BÀI HỌC CAY ĐẮNG
Bài đọc liên quan:
Bài viết của tác giả Lữ giang đã cô đọng tất cả những gì mà những tài
liệu đã được bạch hóa về sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa vào ngày
30/4/1975 một cách có thể ngắn nhất để thế hệ mai sau ôn cố để tri tân -
ôn lịch sử cũ để biết cái mới trong hiện tai và tương lai - Thiết nghĩ
nó là một bài viết tốt về tóm tắt lịch sử một khoảng thời gian ngắn
trước sự kiện 30/4/1975, nhưng rất trung thực và khoa học bằng các nguồn
dẫn chứng. Nên tôi mang nó về đây để lưu lại.
(Hình: Trung Quốc chuyển hướng: tiến sỹ Henry Kissinger (trái) với Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông năm 1972)
Bài học đắng cay
Nguồn: Lữ Giang - Một góc trời
Bây giờ các tài liệu bí mật của Mỹ liên quan đến cuộc chiến Việt Nam đã
được giải mã gần hết. Những tài liệu này đã giúp chúng ta tìm hiểu tại
sao miền Nam Việt Nam có một quân lực khá hùng mạnh và thiện chiến, có
tinh thần chiến đấu rất cao, đã từng giữ vững miền Nam trong suốt 20
năm, lại có thể bị sụp đổ chỉ trong 40 ngày?
Câu trả lời sẽ là một bài học lịch sử đắt giá mà mọi người Việt khi chiến đấu cho quê hương không thể không biết đến.
QUYẾT ĐỊNH BỎ MIỀN NAM
Vào tháng 8 năm 2004, nhân kỷ niệm 30 năm ngày Tổng Thống Nixon từ chức
(từ 9.8.1974 đến 9.8.2004), Miller Center of Public Affairs thuộc Đại
Học Virgina đã cho công bố cuốn băng ghi âm các cuộc nói chuyện giữa
Nixon và Kissinger về cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ cuối năm 1972, trong đó
có đề cập đến số phận của miền Nam Việt Nam.
Tài liệu cho thấy mặc dầu đang mở cuộc oanh tạc Bắc Việt trong suốt mùa
xuân và mùa hè 1972, Tổng thống Nixon đã đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ ủng
hộ việc “Nam Việt Nam có thể không bao giờ còn tồn tại dù bất cứ cách
nào.” (South Vietnam probably can never even survive anyway). Ông nói
với Cố vấn An ninh Kissinger: “Henry, chúng ta cũng phải nhận thức rằng
thắng trong một cuộc bầu cử là hết sức quan trọng. Nó hết sức quan trọng
trong năm nay, nhưng chúng ta có thể có một chính sách ngoại giao sống
còn (a viable foreign policy) nếu một năm kể từ bây giờ hay hai năm kể
từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam? Đó thật là vấn đề.”
Kissinger trả lời: “Nếu một hay hai năm kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn
tính Nam Việt Nam, chúng ta có thể có một chính sách ngoại giao sống còn
nếu coi điều đó như thể là kết quả của sự bất tài của người Nam Việt
Nam (if it's the result of South Vietnamese incompetence.)
Lúc đó, Tổng Thống Thiệu và các nhà cầm quyền tại miền Nam không hay
biết gì. Khi Hoa Kỳ ép buộc VNCH phải ký Hiệp Định Paris có những điều
khoản hoàn toàn bất lợi cho miền Nam, Tổng Thống Thiệu cũng đã chấp nhận
ký sau khi Tổng Thống Nixon hứa: “Tôi tuyệt đối cam đoan với Ngài rằng
nếu Hà Nội không tuân theo những điều kiện của Hiệp Định nầy thì tôi
cương quyết sẽ có hành động trả đủa mau lẹ và ác liệt.”
Nhưng để cho miền Nam sụp đổ trong vòng một hay hai năm sau Hiệp Định
Paris không phải là chuyện dễ, vì lúc đó Quân Lực VNCH còn khá mạnh.
