Kiến nghị của một số cựu sĩ quan Lực lượng vũ trang nhân dân gửi Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ CHXHCN Việt Nam
... Là người chủ và người bảo vệ đất nước, Nhân dân và lực lượng vũ
trang phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc gia. Vì vậy,
Nhà nước phải báo cáo rõ ràng với Nhân dân về thực trạng quan hệ
Việt-Trung và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới,
biển đảo và các hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh và chủ quyền
của Quốc gia. Về Hội nghị Thành Đô, có tin nói rằng Tân Hoa xã và Hoàn
cầu Thời báo của Trung Quốc đã công bố nội dung thỏa thuận giữa hai bên,
trong đó trích dẫn: “Việt Nam mong muốn
sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương
tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây...
Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam
thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các
bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc
Trung Quốc”. Chúng tôi không biết thật giả thế nào, yêu cầu Chủ
tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân biết rõ thỏa thuận tại Hội
nghị Thành Đô năm 1990...
*
Ngày 2 tháng 9 năm 2014
Kính gửi:
- Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang Nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.
- Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.
Chúng tôi là những người lính trọn đời “Trung với Nước, Hiếu với Dân”,
luôn trăn trở với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân. Đứng trước tình
hình nghiêm trọng, đe dọa an ninh, chủ quyền và sự phát triển của Quốc
gia, chúng tôi vô cùng lo lắng và thấy cần phải kiến nghị với Lãnh đạo
Nhà nước một số điểm như sau.
1. Lực lượng vũ trang mang tên Nhân dân phải luôn luôn vì Nhân dân, nên
không được huy động Quân đội và Công an vào bất cứ việc gì có hại cho
Nhân dân. Sức mạnh của Lực lượng vũ trang chỉ có được khi dựa vào Nhân
dân, nên không được đánh mất tín nhiệm đối với Nhân dân. Vì vậy, để bảo
vệ uy tín của Quân đội là lực lượng có nhiệm vụ hiến định “quốc phòng”,
tức là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động
Quân đội vào những sự vụ mang tính đối kháng với Nhân dân, như giải tỏa
đất đai, ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa... Để khôi phục uy
tín của Công an, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ hiến định “bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”,
tuyệt đối không lạm dụng lực lượng Công an vào việc đàn áp những người
dân vô tội, chỉ yêu cầu giải quyết quyền lợi hợp pháp của mình.
2. Các chiến sĩ Lực lượng vũ trang chỉ có thể yên tâm rèn luyện và sẵn
sàng hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc khi tin tưởng rằng cống hiến
của họ luôn được Nhà nước ghi nhận thỏa đáng và gia đình của họ sẽ được
Nhà nước chăm sóc chu đáo. Việc cố tình phớt lờ cuộc chiến tranh bảo vệ
biên giới phía Bắc năm 1979 và mấy trận chiến bảo vệ biển đảo không chỉ
phủ nhận lịch sử, xúc phạm đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh xương máu vì
Tổ quốc, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới tinh thần và quyết tâm chiến
đấu của Lực lượng vũ trang. Đó là sai lầm không được phép tái phạm. Để
khắc phục hậu quả, phải nhanh chóng giải quyết những cách cư xử không
đúng đối với với thương binh và gia đình liệt sĩ. Đặc biệt, phải sớm
khôi phục danh dự và quyền lợi đã bị lãng quên của các liệt sĩ và thương
binh đã hy sinh xương máu trong chiến tranh biên giới phía bắc và ngoài
biển đảo, gấp rút tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ dọc biên giới phía Bắc
đã bị bỏ bê hơn hai chục năm qua.
3. Lực lượng vũ trang cần được xác định rõ ràng và chính xác đối thủ,
không thể mơ hồ biến thù thành bạn hoặc coi bạn là thù. Đối tượng tác
chiến của Quân đội phải là những thế lực có thể đe dọa chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong hiện tại và tương lai, chứ không thể là
những đối thủ đã thuộc về quá khứ. Đối tượng khống chế của Công an phải
là những kẻ tội phạm và các hành vi vi phạm hiến pháp, pháp luật, dù ở
trong hay ngoài bộ máy cầm quyền, chứ không thể là những người dân vô
tội. Lịch sử đã chỉ ra rằng Nhân dân ta phải thường xuyên đề cao cảnh
giác trước nguy cơ ngoại xâm từ nước láng giềng phương Bắc. Việc Trung
Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 trên vùng đặc quyền kinh tế của của chúng
ta, tuy nay đã tạm rút đi, nhưng vẫn cho thấy họ không hề từ bỏ quyết
tâm bá chiếm Biển Đông. Lịch sử cũng cho thấy, sau chiến tranh thế giới
thứ hai, nhiều nước cựu thù đã hợp tác với nhau rất hiệu quả và bền
vững, ví dụ như mối quan hệ giữa CHLB Đức và ba nước Mỹ, Anh, Pháp, giữa
Nhật Bản và Mỹ, giữa Việt Nam và hai nước Pháp, Nhật Bản. Do đó, không
thể vì những quan niệm bảo thủ, giáo điều mà đánh mất các cơ hội hợp tác
với các cường quốc tiên tiến văn minh, nhằm phát triển kinh tế, công
nghệ, nâng cao sức mạnh quốc phòng và tăng cường sự ủng hộ quốc tế trong
sự nghiệp bảo vệ đất nước.
4. Là người chủ và người bảo vệ đất nước, Nhân dân và lực lượng vũ trang
phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà
nước phải báo cáo rõ ràng với Nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung
và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và
các hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh và chủ quyền của Quốc
gia. Về Hội nghị Thành Đô, có tin nói rằng Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời
báo của Trung Quốc đã công bố nội dung thỏa thuận giữa hai bên, trong đó
trích dẫn: “Việt Nam mong muốn sẵn
sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại
Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây...
Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam
thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các
bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc
Trung Quốc”. Chúng tôi không biết thật giả thế nào, yêu cầu
Chủ tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân biết rõ thỏa thuận tại
Hội nghị Thành Đô năm 1990. Chuyến đi thăm Trung Quốc gần đây của đặc
phái viên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã thỏa thuận với phía
Trung Quốc về ba nguyên tắc chỉ đạo phát triển quan hệ Việt-Trung mà nội
dung chỉ nhắc lại những câu sáo ngữ, không nói gì tới thực trạng và các
biện pháp chấm dứt các hành động ngang ngược của thế lực bành trướng
Trung Quốc xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta trong mưu
đồ bá chiếm Biển Đông. Chưa biết bên trong còn có những thỏa thuận cụ
thể gì, nhưng toàn dân và toàn quân yêu cầu lãnh đạo Đảng và Nhà nước có
đối sách đúng đắn trước mưu đồ và hành vi xâm lược của thế lực bành
trướng Trong Quốc, không thể chấp nhận thái độ thể hiện sự thần phục họ,
và càng đòi hỏi phải công khai, minh bạch thực trạng quan hệ giữa hai
bên.
Trên đây là mấy đòi hỏi cấp bách, nhằm khôi phục uy tín của Quân đội và
Công an trong Nhân dân, đồng thời tăng cường sức chiến đấu của Lực lượng
vũ trang, để có thể đáp ứng được những thách thức to lớn trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
DANH SÁCH NGƯỜI KÝ
1. Lê Hữu Đức, Trung tướng - nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham Mưu.
2. Trần Minh Đức, Thiếu tướng - nguyên Phó Tư lệnh về hậu cần Mặt trận Trị Thiên – Huế.
3. Huỳnh Đắc Hương, Thiếu tướng - nguyên Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào.
4. Lê Duy Mật, Thiếu tướng - nguyên Tư lệnh Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2.
5. Bùi Văn Quỳ, Thiếu tướng - nguyên Phó Tư lệnh về chính trị bộ đội Tăng–Thiết giáp.
6. Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng - nguyên Chính ủy Quân khu 4.
7. Bùi Văn Bồng, Đại tá - nguyên Trưởng Đại diện báo Quân đội Nhân dân khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
8. Phạm Quế Dương, Đại tá - nguyên Tổng Biên tập tạp chí Lịch sử Quân sự.
9. Nguyễn Gia Định, Nghệ sĩ ưu tú Điện ảnh quân đội.
10. Lê Hồng Hà - nguyên Chánh Văn phòng Bộ Công an, ủy viên Đảng đoàn Bộ Công an.
11. Phạm Hiện, Đại tá - nguyên Chánh Văn phòng B 68 đoàn chuyên gia giúp Campuchia.
12. Xuân Phương, Đại tá - nguyên chuyên viên Cục Nghiên cứu Tổng cục Chính trị.
13. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá - nguyên cán bộ thuộc Bộ Công an.
14. Đào Xuân Sâm, Cựu chiến binh Hà Nội - nguyên chủ nhiệm khoa Quản lý kinh tế Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
15. Tạ Cao Sơn, Đại tá - nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2.
16. Đoàn Sự, Đại tá - nguyên Phó Cục trưởng Cục Xuất bản Tổng cục Chính trị.
17. Lê Văn Trọng, Đại tá - nguyên Trưởng Ban lịch sử Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham Mưu.
18. Nguyễn Thế Trường, Đại tá - nguyên Tổng Biên tập báo Quân giải phóng Trung Trung bộ.
19. Nguyễn Văn Tuyến, Đại tá cán bộ tiền khởi nghĩa - nguyên cán bộ Viện Lịch sử Quân sự.
20. Nguyễn Huy Văn (tức Kim Sơn), Đại tá lão thành cách mạng - nguyên
Phó Trưởng phòng Sở chỉ huy Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham Mưu.
Nguồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2014/09/kien-nghi-cua-mot-so-cuu-si-quan-luc.html#more
Nhận xét
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét