải của Việt Nam một cách hợp pháp từ nhiều thế kỷ, lại bị
chính nhà cầm quyền Việt Nam đương hành trừng trị nghiêm khắc?
Quá đáng, thật là quá đáng! Tình trạng một Nhà Nước
khủng bố như vậy phải được chấm dứt. Gần khắp nơi, từ Bắc chí Nam của
đất nước, nông dân và thị dân, thợ thuyền và trí thức, sinh viên trẻ
tuổi và cựu đảng viên cộng sản lớn tuổi giác ngộ, tướng lãnh và sĩ quan
hưu trí thất vọng về Quân Đội Nhân Dân, tu sĩ Phật giáo, Công giáo, Tin
Lành, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, tất cả cùng đòi hỏi tự do, dân chủ.
Toàn dân Việt nhất quyết hơn bao giờ cả tranh đấu giành lại từ tay các
lãnh đạo cộng sản, quyền tự quyết thiêng liêng của mình và sẳn sàng chấp
nhận mọi hy sinh. Họ thấu triệt rằng chỉ có đổ máu của mình ra mới
tranh thủ được tự do. Nhưng họ không bao giờ quên rằng những quyền lực
của thế giới đã kể trên còn có trách nhiệm đối với họ, phải thực thi lời
cam kết trong Hiệp Định Paris « đảm bảo sự tôn trọng các quyền căn bản
của dân tộc Việt Nam : độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam cũng như quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam
………. ».
Một sự cam kết cần phải luôn luôn nhắc lại bởi vì một
hiệp ước quốc tế không bị trước tiêu (hay vô hiệu- prescription par le
temps – statute of limitations) bởi thời gian, không bị hết hiệu lưc
(caduc-lapsed) nhờ sự đề kháng kiên trì của người Việt ở trong nước cũng
như ở hải ngoại chống bạo quyền cộng sản xâm lược, tố giác chúng công
khai vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris.
Đương nhiên, mọi hiệp ước quốc tế phải được tôn trọng,
qui luật cơ bản này của công pháp quốc tế, nếu không được áp dụng thì
thế giới của chúng ta sẽ không tránh được hổn loạn, sẽ bất ổn kinh niên,
lý lẽ của kẻ mạnh luôn thắng thế kẻ yếu, đối với các cá nhân cũng như
các dân tộc.
Thưa quý vị Lãnh Đạo và Nghị Sĩ, Dân Biểu các quốc gia dân chủ,
Thưa quý vị Lãnh Đạo và Dân Biểu Liên Hiệp Âu Châu,
Phản ảnh nguyện vọng của 90 triệu đồng bào trong nước,
chúng tôi xin gửi đến quí vị -những người có đủ khả năng góp phần vào
công cuộc thay đổi số phận của những dân tộc bị áp bức bởi những kẻ cầm
quyền của nước họ – lời kêu gọi hổ trợ cuộc chiến đấu cho quyền dân tộc
tự quyết của dân tộc Việt Nam chúng tôi, bị cướp đoạt lâu nay.
Thưa các Chính Phủ ký kết Hiệp Định Paris về Việt Nam năm 1973,
Chúng tôi thỉnh cầu quý vị thi hành toàn vẹn giờ đây lời cam kết của quí vị đặng chu toàn trách nhiệm của quý vị và cứu nguy một dân tộc, chuộc lại lỗi lầm của quý vị đã không thực hiện trước đây sự cam kết của quý vị, để cho Cộng Sản Bắc Việt xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, Miền Nam Việt Nam.
Thưa Ngài Tổng –Thư-Ký Liên Hiệp Quốc, Vị tiền nhiệm của Ngài đã chứng giám lễ ký kết long trọng Văn kiện chung kết (Acte Final- Final Act) ngày 2 tháng 3 năm 1973 của Hiệp Định Paris, giờ đây chúng tôi thỉnh cầu Ngài can thiệp với các quốc gia ký kết đặng họ thi hành sự cam kết của họ «trao trả cho dân tộc Việt Nam các quyền quốc gia căn bản cùng với quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam» như đã qui định trong các thỏa hiệp ghi trên.
Chúng tôi thỉnh cầu quý vị thi hành toàn vẹn giờ đây lời cam kết của quí vị đặng chu toàn trách nhiệm của quý vị và cứu nguy một dân tộc, chuộc lại lỗi lầm của quý vị đã không thực hiện trước đây sự cam kết của quý vị, để cho Cộng Sản Bắc Việt xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, Miền Nam Việt Nam.
Thưa Ngài Tổng –Thư-Ký Liên Hiệp Quốc, Vị tiền nhiệm của Ngài đã chứng giám lễ ký kết long trọng Văn kiện chung kết (Acte Final- Final Act) ngày 2 tháng 3 năm 1973 của Hiệp Định Paris, giờ đây chúng tôi thỉnh cầu Ngài can thiệp với các quốc gia ký kết đặng họ thi hành sự cam kết của họ «trao trả cho dân tộc Việt Nam các quyền quốc gia căn bản cùng với quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam» như đã qui định trong các thỏa hiệp ghi trên.
Thưa các Nhà tranh đấu cho Tự Do và Nhân Quyền trên Thế Giới,
Chúng tôi thỉnh cầu quý vị tăng cường nỗ lực, hổ trợ cuộc tranh đấu của chúng tôi vì các lý tưởng của quý vị cũng là những lý tưởng của chúng tôi, vì giờ đây đã đến lúc dân tộc Việt Nam phải giành lại Tự Do và quyền Dân Tộc Tự Quyết thiêng liêng của mình để xây dựng một vận hội mới cho Dân Tộc và bảo vệ hữu hiệu Đất Nước đang gặp nguy cơ xâm lược.
Chúng tôi thỉnh cầu quý vị tăng cường nỗ lực, hổ trợ cuộc tranh đấu của chúng tôi vì các lý tưởng của quý vị cũng là những lý tưởng của chúng tôi, vì giờ đây đã đến lúc dân tộc Việt Nam phải giành lại Tự Do và quyền Dân Tộc Tự Quyết thiêng liêng của mình để xây dựng một vận hội mới cho Dân Tộc và bảo vệ hữu hiệu Đất Nước đang gặp nguy cơ xâm lược.
Paris, ngày 12 tháng 5, 2014
TM Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết Việt Nam,
Chủ Tịch,
LS Lê Trọng Quát
Cựu Quốc-Vụ-Khanh Chính Phủ VNCH
Chủ Tịch các Ủy Ban Nội-Vụ và Quốc-Phòng Quốc Hội VNCH Hội Thẩm Viện Bảo Hiến VNCH
Nguồn: http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=29714
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét