Người Thượng xứ Ban Mê
“… Kinh – Thượng kết đoàn, trường Ban Mê Thuột ngày thêm tươi sáng…”
(Lời ‘Hiệu Đoàn Ca’ trường Trung học Ban Mê Thuột)
Đó
là những lời ca “không-thể-nào-quên” của những ai đã từng mài đũng quần
trên ghế trường Trung học Ban Mê Thuột trước ngày Sài Gòn thất thủ. Bài
Hiệu Đoàn Ca và huy hiệu Con Voi là những nét đặc trưng không thể nhầm
lẫn với bất cứ một trường nào tại Việt Nam!
Huy hiệu “đầu voi” của trường TH BMT
(Hình: Kỷ yếu THBMT trên Flickr)
Ban
Mê Thuột là một thành phố nhỏ nhưng lại là nơi đã từng một thời mang
dấu chân của những tên tuổi lớn như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Đây chính
là nơi ông ra đời chào đời năm 1939 tại xã Lạc Giao, nay đổi tên là
phường Thống Nhất. Vào đầu thập niên 60, sau khi theo học tại trường Sư
phạm Quy Nhơn ông đã lang thang lên Bảo Lộc và Ban Mê Thuột với nghề gõ
đầu trẻ.
Cố nhà văn Thế Uyên và cũng là nhà giáo Nguyễn
Đình Dũng đã từng sống và dạy học tại ngôi trường Trung học Ban Mê
Thuột. Khi đó tôi đang học lớp Đệ Tứ tại trường và giáo sư Nguyễn Đình
Dũng đã tỏa sức thu hút đến lũ học trò chúng tôi qua một môn học xưa nay
vẫn nổi tiếng là khô khan: Triết học [1].
Một người bạn
học với tôi cho đến năm Đệ Tứ tại trường Trung học Ban Mê Thuột, Mai
Tiến Thành, cũng đã đi vào văn học miền Nam qua nhân vật học trò Nguyễn
Duy Minh yêu cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm trong tiểu thuyết ‘Vòng tay học trò’ của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng [2].
Theo trang web mới nhất của Trường Trung học Phổ thông Buôn Ma Thuột (http://thpt-buonmathuot-daklak.edu.vn/
), nổi bật trong thế hệ học sinh đàn em sau này đã tốt nghiệp và thành
đạt có thể kể đến Lê Đình Duy (khóa 1988 -1991) đã bảo vệ thành công
luận án tiến sĩ Công nghệ Thông tin tại Nhật Bản, hiện đang giảng dạy và
nghiên cứu tại Viện nghiên cứu Công nghệ Thông tin Quốc gia Nhật Bản.
Ngoài ra còn có Ngô Minh Toàn (khoá 1994-1996), bảo vệ xuất sắc luận án
Tiến sĩ Vật lýtại Ý, hiện đang làm việc tại Hoa Kỳ.
Trường
Trung học Ban Mê Thuột (nay là trường Trung học Phổ thông Buôn Ma
Thuột) được thành lập từ năm 1955 từ việc hợp nhất giữa trường Y Yut (có
từ thời Pháp thuộc, lúc đầu có tên là Collège Sabatier – dành riêng cho
con em đồng bào dân tộc thiểu số ở địa phương do thầy Đỗ Đức Riệu làm
Hiệu trưởng) và trường Trung học Nguyễn Trường Tộ (hình thành năm 1956,
dành cho con em đồng bào người kinh đến Ban Mê Thuột lập nghiệp do thầy
Đỗ Trọng Thạc làm Hiệu trưởng).
Khi mới thành lập, trường
Trung học Nguyễn Trường Tộ chỉ có một lớp Đệ thất (tương đương với tên
gọi Lớp 6 ngày nay) gồm 40 học sinh. Vì chưa có trường sở nên lớp học
phải tạm thời đặt tại khách sạn bằng gỗ, thuê của bà Nicholas (người
Pháp). Cũng vì thế nên còn gọi là trường Nicholas.
Niên
học 1957-1958 đã có thêm một lớp Đệ thất mới và cũng thêm các giáo sư
được bổ nhiệm để dạy cả hai trường Nguyễn Trường Tộ và Y Yút. Thầy Phạm
Văn Đồng được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng chung cho cả hai trường với nhiệm
vụ hợp nhất sách Kinh-Thượng để dạy Việt ngữ dưới một mái trường chung.
Đến
đầu năm 1960 tên trường Trung học Ban Mê Thuột mới được sử dụng chính
thức. Các thầy được bổ nhiệm Hiệu trưởng trong thời kỳ này là thầy
Nguyễn Khoa Phước (1962-1963), thầy Nguyễn Khoa Tuấn (1964-1968).
Trường Trung học Ban Mê Thuột trước 1975
Tuy
nhiên, viết về Ban Mê Thuột mà không nói đến người Thượng tại Buôn Ma
Thuột sẽ là một thiếu sót lớn vì Cao nguyên Trung phần vốn là vùng đất
nguyên thủy của các nhóm sắc tộc bản địa như Ba Na, Jarai, Ê Đê, Cơ Ho,
Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nông. Trong số các nhóm sắc tộc đó, người Ê Đê, hay còn
gọi là Rađê, phần lớn sinh sống tại Ban Mê Thuột.
Tên của
các danh nhân người Thượng cũng xuất hiện trên đường phố Ban Mê Thuột
bên cạnh những tên người Việt. Những cái tên như Y Jút, Ama Trang Long
được trịnh trọng đặt cho những con đường chính trong thị trấn bên cạnh
các con đường Quang Trung, Lý Thường Kiệt, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thái
Học…
Y Jút và Y Út là hai thầy giáo người Thượng đã sáng
tạo ra chữ viết của người Thượng theo mẫu tự Latin vào khoảng những năm
đầu thế kỷ 20. Ama Trang Long là tù trưởng người M’Nông đã nổi dậy chống
Pháp trong suốt hơn 20 năm đầu thế kỷ 20. Ở BMT có tên đường Ama Trang
Long nhưng ông còn có những tên được phát âm là N'Trang Lơng hay Nơ
Trang Long hoặc thuần Việt như Ma Trang Sơn.
Từ năm 1956,
dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, trong chiến lược chống cộng của Tổng thống
Ngô Đình Diệm, các cố vấn quân sự Mỹ vào tận các buôn làng người Thượng
để trang bị vũ khí cho thanh niên, thành lập các đội Dân sự Chiến đấu
Thượng (Civilian Indigenous Defense Group, CIDG) phối hợp cùng Lực lượng
Đặc biệt (Special Forces) Hoa Kỳ nổi tiếng với chiếc berret xanh.
Tướng Westmoreland với Lực lượng Đặc biệt & CIDG
Năm
1963, sau cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, tất cả những
lãnh tụ phong trào của người Thượng Bajaraka bị nền Đệ nhất Cộng hòa
giam giữ đều được trả tự do. Dưới thời Đệ nhị Cộng hòa, ông Y Bhăm
Ênuôl, chủ tịch phong trào Bajaraka, được bổ nhiệm vào chức vụ Phó tỉnh
trưởng tỉnh Đắc Lắc và ông Paul Nưr, phó chủ tịch Bajaraka, được bổ
nhiệm vào chức vụ phó tỉnh trưởng tỉnh Kon Tum.
Tháng
3/1964, được sự ủng hộ của Mỹ, những người lãnh đạo phong trào Bajaraka
kết hợp với sắc tộc Thượng khác và người Chàm tại miền Trung thành lập
Mặt trận Giải phóng Cao nguyên (Front de Libération des Hauts Plateaux -
FLHP).
Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức, còn gọi là FULRO, chữ tắt từ tiếng Pháp“Front Unifié pour la Libération des Races Opprimées” là
một tổ chức liên minh chính trị - quân sự của các sắc tộc Cao nguyên
Trung phần gồm các dân tộc thiểu số Chàm, Khmer và Thượng tồn tại từ
1964 đến 1992. Tổ chức này chủ trương đấu tranh cho quyền tự quyết của
các sắc tộc trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa và kế tiếp là Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
‘Người Thượng’ là danh từ gọi
chung những nhóm sắc tộc bản địa sinh sống trên cao nguyên miền Trung
Việt Nam. Tiếng Pháp dùng thuật ngữ ‘Montagnard’ vốn có nghĩa là ‘người miền núi’, trong khi đó ‘Degar’ là cách gọi có nguồn gốc dân tộc bản địa.
Xưa
kia, người ta còn dùng chữ ‘Mọi’ một cách miệt thị để chỉ những dân tộc
bán khai miền sơn cước. Ngay từ năm 1621, giáo sĩ Borri gọi chung những
nhóm người Thượng bằng cái tên ‘Kemoy’ có nghĩa là ‘Kẻ Mọi’ và cũng kể
từ đó trong tiếng Việt có tên ‘Mọi’ để chỉ người Thượng. Sau này lại có
thêm một cái tên miệt thị là “Mọi cà răng, căng tai”.
‘Thượng’
có nghĩa là ở trên, người Thượng là người ở miền cao hay miền núi, một
cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh sống tại Miền Thượng, sau
này được gọi là Tây Nguyên. Thế cho nênNgười Thượng theo nghĩa rộng cũng có thể đề cập đến tất cả các dân tộc thiểu số ở miền Cao nguyên Trung phần nói chung.
Người Thượng Ban Mê Thuột
Người
Thượng theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, con trai không được
hưởng thừa kế và đàn ông sống trong gia đình nhà vợ. Nếu vợ chết và bên
nhà vợ không còn ai thay thế thì người chồng phải về với chị em gái
mình. Khi chết, được đưa về chôn cất bên người thân của gia đình mẹ đẻ.
Người
Rađê tính tình trung thực, chịu đựng gian khổ trong cuộc sống, chăm chỉ
trong công việc. Cả người già lẫn người trẻ đều có bản tính hiền hòa,
không thích ba hoa hay nói dối. Vì vậy, nếu ai nói dối, lừa gạt một
người Rađê, dù chỉ một lần thôi, cũng đủ để mất hết lòng tin thậm chí
dẫn đến hận thù dai dẳng.
Phần lớn người Rađê theo đạo Tin
Lành được các nhà truyền giáo phương Tây truyền vào những năm đầu của
thế kỷ 20. Đắc Lắc nơi tập trung đông người Rađê nhất cũng là nơi có tín
đồ Tin Lành nhiều nhất Việt Nam, đây được coi một trong những trung tâm
đạo Tin Lành lớn nhất khu vực Đông Dương.
Sau Hiệp định
Genève, Tổng thống Diệm hủy bỏ quy chế Hoàng triều Cương thổ, chấm dứt
đặc quyền của Quốc trưởng Bảo Đại trên vùng Cao nguyên và biến vùng đất
này vào lãnh thổ chung của Quốc gia Việt Nam. Về mặt kinh tế có chính
sách mở rộng đất đai canh tác và lập các khu dinh điền, định cư hàng
trăm nghìn người Công Giáo từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954.
Một
số được đưa lên vùng Cao Nguyên, họ chiếm đất của người Thượng để hình
thành các khu dinh điền. Sự xuất hiện đột ngột của người Kinh, cùng với
sự kỳ thị chủng tộc, mất đất đai, văn hóa bị xâm phạm, đã để lại vết đau
trong tinh thần của người Rađê. Đó là sự lập lại của lịch sử như thời
kỳ Nam tiến của các Chúa Nguyễn, chiếm đất của người Chàm, xóa sổ vương
quốc Chiêm Thành ở miền Trung.
Ngày nay, còn khoảng
330.000 người Rađê cư trú tại tỉnh Đắc Lắc, phía nam của tỉnh Gia Lai và
phía tây của hai tỉnh Khánh Hòa - Phú Yên. Tại một số quốc gia khác
trên khắp thế giới, như Campuchia, Hoa Kỳ, Canada và các nước Bắc Âu,
cũng có một số người Rađê hiện sống lưu vong sau năm 1975.
Năm
1990, tại Nam Carolina, Hoa Kỳ, Quỹ Người Thượng (Montagnard
Foundation, Inc.) được ông Ksor Kok thành lập với mục đích bảo vệ cuộc
sống và văn hóa người Thượng ở Cao Nguyên Việt Nam. Đây là một tổ chức
phi lợi nhuận tại hải ngoại nhằm giúp đỡ người Thượng ở trong nước thông
qua các hoạt động xã hội.
Tháng 2/2000 hàng ngàn người
Thượng tại Cao nguyên lại băng rừng vượt núi sang Campuchia lánh nạn. Họ
được Cao Ủy Liên Hiệp Quốc ở Campuchia cấp qui chế tị nạn. Đến tháng
6/2002, Hoa Kỳ cho phép gần 1000 người Thượng về định cư tại các thành
phố Raleigh, Charlotte và Greensboro thuộc tiểu bang North Carolina. Đây
là đợt định cư nhân đạo lớn nhất trong lịch sử tiếp nhận người tị nạn
của North Carolina nói riêng.
Một cặp vợ chồng người Rađê
Dưới
thời Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa, Trường Trung học Ban Mê Thuột có Ký
túc xá dành cho các con em người Thượng từ các buôn làng xa xôi về học
cùng học sinh người Việt theo chương trình giáo dục của chính phủ. Không
những vậy, con em các dân tộc thiểu số khác, như người Thái, người
Mường, từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 cũng được tiếp nhận vào Ký túc
xá.
Trong suốt thời gian học tại BMT vào thập niên 60 tôi
đã có dịp tiếp xúc với một vài học sinh người Rađê thường mang họ “Y”
nếu là nam sinh và họ “Hờ” (H’) nếu là nữ sinh tại trường. Học sinh
người Thượng trong trường sống lặng lẽ trong Ký túc xá, họ rất ít khi
tiếp xúc với đám học sinh người Việt có lẽ vì mặc cảm của dân tộc thiểu
số.
Tôi còn nhớ mãi những kỷ niệm với các bạn học sinh
Thượng cùng lớp như Y Tun, K’sor Híp, K’sor Lương… Thật ra thì họ rất
cởi mở một khi bức tường ‘ngăn cách’ được xóa bỏ, kết bạn với họ tôi cảm
thấy thoải mái vì tính thành thật cũng như cởi mở vốn có của người
Thượng.
Nói chung, nam nữ học sinh người Thượng vốn là
thành phần được coi là ‘ưu tú’ của cộng đồng người thiểu số nhưng luôn
luôn vẫn còn đó sự ‘ngăn cách’ giữa người Kinh và người Thượng. Sự tiếp
xúc trong mối quan hệ học sinh Kinh-Thượng tại trường chỉ mang tính cách
‘xã giao’ dù nhà trường đã đề cao khẩu hiệu ‘kết đoàn’ như trong bài
Hiệu Đoàn Ca đã được nói ở trên.
Thế mới biết, từ thực tế
cuộc sống đến các khẩu hiệu được đề ra luôn có một khoảng cách. Người ta
chỉ có thể trách cái ‘hố ngăn cách’ đó là kết quả của những năm dài khi
những người Kinh đầu tiên lên Cao nguyên vốn là đất của người Thượng.
Và đa số người Thượng luôn mang mặc cảm… vùng đất của họ đã bị người
Kinh xâm lấn.
Người Thượng đóng khố trong cộng đồng người Kinh
Rất
khó để tìm ra một trường hợp điển hình người Rađê thành công trong xã
hội người Kinh ngay trên vùng đất Cao Nguyên của họ. Có lẽ trường hợp
nhà sách Cao Trí trên đường Nguyễn Thái Học là điển hình duy nhất về
thành công trong kinh doanh của người Thượng ở BMT.
Tôi
còn nhớ mãi chủ nhà sách Cao Trí là một ông người Thượng với bộ mặt lầm
lì, nước da ông ngăm ngăm đen và ông nói tiếng Việt lơ lớ giọng Huế. Ông
chủ tiệm sách tên thật là Y Ti nhưng người ta quen gọi ông là Y Trí, có
lẽ vì cái bảng hiệu Cao Trí.
Một người Thượng làm chủ một
cửa hàng sách báo đã là một điều lạ nhưng còn lạ hơn nữa bà chủ lại là
người Kinh, họ Lê, gốc Huế từ Đà Nẵng vào. Hai ông bà gặp nhau tại BMT
và kết quả của mối lương duyên Kinh-Thượng là hai người thành gia thất
và khi con cái ra đời, ông Y Trí vẫn theo tục lệ ‘mẫu hệ’ của người
Thượng, các con đều mang họ mẹ.
Trên thực tế, đàn ông
người Kinh kết hôn với phụ nữ người Thượng tại vùng Cao Nguyên xảy ra
nhiều hơn nhưng trường hợp của ông Y Tri lấy một bà người Việt là rất
hiếm. Người ta thường nói tình yêu ‘không biên giới’ là vậy!
Những
người lớn tuổi thường kể vào thời Pháp thuộc người Việt bị hạn chế
trong việc di dân lên Cao Nguyên, chỉ có một số ít người Kinh tới BMT
mang theo muối, đường, vải sợi và cả kim băng để đổi lấy gạc nai, ngà
voi, mật ong và thịt thú rừng đem về vùng đồng bằng.
Hồi
đó người Thượng chưa biết đến tiền bạc, họ chỉ mua bán qua hình thức
‘trao đổi’ (barter) những cái họ có sẵn để lấy những thứ họ cần thiết.
Trong những chuyến hàng ‘trao đổi’ như vậy, người Kinh luôn thu về mối
lợi cho mình và người Thượng với bản tính hiền hòa, chất phác luôn là
‘mồi ngon’ cho những con buôn người Kinh.
Trong khi miền
thượng du Bắc Việt có rượu Táo Mèo, người Thượng tại Cao nguyên Trung
phần nổi tiếng với Rượu cần. Cách nấu rượu, tôi nghĩ, cũng gần như nhau
nhưng cách uống tại xứ Thượng có phần khác lạ.
Rượu được
chứa trong một cái chóe lớn, người uống không dùng ly mà thay vào đó là
cái ‘cần’, một hình thức của ‘ống hút’, được nối giữa người thưởng thức
rượu với chóe. Tôi nghĩ cái hay của rượu cần là việc không kiểm soát
được ‘tửu lượng’ của người uống, do vậy người ta chỉ việc ‘ngậm’ cần mà
không uống cũng chẳng ai biết. Tuy nhiên, việc niều người ‘ngậm’ cùng
một cần là điều trái với vệ sinh thường thức.
“Uống” rượu cần
Ngoài
ngôn ngữ của các dân tộc người Thượng còn có chữ viết do các nhà truyền
giáo Phương Tây ghi chép lại. Trên thực tế, chữ viết của người Thượng
rất sơ khai và đó cũng là một trở ngại trong việc bảo tồn văn hóa của
họ. Ngày xưa, rất nhiều người Kinh tại BMT cố học dăm ba tiếng Thượng để
giao dịch, buôn bán.
Tiếng Thượng của người Rađê thuộc
nhóm ngôn ngữ Mã Lai – Polynesia rất gần gũi với ngôn ngữ của Mã Lai
cũng như người Chàm. Chẳng hạn như cách đếm số, ta có số 1 là ‘sa’, tiếng Chàm cũng là ‘sa’, tiếng Mã Lai lại là ‘satu’. Với trường hợp số 2, cả ba ngôn ngữ đều là ‘đua’.
Có
dạo gia đình tôi sống trên đường Ama Trang Long, đối diện với tiệm bán
phụ tùng xe hơi Lê Đức Viên. Gia đình bà Viên có Lê Đức Dũng học dưới
tôi vài lớp, mãi đến sau này tôi mới phát hiện một tài năng nói tiếng
Thượng của Dũng.
Không những rành về tiếng Thượng mà khi
phát âm Dũng có accent không thua gì người Thượng chính gốc. Trong một
buổi gặp gỡ tại Sài Gòn sau năm 1975 Dũng còn sử dụng tiếng Thượng trong
vai trò ‘thầy mo’ cúng ‘giàng’.
Dân tộc thiểu số trên Cao
Nguyên dùng chữ ‘giàng’ (còn gọi là ‘Yàng’ hay ‘Yang’) để chỉ vị chúa
tể thần linh tức là ‘ông trời’ theo cách gọi của người Việt. Trong một
phút cao hứng, Lê Đức Dũng diễn tả những lời cúng ‘giàng’ như một thầy
mo chuyên nghiệp. Tôi rất ngưỡng mộ khả năng thiên phú về tiếng Thượng
của Dũng nhưng đáng tiếc anh đã qua đời khi hãy còn tương đối trẻ.
Mẹ & Con
‘Kâo’ trong tiếng Rađê và Jarai là ‘tôi’ nhưng người ta cũng thấy ‘kâo’ xuất hiện trong tiếng Chàm và Mã Lai. Nếu học được chữ ‘kâo’, người Việt có thể đoán ‘Kâo sang chơ’ là ‘Tôi đi chợ’ vì người Thượng không có khái niệm về ‘chợ’ nên phải mượn chữ ‘chợ’ của người Kinh.
Tôi
cũng đã có thời gian làm việc với đoàn Y tế Milphap (Military
Provincial Health Assistance Program) tại Dân y viện Ban Mê Thuột và đây
cũng là cơ hội để tôi học được một số tiếng Thượng qua tiếp xúc với các
bệnh nhân và y tá người Rahdé.
Kỷ niệm về ‘ngôn ngữ’ còn
nhớ cho đến bây giờ là chuyện một số y tá người Thượng đã ‘chơi chữ’
với một cô giáo người Kinh. Cô giáo vốn chân ướt chân ráo lên miền
Thượng dạy y tế cho người Thượng nên rất muốn học một ít tiếng Thượng để
dễ dàng trong việc giao tế hàng ngày.
Trong số học viên y tá người Thượng có anh dậy cho cô một câu: “Kâo chăng ung” và giải thích là“Chào buổi sáng”. Thế là ngay ngày hôm sau cô áp dụng câu vừa học với các học sinh khi vào lớp. Khi nghe câu “Kâo chăng ung” cả lớp cười ồ trước sự ngỡ ngàng của cô giáo. Mãi hôm sau, nhờ bí mật tìm hiếu về câu “Kâo chăng ung” cô giáo mới ‘tá hỏa’ khi phát hiện đó không phải là lới chào buổi sáng mà là “Tôi muốn chồng”!
Câu
chuyện mang âm hưởng chuyện tình của ông chủ nhà sách Cao Trí Y Ti kết
hôn cùng một bà người Việt mang tính cách đặc thù của xứ Thượng ‘mẫu
hệ’, người con gái ‘cưới’ chồng chứ không phải là người con trai ‘chọn’
vợ.
Đời người có rất nhiều chuyện lạ để khám phá, trong đó
chuyện mang tính cách ‘tiếu lâm’ miền Thượng của cô giáo người Kinh là
một kỷ niệm sâu xắc nhất mà tôi còn nhớ lại cho đến bây giờ. Làm sao có
thể quên được khi cô giáo đó lại chính là ‘bà xã’ của tôi sau này!
Cô giáo người Kinh bên học trò người Thượng
***
Chú thích:
[1] Về nhà văn Thế Uyên và giáo sư Nguyễn Đình Dũng, xem thêm bài viết “Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Lính tráng” tại:
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/ngon-ngu-sai-gon-xua-linh-trang-2.html
[2] Xem “Đọc lại Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng” tại:
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/10/oc-lai-vong-tay-hoc-tro-cua-nguyen-thi.html
********
Bài đã post trên Blogspot tại:
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2014/09/nguoi-thuong-xu-ban-me.html
Nguồn: https://www.facebook.com/notes/nguyen-chinh/ng%C6%B0%E1%BB%9Di-th%C6%B0%E1%BB%A3ng-x%E1%BB%A9-ban-m%C3%AA/10201648323648134?notif_t=close_friend_activity
Lời bình
Huỳnh Mai St.8872
BAN MÊ THUỘT- XỨ BUỒN MUÔN THUỞ- NẮNG BỤI, MƯA BÙN!
Lời bình cho một bài viết có giá trị về lịch sử Sắc Tộc Thiểu Số Miền Nam VNCH trong thời chiến tranh Quốc Cộng VN chia đôi đất nước. Lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới hận thù Bắc- Nam.
Di sản kỳ thị chũng tộc của thời đại vua chúa- quân chủ chuyên chế Việt Nam đối với sắc tôc bản địa, mà Việt Nam đánh chiếm các sắc tộc thiểu số: Khơme Crôm, Chiêm Thành ' Champa ' và Thương thuộc vùng cao nguên Trung phần, để mở rông bờ cõi tô quốc về phương Nam. Đã và đang để lại hậu quả tranh chấp, đòi lại lãnh thổ của các sắc dân bị mất... Là do sự phân biệt đối xử trong chính sách bành trướng và diệt chũng của Cộng Sản VN, gây nên sự mất đoàn kết dân tộc; Sắc dân thiểu số của thời chính thể dân chủ Tự Do của Miềm Nam VNCH.
Xin chia sẻ bài viết trên Blog Mai Đây Hòa Bình, về tài liệu quí hiếm này, trong nỗi nợm nốp lo âu cho hiện tình đất nước Việt Nam, dưới thời Công Sản Bắc Việt sau ngày biến cố chiếm đóng Miền Nam VNCH 30/4/75. Và họ đã khuấy động căm thù mất nước của các dân tộc thiểu số bản địa Miền Nam, do Trung Quốc Cộng Sản Xúi giục... Để rồi Việt Nam chúng ta không còn là một tổ quốc dung thân, và vĩnh viễn mất tích trên bản đồ thế giới!!!
Huỳnh Mai St.8872
Người lính trên chiến trường Cao Nguyên
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét