Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Fw: Fwd: [ChinhNghiaViet] (tiếp theo 1) “ĐẶC ÂN DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA ĐẠI TỔNG ĐÀN THE KNIGHTS OF MALTA LUÂN ĐÔN MỞ CỬA RA CHO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TÌM VỀ ĐƯỜNG NGAY NẺO CHÍNH “LIBERTÉ-ÉGALITÉ-FRATERNITÉ” ! CỬA NÀY ĐÓNG BÍT LẠI SAU LƯNG TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG ĐI LUÂN ĐÔN TRÌNH DIỆN “SMOM” ! NHÓM LỢI ÍCH NGUYỄN TẤN DŨNG VÀ 3 ÔNG ĐẠI TƯỚNG LÀ “TỨ TRỤ BẮC KINH TRONG BỘ CHÍNH TRỊ ĐẢNG TẠI HÀ NỘI” KHÔNG CÒN ĐƯỢC HƯỞNG “ĐẶC ÂN DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” HẾT RỒI ! MÙA ÂN PHÚC CỦA CHÚNG ĐÃ QUA MÙA ĐẠI HỌA ẬP ĐẾN ! CUỘC ĐỤNG ĐỘ GIỮA “MALTA LUÂN ĐÔN” VÀ “MAO BẮC KINH” ĐANG LEO THANG ĐẾN HỒI KHỐC LIỆT TẠI HÀ NỘI : LUÂN ĐÔN GIẰNG LẤY LẠI VIỆT NAM TRONG TAY BẮC KINH !

Kính mời quý vị quan tâm đọc tiếp Thư Ngỏ 909 của Khối Công Dân Công Giáo Việt Nam
 
N.B. : Chúng tôi đã mở 17 địa chỉ Email để chuyển tải thư đến quý vị ! Nhưng Công an mạng của Hà Nội luôn phá nát hộp thư của chúng tôi ! Mỗi lần gửi thư đi là một cuộc phấn đấu nhiều cam go mất rất nhiều thì giờ ! Vậy mà thư đến quý vị khi có khi không ngoài ý muốn của chúng tôi ! Xin thông cảm và nếu có thể xin giúp đỡ chúng tôi . Trân trọng
 
 
Kính gửi : HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
 
“ Signs and symbols rule the world, not words nor laws.”
 
(tiếp theo 1) “ĐẶC ÂN DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA ĐẠI TỔNG ĐÀN THE KNIGHTS OF MALTA LUÂN ĐÔN MỞ CỬA RA CHO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TÌM VỀ ĐƯỜNG NGAY NẺO CHÍNH “LIBERTÉ-ÉGALITÉ-FRATERNITÉ” ! CỬA NÀY ĐÓNG BÍT LẠI SAU LƯNG TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG ĐI LUÂN ĐÔN TRÌNH DIỆN “SMOM” ! NHÓM LỢI ÍCH NGUYỄN TẤN DŨNG VÀ 3 ÔNG ĐẠI TƯỚNG LÀ “TỨ TRỤ BẮC KINH TRONG BỘ CHÍNH TRỊ ĐẢNG TẠI HÀ NỘI” KHÔNG CÒN ĐƯỢC HƯỞNG “ĐẶC ÂN DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” HẾT RỒI ! MÙA ÂN PHÚC CỦA CHÚNG ĐÃ QUA MÙA ĐẠI HỌA ẬP ĐẾN ! CUỘC ĐỤNG ĐỘ GIỮA “MALTA LUÂN ĐÔN” VÀ “MAO BẮC KINH” ĐANG LEO THANG ĐẾN HỒI KHỐC LIỆT TẠI HÀ NỘI : LUÂN ĐÔN GIẰNG LẤY LẠI VIỆT NAM TRONG TAY BẮC KINH !
 
NGUYỄN TẤN DŨNG KHÔNG RÚT DAO RA KHỎI NGỰC NGUYỄN BÁ THANH !
 
 
Kính mời quý vị mở attachments đọc Thư Ngỏ 909 và xin đọc lui lại 908, 907 ...
Trân trọng


3 tệp đính kèm — Tải xuống tất cả tệp đính kèm (nén cho )  
UTF-8''THƯ NGỎ 909 Kà NH GỬI HỘI Ä á»’NG GIà M MỤC VIỆT NAM.docUTF-8''THƯ NGỎ 909 Kà NH GỬI HỘI Ä á»’NG GIà M MỤC VIỆT NAM.doc
1265K   Xem   Tải xuống  
UTF-8''THƯ NGỎ 907 Kà NH GỬI HỘI Ä á»’NG GIà M MỤC VIỆT NAM.docUTF-8''THƯ NGỎ 907 Kà NH GỬI HỘI Ä á»’NG GIà M MỤC VIỆT NAM.doc
1045K   Xem   Tải xuống  
UTF-8''THƯ NGỎ 908 Kà NH GỬI HỘI Ä á»’NG GIà M MỤC VIỆT NAM.docUTF-8''THƯ NGỎ 908 Kà NH GỬI HỘI Ä á»’NG GIà M MỤC VIỆT NAM.doc
1194K   Xem   Tải xuống  
Theo nguồn:  http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=3481882599258351049#editor/target=post;postID=8650004086910632141

Nhấp vào đây để Trả lời, Trả lời tất cả hoặc Chuyển tiếp

Fw: Fwd: Mời xem lại 2 bức thư gởi Stalin...của..............

Hai bức thư Hồ Chí Minh gởi Stalin xin Chỉ thị để giết dân Việt Nam trong chiến dich Cai Cách Ruộng Đất" và xin vũ khí Nga để giết dân Việt.
 
Bức thư thứ 1
HoChiMinh Stalin
Bức thư thứ 1 Nội dung tạm dịch:
 
Đồng chí Stalin thân mến:
Xin gửi ngài chương trình cải cách ruộng đất của Đảng lao động Việt Nam. Chương trình hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San.Đề nghị ngài xem xét và cho chỉ dẫn.Gửi lời chào cộng sản.Hồ Chí Minh, 31/10/1952
Nguồn tài liệu: Cục lưu trử quốc gia Nga:
 
-------------------------------------------------------------------------------------
Bức thư thứ 2
HoChiMinh Stalin
HoChiMinh Stalin
Thư thứ hai:
 
Đồng chí Stalin kính mến
Tôi đã bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.
- Tôi gửi tới đồng chí một số yêu cầu, và hi vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.
1. Cử một hoặc 2 đồng chí Liên Xô tới Việt Nam để làm quen và tìm hiểu thực trạng ở đó. Nếu như các đồng chí đó biết tiếng Pháp đủ để có thể giao tiếp với nhiều người. Từ Bắc Kinh tới chỗ chúng tôi đi đường mất khoảng 10 ngày.
2. Chúng tôi muốn gửi tới Liên Xô 50-100 du học sinh, với trình độ văn hóa lớp 9 ở Việt Nam, trong số họ có người là Đảng viên và cũng có ngừơi chưa phải là Đảng viên, độ tuổi của họ từ 17-22. Đồng chí nhất trí về vấn đề này chứ.
3. Chúng tôi muốn nhận từ phía các đồng chí 10 tấn thuốc kí ninh ( thuốc sốt rét) cho quân đội và dân thường, có nghĩa rằng 5 tấn trong nửa năm
4. Chúng tôi cần những loại vũ khí sau
(a) Pháo cao xạ 37 li cho 4 trung đoàn, tất cả là 144 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu pháo.(b) Pháo trận địa 76,2 li cho 2 trung đoàn, tất cả là 72 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu(c) 200 khẩu súng phòng không 12,7 li và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu
Sau khi nhận chỉ thị của đồng chí về những vấn đề trên, tôi dự định vào ngày mùng 8 hoặc là mùng 9 tháng 11 sẽ rời khỏi Moscow.
Gửi tới đồng chí lời chào cộng sản và lời chúc tốt đẹp nhất
Hồ Chí Minh
30-10-1952
đã ký
Quý vị để ý: Trong bức thư thứ 2, Hồ Chí Minh ký tên Tàu.Last edited by hatka; 29-12-2010 at 07:48 AM.
 
http://vietvungvinh.com/index.php?option=com_content&view= article&id=1901:hai-buc-thu-ho-chi-minh-goi-stalin-tuong-trinh-ve-qcai-cach-ruong-datq&catid=46:chinh-tri-xa-hi&Itemid=82
 
 
VietSu
Hình chụp của 1 phóng viên Liên Xô: Một cảnh đấu tố tại miền Bắc có hình thờ các lãnh tụ Cộng sản được treo trên cao. Trong hình một thanh niên có vẽ có học thức, đang bị Cộng Sản đấu tố. Cán bộ Cộng Sản ngồi trên bàn chủ tọa. Nông dân nghèo được khích động, hứa hẹn chia của và huấn luyện sẵn để đánh đập, sỉ vả, kết tội người bị đấu tố.
 
 
VietSu
Người bị đấu tố sắp bị bắn
VietSu
Người bị đấu tố vừa bị bắn chết trước sự chứng kiến của dân chúng. Tài sản người bị đấu tố thường bị tịch thu, gia đình người bị đấu tố bị đuổi ra khỏi nhà. Thân nhân bị cô lập, không được hành nghề, không được làm mướn. Hàng triệu người miền Bắc là nạn nhân của Cộng Sản, đã sống trong tình trạng đói khổ, cùng quẩn suốt cuộc đời. Phần lớn những người bị đấu tố chỉ là những nông dân giỏi, khá giả nhờ vào tài sức của mình. Họ đã bị giết chết, bị cướp đọat tài sản một cách oan uổng
Theo nguồn:  https://mail.google.com/mail/u/0/?shva=1#inbox/13c8d3403f36f977
 

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

Hiệp định Paris: Cú lừa có thưởng

Hiệp định Paris: Cú lừa có thưởng

Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Ông Alfred Nobel ở bên kia thế giới có động... (não) mả gì không, khi nhìn hai tên đại bịp Kissinger và Thọ được hậu duệ Na Uy của ông trao cho cái giải thưởng Nobel Hòa Bình, tiếng Việt trong sáng gọi là “giải thưởng Con Cu”?
Thọ của Bắc Việt cộng sản bịp cả loài người thế giới kể cả Vatican, trừ Mỹ biết nó bịp nhưng làm bộ giả điếc để “rút lui trong danh dự”. 
Nhìn thấy Thọ đặt bút ký vào bản Hiệp định Paris để “chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hòa bình”, người “nhân chi sơ vốn bản thiện” có ai lại không thán phục tay đồ tể buông dao. Nhưng người ta thực tình không thấy, hay thấy mà lờ đi việc Thọ không chịu rút quân xâm nhập từ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Thọ ra khỏi lãnh thổ nước Việt Nam Cộng hòa, trong khi Hiệp định có điều khoản “phải rút hết quân ngoại nhập khỏi Miền Nam”.
Hành động đó là gì nếu không phải là ý đồ “si vis bellum, para pacem”; thay vì thiên hạ “muốn hòa bình, phải chuẩn bị chiến tranh- Si vis pacem, para bellum”, Thọ lại muốn chiến tranh thôn tính nước VNCH, phải giả đò ký hiệp ước hòa bình.
Đó là Thọ, được phân nửa giải Con Cu Nobel năm 1973.
Còn phân nửa Con Cu kia dành cho Kissinger, người Việt miền Nam gọi là Kít. Tên bịp này ỷ gốc mình là Do Thái chăng, nên đã tưởng dư cốt cách ma mãnh ăn trùm thiên hạ, hí hửng mang cái bản Hiệp định “nháp” viết bằng tiếng Anh cho Tổng thống VNCH ký, đã không ngờ bị ông Nguyễn Văn Thiệu chỉ cho con lừa nằm chình ình trong đó.” Hãy đưa cho tôi bản tiếng Việt”, Kít bị lộ tẩy ú ớ câu giờ; cuối cùng phải phòi ra. Bị bắt quả tang, con lừa Kít bầm gan rời Sài Gòn (13 Comments).
Kít không bị lừa, vì Kít thừa biết VNCH sẽ mất vào tay CSBV nên đã cam kết với Chu Ân Lai, đại khái “Miền Nam sau này cho dẫu thế nào, Mỹ sẽ không can thiệp”.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cả nước VNCH lâm vào cảnh thân cô thế cô không biết làm sao hơn trước sức ép của Cáo cùng Chiên (Vatican), buộc lòng phải ký vào “bản án tử hình” cho chính mình, nhưng chỉ chịu ký với điều kiện Mỹ sẽ trở lại can thiệp khi Miền Nam bị xâm lăng; TT Mỹ Nixon mà Kít làm cố vấn đã cam kết với TT Thiệu bằng... mấy lá thư!
Thế là Hiệp định Paris nhằm “vãn hồi hoàn bình” tại VN đã được ký giữa 4 bên với những hứa hẹn bằng giấy trắng mực đen đã được 40 năm.
Bốn mươi năm qua, trước việc vi phạm trắng trợn cái gọi là “Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh vãn hồi hòa bình cho Miền Nam Việt Nam” của CSBV, sự dửng dưng vô can của “đồng minh” Mỹ, thái độ vô can của thế giới với một quốc gia nạn nhân của sự phản bội và bỏ rơi là VNCH, và trước biết bao tài liệu mật được giải mã, chẳng hạn như mới đây Trung tướng Vernon Walters, người từng tham dự các cuộc hòa đàm giữa Kít và Thọ đã kể lại lời Thọ với Kít trong một mật đàm với ý định của Thọ về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: 
"Các ông biết nên làm cái gì... phải trừ khử hắn." 
Kissinger hỏi lại: "Ý ông muốn nói chúng tôi phải giết ông ta?" 
Và Lê Đức Thọ đáp: "Đúng, nhưng các ông không viết ra trong hiệp ước"
Ai mà không tội nghiệp, xót xa thay cho ông Alfred Nobel nơi chín suối. Ông đâu ngờ được giải thưởng quý giá của ông đặt ra với hoài bão xây dựng hòa bình thế giới lại lọt vào tay một tên đồ tể chiến tranh là Lê Đức Thọ, và tên kia là tên đại bịp, lái buôn chính trị Henry Kissinger.
Chia sẻ bài viết:

Mỹ Nhờ Cậy Vatican Những Gì Trong Chiến Tranh Việt Nam - Trần Viết Ðại Hưng

Tuần rồi chính phủ Hoa Kỳ vừa cho công bố những tài liệu mật có liên quan đến chuyện chính phủ Hoa Kỳ có nhờ cậy Vatican một số chuyện trong chiến tranh Việt Nam. Trong đó Hoa Kỳ chủ yếu nhờ Vatican làm trung gian để chấm dứt cuộc xung đột ở Việt Nam, nhất là ở vào giai đoạn Hoa Kỳ bắt đầu cảm thấy mất máu và mệt mỏi nhiều vì cuộc chiến Việt Nam dưới thời Tổng thống Johnson ở thập niên 1960.
Khi phải đối diện với những sự bất mãn và tức giận của dân chúng Mỹ ngày càng lớn mạnh về vai trò can thiệp ngày càng tăng của chính phủ Hoa Kỳ trong cuộc chiến ở Việt Nam, cựu Tổng
thống Lyndon Johnson đã liên tiếp nhiều lần tìm kiếm sự giúp đỡ từ tòa thánh Vatican để mong Vatican làm trung gian điều đình cho cuộc xung đột giữa Mỹ và Miền Bắc. Những tài liệu mật được công bố trong tuần lễ này đã nói lên điều đó.
Dù thiếu sự quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Vatican, trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến 1968, Tổng thống Johnson đã hai lần gặp gỡ Giáo Hoàng Paul 6, đã gửi cho ngài ít nhất 3 lá thư riêng và sai phái nhiều phái đoàn Mỹ đi Vatican, trong đó bao gồm cả vị Phó tổng thống, để vận động và khuyến khích Giáo Hoàng ra tay can thiệp tích cực vào chuyện chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam.
Những lá thư này, bao gồm những công hàm ngoại giao và văn thư lưu trữ, được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho công bố ra trong tuần này, đã tô vẽ nên một hình ảnh tuyệt vọng của chính phủ
Mỹ nhắm đến chuyện tranh thủ quyền uy đạo đức của Giáo Hoàng trong nỗ lực muốn chấm dứt cuộc xung đột ngày càng sâu đậm.
Johnson yêu cầu Giáo Hoàng công khai lên án Miền Bắc Việt Nam, mong can thiệp của Vatican với Hà Nội về chuyện đối xử với những tù binh chiến tranh Hoa Kỳ và vận động những chức
sắc Thiên chúa giáo ở Sài Gòn để mở ra một cuộc đối thoại với những người có cảm tình với Cộng sản ở Nam Việt Nam.
Giáo Hoàng Paul 6 vốn là một người chống Cộng quyết liệt trên bề diện bên ngoài, nhưng bên trong ngài thông cảm với vị trí hiện tại cũng như những mục đích của Tổng thống Johnson ở Việt Nam nên ngài công khai lên tiếng kêu gọi hòa bình và đối thoại, và có vẻ như ngài sẵn sàng làm bất cứ gì có thể làm được để giúp cho sự kết thúc cuộc
xung đột một cách chắc chắn, và ngài đã tính đến chuyện tổ chức lễ Giáng Sinh ở Sài Gòn vào năm 1968.
Tuy ủng hộ Tổng thống Johnson nhưng ngài muốn giữ một bộ mặt khách quan và không muốn bị coi như người ủng hộ cuộc chiến, đặc biệt đối với chuyện Mỹ ném bom ở Miền Bắc. Những
tài liệu được công bố ra vừa rồi đã cho thấy rõ điều đó.
Ước muốn của Giáo Hoàng Paul 6 về nền hòa bình được phản ảnh rõ trong văn thư của Vatican gửi cho tòa Ðại sứ Mỹ ở Rome và điều đó đã làm cho Tổng thống Johnson vui sướng muốn liên
lạc với Giáo Hoàng.
Bức văn thư nói rõ, "Ðức Thánh Cha quan tâm lo lắng nhiều đến những sự phát triển ở Ðông Nam
Á. Ngài hiểu được sức nặng cũng như sự tế nhị của hoàn cảnh và quan tâm sâu xa cũng như e ngại nó sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh toàn diện."
Tám tháng sau, Johnson và Giáo Hoàng gặp nhau tại văn phòng tổng thống nằm trong khách sạn Waldorf-Astoria ở New York. Ðây là nơi mà họ thảo luận lần đầu tiên thảo luận về "chuyện tìm kiếm hòa bình."
Vào tháng 5 năm 1966, trong khi gặp Giáo Hoàng, Ðại sứ Mỹ ở Việt Nam là Henry Cabot Lodge giải thích cho Giáo Hoàng nghe về chính sách của Washington về Việt Nam và sự tiến thoái lưỡng nan của Mỹ trong khi đàm phán với Miền Bắc. Ðại sứ Lodge phê phán Miền Bắc không thích gì đến chuyện đàm phán để giảm bớt sự thù địch căng thẳng.
Ðại sứ Lodge cho biết Giáo Hoàng quan tâm đến chuyện không có sự liên lạc giữa hai bên, ngài có vẻ hiểu " vấn đề thật sự là Hà Nội thiếu sự ước mong muốn có hòa bình hơn là chuyện không có đường dây liên lạc."
Johnson phấn khởi ra mặt nên trong tháng 7, ông viết thư cho Giáo Hoàng nói lên sự bực bội của ông về chuyện khước từ, cự tuyệt của Miền Bắc đối với sự đề nghị đàm phán của Mỹ. Tổng thống Johnson than vãn trong thư như thế này, "Những cố gắng của chúng tôi cho đến hôm nay đều không có kết quả."
Vào tháng 11, Johnson lại viết thư cho Giáo Hoàng nói rõ sự miễn cưỡng của Washington để có thể chấp nhận lời đề nghị của phía Bắc Việt Nam trong chuyện ngưng bắn vào dịp lễ Giáng
Sinh.
Bức thư có đoạn viết, "Tôi cảm thấy rằng... thật là điều tốt đẹp hơn cho mục đích của nền hòa
bình thế giới khi Mỹ có thể thông báo rằng Mỹ sẽ chấp nhận chuyện ngưng bắn nhân lễ Giáng Sinh như là một sự đáp ứng lời yêu cầu của Ðức thánh cha."
Vào đầu năm 1967, có lẽ như thông cảm nhiều với sự bất mãn của Tổng thống Johnson nên khi gặp Phó tổng thống Hubert Humphrey tại Florence, Giáo Hoàng Paul 6 đưa ra những lời đề nghị về cách thức làm thế nào để cải tiến bộ mặt của Mỹ ở Việt Nam và liên tiếp lập lại ý muốn của ngài là muốn tự nguyện làm nhiều chuyện cho Mỹ. Phó tổng thống Humprey sau này có kể lại như vậy.
Giáo Hoàng đề nghị là nên dùng những viên chức Miền Nam như là những phát ngôn viên quân sự thay vì dùng người Mỹ vì một người bình thường nhìn vào sẽ cho rằng " người Mỹ to lớn, mạnh mẽ là loại người độc ác và tàn nhẫn" với sự hiện diện đông đảo của người Mỹ trong quần chúng ở Sài Gòn. Humprey sau này đã viết lên điều đó.
Một thời gian ngắn trước lễ Giáng Sinh 1967, khi Tổng thống Johnson trở về Mỹ từ Úc, ông đã dừng chân ở Vatican để gặp gỡ Giáo Hoàng Paul 6 lần thứ hai.
Một lần nữa, Giáo Hoàng minh định sự ủng hộ của ngài đối với những mục đích của Hoa Kỳ trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của thế đứng trung lập của ngài, nhưng đồng thời ngài cũng
cảnh cáo Tổng thống Johnson là những chính sách của ông có nhiều rủi ro dẫn đến chuyện thất bại.
Giáo Hoàng nói, "Tôi phải tách rời vị trí của tôi với ông dù tôi rất hiểu ước mong tốt đẹp cũng như những hy vọng đẹp đẽ của ông." Tài liệu ghi lại cuộc đối thoại này mới công bố cho biết như thế.
"Tôi muốn xác định sự ủng hộ vững chắc của sự đồng ý của tôi với những ý hướng tốt lành của ông nhưng ông phải hiểu rằng tôi không bao giờ có thể đồng ý với chuyện chiến tranh," Giáo Hoàng nói như vậy với Tổng thống Johnson và hỏi ý kiến ông Johnson về chuyện ngài có thể nói với chế độ Hà Nội đang được Liên Xô bảo trợ
rằng Washington thật sự muốn hòa bình.
Johnson yêu cầu được giúp đỡ về một chiến thuật mới để khuyến khích Sài Gòn nói chuyện với những người thân cộng ở Miền Nam, với nỗ lực nhằm cắt đứt Hà Nội ra khỏi cuộc chiến, và rồi Giáo Hoàng nhận lời đáp ứng bằng cách gửi một đại diện để hỏi phía Bắc Việt Nam hãy tôn trọng những thỏa hiệp quốc tế về chuyện đối xử tù nhân Mỹ đang bị Bắc Việt giam giữ.
Giáo Hoàng Paul 6 còn nói thêm là ngài sẽ vận động những cấp lãnh đạo Thiên chúa giáo ở Sài Gòn để có được một cuộc đối thoại.
Vào đầu năm 1968, Johnson thông báo là ông không muốn tái tranh cử cho chức vụ Tổng thống nữa và cuộc xung đột Việt Nam bước sang một khúc rẽ mới tệ hại hơn cho Mỹ khi có sự thâm nhập của quân nổi dậy Cộng sản vào tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn trong cuộc chiến Tết Mậu Thân.
Trận chiến Mậu Thân đã phần nào dẫn đến chuyện khai mở Hòa Ðàm Paris vào tháng 5, nhưng Washington vẫn hướng đến Giáo Hoàng để tìm kiếm sự giúp đỡ trong chuyện muốn chấm dứt chiến tranh Việt Nam.
Giáo Hoàng Paul 6 hy vọng được đi thăm viếng cả Miền Bắc và Nam vào tháng 12 năm 1968 coi như bị dập tắt bởi sự từ khước của Hà Nội trước lời yêu cầu đi thăm của Giáo Hoàng, do đó dẫn đến chuyện hủy bỏ chuyến đi thăm viếng của Ðức thánh cha trong vị thế trung lập.
Vào cuối tháng 8, khi cuộc tranh cử tổng thống Hoa Kỳ giữa hai ứng cử viên Humprey và Richard Nixon đến hồi gay cấn nhất, những người phụ tá của Tổng thống Johnson quyết định bỏ đi vai trò dàn xếp của tòa thánh Vatican vì e ngại chuyện này sẽ có thể ảnh hưởng không tốt đến những cuộc đàm phán ở Paris.
Chính vì nhận lời của Mỹ để làm trung gian liên lạc với Cộng Sản Bắc Việt nên Giáo Hoàng Paul 6 đã có những hành động thân thiện với Bắc Việt và những hành động này làm những người chống Cộng bất bình và khó chịu. Khi đi thăm viếng Á Châu trong thời gian này, Giáo Hoàng Paul 6 đã không đến Việt Nam và Ðài Loan là hai quốc gia chống Cộng, có điều đau đớn hơn nữa là Việt Nam có tỷ lệ giáo dân Thiên chúa giáo đông thứ
nhì ở Châu Á, chỉ sau Phi luật Tân. Thêm vào đó, Giáo Hoàng đã tiếp đón Xuân Thủy là trưởng phái đoàn Cộng Sản tại Hòa đàm Paris trong khi từ chối không tiếp kiến Tổng thống Nguyễn văn Thiệu của miền Nam khi ông Thiệu công du Âu
Châu trong thời gian này, hơn nữa Thiệu lại là tín đồ Thiên chúa giáo nữa, thế mà Giáo Hoàng lại làm lơ với con chiên Nguyễn văn Thiệu dù Thiệu hết sức ao ước được triều kiến với Giáo Hoàng. (Có điều trớ trêu là sau 1975, Giáo Hoàng Paul
2 muốn công du Việt Nam nhưng lại bị Cộng Sản Việt Nam từ chối). Tất cả những chuyện làm như không viếng Ðài Loan và Việt Nam trong chuyến công du Ðông nam Á cũng như không tiếp Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn văn Thiệu mà lại tiếp Xuân Thủy phía Việt Cộng của Giáo Hoàng Paul 6 chứng tỏ ngài muốn ve vuốt Cộng Sản Bắc Việt để làm tròn vai trò trung gian thương thảo mà người Mỹ đã nhờ cậy ngài.
Nhà văn Phan nhật Nam đã nhạy bén nhìn thấy chuyện trái khoáy này và ông đã bày tỏ những nhận xét phê phán trong cuốn sách " Tù Binh và Hòa Bình" xuất bản trước năm 1975 của ông như sau:
"Trong cuộc viếng thăm của Ðức Giáo Hoàng Paul 6 vào Á Châu, cuộc viếng thăm Á Châu đầu tiên của một vị Giáo Hoàng Hội Thánh Công Giáo. Hội Thánh có một quá trình chống Cộng tích cực, hữu hiệu nhất. Ðức Thánh Cha đã không ghé thăm Ðài Loan và Việt Nam là nơi có tập thể giáo dân đông đảo với một hoàn cảnh bi thiết, nơi đất nước bị tàn phá khốc liệt bởi chiến tranh – Một xung đột hệ quả của những tư tưởng chính trị đối nghịch Tây phương, trong đó Giáo hội Công giáo mặc nhiên có ảnh hưởng lớn lên một phe. Ngài không vào hai nơi này để chứng tỏ tinh thần mới của Giáo hội, khai phóng từ đời cố Giáo Hoàng Gioan 23, sau Công Ðồng Vaticano 2, Công Ðồng mở màn cho kỷ nguyên tiến bộ, canh tân và hòa giải. Và người Cộng Sản là một trong những đối tượng lớn của cuộc hòa giải vĩ đại này... Vì "Chỉ
sau hơn năm mươi năm chế độ Cộng Sản đã chi phối và tác động lên trên 1500 triệu người của toàn cầu, trong khi đó Giáo Hội Công giáo sau gần 2000 năm truyền đạo cũng chỉ mới có 613 triệu tín đồ " (Báo Ðối Diện), thế nên vấn đề hòa giải với người Cộng sản không chỉ là một ý niệm canh tân trong phạm vi Thần học, Triết học mà còn là một hướng đi chiến lược của giáo hội...
("Tù Binh và Hòa Bình " trang 408 và 409)
Phan Nhật Nam cũng thẳng thắn phê phán Giáo Hoàng Paul 6 như sau: "Tại sao cả thế giới, tại sao cả những bậc đại trí đạo hạnh như Ðức Thánh Cha cũng vẫn bị nhầm lẫn.. Phải chăng đây là thời của hiểm độc và ngụy tín – Kẻ thành công là kẻ thực hiện hết cỡ xảo quyệt và gian dối – Ðúng, đây là thời đại của gian dối. Chỉ có thể hiệu như vậy."
("Tù Binh và Hòa Bình " trang 115)
Ðó là chuyện ngày xưa nhưng ngày nay thì Ðức Giáo Hoàng Paul 2 và tòa thánh Vatican cũng làm mất lòng những người Việt Nam chống Cộng khi không lên tiếng ủng hộ cuộc tranh đấu hào hùng và đầy chính nghĩa của Linh mục Nguyễn văn Lý ở Nguyệt Biều và An Truyền ở Huế. Cũng chỉ vì theo đuổi một chính sách hòa hoãn với bạo quyền Cộng Sản Việt Nam sau 1975 nên Tòa thánh đã ngần ngại không dám công khai lên tiếng hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh của Linh mục Lý. Làm như thế Tòa Thánh được cái lợi nhất thời là không làm mất lòng bạo quyền Cộng Sản trong thời gian hiện tại nhưng về lâu về dài lại cho mọi người thấy rõ chính sách hòa hoãn và dung dưỡng những chế độ tàn bạo, độc ác như chế độ Cộng Sản Việt Nam hiện nay. Ðúng như cố Tổng
giám mục Huế Nguyễn kim Ðiền có nói là Cộng Sản Việt Nam đang dùng chính sách thắt dây thòng lọng để siết cổ tôn giáo thì một thái độ hợp tác và hòa hoãn của Tòa Thánh với Cộng Sản Việt Nam có phải là một thái độ đáng phê phán và lên án hay không? Lịch sử sẽ phê phán nghiêm khắc những hành vi nhu nhược và đáng trách này của Tòa Thánh và người dân Việt Nam, lương cũng như giáo, sẽ mất nhiều thiện cảm với Tòa Thánh nhiều nếu trong lúc này Tòa Thánh không lên tiếng biểu đồng tình với tranh đấu cho tự do tôn giáo và quyền làm người của Linh mục Nguyễn văn Lý. Phận sự của Giáo Hội nói chung là truyền bá tôn giáo của mình nhưng cũng phải can đảm đứng về phía lẽ phải để lên tiếng phản đối các thế lực tàn ác, phi nhân đang từng giờ phút hủy hoại nhân phẩm và quyền tự do làm người của con người. Xiển dương cái tốt và phê phán cái xấu phải là con đường mà Giáo Hội Thiên chúa giáo Việt Nam và Tòa Thánh Vatican để phải đi kể từ hôm nay để tạo được sự kính nể không những đối với người dân Việt Nam mà cả toàn thế giới.
Ðã có nhiều dư luận đòi tách rời tôn giáo và chính trị nhưng tôn giáo và chính trị đều có những liên
đới đến cuộc đời nên cũng khó mà tách rời được. Ðức Thầy Huỳnh Phú Sổ ngày xưa cũng đã từng đưa ra lời nhận xét chí lý:
Ðời không đạo đời vô liêm sỉ
Ðạo không đời đạo biết dạy ai
Vấn đề của tôn giáo trong cuộc đời là dấn thân cho cuộc đời để cứu nước, cứu dân tốt hơn mà không bao giờ sa lầy trong cái chính trị bá đạo mà những chính trị gia chuyên nghiệp vẫn thường đeo đuổi. Ðức Phật ngày xưa cũng đã từng dạy, "Phật pháp bất ly thế gian pháp." cũng đã nói lên đạo pháp không thể xa lánh cuộc đời. Tôn giáo phải dấn thân tranh đấu cho đời nhưng không để cho bụi đời làm vẩn đục hướng đi hướng thượng giải thoát tâm linh của mình.
Cái khó là ở chỗ đó.
Lawndale, một chiều se lạnh đìu hiu đầu tháng 5-2001
TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG
Theo nguồn:
 http://danlambaovn.blogspot.com/2013/01/hiep-inh-paris-cu-lua-co-thuong.html#more

TRUNG QUỐC THỦ TIÊU NHỮNG CỘT MỐC BIÊN GIỚI CŨ VIỆT-TRUNG

TRUNG QUỐC THỦ TIÊU NHỮNG CỘT MỐC BIÊN GIỚI CŨ VIỆT-TRUNG



alt
 Hình Ảnh Chiến dịch thủ tiêu các cột mốc biên giới Việt Trung
Nhận thấy dư luận rất quan tâm về sự kiện thủ tiêu các cột mốc (cũ) phân chia biên giới Trung-Việt, là người đã đăng tải sự kiện kèm theo các hình ảnh đầu tiên trong bài viết “Từ lễ tế Mã Viện đến ngày Đảng CSVN cho Hai Bà Trưng mặc váy” (chuyên mục “Chuyện Phải Nói” của Diễn Đàn TGNV ngày 14.11.2010), Chân Mây sẽ trình bày rõ ràng hơn để giải tỏa các thắc mắc và ngờ vực về tính xác thực của sự kiện này. Những gì đang xảy ra…
 
alt
 
Mốc 18 trên Ải Nam Quan mà Đảng CSVN đã bịa đặt nên câu chuyện bị Trung Cộng cho xe tăng ủi nát trong chiến tranh biên giới. Thực tế của hình ảnh này cho biết mốc 18 vẫn còn tồn tại trong tấm ảnh chụp của quân Trung Cộng năm 1988.
 
alt
 
Mốc 19 tại Hà Giang (khu vực núi Đất, tức Lão Sơn) với sự chiếm giữ của quân đội Trung Cộng năm 1980.

Lãnh thổ bị chiếm đoạt nhưng Đảng CSVN và lực lượng “Quân Đội VN Anh Hùng” đã không dám kháng cự và năn nỉ qua nhiều năm xin đi vào đàm phán. Năm 1993, hai bên chính phủ CS Trung-Việt bắt đầu đi vào đàm phán các vùng “tranh chấp”. Đến ngày 30.12.1999, hai bên Trung-Việt hoàn thành 16 lần đàm phán và cho ra kết quả là bộ văn bản “Trung Việt Lục Địa Biên Giới Điều Ước” (中越陆地边界条约). Một phần nội dung “nổi” của văn bản này cho biết rằng có 227Km2 diện tích “tranh chấp” trên dường biên giới Trung-Việt được giải quyết sau đàm phán là …chia đôi: 113Km2 thuộc Việt Nam, 114Km2 thuộc Trung Quốc. Không khác gì văn bản dâng lãnh hải cho Trung Cộng của Phạm Văn Đồng vào năm 1953, những văn bản giải quyết đường biên giới lục địa Trung- Việt của Đảng CSVN là một trong nhiều vết dơ nhục nhã của Đảng CSVN chàm khắc lên tổ quốc của người Việt Nam và họ, những người người lãnh đạo Đảng CSVN, với kết quả giải quyết tranh chấp đường biên giới như trên vẫn vui mừng đặt thành “thắng lợi”. Khi bộ văn bản “Trung Việt Lục Địa Biên Giới Điều Ước” hoàn thành, hai bên Trung-Việt tiếp tục đi vào công tác giải tỏa các khu vực gài mìn, tức là những vùng đất biên giới trên lãnh thổ Việt Nam. Một cách tự nhiên, những vùng trong qui hoạch gỡ mìn được dựng bảng bằng tiếng Trung và người dân trong khu vực trở thành công dân Trung Quốc.
alt
 
Lực lượng công binh Trung Cộng đi vào lãnh thổ Việt Nam (Hà Giang) năm 2002 thực hiện chiến dịch gỡ mìn với sự đón chào niềm nở của Quân Đội NDVN Anh Hùng. Các chữ Trung văn trên đầu xe tải có thể đọc được là: “Vi Nhân Dân Bài Lôi…” (gỡ mìn cho nhân dân…). Nhân dân nào đây?
Lực lượng công binh Trung Cộng đi vào lãnh thổ Việt Nam (Hà Giang) năm 2002 thực hiện chiến dịch gỡ mìn với sự đón chào niềm nở của Quân Đội NDVN Anh Hùng. Các chữ Trung văn trên đầu xe tải có thể đọc được là: “Vi Nhân Dân Bài Lôi…” (gỡ mìn cho nhân dân…). Nhân dân nào đây?
 
 
alt
 
 
alt
 
alt
alt
 alt
 
alt
 
Các khu tử thần trên núi đồi Việt Nam (vùng Hà Giang) và vô số nạn nhân nay đang được chính phủ Trung Quốc bảo hộ.
 
“Trung Việt Lục Địa Biên Giới Điều Ước” đặt ra 1537 tọa cột mốc biên giới cần thiết lập trên 1347 Km tuyến biên giới Trung-Việt. Vào tháng 9 năm 2002, Cục Đo Đạc Quốc Gia Trung Quốc phái 39 nhân viên kỹ thuật thường trú đến 12 tọa điểm biên giới kết hợp với công binh chính quyền Vân Nam, Quảng Tây và chính phủ CS Việt Nam thực hiện công tác gỡ mìn. Tháng 11 năm 2005 sơ bộ hoàn thành, đến năm 2008 thì tuyên bố hoàn thành công tác gỡ mìn, phân giới, cắm mốc. Ngày 23.2.2009 đặt thành Lễ Hoàn Thành Phân Giới Cột Mốc Trung Việt (Chân Mây đã đưa tin qua bài “Đại Lễ Dâng Ải Nam Quan Cho Trung Cộng”). Tuy nhiên những điều đó chưa phải là chấm dứt. Vào ngày 14.07.2010, phía Trung Cộng tuyên bố các văn kiện phát sinh hiệu lực là “Trung Việt Lục Địa Biên Giới Khám Giới Nghị Định Thư” (中越陆地边界勘界议定书), “Trung Việt Biên Giới Quản Lý Chế Độ Hiệp Định” (中越陆地边界管理制度协定), và “Trung Việt Biên Cảnh Khẩu Ngạn Cập Kỳ Quản Lý Chế Độ Hiệp Định” (中越边境口岸及其管理制度协定). Theo nội dung pháp luật yêu cầu trong nội dung các văn kiện, thì việc trước hết là phải tiến hành bài trừ ngay tất cả các cột mốc cựu thời. Phía Trung Cộng phát lệnh bài trừ các cột mốc cũ bắt đầu tại đoạn Vân Nam, Hà Khẩu vào ngày 20.07.2010, tại đoạn này có tất cả 22 cột mốc đã được bài trừ, hiện tại được biết có các cột 15, 17, 21 đã mang vào lưu trữ vĩnh viễn tại Phòng Quản Lý Văn Vật Huyện Hà Khẩu (河口县文物管理所), số còn lại chuyển lên trung ương quản lý. Căn cứ theo tài liệu “Trung Pháp Điều Ước”, 22 cột mốc quốc giới Việt Nam-Trung Hoa tại đoạn Vân Nam được xây dựng trong 12 năm, từ tháng 8 năm 1885 cho đến tháng 6 năm 1897. Khi Trung Cộng tiến hành bài trừ, trên các cột mốc này vẫn còn rõ các chữ “Trung Hoa” và “An Nam”. Tiếp theo đoạn Vân Nam, vào ngày 10.08.2010 tỉnh Quảng Tây tuyên bố đã hoàn thành sứ mệnh bài trừ 33 cột mốc cũ, một nữa số do các địa phương sở hữu bảo tồn, nữa số còn lại phân chia vào quản lý tại Bảo Tàng Quốc Gia Trung Quốc (中国国家博物馆) và Bảo Tàng Quảng Tây (广西博物馆) Hàng trăm trang mạng, báo đài Trung Cộng đang truyền tải sự kiện, nhưng bên Việt Nam thì không ai được biết đến. Vì sao? Không cột mốc cũ nào còn nằm trên lãnh thổ Việt Nam! Đây chính là những chứng cứ không thể chối cãi cho việc mất đất ở biên giới, lãnh thổ bị xâm phạm, mất chủ quyền hàng chục năm và sự đê tiện của Đảng CSVN khi họ vẫn tươi cười bất chấp dư luận! Chân Mây đã lên diễn đàn Trung Cộng thăm dò và nhận các câu trả lời như sau: Hỏi: Ni Hao! Có thể cho tôi biết tại sao Chính Phủ Trung Quốc phải loại trừ các bia giới cũ vùng biên giới Trung-Việt? Đáp: Tồn tại các bia giới cũ là điều không thể chấp nhận được. Hỏi: Bia giới cũ vẫn còn giá trị lịch sử chứ! Đáp: Việt Nam cũng như Triều Tiên là phiên thuộc của Trung Quốc từ thời xưa, các bia giới không có giá trị. Ngay cả các cột mốc hiện tại cũng không có ý nghĩa phân chia quốc giới.… Không như cách trả lời thô thiển của tên Trung Cộng này. Một thực tế man rợ là Đảng CSVN cấu kết với Trung Cộng nhằm xóa mọi dấu tích của đường biên giới cũ! Tập hợp rất nhiều hình ảnh thu thập từ các trang thông tin, diễn đàn của Trung Cộng sau đây sẽ làm rõ hơn vấn đề. Những hình ảnh có ghi rõ địa chỉ cần tham khảo, tuy nhiên nếu bạn đọc cần thêm chi tiết xin vui lòng dán các chữ Trung Văn sau lên Google để kiểm chứng: – 中越拆除陆地边界旧界碑工作正式启动 (Trung Việt Sách Trừ Lục Địa Biên Giới Cựu Giới Bài Công Tác Chính Thức Khải Động: Trung Việt chính thức khởi động công tác tháo bỏ mốc bia giới biên giới đất liền) – 中国云南河口县辖区内的旧界碑开始拆除 (Trung Quốc Vân Nam Hà Khẩu Huyện Hạt Khu Nội Đích Cựu Giới Bài Khai Thủy Sách Trừ: Bắt đầu tháo bỏ bia giới cũ trong địa hạt huyện Hà Khẩu, Vân Nam Trung Quốc). – 中越边界拆除旧界碑 (Trung Việt Biên Giới Sách Trừ Cựu Giới Bài) – Hoặc tham khảo hình ảnh nhiều nhất tại diễn đàn sau (truyền tải từ ngày 03.11.2010):hongdou.gxnews.com.cn/viewthread-5538500.html
 
 
alt
 Mốc 15 tại Hà Giang
 
 
alt
 
alt
 
Mốc 17 tại Vân Nam (Hà Khẩu)-Hà Giang
alt
 
alt
 
“Tân Kinh Báo” (Quảng Tây) đưa tin tức ngày 13.08.2010
 
alt
 
Ảnh tham khảo: “Nhất xứ tam bài” (một nơi có 3 cột mốc) là hiện tượng sau các đợt đặt mốc quốc giới của hai bên Chính phủ CS Trung-Việt. Hình trên là giao giới Trung-Việt tại khu vực Đông Hưng, bờ bên kia sông là mốc mới của quốc giới Việt Nam (mốc 1325). Trên mỗi cột mốc xưa đều chia ra một mặt là Việt Nam, một mặt là Trung Quốc. Tình trạng của mốc mới tạo nên vùng đệm và rõ ràng lãnh thổ Việt Nam đã nằm ngoài đường biên giới xưa.
alt
 
Biên dân Việt Nam tham gia bài trừ cột mốc dược Trung Cộng gọi trìu mến là “đồng bào tôi ơi!”.
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
[IMG]Mốc giới mới (1050) và cũ “Trung Việt Quốc Giới, Khang Anh Ngoại Sách Số 5″ trên đỉnh Bình Cương Lĩnh nay thuộc Quảng Tây. Có cả mốc cũ bị đập bỏ![/IMG]
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
Tiêu mốc số 18 đoạn Quảng Tây-Việt Nam vẫn còn rõ hai mặt chữ “Đại Nam”, “Đại Thanh” và năm tạo lập là 1893.
 
alt
 Mốc “Đại Nam Quốc Giới” tại Phòng Thành-Quảng Tây
alt
 
alt
 
alt
alt
alt
 
Khu vực Quảng Tây: Có cái bị đập vụn, có cái bị chôn dưới đất nhờ dân địa phương chỉ điểm để đào lên. Trơ trọi chiếc lõi cột mốc trăm năm!
 
alt
 
alt

alt
alt
 
Việt Nam tham gia khuân vác cột mốc quốc giới dâng cho Trung Cộng
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
Đưa lên xe tải phi tang!
Chân Mây

-Trung Quốc nhổ cột mốc biên giới cũ
26/11/2010

Trung Quốc đào cột mốc biên giới với Việt Nam có từ thời nhà Thanh để đưa vào Bảo tàng.



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/f/fa/Carte_du_Tong-king_1879.JPG/300px-Carte_du_Tong-king_1879.JPG
Trung Quốc đang mở chiến dịch tháo dỡ toàn bộ các cột mốc bên giới cũ theo Hiệp định Pháp – Thanh năm 1887, hiện nay đang nằm sâu trong lãnh thổ Trung Quốc, chiến dịch này đã được chính quyền Trung Quốc phát động vào ngày 20/07/2010. 
Hàng loạt những cột mốc lịch sử quốc giới Việt – Trung có từ hàng trăm năm nay đã bị chính quyền Trung Quốc tất bật tháo gỡ đưa vào các bảo tàng lịch sử địa phương mà họ gọi là chiến dịch “bài trừ các mốc biên giới cũ”. 
Mốc số 17 (đoạn Vân Nam-Hà Khẩu)




Cột mốc “Đại Nam Quốc Giới” tại Phòng Thành, Quảng Tây 


Trung Quốc cho đào, khuân vác dời cột mốc quốc giới Viêt – Trung đem về bảo tàng…