TÌNH HÌNH QUÂN LỰC VNCH NĂM 1975
Đầu năm 1975, QLVNCH vẫn còn có một lực lượng khá hùng hậu, với quân số
khoảng 1.351.000 người, trong đó có 495.000 chủ lực quân, 475.000 địa
phương quân và 381.000 quân "phòng vệ dân sự" có vũ trang.
Lục quân gồm 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn nhảy dù, 1 sư đoàn thủy quân
lục chiến, liên đoàn 81 biệt cách dù, 15 liên đoàn biệt động quân (tương
đương với 5 sư đoàn), lực lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, 4
lữ đoàn kỵ binh thiết giáp (với 2074 xe thiết giáp). Về pháo binh,
QLVNCH có 1492 khẩu đại bác (hơn một nửa là 105 ly, 1/4 là 155 ly và
khoảng 15% là 175 ly).
Không quân có khoảng 60.000 quân, có 5 sư đoàn không quân tác chiến gồm
20 phi đoàn khu trục cơ, 23 phi đoàn trực thăng, 1 sư đoàn vận tải, 1
không đoàn tân trang chế tạo, 4 phi đoàn hỏa long, v.v, với 1850 phi cơ
các loại (trong đó có 510 máy bay chiến đấu và 900 trực thăng).
Hải quân có hơn 40.000 quân, gồm 3 lực lượng tác chiến:
(1) Hành quân lưu động sông (với 14 giang đoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh),
(2) Hành quân lưu động biển (một hạm đội trang bị tuần dương hạm, hộ
tống hạm, khu trục hạm, tuần duyên hạm, giang pháo hạm, trợ chiến hạm,
dương vận hạm, hải vận hạm và giang vận hạm).
(3) các lực lượng đặc nhiệm, trong đó có Liên đoàn Người nhái.
Làm thế nào để hủy hoại lực lượng này rồi giao cho Trung Quốc và CSVN
trong một thời gian khoảng hai năm và Mỹ sẽ không còn dính líu gì đến
cuộc chiến nữa?
ĐÁNH LỪA TỔNG THỐNG THIỆU
Để thực hiện chủ trương nói trên, Hoa Kỳ vừa cắt bớt viện trợ để miềm Nam suy yếu dần, vừa đánh lừa Thổng Thống Thiệu.
Miền Nam lúc đó cũng có nhiều nhà phân tích tình hình chính xác, nhưng
Tổng Tống Thiệu là người độc đoán và thích hành động theo cảm tính nên
chẳng nghe ai. Trong cuốn “Tâm tư Tổng Thống Thiệu”, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến
Hưng cho biết chính Tổng Thống Thiệu đã nói với ông: “Tôi luôn là người
quyết định. Luôn luôn như vậy. Tôi có thể nghe người khác gợi ý một
quyết định, nhưng rồi làm quyết định ngược lại.” (tr. 373).
Khi chọn người để thay thế ông Ngô Đình Diệm, người Mỹ không chọn một
nhà chính trị có khả năng bảo vệ miền Nam mà chỉ chọn những người bảo
đảm sẽ làm theo ý họ. Trước hết Mỹ chọn Tướng Nguyễn Khánh và Tướng Trần
Thiện Khiêm. Nhưng khi Tướng Nguyễn Khánh gây rối loạn, họ dùng cặp
Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm. Đây là những người không có tầm
nhìn chiến lược cả về chính trị lẫn quân sự. Mọi việc đều để Mỹ lèo lái.
Quả thật ông Thiệu không có khả năng nhìn thấy Mỹ sẽ bỏ miền Nam và tìm
ra được một con đường nào khác để cứu miền Nam. Ông coi miền Nam như của
Mỹ. Mỹ đưa đủ tiền, ông giữ cả miền Nam. Mỹ rút bớt tiền, ông thu nhỏ
lãnh thổ lại.
1.- Cắt bớt viện trợ
Như chúng ta đã biết số viện trợ quân sự Mỹ cho VNCH đã bị giảm dần sau Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973:
1972 – 1973: 1 tỷ 614 triệu;
1973 – 1974: 1 tỷ 026 triệu và
1974 – 1975 xuống còn: 700 triệu.
2.- Đánh lừa bằng tài liệu
Trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” (từ tr. 231 – 236), ông Hưng có kể
lại rằng ông có được đọc trong “Phòng Tình Hình” của Dinh Độc Lâp một
tập báo cáo do Tướng John E. Murray (người điều khiển cơ quan DAO) và Bộ
Tổng Tham Mưu trình lên.
Mặc dầu có nhiều báo cáo của DAO đã được giải mã, chúng tôi chưa tìm
thấy bản văn này, nhưng ông Hưng cho biết ông nhớ được những điểm chính
của bản báo cáo đó như sau:
- Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả bốn Vùng Chiến Thuật.
- Nếu là 1,1 tỷ thì Quân Khu I phải bỏ;
- Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được QK I và II, hoặc khó đương đầu với cuộc tấn công của Bắc Việt;
- Nếu là 750 triệu thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc, và khó điều đình được với Bắc Việt;
- Nếu quân viện dưới 600 triệu thì chính phủ VNCH chỉ còn giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ song Cửu Long.
Ông Hưng cho biết Tướng John Murray kết luận: “Tôi có thể ví sự mất tiền xấp xỉ như mất đất vậy.”
Từ ngày Mỹ tham chiến ở Việt Nam đến ngày miền Nam mất, chúng ta chưa
bao giờ thấy các báo cáo hay tài liệu phân tích nào của cơ quan MACV hay
DAO được tiết lộ cho Bộ Tổng Tham Mưu hay bất cứ cơ quan nào của VNCH.
Chúng ta chỉ biết được một số tài liệu này sau khi được chính phủ Hoa Kỳ
giải mã. Thế thì tại sao tài liệu nói trên lại được tiết lộ cho Bộ Tổng
Tham Mưu VNCH? Chắc chắn là phải có âm mưu gì.
Ông Hưng cho rằng vì bản báo cáo này, ông Thiệu đã nghĩ ra chiến lược
mới “Đầu bé đít to”, tức bỏ Vùng I và II (đầu). Ông Thiệu thường nói:
“Từng chiến lược cho từng mức viện trợ.” (tr. 235), sau đó ông dùng chữ
“tái phối trí”.
Thật ra, bản báo cáo mà ông Hưng nhắc đến ở trên, nếu có, cũng chỉ là
một bản phân tích tình hình chứ không phải là một giải pháp hay một kế
hoạch hành động được đề nghị. Nếu Tổng Thống Thiệu nghĩ đó là một đề
nghị về kế hoạch hành động là hoàn toàn sai lầm.
3.- Đánh lừa bằng kế hoạch giả
Cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã không dùng một tướng Mỹ mà dùng một tướng Úc để đánh lừa Tổng Thống Thiệu.
Trong bài thuyết trình “"Get Me Ten Years': Australia's Ted Serong in
Vietnam, 1962-1975", bà Tiến sĩ Anne Blair, một giảng viên về Quan Hệ
Quốc Tế và Nghiên Cứu về Á Châu tại Đại Học Victoria University of
Technology ở Úc, đã cho biết vào tháng 12 năm 1974, Thủ Tướng Trần Thiện
Khiêm có tiếp xúc với Tướng Ted Serong và yêu cầu ông ta đưa ra một kế
hoạch cứu vãn miền Nam. Tướng Ted Serong đã khuyến cáo rút khỏi Quân Khu
I và Quân Khu II, với lý do là 2/3 Quân Lực VNCH đã được triển khai ở
phía bắc trong khi ở nơi này chỉ có 1/10 dân số và 1/3 tài nguyên của
miền Nam.
Chúng ta nên nhớ rằng cả Tướng Trần Thiện Khiêm lẫn tướng Đặng Văn Quang
đều là nhân viên CIA được cài vào để theo dõi và kiểm soát các hành
động của Tổng Thống Thiệu. Nhiều người nghi ngờ việc Tướng Khiêm đi tìm
gặp tướng Ted Seron là theo lệnh của CIA.
Ông Hưng cho biết Tổng Thống Thiệu đã chỉ thị Tướng Đặng Văn Quang, Cố
Vấn An Ninh Phủ Tổng Thống, phối hợp với Tướng Ted Serong nghiên cứu lập
một phòng tuyến kéo dài từ Tuy Hoà đến Tây Ninh để làm phòng tuyến rút
quân!
Tướng Ted Seron là ai mà được giao cho nhiệm vụ lập phòng tuyến ở Tuy Hoà?
Tướng Francis Philip “Ted” Serong (1915 – 2002) tốt nghiệp Trường Huấn
Luyện Quân Đội Hoàng Gia tại Duntroon vào năm 1937, có nhiều kinh nghiệm
về chiến trường Đông Nam Á. Năm 1961 ông được cử làm cố vấn cho quân
đội Miến Điện. Do kinh nghiệm của ông về chống nổi dậy
(counterinsurgency), theo đề nghị của CIA, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã yêu
cầu chính phủ Úc cho ông đến phục vụ tại miền Nam Việt Nam. Tại đây, ông
vừa chỉ huy một toán nhỏ người Úc vừa là Cố Vấn Chống Nổi Dậy cho MACV
dưới thời Tướng Harkins. Theo bà Blair, Tướng Harkins không tin vào
chống nổi dậy và ông không muốn một cố vấn. Tướng Ted Serong đã đưa
nhiều đề nghị về huấn luyện quân lực VNCH nhưng không được áp ứng.
Như vậy, Tướng Ted Serong chỉ là một chuyên gia về du kích chiến. Ông
không phải là một nhà chiến lược. Ông chỉ là người được Mỹ dùng để gài
bẩy Tổng Thống Thiệu.
MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐIÊN RỒ
Năm 1974, tin Tổng Thống Thiệu sẽ bỏ Cao Nguyên và miền bắc Trung Phần,
rút quân về phòng thủ ở Tuy Hoà đã được tiết lộ ra, nhưng không ai tin
vì hai lý do:
(1) Không thể lập một phòng tuyến từ Tuy Hòa kéo dài tới Tây Ninh được
vì địa hình không cho phép hình thành một phòng tuyến như vậy.
(2) Muốn rút quân ở Cao Nguyên và phía bắc miền Trung phải thương thuyết
với Hà Nội và ký một hiệp ước như Hiệp Định Genève 1954, trong đó ấn
định lại biên giới giữa hai bên, thời hạn di tản, rút quân… việc “tái
phối trí” mới có thể thực hiện được.
Vì thế, không ai tin việc “tái phối trí” có thể xẩy ra khi ông Thiệu
chưa thương thuyết để ký với Hà Nội một hiệp ước thu nhỏ lãnh thổ lại.
Nhưng ông Thiệu đã làm điều điên rồ đó.
Đầu năm 1975, Tướng Ted Serong thông báo cho Tổng Thống Thiệu thời hạn
chót cho việc tái phối trí quân đội phải kết thúc nội trong tháng hai.
Ông cũng đã nói với Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, Giám Mục Nha Trang, rằng
ngài nên "chuẩn bị cho năm 1955 một lần nữa”, tức lại đi di cư!
Ngày 10.3.1975 Ban Mê Thuột bị mất và Quân Lực VNCH khó có thể lấy lại
được. Nhân vụ này, ngày 14.3.1975 Tổng Thống Thiệu cùng với các tướng
Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang và Cao Văn Viên đến Cam Ranh họp với
Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn 2. Tổng Thống Thiệu hỏi Tướng Cao
Văn Viên:
- Còn quân trừ bị để tăng cường cho Quân Đoàn 2 không?
Tướng Viên trả lời:
- Không còn.
Tổng Thống Thiệu quay qua hỏi Tướng Phú:
- Nếu không có quân tăng viện, anh còn giữ được bao lâu?
Tướng Phú trả lời:
- Tôi có thể giữ được một tháng với điều kiện không quân yểm trợ tối đa
và tiếp tế bằng không vận đầy đủ nhu cầu về tiếp liệu, vũ khí, đạn dược…
Tổng Thống Thiệu nói rằng các điều kiện đó không thể thỏa mãn được. Vậy
phải rút khỏi Kontum và Pleiku để bảo toàn lực lượng, đưa quân về giữ
đồng bằng ven biển tiếp tế thuận lợi hơn. Tổng Thống Thiệu hỏi:
- Rút bằng đường 19 có được không?
Tướng Viên trả lời:
- Trong lịch sử chiến tranh Đông Dương chưa có lực lượng nào rút theo đường 19 mà không bị tiêu diệt.
Tổng Thống Thiệu lại hỏi:
- Thế thì đường 14 ra sao?
Tướng Viên nói:
- Đường 14 càng không được.
Sau khi thảo luận, mọi người thấy chỉ còn đường số 7 từ lâu không dùng
đến, tuy dài (khoảng 228 km) và xấu nhưng tạo được yếu tố bất ngờ.
Tổng Thống Thiệu chỉ thị không thông báo cho các tiểu khu và chi khu
biết, cứ để họ tiếp tục chống giữ, khi ta rút xong, ai biết thì biết.
Tổng Thống nói địa phương quân (36 tiểu đoàn) toàn là người Thượng, trả
chúng về với Cao nguyên. Như vậy các tỉnh trưởng, quận trưởng, địa
phương quân, cảnh sát, phòng vệ dân sự và các nhân viên hành chánh đều
bị bỏ lại.
Đại Tá Phạm Duy Tất, Tư Lệnh Biệt Động Quân Quân Đoàn 2 được thăng Chuẩn
Tướng để chỉ huy cuộc rút quân. Tổng Thống cấm không ai được thông báo
cho Mỹ biết.
ĐOÀN QUÂN TAN RÃ
Diễn biến về cuộc tháo chạy trên Liên tỉnh lộ 7 rất bi thảm. Ở đây chúng tôi chỉ ghi lại những nét chính.
- Lúc đó QLVNCH còn có tại Kontum và Pleiku 7 Liên Đoàn Biệt Động Quân,
đó là các Liên Đoàn 22, 23, 24 và 25, được tăng cường thêm 3 Liên Đoàn
biệt phái từ Sài Gòn lên là 4, 6 và 7. Ngoài ra, Cao Nguyên còn có 36
tiểu đoàn địa phương quân.
- Xe tăng và thiết giáp: 4 thiết đoàn với 371 xe. Pháo binh: 8 tiểu đoàn với 230 khẩu các cỡ từ 105 đến 175mm.
- Không quân: 1 phi đoàn chiến đấu (32 chiếc), 2 phi đoàn trực thăng (86
chiếc), 1 phi đoàn vận tải, trinh sát và huấn luyện (32 chiếc).
- Riêng Sư đoàn 23 gồm các Trung Đoàn 44, 45 và 53 và Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đã bị tan rã trong trận Ban Mê Thuột.
- Sáng ngày 15.3.1975, hai Liên Đoàn 6 và 23 BĐQ từ Kontum được chuyển về Pleiku. Dân chúng chạy theo gây ra náo loạn.
- Lúc 1 giờ chiều ngày 15.3.1975 cuộc di tản chính thức bắt đầu. Thiết
đoàn 19, Liên Đoàn 6 và Liên Đoàn 24 BĐQ mở đường, đến tối đã vượt qua
khỏi Phú Bổn, đèo Tuna và tới quận Phú Túc để yểm trợ công binh làm cầu.
Sáng 16.3.1975 đoàn quân mở đường tiếp tục đi xuống Củng Sơn.
- Cuộc hành trình mà đoàn quân phải di tản khá dài: Từ Pleiku tới Phú Bổn khoảng 93 km và từ Phú Bổn đến Tuy Hòa khoảng 130 km.
- Ngày 17.3.1975, Thiết Đoàn 21 và Liên Đoàn 7 BĐQ dẫn đầu đoàn quân và
dân tiến về Phú Bổn. Theo sau là Liên Đoàn 22 và Liên Đoàn 23, kéo theo
một đoàn quân xa khoảng 2000 chiếc và một đoàn xe dân sự đủ loại cũng
gần 2000 chiếc. Liên Đoàn 4 và Liên Đoàn 25 đi tập hậu. Đoàn di tản đi
rất chậm vì đường hẹp, bị hư hỏng và thường đạp lên nhau để tiến tới
trước. Tối 17.3.1975 đoàn xe dừng lại ở tỉnh lỵ Phú Bổn vì không tiến
được nữa. Cộng quân đã chận ở đèo Tuna cách Phú Bổn khoảng 4 km.
Vì cuộc rút quân quá bất ngờ nên phải đến chiều ngày 17.3.1975, Bộ Tư
Lệnh Tây Nguyên của Cộng quân mới biết được và ra lệnh cho tiểu đoàn 9
thuộc trung đoàn 64, Sư đoàn 320, đang đóng chốt trên đường đi Thuận
Mẫn, đem quân chận ở đèo Tuna và pháo kích vào đoàn quân và dân đang
dừng lại ở Phú Bổn. Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất được trực thăng tới bốc đi
từ trường tiểu học Phú Bổn, đã chỉ huy ở trên trời, ra lệnh cho Đại Tá
Nguyễn Văn Đồng, Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, đang chỉ huy ở dưới đất,
phải phá cho được cái chốt này. Có không quân bay tới yểm trợ.
Liên đoàn 25 BĐQ đang đi tập hậu đã cùng với Liên Đoàn 7 và thiết giáp
tiến lên phá cái chốt ở đèo Tuna. Nhưng Đại Tá Nguyễn Văn Đồng cho chúng
tôi biết Biệt Động Quân, thiết giáp và không quân đã không phá nổi cái
chốt đó. Chiếc xe tăng nào bò lên, chúng bắn cháy chiếc đó. Thảm hoạ xảy
ra khi máy bay oanh tạc lầm quân của phe ta. Địch lại pháo kích dữ dội
vào tỉnh lỵ Phú Bổn, quân và dân chạy tán loạn, nên đoàn quân tan rã.
Không còn chỉ huy được, ông và một số quân nhân phải lội bộ đi vòng dưới
chân đèo Tuna để vượt qua, nhưng rồi cũng đã bị bắt khi đến gần Củng
Sơn. Đại Tá Đặng Đình Siêu, Tư Lệnh Phó Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, theo tàn quân
của Liên Đoàn 4 BĐQ chạy băng rừng và về được đến Phú Yên.
Liên Đoàn 24 BĐQ đóng gần Củng Sơn do Trung Tá Niên chỉ huy bị tấn công
dữ dội, cũng đã bị tan rã. Chỉ có Thiết Đoàn 19 và Liên Đoàn 6 BĐQ về
tới được Tuy Hòa.
Một cuộc kiểm tra cho biết có ít nhất 3/4 lực lượng của Quân đoàn II đã
bị Cộng quân tiêu diệt, bắt sống, đào ngũ hay rã ngũ. Khoảng 40.000 dân
chúng di tản theo đoàn quân, chỉ có khoảng 1/4 đến nơi. Số người chết do
hỏa lực của cả hai bên, do đuối sức hay đói không ước tính được. Đa số
phải trở lại Pleiku.
ooOoo
Kể từ khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết, Hoa Kỳ đã chi phối miền Nam
cả về quân sự, kinh tế lẫn chính trị và đưa người của họ lên nắm chính
quyền. Trong tình trạng như vậy, miền Nam khó quyết định được số phận
của mình. Nhưng Tổng Thống Thiệu là người phải chịu trách nhiệm trước
dân tộc và trước lịch sử về những thảm trạng do các quyết định sai lầm
của ông gây ra.
Chiều 29.4.1975, Tướng Ted Seron đã rời khỏi Việt Nam trên một chiếc
trực thăng ở trên nóc của Toà Đại Sứ Mỹ. Số phận của VNCH chấm dứt.
Ngày 18.4.2013
Lữ Giang
Nguồn:http://bshohai.blogspot.com/2013/04/bai-hoc-cay-ang.html?utm_source=feedburner&utm_medium=email&utm_campaign=Feed%3A+BsHHi+%28BS+H%E1%BB%92+H%E1%BA%A2I%29
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét