MỘT TRONG NHỮNG LỜI LÊN TIẾNG CỦA MỘT NGƯỜI « BÊN
THUA CUỘC »
NGUYỄN THIẾU NHẪN
LTG : Tiến sĩ Vũ Thị Phương Anh, một người tự nhận
là « bên thua cuộc » là người sớm sủa nhất đã lên tiếng khi đọc sách
« Bên Thắng Cuộc» những dòng như sau :
« … Những thông tin trong cuốn sách
không làm tôi xúc động – vì chắc chắn các chi tiế tmà tôi có thể kể ratừ kinh
nghiệm cá nhân còn lâm ly và kỳ bí hơn
nhiều – mà chỉ làm tôi thắc mắc, không biết bao giờ thì những người anh em thắng
cuộc mới thực sự hiểu đầy đủ những người thua cuộc, và ý thức rõ những điều phi
nghĩa, phi nhân mà họ đã làm đối với những người anh em kém may mắn của
họ ».
Và bà
đặt câu hỏi :
« Bao giờ thì « bên thua cuộc » sẽ
viết lại lịch sử ? ».
Xin thưa,
ngay từ khi được đặt chân đến các đất nước tự do, những người của « Bên thua cuộc » đa số là các cựu tù nhân của
những cái gọi là « trại cải tạo » - của « bên thắng cuộc »
lập ra để giết lần mòn và tinh vi « những người bên thua cuộc » - đã viết lại lịch sử cuộc chiến Việt Nam.
Đó là
những hồi ký viết bằng máu và nước mắt, có tên « Đại Học Máu »,
« Trại Kiên Giam », « Những Trại Biến Hình »…
Đó là
hàng ngàn câu chuyện về những cảnh đời mà « những người tù cải tạo » đã
viết lại từ những đáy cuối đời gió bão ;
Đó là lịch
sử ngàn người viết về thảm cảnh vượt biển mà hàng trăm ngàn người đã làm mồi
cho cá nơi thủy mộ quan ;
Đó là
hàng vạn bài thơ của những người tù đã cất lên từ những hố thẳm nhân gian…
Bài viết
sau đây chỉ là một trong muôn ngàn lời lên tiếng của những người « bên
thua cuộc ».
*
Gần đây, trên các Diễn Đàn, thấy phổ biến
rộng một tài liệu video của INA (Viện Quốc Gia Pháp tồn trữ tài liệu Âm thanh
và Hình ảnh): Hồ Chí Minh trả lời
phỏng vấn bằng tiếng Pháp, tháng 6, 1964.
Rất nhiều người Việt ở Pháp được nghe nói đến
Nguyễn Ái Quấc là tác giả cuốn « Le procès de la colonisation
française « (Bản Án chế độ thực dân Pháp) xuất bản năm 1925 (1926,
theo bản lưu trữ ở Đại Thư Viện Quốc Gia, Paris).
Trong Hồi
ký Trần Dân Tiên do Hồ Chí Minh viết để tự bốc thơm, tác giả
ghi : « Ông Nguyễn chỉ
viết một quyển sách duy nhất là quyển « Bản án chế độ thực dân
Pháp » ; quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích
trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia »
(trang 37).
Thuỵ
Khuê
đã sưu khảo văn bản cùng nội dung và kết luận chắc nịch là Hồ Chí Minh chưa đọc
quyển Bản Án chế độ thực dân Pháp. Nói gì đến là tác giả ?
Không mấy khi có dịp nghe Hồ Chủ tịch mến yêu
trả lời bằng tiếng Pháp, ta cũng nên nghe qua để thưởng thức trình độ siêu-Việt
của Người.
Thật là thất vọng ! Vì những lỗi Pháp
ngữ vô số, những lỗi văn phạm sơ đẳng. Làm sao với khả năng chừng đó mà có thể
viết được cuốn «Le procès de la colonisation française ?? ».
Thêm một huyền thoại tan vỡ. Ô hô !
Than ôi cho Đảng. Than ôi cho những người trong
nước còn chưa biết là đã bị bịp.
Đề nghị vị nào rành Pháp ngữ xin dịch ra Việt
ngữ để bà con ta thưởng thức « trình độ ngoại ngữ » của
« Bác » Hồ.
HCM,
Nguyên văn phỏng vấn và trả lời bằng tiếng Pháp
Est-ce
que vous pensez, Monsieur le Président, qu’il y a une solution militaire à la
guerre du Sud Viêt Nam ?
Non,
parce que ah, vous savez bien que le peuple Viêt Nam, c’est un Un, et le pays
du Viêt Nam, c’est Un. Les Américains veulent faire une guerre d’agression, comme
qu’ils disent, une guerre non déclarée. Comme vous savez aussi, vous avez pu
lire dans la presse mondiale, que plus la guerre prolonge, plus les Américains
et leurs valets, comment dire ça, (se tournant vers quelqu’un à côté), sa lầy…
s’enliser… et plus, ils supportent des échecs comme vous savez là récemment.
Par
conséquent, la guerre ne peut pas durer éternellement, et je suis très heureux
que les politiciens haut placés français ont reconnu cela.
Vous
pensez que le général de Gaulle pourrait en quelque sorte, à un certain moment,
arbitrer le conflit ?
Arbitrer !
Qu’est-ce que vous comprenez par le mot arbitrer ? Nous ne sommes pas des
équipes de foot ball. Rire et ricanement.
Au-delà
des Accords de Genève si je ne me trompe, une idée du général de Gaulle est la
neutralisation de tout le Sud-Est Asiatique. Est-ce c’est une idée qui vous
paraît intéressante ?
Comme
j’ai déjà dit quelquefois, c’est une idée intéressante, mais ça dépend la
volonté de ces peuples, et… la manière comment on procède.. à la réaliser.
C’est
une grande question.. et je ne peux pas dire que je suis d’accord,…je ne dis
pas que je ne suis pas d’accord, n’est-ce pas ? Parce que.. vous dites fleurs, fleurs ;
il y a beaucoup de sortes de fleurs, il y a des roses, des blanches, des
rouges, des fleurs qui sentent bon,
d’autres qui ne sentent pas bon… , mais on dit fleurs, n’est-ce pas ?
Monsieur
le Président, nous avons constaté avec chagrin au cours de notre voyage au Nord
Viêt Nam, que l’influence française est devenue à peu près inexistante dans
votre pays. Les moins de 25 ans ne comprennent plus du tout le français. Et je
me demande si, à votre idée, des rapports peuvent se rétablir tels que la
France continue à jouer… une sorte de
rôle culturel ?
Avec la
France surtout, et avec tous les autres pays, nous voulons avoir une
coopération amicale, culturelle, économique, etc… , mais je suis sûr que vous
ne voulez pas avoir, n’est-ce pas, que
la France ait l’influence qu’elle avait avant, … c’est une autre chose … mais
coopération culturelle, économique, qu’est ce qu’il y a encore ?, sportive
par exemple, etc…etc… nous, nous désirons.
Si la
guerre se cristallise au Sud et se poursuit encore pendant quelques années,
pensez-vous que l’avenir économique du Nord Viêt Nam soit viable ?
Je
suis sûr que ça non seulement viable, mais ça progresse. Parce que vous avez vu
vous-même, vous avez constaté vous-même que, ici, nous travaillons beaucoup,
notre peuple travaille beaucoup, avec abnégation, n’est-ce pas ?, et avec
dévouement, avec enthousiasme.
D’un
côté, nous travaillons pour…, comment dirais-je, pour principalement, n’est-ce
pas, de nos propres forces, et aussi nous avons l’aide fraternelle des pays
socialistes.
Jusqu’ici,
nous avons déjà réalisé des progrès, pas tant comme nous le voulons, nous avons
réalisé des progrès et dans l’avenir, nous progressons nous-mêmes.
Vous
mentionnez là l’aide des pays socialistes. Est-ce que cette aide ne s’est pas
trouvée légèrement compromise à la suite du conflit idéologique entre la Russie
et la Chine ?
Non,……
parce que ces questions, n’est-ce pas, n’est pas différence idéologique entre
nos différents partis-frères, c’est nos affaires intérieures ; ça passera
et l’union…l’unité, ça se fera. Mais l’aide fraternelle continue, continuera,
c’est très précieuse pour nous.
Certains
ont l’impression chez nous, Monsieur le Président, que le Nord Viêt Nam se
trouve actuellement assez isolé, asphyxié même, et, politiquement , il ne
pourra difficilement éviter de devenir une sorte de satellite de la Chine.
Qu’est-ce que vous répondez à ça ?
JAMAIS !! (Comme un cri)
Nguyễn Ngọc Quỳ
Paris, 5-4-11
*
Chuyện « Bác » Hồ
« thuổng » thơ, « mượn » văn của người khác làm của mình là
chuyện bình thường, giống như Đảng và Nhà Nước ta vừa qua đã dùng « luật
rừng » để xử Tiến sĩ luật Cù Huy Hà
Vũ 7 năm tù và 3 năm quản chế.
Khi ra đi tìm đường cứu nước,
« Bác » Hồ đã viết « Bản
án chế độ thực dân Pháp »; để xứng đáng là «hậu duệ » của
« Bác » Hồ, chúng tôi xin
viết « Bản án chế độ Cộng Sản
Việt Nam (CSVN) ».
« Bản án chế độ CSVN » được y cứ vào
các sách vở, những việc làm của những người lãnh đạo Đảng CSVN từ « Bác Hồ »
đến « những hậu duệ của « Bác » hiện nay.
Bản án này gồm 4 cáo trạng :
I.
CÁO TRẠNG SỐ 1 :
Bản án của chế độ CSVN bắt đầu từ Chiến Dịch
Cải Cách Ruộng Đất phát động từ thập niên 1950, được tổ chức tinh vi qua chính
sách « THUẾ NÔNG NGHIỆP » là một hình thức đầu tiên của Cải Cách
Ruộng Đất. Khi chính sách thu thuế thành công, nghĩa là mọi người giàu cũng như
nghèo đều không còn ai đủ tiền, đủ thóc để đóng thuế thì «Bác» Hồ đưa tới «đấu
tranh chính trị». Có nghĩa là xã tập họp dân tới hội trường đã có để sẵn thừng,
hèo, gậy và những dụng cụ tra tấn khác.
«Những
người thiếu thuế không kể ít hay nhiều, đều bị bắt, điệu ra trước hội nghị và
tra tấn không phải để biết tại sao không
nộp được thuế, mà chỉ cần biết kẻ nào đã xúi dục không nộp thuế. Chủ tịch cuộc
họp không hỏi lơ mơ : «Ai xúi mày không nộp thuế ?» mà hỏi một cách
rõ ràng : "Có phải thằng Ất xui mày không nộp thuế, phải
không ? Nói mau! » và tức khắc đánh đập, kềm kẹp, tra tấn cho
đến lúc nạn nhân chịu không nổi, đuối sức, chỉ khẽ gật đầu. Nếu không gật đầu,
nạn nhân có thể bị tra tấn suốt đêm đến chết… Hễ nạn nhân gật đầu tỏ ý là tên
Ất nào đó đã xui không nộp thuế thì những người này bị bắt tức khắc. Sự thực
thì những người này đã được VC ghi tên trong sổ đen; chủ tịch buổi họp chỉ việc
chọn lựa từng tên một rồi tra tấn những người thiếu thuế bắt phải khai đúng tên
những người trong sổ, để sẵn trước mặt.
Những
người bị khai - nói đúng hơn là bị buộc tội xui không nộp thuế - bị tra tấn một
mức gắt gao hơn và phải trả lời câu hỏi: « Mày ở trong tổ chức phản động
nào ? Và trong tổ chức phản động của mày có thằng (Bính, Đinh)
không ? Về câu hỏi thứ nhất thì người bị tra khảo có thể bịa ra bất cứ
đảng phái nào. Có người tự nhận là đảng Việt Gian. Và có một nông dân quýnh
quá, nghĩ không ra đảng, khai ngay là «Đảng Cộng Sản» vì từ bé anh ta chỉ nghe
nói lờ mờ có «đảng Cộng Sản», không rõ là cách mạng hay phản động. Về câu hỏi thứ
hai thì người bị tra hỏi không được khai lung tung, phải khai đúng tên mà chủ
tịch hội nghị đã mớm.
Tất cả
những người « phản động » có tên trong sổ đen lần lượt bị khai, bị
bắt và bị tra tấn. Họ thuộc đủ thành phần, không cứ giàu nghèo, và sự thật cũng
không phải « phản động » (nói đúng ra thì phần đông họ chỉ có thái độ
« lưng chừng ». Đối với CS thì « lưng chừng» cũng nặng tội như
phản động).
«Anh em ta quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung
tử thù
Địa hào, đối lập ra tro
Lưng chừng, phản động đến
giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp
đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng
đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống đọa đày
chết thôi».
Xin thưa những câu thơ sắt máu trên chính là của nhà thơ Xuân Diệu đã
làm theo lệnh Đảng vì Đảng quyết tâm đánh tan xương những phần tử phản động và
lưng chừng vì hài cốt họ không còn nguyên vẹn sau khi bị đánh chết.
« Nói về việc tra tấn
thì thường có mấy phương pháp điển hình xã nào cũng áp dụng:
Nạn nhân phải quỳ, hai tay
giơ lên đỡ một thùng đá đặt ngay trên đầu.
Nạn nhân bị treo hai chân,
hoặc hai tay vào một sợi thừng sắt qua xà nhà. Một lúc lại kéo lên, kéo xuống,
vừa đánh vừa hỏi, thỉnh thoảng buông rơi « cái bịch».
Sự thật về miền Bắc như thế
đó. « Bác » Hồ đã cho lập sổ đen, phân loại dân chúng thành bần cố
nông, phú hào, điạ chủ v.v… để tiêu diệt những người đó từ năm 1950.
Và người cha là một cụ đồ ở ngoại thành Hà Nội đã phải cúi đầu nhận tội
với con gái của mình trong một cuộc đấu tố qua diễn tả của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện như sau :
« Được nghe bà kể khổ
Con thấy đời con thực là
đáng chết!
Con đã đi bóc lột nuôi bà
Con bây giờ không dám nhận
là cha
Dù bà là do con đẻ ra
Con, thành phần địa chủ thối
tha
Trước nhân dân, trước Đảng
Xin thành khẩn cúi đầu chịu
tội ».
Đó là lời một cụ đồ ở ngoại
thành Hà Nội
Trước đấu trường giăng giối
với con.
Và khi nhuộm đỏ miền Nam, CSVN cũng đã áp dụng cùng một chính sách như
miền Bắc, nhưng tinh vi hơn.
Sau 61 năm cai trị miền Bắc bằng Cải Cách Ruộng Đất và 36 năm cai trị
miền Nam bằng hình thức « tắm máu trắng» với các thủ đoạn Tập Trung Cải
tạo « ngụy quân, ngụy quyền », vùng Kinh Tế Mới, đánh Tư Sản Mại Bản,
« xuất cảng » người để lấy vàng qua hình thức bán bãi vượt biên, CSVN đã hoàn thành chỉ
tiêu:
-Lưu manh hóa xã hội ;
-Bần cùng hóa nhân
dân ;
-Nô lệ hóa con người
Như chính cố đảng viên cao cấp của CSVN là Trần Độ đã nhận xét như
trên.
Đây chính là tội ác tày trời của đảng CSVN vì đã dùng biện pháp ĐẤU TỐ
TRONG CHIẾN DỊCH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, CON « ĐẤU » CHA, VỢ «TỐ» CHỒNG
biến dân tộc Việt Nam trở thành những con người hèn hạ, sợ sệt, vô cảm cam tâm
cúi đầu sống kiếp nô lệ, không được hưởng
tự do, dân chủ và nhân quyền vốn là những quyền mà họ phải được hưởng.
II. CÁO TRẠNG SỐ 2 :
Để phát động phong trào Cải Cách Ruộng Đất, “Bác” Hồ tổ chức các lớp “Chỉnh Huấn” rất chu đáo, học viên sau
nhiều lần bàn cãi gay go và được chính “Bác” Hồ đích thân giải đáp thắc mắc, đã
nhất trí nhận định rằng:
Địa chủ Việt Nam luôn luôn
cấu kết với Đế quốc Pháp, địa chủ và đế quốc đều là kẻ thù, phải tiêu diệt cả
hai.
Đó là để thực hiện khẩu hiệu của
đảng Lao Động Việt Nam: đưa Phản Phong
lên hàng Phản Đế do Hồ Chí Minh
mang về từ Trung Quốc từ năm 1951, mà đến năm 1953 mới thực hiện được.
Theo Mao Trạch Đông, “phản
phong” nghĩa là “tiêu diệt giai cấp địa chủ”, “phản đế” là “chống thực dân
(Pháp)”.
Khi “nhân dân” đã nhận định “địa chủ” là kẻ thù, thì kẻ thù phải đền
tội.
Xứ sở “Bác” Hồ 60 năm trước vốn là một xứ sở văn minh, luật pháp phân
minh chứ không như vào năm 2011, có con mụ Ngô
Bá Thành, Tiến sĩ Công pháp Quốc tế, theo đảng ta mà không được trọng dụng
nên đã giở giọng thù nghịch mỉa mai: "Việt
Nam có một rừng luật nhưng xài toàn luật rừng!”
Báo Nhân Dân số xuất bản ngày 2 tháng 2 năm 1956 ghi rõ thành tích vĩ
đại của “Bác” Hồ và là bằng chứng của Đảng kể tội bọn địa chủ như sau:
“Ở xã Nghĩa Khê, thuộc tỉnh
Bắc Ninh, bọn địa chủ tổ chức mấy em thiếu nhi đi ăn cắp tài liệu, ném đá vào
các cuộc họp của nông dân. Ở Liễu Sơn, chúng dùng một em thiếu nhi đi đốt nhà
khổ chủ, nhưng bà con nông dân kịp ngăn được. Thâm độc hơn, ở Liễu Hà chúng cho
mấy em thiếu nhi ăn bánh chưng có thuốc độc, làm mấy em ngộ độc suýt chết. Ở
Vân Trường chúng dụ dỗ em Sửu, rủ hai em gái nữa nhảy xuống giếng để gây hoang
mang trong thôn xóm. Ở Đức Phong (Hà Tĩnh) chúng mua bài tú-lơ-khơ (bài Trung
Cộng mang sang) cho các em mãi chơi, bỏ trâu ăn lúa phá hoại mùa màng…”.
(Nếu so sánh với “vụ án 2 bao cao su dùng rồi” đối với Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ do báo Đảng loan tải vào
năm 2011, thì đâu có mùi mẽ gì so với việc làm của “Bác” Hồ trong Chiến Dịch
Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) cách đây 60 năm).
Cán bộ CCRĐ bắt vợ địa chủ phải khai từ trước đến giờ đã thâu thuế quá
cao, nghĩa là đã thiếu nợ nông dân, phải trả ngay tức khắc, hoặc bị bắt buộc ký
giấy nợ rồi hẹn trả từ từ.
“Một cách tống tiền khác là
bắt vợ địa chủ lôi đi biểu diễn khắp làng, mỗi tay mang một bãi phân bò tươi,
cổ đeo một tấm biển lớn đề: “Tôi là địa chủ ngoan cố”. Nếu bà có con mọn thì
chắc chắn là hai mẹ con phải bị giữ ở hai nhà để con không được bú và mẹ bị
căng sữa, trong một thời gian rất lâu. Nếu con đã lớn thì mỗi đứa cũng phải giữ
ở một nơi và đứa nào cũng bị dọa nạt cho tới khi chúng công khai - đúng hoặc
không đúng - những nơi cha mẹ chúng chôn giấu của cải. Trẻ con non gan nên
thường khai lung tung. Mặc dầu, hễ chúng khai chỗ nào là lập tức cốt cán đưa
cuốc, bắt mẹ chúng đào chỗ ấy. Công cuộc “đào mỏ” này có thể kéo dài hàng
tháng, nên nền nhà địa chủ gần như không còn chỗ nào không đào tới. Nhiều nông
dân, sau đấu tố, được lãnh nhà địa chủ để ở thường không có phương tiện để sửa
sang lại nền nhà cho bằng phẳng”.
Trong chiến dịch CCRĐ, khi một người bị kết tội là địa chủ thì phần
đông họ đều bị đuổi ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng và vài mảnh áo rách. Rồi
tiếp theo là “lễ truất hữu tài sản” của họ được tổ chức rất trọng thể. Sau đây
là một bài báo tả buổi tịch thu tài sản đăng trong báo Cứu Quốc số 2741, ngày 1
tháng 1 năm 1956:
“Nông dân thôn Thượng rùng
rùng kéo đến nhà tên Phong (địa chủ). Cờ phơi phới. Tiếng trống thiếu nhi rồn
rập. Những tiếng hô khẩu hiệu “Đả đảo” và “Hoan hô” không ngớt.
Giữa sân lù lù một đống cày
cuốc, ô doa, liềm hái, thúng mủng cho tới nồi ba mươi, nồi mười, mâm đồng, chậu
thau… hàng dẫy. Quanh sân những cây hải đường, cây mẫu đơn rực rỡ.
Đồng chí cốt cán gọi vợ tên
Phong (có lẽ tên Phong bị đi tù hoặc bị xử tử rồi). Đồng chí nhân danh Nông hội
tuyên bố tịch thu tài sản của nó.
Tiếng đấu tranh của nông dân
mỗi lúc càng gay gắt, như không thể chấm dứt. Quanh đó đồng bào đứng hàng
trong, hàng ngoài. Đồng chí cốt cán tuyên bố, vạch rõ cho con mẹ địa chủ thấy
đời nó, đời cha, đời ông nó không lao động chuyên bóc lột, chiếm đoạt mới có
những của này. Của này là của nông dân. Con mẹ địa chủ mặt tái mét. Cả người nó
run run. Đồng chí dõng dạc tuyên bố xóa bỏ hẳn tất cả quyền chiếm hữu gồm 24
mẫu ruộng và toàn bộ tài sản của nó. Tiếng vỗ tay ran lên “Hồ chủ tịch muôn
năm!”, “Hoan nghênh chính sách tịch thu, trưng thu, trưng mua của Đảng và của
Chính phủ!”.
Hàng đoàn thanh niên nam nữ
quẩy những gánh thóc từ nhà ngang qua sân. Hai con trâu cũng vừa dắt ra. Tiếng
vỗ tay, tiếng hoan hô vang dậy. Bà con thu xếp quẩy đồ đi. Khiêng, vác, gánh lũ
lượt. Tiếng trống ếch thiêu nhi càng ròn rã”
Và, có lẽ không lời cáo trạng nào hùng hồn hơn lời cáo của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, người tù 27 năm vì
tội làm thơ chống chế độ, với bài thơ “Từ
buổi Đảng về”:
“Từ
buổi Đảng về họ mạc tới thăm
Do
thông cảm chỉ ngồi chơi chốc lát
Miếng
thịt miếng thà bỏ rơi đũa bát
Trẻ
già khao khát tháng năm!
Con
chó, con mèo mất tích mất tăm
Vì đâu
nông nỗi?
Chiếc
kéo Đảng dùng cắt tem phân phối
Gạo
ngô từng lạng từng cân
Đã cắt
nhỏ tình thân cốt nhục
Manh
áo, niêu cơm, cuộc đời rữa mục
Vợ
chẳng cậy chồng, con chẳng cậy cha
Mẹ
hiền đành ôm bụng tống thai ra
Giỗ
Tết nói chi chuyện người trong mả!
Chao
ôi, buồn tất cả
Mất cả
rồi những bản tình ca
Những
điệu ru trìu mến thiết tha
Gắn bó
với ta từ hồi ẵm bú.
Trẻ
con đói chột còi lam lũ
Còn
đâu bi, đáo khăng, cù
Tiếng
sáo diều vời vợi chiều thu
Chỉ
còn là âm hưởng vi vu thời xa cũ
Luyến
tiếc, than van đi tù lượt lũ
Thiếu
chi rừng rú hoang vu
Để đất
vàng sao cùng ánh sáng Mùa Thu
Dựng
những trại tù làm trụ!
Ôi từ
buổi Đảng về làm chủ
Khổ
nhục chất chồng không thể đo cân!
Cụ Mác
ơi, mỉa mai và quá đủ!
Con
chuột mà có dịp tháo thân
Cũng
ba cẳng bốn chân
Chạy
khỏi cái thiên đường của cụ!”
III: CÁO TRẠNG SỐ 3 :
Vụ xử án ngày 4-4-2011 kết tội Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ 7 năm tù và 3 năm quản chế khiến nhiều nước trước thế
giới lên tiếng phản đối thực ra đã là “một
bước tiến bộ vượt bực” của luật pháp chế độ cộng sản Việt Nam.
Xin mời độc giả xem lại cảnh “Tòa án Nhân Dân” của “Bác” Hồ xử tội điạ chủ trong Cải Cách Ruộng Đất cách đây 60 năm để
thấy mạng sống của người dân Việt Nam rẻ như bèo ra sao:
“Tòa gồm có một chánh án,
vài thẩm phán và một số công cáo ủy viên nhưng không hề có người biện hộ cho bị
cáo. Tòa xử theo “biên bản cuộc đấu” và không cho bị cáo tự bào chữa.Bồi thẩm
đoàn cũng gồm toàn nông dân đã làm chủ tọa đoàn trong cuộc đấu tố.
Những người bị kêu án tử
hình bị bắn ngay sau khi tuyên án và hố chôn đã đào sẵn, trước khi tòa nhóm
họp. Hồi đầu, những người bị xử tử hình được phép tuyên bố vài lời trướckhi bị
bắn, nhưng sau khi một người một người, trước khi chết, hô to: “Hồ Chí Minh muôn năm! Đảng Lao Động muôn
năm!” thì thủ tục “tư sản” này bị bãi bỏ.Từ đó về sau, hể tòa tuyên án thì
tức khắc cán bộ đứng sau nạn nhân nhanh tay nhét giẻ vào miệng rồi lôi đi. Một
điều đáng thương cho những người bị hành quyết là những tự vệ xã cầm súng bắn
phần nhiều mới cầm súng bắn lần đầu, nên bắn trật bậy bạ. Nhiều nạn nhânbị lôi
đi chôn chưa chết hẳn. Những cuộc xử bắn điạ chủ bao giờ cũng tổ chức thành
biểu tình. Công chúng vỗ tay hoan hô khi nạn nhân ngã gục dưới lằn đạn” (Từ Thực Dân Đến
Cộng Sản, trang 254).
“Biên bản cuộc đấu” để kết án tử hình nêu trên được lập ra do một cuộc
đấu diễn ra ở mỗi thôn làng miền Bắc từ năm 1953-1956 như sau:
“Mỗi cuộc đấu tố đều tổ chức
ngoài trời, thường là sân banh. Dân mỗi làng ngồi trong một khoảng đất có vạch
vôi trắng làm giới hạn. Khán đài làm bằng gỗ và tre, cao ba từng. Từng dưới có
14 “thư ký” ngồi, 13 người là bần cố nông chỉ ngồi làm vì, một người là trung
nông, biết đọc, biết viết, ngồi hí hoáy. Từng trên là chủ tọa đoàn gồm 7 bần cố
nông trong số đó có chủ tịch nông hội làm chủ tọa cuộc họp và một phụ nữ đóng
vai công an trưởng. Người đàn bà này chỉ huy tự vệ xã, và cứ 5 phút lại hò hét,
ra lệnh cho người bị đấu đứng trước khán đài phải quỳ xuống, đứng lên, dơ tay
lên trời, khoanh tay trước ngực, giang tay ra hai bên v.v…Trên từng cao nhất
của khán đài treo ba bức ảnh khổng lồ, Hồ
Chí Minh ở giữa, Malentov bên
phải và Mao Trạch Đông bên trái. Đội
Cải Cách Ruộng Đất nấp phía sau khán đài để nhắc và ra lệnh cho chủ tọa đoàn.
Đôi khi có cố vấn Tàu mặc quần áo Việt cùng ngồi với họ.
Để chuẩn bị Cải Cách Ruộng Đất, “Bác” Hồ cho cán bộ, đảng viên đi học
khoá chỉnh huấn. “Bác” dạy là phải dựa vào Liên Sô, Trung Quốc để giành độc
lập. Nhiều đảng viên thắc mắc tại sao phải liên kết với các nước Xã Hội Chủ
Nghĩa? Họ viện dẫn rằng nhiều nước như Ấn Độ, Indonesia chẳng cần liên kết với
khối nào mà vẫn kiện toàn được độc lập. Hơn thế nữa, vì họ đứng trung lập giữa hai khối nên cả hai
đều phải kính nể họ. Vì giảng viên không “đả thông” nỗi nên “Bác” Hồ phải đích
thân đến thuyết phục từng người. “Bác” gọi những nước trung lập là những nước“làm đĩ chính trị”. Khi giảng cho cả lớp, “Bác” Hồ nói:
“Đối với những chú không dứt
khoát tư tưởng, còn đang lưng chừng thì tôi khuyên nên dứt khoát ngay từ bây
giờ; một bên là tổ quốc, một bên là quân thù. Chú nào muốn “dinh tê” thì xin cứ
việc. Công an địa phương sẽ cấp giấy ngay tức khắc”.
Bởi vậy mà trong mười ngày học tập về Cải Cách Ruộng Đất, lúc đầu học
viên còn thảo luận sôi nổi, nhưng cuối khoá họ ngoan ngoản chấp thuận luận điệu
của Đảng, để may ra sau này mình còn được xếp vào hàng “địa chủ kháng chiến”
như Đảng bảo đừng hoảng sợ. Là những “địa chủ” đi theo Đảng lâu năm nên họ biết
rằng thái độ khôn ngoan hơn cả là đứng về phía Đảng, nên cuối cùng tất cả đồng
ý với Trường Chinh về Cải Cách Ruộng
Đất nên đứng lên tự mình… đả đảo mình, họ hô to “Đả đảo địa chủ”.
Và như mọi người đều biết, chính
Trường Chinh Đặng Xuân Khu đã đem
cha mẹ mình ra mà tố.
Và nhà thơ Xuân Diệu, đã
thay những lời thơ thấm đẫm tình yêu bằng những lời thơ sắt máu:
“Ai về Bố Hạ
Nhắn vợ chồng thằng Thu (1)
Rằng chúng bây là lũ quốc
thù!”
Và hãy nghe nhà thơ Lưu Trọng Lư,
từ “con nai vàng ngơ ngác/ đạp trên lá vàng khô” tự lột xác biến thành “con sói
ngu ngơ” của chủ nghĩa cộng sản:
“Cha đời địa chủ gian tham
Không cho người ở học hành
ấm no
Tháng ngày bắt giữ trong nhà
Chào cờ không biết, cụ Hồ
nào hay
Bây giờ Đảng đã về đây
Chúng tôi do Đảng cầm tay
dắt dìu
Nông dân theo Đảng quyết
liều
Đấu cho ngã gục đổ nhào
chúng đi!”
*
Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam do ông Hồ Chí Minh đem về áp đặt cho đất
nước Việt Nam dựa trên sự khủng bố và
giả dối.
Chính Nguyễn Khắc Viện, một
lý thuyết gia mác-xít gạo cội của chế độ đã phải nhìn nhận rằng người Cộng Sản
bị phân đôi:
“Ngồi với nhau thì trao đổi
chân thật, thì nói một đàng; mà khi họp lại bàn bạc, viết lên báo chí thì lại
nói một nẽo. Trong mỗi người Cộng Sản có hai con người: con người thật và con
người giả. Làm sao có thể xây dựng một xã hội mới với con người giả. Làm sao có
thể xây dựng một cái gì tốt đẹp và bền vững trên một nền tảng giả?”
*
“Tôi đã bỏ ra trên 50 năm để
đánh đuổi thực dân, dành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Nhưng sau 50 năm
tôi mới nhận ra rằng cái thể chế mà tôi giúp tạo dựng lên nó còn tệ hơn chế độ
thực dân của 60 năm trước”. (2)
Xin mượn nhận xét của cố Trung Tướng Trần Độ, người đã bắt sống Tướng De Castrie của quân đội thực dân Pháp trong trận Điện Biên Phủ, về
chủ nghĩa cộng sản Việt Nam để thay lời kết cho cáo trạng số 3 trong “Bản Án
Chủ Nghĩa Cộng Sản Việt Nam”.
IV. CÁO TRẠNG SỐ 4 :
Không biết quyển “Bản án chế độ thực dân Pháp” mà ông Hồ Chí Minh “thuổng” của ai đó làm của
mình, lại bị nhà phê bình Thụy Khuê ở
Paris phát hiện - cũng giống như nhiều năm trước, “Bác” Hồ bị học giả Lê Hữu Mục phát hiện “Bác” cũng đã
“thuổng” Ngục Trung Nhật Ký của một
tù nhân người Tàu chết trong tù làm của mình - dày bao nhiêu trang. Nhưng khi
Lão Móc tập trung tài liệu để viết “Bản
án chế độ xã hội chủ nghĩa Cộng Sản Việt Nam” thì có thể nói: trúc Nam Sơn không ghi hết tội – như đã
kể trong các cáo trạng 1,2, 3.
Bản cáo trạng số 4 gồm các tội ác của chủ nghĩa CSVN như sau:
1- Tàn ác với đồng bào:
“… Năm 1952, cuộc chỉnh
đảng, chỉnh huấn cán bộ, tôi đã nghe loáng thoáng về đợt cải cách ruộng đất thí
điểm ở Thái Nguyên, xử tử điạ chủ Nguyễn Thị Năm. Lúc đó tôi đang phục vụ chỉnh
đảng, chỉnh huấn ở một tỉnh miền núi. Hai khóa đầu chỉnh đảng, nội dung chủ yếu
“chống tư tưởng tiểu tư sản”. Cụ thể chống hủ hoá tham ô. Tham ô lúc đó chưa có
của cải gì, cuối cùng là truy nhau về hủ hóa: bản tổng kiểm thảo nào cũng buộc
phải có vài sự việc về “lăng nhăng”. Nếu không nhận thì phải truy cho tới cùng,
bao giờ có nhận mới là “gục”. Cố nhiên nhiều anh đã tự bịa ra những tình huống
hủ hóa khá hấp dẫn. Các cô cán bộ trẻ thực sự chưa có hủ hoá thì phải nhận là
“có tư tưởng”. Thế rồi cũng khóc lóc sướt mướt, căm thù…
… Mẫn đẻ, bảy tháng sau tôi
mới có dịp về quê thăm con. Quê tôi đã làm xong giảm tô giảm tức, sắp bước sang
cải cách ruộng đất. Tôi chỉ ở nhà vài ngày. Ít lâu sau nghe tin sét đánh: bố vợ
tôi: thầy Lê Đôn, đang làm bí thư huyện - đã bị lôi về bắn bỏ. Thế là tôi không
dám về thăm vợ con nữa”.
Chờ tới hai mươi tháng sau tình hình tạm yên, người chồng đảng viên mới
dám lần mò về thăm vợ, lúc đầu bị vợ không dám nhìn vì sợ chồng bị án “liên quan”, anh chồng phải cắt nghĩa mãi
mới được vợ cho ở nhà… mình (vì nhà vợ, tức nhà địa chủ đã bị tịch thu), rồi
mới nghe người vợ kể về việc:
“… Gọi là “tòa án nhân dân
đặc biệt” xử đầu sỏ để trấn áp địch, phát động nông dân, người ta cần bắn ngay
trước mặt mọi người kia mà. Một tên đội phó trong đội cải cách ra chỉ huy hành
hình bố. Ba du kích vác súng đứng hàng ngang.
“Không tưởng tượng được, ba
người ấy đều là học trò cũ của thầy! Thằng Hưng, thằng Thẩm, thằng Huấn, đều đi
bộ đội về. Tên chỉ huy hô: "Số một ngắm bắn, bắn!”. Súng nổ, bố nẩy vai
trái lên! Tưởng đạn đã vào người, nhưng chưa. Nẩy vai lên hình như bố hô khẩu
hiệu. “Số hai ngắm bắn, bắn!”. Bố lại nẩy vai lần nữa, đạn vẫn không vào người.
Trong quần chúng lúcnày đã ồn ào! “Bắn oan người ta, thần linh cản đạn không
cho trúng người!. “Số ba: Bắn!” Bố lại nẩy vai lên. Người vẫn đứng trơ trơ, mắt
giương trừng. Cột chân đã lung lay, giẻ nhét ở miệng tuột ra lòng thòng (ghi chú: nhét giẻ
để ngăn tử tội đừng tung hô “Hồ Chí Minh
muôn năm” trước khi chết). Hết phát
thứ ba không trúng, mừng quá, cả ba
chúng em lao lên. Nhiều người cũng xúm xít lại.
Ba du kích bắn không trúng bỏ súng trốn. Em hô hào mọi người cứu bố em!
Lúc đó nhộn nhạo như vỡ chợ. Tên đội phó mặt tái nhợt, mím chặt môi xông lên.
Em đã kịp níu tay nó. Nó hất tay em ra, rút phựt con dao nhọn từ trong bọc
xuyên phập qua cổ bố từ trái sang phải. Bố chao qua cái cọc lao đầu xuống cái
hố đã đào sẵn, máu phun phì phì. Thằng Vang, con Vọng lăn đùng ra đất, em cũng
ngất xỉu luôn. Anh em họ nhà anh xúm đến khiên em về nhà này”.
2 -Tàn nhẫn với đồng chí:
Sống dưới chủ nghĩa cộng sản, con người bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh
thần, từ thường dân cho đến đảng viên kỳ cựu. Bằng chứng sau đây cho thấy rằng,
trong khi bị giam, đảng viên cộng sản là những người người đau khổ nhất. Ngô Đức Mậu (cháu nhà cách mạng Ngô Đức Kế), một đảng viên cộng sản kỳ cựu đã từng nhiều năm sống trong
ngục Lao Bảo hồi Pháp thuộc, đã tả nỗi đau khổ trong ngục thất cộng sản:
“… Những lúc bị giam giữ
trong buồng riêng cô quạnh, rét mướt, đau khổ, những anh em thường an ủi nhau:
củng cố lòng tin để chịu đựng ngược đãi, củng cố lòng tin để sống… vì ở tù đế
quốc và ở tù hiện nay (cộng sản) nó khác nhau xa. Ở tù đế quốc bị hành bằng thể xác nhưng tin thần lành mạnh được an ủi,
khoan khoái… Còn ở đây (tù cộng sản) thì sao? Chúng tôi bị dày xéo cả thể
chất lẫn tinh thần. Chung quanh chúng tôi, ai nấy đều cho chúng tôi là địch, là
kẻ bán nước hại dân, thì bảo họ đồng tình với chúng tôi sao được…”
Cũng trong bài báo được đăng tải trên tờ Nhân Dân ngày 30-10-1956, ông
Ngô Đức Mậu còn than vãn là bị chính các đồng chí cộng sản của ông tra tấn, không
cho ông tự bào chữa:
“Những việc mà số anh em cán
bộ ở Hà Tĩnh dựng đứng lên, hoặc lật ngược lại những thành tích đã qua của tôi
(từ thời Đông Dương Cộng Sản Đảng) để truy bức tôi suốt ngày đêm, để buộc tội
phải nhận những việc tôi chưa hề làm, mà cũng chưa bao giờ nghĩ tới… Cuộc truy
bức càng ngày càng nặng, nó vượt ra ngoài khuôn khổ của một cuộc đấu tranh về
nguyên tắc. Tôi ỳ ra mãi cũng không được. Nhiều ý nghĩ khác (tự tử chẳng hạn)
lại nẩy nở ra và xoay quanh trong đầu óc
tôi như chong chóng.”
3-Tàn bạo với đối phương:
Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam do ông Hồ Chí Minh đem về áp đặt cho đất
nước Việt Nam mà người dân miền Bắc đã phải gánh chịu qua Cải Cách Ruộng Đất
với chủ trương “trí, phú,địa, hào đào tận gốc, bóc tận rễ” đã gây ra biết bao
nhiêu đau thương, oan trái.
Sau đó, “Bác” Hồ đã khóc lóc, sửa sai.
Vậy mà sau chiến thắng 30 tháng
4 năm 1975, “một cuộc tắm máu trắng” lại xảy ra cho người dân miền Nam với việc
đổi tiền, đánh tư sản mại bản, đẩy dân đi vùng “kinh tế mới”. Và hàng trăm ngàn
quân, công, cán chính của chế độ miền Nam
lại cũng bị tiếp tục truy bức suốt ngày đêm, theo kiểu mà những người
CSVN đã áp dụng đối với “đông chí” của họ - như ông Ngô Đức Mậu đã kể bên trên
- bằng cách khai lý lịch và tờ thú tội.
Và hiện nay, 87 triệu công dân Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đều “được”
sống trong chế độ kiểm soát bằng lý lịch như dưới thời “Bác” Hồ.
4-Hèn nhát với ngoại
bang:
Trong khi đó thì CSVN lại vô cùng hèn nhát khi đem dâng hai đảo Hoàng
Sa và Trường Sa cho Trung Cộng.
Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Trung Cộng tuyên bố chủ quyền trên các quần
đảo Đông Sa, Tây Sa (Hoàng Sa), Trung Sa và Nam Sa (Trường Sa), và nới rộng
lãnh hải ra 12 hải lý. Thì 10 ngày sau, Phạm
Văn Đồng, Thủ Tướng của chế độ chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh lập tức gửi văn
thư cho Chu Ân Lai, Thủ Tướng Quốc Vụ Viện Trung Cộng, trích y như sau:
“Chính phủ nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của
Chính Phủ Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc…”
Và những hậu duệ của “Bác”ngày nay lại còn dâng thêm ải Nam Quan, thác
Bản Giốc và “bán” luôn vùng Tây Nguyên cho “đàn anh phương Bắc”.
*
Bertrand de Jouvenel (1903-1987) có câu
nói vô cùng chí lý: “Một xã hội loài cừu
đồng thời phải sinh ra một nhà nước của loài sói”.
Hơn 60 năm qua, ông Hồ Chí Minh
và những người thừa kế đã đem chủ nghĩa cộng sản áp đặt cho đất nước, gieo tang
thương cho đất nước; đau thương, tang tóc cho con người - tàn ác hơn cả
chế độ thực dân Pháp mà chính những người cộng sản thuộc loại “công thần”
như các ông bà Ngô Đức Mậu, Trần Độ, Dương Thu Hương, Lê Hiền Đức… cũng đã phải lên tiếng.
Đã đến lúc không sao còn
chịu đựng được nữa. Hỡi toàn dân hãy đứng lên giật sập chế độ xã hội chủ nghĩa
bạo tàn để giành lại quyền làm người và tự do, dân chủ cho 87 triệu người dân
đã và đang phải sống kiếp ngựa trâu trong 70 năm qua và đất nước Việt Nam đang
có nguy cơ lệ thuộc “giặc bành trướng phương Bắc” một lần nữa!
Chú thích :
(1) Là bố mẹ nhà thơ Xuân Diệu.
(2) « Chuyện bên lề » của Trịnh Hội
(3) Tài liệu tham khảo : « Từ thực dân đến Cộng
sản » của Hoàng Văn Chí, « Dương thu Hương và con hùm ngủ » của
Nguyễn Việt Nữ.
NGUYỄN
THIẾU NHẪN
tieng-dan-weekly.blogspot.com
Nguồn: https://mail.google.com/mail/u/0/?tab=om#inbox/13c6117c91b51aae
Nhấp vào đây để Trả lời, Trả lời tất cả hoặc Chuyển tiếp
|
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét