Giải mã bí mật Ấn độ.
Giải mã bí mật Ấn độ.
“…Phép mầu lớn nhất trong thế kỷ 20 đã là phép mầu Ấn Độ và có lẽ trong
thế kỷ 21 cũng thế. Ấn Độ đã thành công và còn đang tiếp tục thành
công…”
Ngay trước khi tôi sắp lên đường đi thăm Ấn Độ một bạn
trẻ trong nước hỏi tôi trên Facebook: "Tại sao Ấn Độ có dân chủ mà lại
tụt hậu, nghèo đói, bất công, dơ bẩn, đàn ông hay hãm hiếp?". Tôi không
thể trả lời câu hỏi đó vì đối với tôi Ấn Độ là một thành công và tôi
đang cố gắng giải mã thành công đó, nghĩa là tìm hiểu tại sao Ấn Độ lại
thành công dù trước đây mọi dự đoán đều rất bi quan?
Những gì
mà trong tuổi thanh thiếu niên tôi nghe được về Ấn Độ đều mô tả một đất
nước kinh dị, nghèo khổ và dơ bẩn một cách huyền bí. Trong thập niên
1960 khi du học tại Pháp tôi may mắn có một người bạn thân mà cha mẹ là
hai ông bà bác sĩ từng làm công tác nhân đạo nhiều năm tại Ấn Độ và đã
góp phần quyết định đẩy lùi bệnh hủi tại đây. Tôi lui tới thường xuyên
gia đình này và được coi như người nhà. Qua họ tôi cũng quen biết nhiều
chuyên gia khác về Ấn Độ. Những gì hai ông bà và các bạn họ nói cũng phù
hợp với những gì có thể đọc trong các sách và báo: Ấn Độ không có tương
lai, người ta chỉ có thể vì lòng nhân đạo mà giúp nó đỡ nghèo khổ chứ
không thể giúp nó vươn lên. Ấn Độ có tất cả mọi khó khăn mà một quốc gia
có thể có và đều có ở mức độ nguy kịch. Nghèo khổ, dơ bẩn, tham nhũng
và bất công cùng cực, các bệnh truyền nhiễm lan tràn, con người bệnh
tật, mê tín dị đoan và bi quan yếm thế. Đã thế Ấn Độ lại không phải là
một quốc gia mà là cả một thế giới hỗn độn với gần 2000 ngôn ngữ và hơn
500 vùng dị biệt xuất phát từ những chiến quốc cũ không có và cũng không
muốn có quan hệ hợp tác với nhau. Trong lòng một mình Ấn Độ có nhiều di
biệt và tương phản hơn cả trong phần còn lại của thế giới. Người Ấn Độ
trong tuyệt đại đa số không biết đọc biết viết và không nhìn nhau như
đồng bào. Mẫu số chung của cái thế giới hỗn tạp này chỉ là sự nghèo khổ,
bệnh tật, dơ bẩn ngoài mức tưởng tượng. Ra ngoài đường ở bất cứ thành
phố nào người ta không thể không thấy những đoàn người hốc hác vì đói
trong đó có nhiều người đang chết đói. Một vấn đề nghiêm trọng khác là
nạn nhân mãn. Ấn Độ đã quá đông dân và mỗi năm vẫn thêm một số người
tương đương với dân số của cả nước Úc. Kết luận, Ấn Độ hoàn toàn tuyệt
vọng. Những trí thức thân cộng, rất đông đảo trong suốt thập niên 1960,
đôi khi so sánh Ấn Độ và Trung Quốc để bênh vực cho chủ nghĩa Mac-Lênin.
Theo họ hai nước lớn này đã chọn hai con đường khác nhau vào cùng một
thời điểm và thực tế cho thấy là Trung Quốc đã hơn hẳn Ấn Độ, điều này
chứng tỏ sự đúng đắn của chủ nghĩa cộng sản. So sách này khập khiễng bởi
vì hai nước khởi hành từ hai mức độ quá khác nhau.
Thế rồi
người ta càng ngày càng ít nói tới Ấn Độ. Chưa ca tụng Ấn Độ nhưng cũng
ít ai còn nói Ấn Độ là một trường hợp tuyệt vọng nữa. Tới gần ngưỡng cửa
thế kỷ 21 Ấn Độ được nhắc tới như là một thành công. Trong những năm
gần đây không còn ai phủ nhận Ấn Độ là một cường quốc đang lên và tư
cách thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chỉ còn là
vấn đề của một vài năm.
Không những thế, sự thành công của Ấn
Độ lại rất lành mạnh. Ấn Độ không "đi nước dưới" như Trung Quốc và hầu
hết các nước đang phát triển, nghĩa là khai thác nguồn nhân công rẻ để
xuất khẩu quần áo, giày dép và những sản phẩm kỹ thuật thấp. Ngược lại,
Ấn Độ "đi nước trên" và cạnh tranh với các nước tiên tiến ngay trong
những kỹ thuật hiện đại: công nghệ thông tin, điện tử, sinh hóa, dược
phẩm, kỹ nghệ ôtô, hàng không v.v. Kinh tế Ấn Độ không quá phụ thuộc
xuất khẩu vì thế không điêu đứng trong bối cảnh toàn cầu khó khăn hiện
nay; cũng không lạm dụng ngành xây dựng nên không có trái bong bóng bất
động sản như Trung Quốc và Việt Nam. Thu nhập bình quân trên mỗi đầu
người của Ấn Độ hiện đang tương đương với Việt Nam và sẽ qua mặt Việt
Nam trong năm tới. Từ một nước chết đói quanh năm Ấn Độ đã trở thành một
nước xuất cảng gạo. Nạn đói đã bị xóa bỏ cùng với nạn mù chữ. Tăng
trưởng kinh tế của Ấn Độ trong năm 2013 được uớc lượng là 4,8% theo đối
lập và trên 5% theo chính quyền. Con số này được coi là thấp do hậu quả
của bối cảnh kinh tế thế giới khó khăn nhưng vẫn là một tỷ lệ tăng
trưởng mà nhiều nước mơ ước. Cũng đừng quên là Ấn Độ là một nước dân chủ
trong đó mọi vấn đề đều có thể bàn cãi và mọi sự thực đều được phơi
bày; tỷ lệ tăng trưởng 4,8% là một tỷ lệ tăng trưởng đích thực trong
khi những tỷ lệ tăng trưởng 5,5% hay 7% tại Việt Nam và Trung Quốc chỉ
là những con số ngụy tạo nhằm che dấu một thực tế suy thoái. Nền dân chủ
của Ấn Độ ổn vững và ngày càng lành mạnh hơn. Tôi đã có dịp nhận xét
tại chỗ bởi vì tôi đến đó vào cao điểm của cuộc tranh cử tại một số bang
(đa số các bang của Ấn Độ có tầm vóc của một nước trung bình). Các
tranh cãi đã rất thẳng thắn và xây dựng, nghiêm chỉnh hơn cả những cuộc
tranh cử tại Pháp. Một vài vụ khủng bố rùng rợn (như tại Mumbai tháng
11-2008 và tháng 7- 2011) và hiếp dâm, giết người đã gây ấn tượng mạnh
và khiến nhiều người quên rằng Ấn Độ là một trong những nước an ninh bậc
nhất thế giới. Tỷ lệ án mạng trên 100.000 dân chỉ hơi cao hơn Châu Âu
và Hoa Kỳ và thấp hẳn so với các nước đang phát triển, dù tỷ lệ cảnh
sát/dân số rất thấp, chỉ bằng một nửa Hoa Kỳ và Châu Âu và 1/3 Việt Nam
và Trung Quốc. Chỉ số bất ổn chính trị cũng tương đương với Hoa Kỳ và
Châu Âu và thấp hơn hẳn Trung Quốc và Nga. Xã hội Ấn Độ còn cần khắc
phục nhiều tật bệnh lớn do lịch sử để lại, thí dụ như đẳng cấp (caste),
tham nhũng, vệ sinh v.v. nhưng đang cải tiến nhanh chóng. Tại biên giới
Népal các viên chức an ninh làm thủ tục cho chúng tôi một cách nhanh
chóng và bặt thiệp nhưng sau đó xin tiền típ ( khoảng 1 USD cho hai
người nhưng không cho cũng không sao). Tại bang Uttar Pradesh mà chúng
tôi đi qua một phụ nữ thuộc đẳng cấp paria (hạ tiện) đã đắc cử thống
đốc; trong hai hướng dẫn viên của tôi, một anh thuộc đẳng cấp Brahmin
(đạo sĩ, đẳng cấp cao quý nhất), một anh thuộc đẳng cấp Kshatriya (chiến
binh, đẳng cấp thứ nhì) trong khi nhiều người thuộc các đẳng cấp thấp
hơn đã thành triệu phú hoặc giữ những vai trò quan trọng trong chính
quyền và các công ty. Phân biệt đẳng cấp bị luật pháp nghiêm cấm và đang
giảm sút nhanh chóng, dù vẫn còn tồn tại trong xã hội. Vệ sinh vẫn còn
là một vấn đề lớn. Tại Varanasi, bên bờ sông Hằng, người ta vẫn còn thẩy
tro thiêu xác người, đôi khi còn xương thịt chưa cháy xong, cùng với
quần áo xuống sông bên cạnh những người đang tắm và uống nước để "rửa
sạch tâm hồn" theo nghi thức tôn giáo. Áp lực nhân mãn vẫn còn rất nặng
nhưng cũng đang cải tiến; một anh hướng dẫn viên của tôi chỉ có một con,
anh kia có hai con. Họ cho biết tầng lớp trung lưu như họ, khoảng 300
triệu người, đang có khuynh hướng giới hạn số con cái. Môi trường Ấn Độ
vẫn còn là một vấn đề lớn nhưng đã có cải thiện và đàng nào cũng hơn xa
Trung Quốc, bầu trời còn tương đối trong xanh.
Nói chung Ấn Độ
đã giải quyết được rất nhiều vấn đề tưởng như không giải quyết được và
đang trên đà giải quyết những vấn đề còn lại. Ấn Độ đang tiến những bước
nhanh chóng và vững chắc về một tương lai tươi sáng. Phép mầu lớn nhất
trong thế kỷ 20 đã là phép mầu Ấn Độ và có lẽ trong thế kỷ 21 cũng thế.
Ấn Độ đã thành công và còn đang tiếp tục thành công.
Tại sao Ấn Độ đã thành công?
Lý do đầu tiên và quan trọng nhất là dân chủ. Dân chủ cho phép phơi bày
những yếu kém và tố giác những sai phạm để sửa chữa. Dân chủ cho phép
đặt các vấn đề một cách đúng đắn và chọn lựa một cách đúng đắn những
người trách nhiệm. Dân chủ đã được thiết lập tại Ấn Độ trong những điều
kiện cực kỳ khó khăn về tất cả mọi mặt và đã thành công. Bài học Ấn Độ
là dân chủ có khả năng đưa một đất nước ra khỏi tình trạng tuyệt vọng và
thiết lập dân chủ không hề đòi hỏi một điều kiện tiên quyết nào cả.
Đúng ra dân chủ cũng đòi hỏi một điều kiện để thành công mỹ mãn, đó là
được thực hiện một cách lương thiện. Ấn Độ đã may mắn có được một giai
cấp chính trị lương thiện. Họ chấp nhân tự do ngôn luận và sự minh bạch,
ngay cả nếu vì thế mà những yếu kém của họ bị phơi bày. Họ chấp nhận
bầu cử tự do dù có thể bị thất bại. Nhưng lương thiện không phải chỉ là
điều kiện thành công của dân chủ mà là điều kiện bắt buộc của tất cả mọi
hoạt động, có gì không lương thiện mà thành công được đâu, trừ trộm
cướp? Vả lại dân chủ chính là điều kiện cần để áp đặt sự lương thiện như
một luật chơi trong sinh hoạt chính trị.
Tuy nhiên Ấn Độ đã
thành công ngoài mọi chờ đợi, và đó là bí ẩn cần được giải mã. Kinh
nghiệm cho thấy có những điều mà người ta chỉ có thể hiểu được qua tiếp
xúc trực tiếp tại hiện trường chứ không thể chỉ dựa trên các tài liệu.
Đó là những yếu tố tâm lý và văn hóa, trong khi chính trị và kinh tế chủ
yếu là những vấn đề tâm lý và văn hóa. Tham quan Ấn Độ là điều tôi muốn
từ lâu để trước hết tìm những sự kiện phản bác những kết luận tạm thời
đạt tới qua các tài liệu.
Một trong những phương pháp giản dị
nhất có thể dùng để giải thích mức độ thành công hay thất bại của một
dân tộc là gặp họ để nhận diện chân dung tập thể của họ qua nét mặt, cái
nhìn, cử chỉ, cách đi đứng và ăn nói. Chân dung của người Ấn Độ là một
chân dung của những người hiền lành và rất an nhiên, những người không
lo sợ sẽ bị bắt bớ, giam cầm, đuổi việc, lường gạt và cũng không đang âm
mưu làm hại hay lừa đảo ai. Những người như thế có thể làm việc với
nhau một cách lành mạnh và hiệu quả bởi vì họ không mất thời giờ để để
phá đám ai hay để đề phòng, chống trả lại và sửa chữa những thiệt hai
đến từ người khác. Đó là những người có thể kết hợp với nhau tạo ra
những sức mạnh mới và những khả năng mới của tập thể không có trong từng
cá nhân. Sức mạnh của các dân tộc chủ yếu ở khả năng kết hợp. Ấn Độ có
khả năng đó và có ở một mức độ rất cao. Thể chế dân chủ cho phép xã hội
dân sự phát triển tự do và người Ấn Độ hành sử tối đa và tối ưu quyền tự
do kết hợp. Con số chính thức các hiệp hội phi chính phủ là trên hai
triệu, nhưng đó là những NGO có tầm vóc và có đăng ký, con số thực sự
phải gấp mười lần vì đa số các nhóm không thấy có nhu cầu đăng ký.
Cần nhấn mạnh rằng quyền tự do kết hợp (freedom of association, thường
được dịch một cách sơ sài và sai là "quyền tự do lập hội") chỉ cần chứ
không đủ. Một bằng chứng là cộng đồng người Việt hải ngoại dù được hoàn
toàn tự do kết hợp nhưng đã không xây dựng được một tổ chức có tầm vóc
nào cả. Quan trọng hơn nhiều là những đức tính trong con người thuận lợi
cho kết hợp: sự trung thực, sự chuyên cần, sự kiên trì, lòng vị tha,
tính thích kết bạn, ước mong phục vụ thay vì lợi dụng tổ chức, đặt mục
tiêu chung lên trên tham vọng cá nhân v.v.. Những đức tính này người Ấn
Độ đều có và có ở mức độ cao. Họ có văn hóa tổ chức bẩm sinh. Tôi có thể
nhận thấy điều này ngay trong giao thông trên đường phố. Có những con
bò và những bầy heo rừng đi nhởn nhơ trong thành phố, xe cộ phải tránh
chúng và tránh nhau nhưng không ai tỏ ra bực bội. Ùn tắc giao thông ở Ấn
Độ còn nghiêm trọng hơn nhiều so với Việt Nam theo lời vợ tôi và xe cộ
phải luồn lách đủ kiểu. Rất bình thường nếu có xe chạy sang lề phải (Ấn
Độ lái xe bên trái) hay thậm chí chạy ngược chiều trên xa lộ. Không có
ai bực mình, mọi người đều hiểu là người kia bị tình thế bắt buộc chứ
không bất chấp luật pháp. Đường kẹt tới mức hễ có chỗ là phải lách xe
vào dù trái luật giao thông. Vậy mà trong suốt thời gian ba tuần lễ tôi
không bao giờ thấy một vụ đụng xe. Hỏi ra thì Ấn Độ hầu như không có tai
nạn giao thông bởi vì người ta nhường nhịn và tôn trọng nhau, người ta
lo cho mình và đồng thời cũng lo cho người khác. Trong suốt ba tuần lễ
tôi đã len lỏi trong nhiều khu nhộn nhịp, kể cả các khu chợ chen chúc,
trong nhiều thành phố nhưng chưa bao giờ thấy hai người Ấn Độ cãi nhau.
Họ luôn luôn thân thiện và hòa nhã. Các hướng dẫn viên của tôi quả quyết
người Ấn Độ không thích xung đột. Họ làm việc chăm chỉ nhưng không
giành giật. Những con người như thế rất dễ sống chung và hợp tác với
nhau. Và đó chính là lý do khiến nền dân chủ Ấn Độ đã thành công ngoài
mọi chờ đợi.
Do đâu mà người Ấn Độ có những đức tính quý báu đó?
Có lẽ phải tìm trong nguồn gốc của họ. Tôi không dám liều lĩnh tóm lược
lịch sử và văn hóa Ấn Độ trong một vài dòng mà chỉ dựa vào lịch sử và
văn hóa để hiểu Ấn Độ ngày nay. Càng ngày đa số các nhà sử học và khảo
cổ càng có khuynh hướng tin rằng nền văn minh đầu tiên của nhân loại đã
xuất hiện tại Ấn Độ. Người ta đã tìm thấy những di tích chứng tỏ rằng
cách đây 5000 năm những con người trong vùng thung lũng sông Indus đã
xây dựng được một xã hội khá tiến bộ về rất nhiều mặt, đặc biệt là thủ
công nghiệp, nghệ thuật và thiết kế đô thị. Đó là một nền văn minh bình
đẳng và phi bao lực. Người ta không tìm thấy vết tích của vũ khi và các
cung điện. Xã hội văn minh này đã bị các bộ lạc du mục hiếu chiến Aryen
đến từ Iran và Trung Á chinh phục vào khoảng thế kỷ 15 trước Công
Nguyên. Các bộ lạc này nói tiếng Sanskrit, một ngôn ngữ có nhiều từ
chung với các sắc dân Bắc Âu khiến người ta có thể nghĩ chúng có chung
nguồn gốc với người Châu Âu. Vì không có vũ khí và không biết chiến
tranh, người Ấn Độ đã nhanh chóng bị khuất phục, dù đông đảo hơn gấp
bội. Tiếp theo là hàng ngàn năm thống trị trong đó người Aryen áp đặt
tín ngưỡng Bà La Môn của họ. Thành phần ưu tú địa phương đã bị tiêu diệt
bởi vì người ta không còn hiểu những dấu tích chữ viết còn lại của xã
hội này. Tuy vậy, do số lượng quá ít, giai cấp thống trị dần dần bị địa
phương hóa, tương tự như trường hợp nhà Tiền Lý, họ Khúc, nhà Lý, nhà
Trần tại nước ta, những thủ lãnh từ Trung Quốc sang nhưng đã thành người
Việt. Văn hóa và tôn giáo dân gian, nghĩa là Ấn Giáo, dần dần giành lại
thế áp đảo. Quần chúng Ấn chấp nhận những thần linh Aryen như Brahma,
Vishnu v.v. như là những tên gọi khác của các thần linh sẵn có của họ
như Krishna, Rama v.v. Với thời gian không phải Brahma, đấng tối cao của
đạo Bà La Môn, mà Vishnu với những tên gọi Krishna, Rama, và cả
Siddhartha, được tôn sùng cùng với Shiva và nhiều thần linh khác không
có trong đạo Bà La Môn. Tại Ấn Độ chỉ còn hai đền thờ nhỏ dành cho
Brahma nhưng có hàng ngàn đền thờ nguy nga tráng lệ dành cho Vishnu,
Krishna, Rama, Shiva và các thần linh khác. Sự thoái bộ liên tục của đạo
Bà La Môn trước Ấn Giáo không phải chỉ diễn ra trong xã hội mà trong cả
tư tưởng. Từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 6 trước CN bộ kinh Upanishad đã được
tạo ra để bổ túc thánh kinh Veda của Bà La Môn. Nói là bổ túc những thực
ra là thay đổi (cũng tương tự như Phật Giáo Đại Thừa đối với Phật Giáo
Nguyên Thủy). Người ta có thể thấy trong Upanishad những tư tưởng hoàn
toàn trái ngược với quan niệm đẳng cấp của Bà La Môn. Thí dụ: "Luật là
sự tối thượng của sự tối thượng. Không có gì cao hơn luật. Luật khiến kẻ
yếu có thể khuất phục kẻ mạnh, như vua. Luật là sự thực" , hay "Đấng
tối cao là linh hồn của tất cả, là nguyên lý của vạn vật, tinh vi hơn
tất cả mọi sự tinh vi, là sự vĩnh cửu, là chính ngươi, chính là ngươi".
Khó có thể tìm thấy những tuyên ngôn về nhà nước pháp trị và nhân quyền
hùng hồn hơn. Một nhượng bộ quan trọng khác của Bà La Môn trước Ấn Giáo
là sự chấp nhận thuyết luân hồi trong Upanishad. Các nhà lý luận Bà La
Môn đã rất lúng túng để lý giải những mâu thuẫn giữa đạo Bà La Môn
nguyên thủy với tư tưởng Ấn Giáo được phơi bày trong Upanishad, và họ
không thành công. Phật Giáo đã xuất hiện vào thế kỷ thứ 6 (cùng với một
số tín ngưỡng khác như Jain và Samkhya) như là hậu quả của những mâu
thuẫn này và như một phản kháng đối với tư tưởng Bà La Môn. Phật giáo
phủ nhận đẳng cấp, nhìn nhận thuyết luân hồi, đề cao lẽ phải và sự từ bi
nhưng đồng thời, khác với Ấn Giáo, cũng phủ nhận luôn giá trị của cuộc
đời, chỉ nhìn cuộc đời như một chuỗi khổ đau. Phật Giáo có lúc đã được
áp đặt làm quốc giáo. Một cách không chủ ý nhưng tự nhiên Phật Giáo đã
mở đường cho Ấn Giáo tiến lên sáp nhập và tiêu hóa cả Bà La Môn lẫn Phật
Giáo. Sau này Ấn Giáo cũng đủ mạnh để chống trả lại sự áp đặt rất thô
bạo của Hồi Giáo do lực lượng thống trị ngoại xâm trong gần mười thế kỷ
trước khi người Phương Tây tới. Trái với một thành kiến sai khá phổ biến
Ấn Giáo không phải là một mê tín dân gian hay một tôn giáo bi quan yếm
thế. Trái lại nó là tôn giáo độc đáo nhất thế giới. Không có người sáng
lập, cũng không có hàng giáo phẩm và những người truyền giáo nhưng vẫn
có gần một tỷ tín đồ với một giáo lý tinh vi và thành văn, dù không ai
biết tác giả (cũng tương tự như kho tàng văn thơ ca dao của chúng ta
nhưng ở một qui mô lớn hơn nhiều). Không ai có thể đọc hết bộ kinh
Mahabharata dài gần 100.000 đoạn trong đó bài trường ca Bhagavard -
Gita, phúc âm của Ấn Giáo, đề cao tình yêu, bổn phận và lẽ phải được các
nhà nghiên cứu đánh giá là một trong những tác phẩm thi ca tuyệt diệu
nhất của nhân loại. Nét đậm nổi bật của Ấn Giáo là tôn trọng sự thực,
tôn trọng sự sống của con người cũng như của mọi sinh vật và từ chối bạo
lực trong cách ứng xử. Đó là một điểm yếu trong thời đại của bạo lực,
chiến tranh và chinh phục, đó cũng là lý do đã khiến Ấn Độ liên tục bị
xâm lăng và thống trị, nhưng đó lại là một sức mạnh quyết định trong
thời đại văn minh và dân chủ. Ấn Giáo cũng có những yếu tố tiêu cục như
các tôn giáo khác nhưng chứa đựng một văn hóa lành mạnh. Và chính nền
văn hóa lành mạnh đó đã giải thích sự thành công ngoài mọi chờ đợi của
Ấn Độ.
buocchangandhi
Những bước chân cuối cùng cùng của
Mahatma Gandhi. Ngày 30-01-1948, hồi 5 giờ chiều, sau khi nói chuyện với
Patel, cánh tay mặt của ông, Gandhi từ trong phòng này đi ra nhà nguyện
đề đọc kinh. Đi được một đoạn đường ngắn ông bị một người cực đoan bắn.
Ông thốt lên "Ô, Rama!" rồi tắt thở. Rama là một trong những vị thần
của Ấn Giáo mà Gandhi là một tín đồ. Lời cuối cùng của Gandhi bày tỏ sự
ngạc nhiên vì Ấn Giáo là một tôn giáo bất bạo động.
Xin kết luận bài này bằng hai nhận định cho Việt Nam qua trường hợp Ấn Độ.
Một là, đối với người Việt Nam cuộc tranh đấu cốt lõi của chúng ta
trong lúc này là giành lấy quyền tự do kết hợp và xây dựng một xã hội
dân sự lành mạnh. Nhưng quyền tự do kết hợp chỉ cần chứ không đủ. Điều
cần hơn là những con người trung thực và văn hóa tổ chức mà người Ấn Độ
có từ bẩm sinh nhưng chúng ta lại gần như phải phát minh ra, hoặc phát
minh lại. Đây là một cố gắng mà trí thức Việt Nam phải đảm nhiệm phần
chính, và muốn như thế thì trước hết họ phải là những trí thức đúng
nghĩa. Thiệt hại lớn nhất mà đảng và chế độ cộng sản gây ra cho nước ta
là sự xuống cấp của những giá trị đạo đức và sự thiếu vắng của xã hội
dân sự. Nhưng chế độ cộng sản không còn khả năng toàn trị như trước nữa.
Nếu thực sự có thành tâm và quyết tâm chúng ta vẫn có thể kết hợp ngay
trong lúc này. Vả lại muốn có quyền tự do kết hợp thì phải kết hợp trước
đã. Tự do không thể ban phát.
Hai là, nếu so sánh Ấn Độ và
Trung Quốc thì chúng ta có thể nói Ấn Độ là một lục địa hỗn tạp, nghèo
khổ và đầy mâu thuẫn mà dân chủ đang biến thành một nước lớn, hòa hợp và
đầy triển vọng, trong khi Trung Quốc là một nước vốn đã lớn mạnh, thống
nhất, văn minh và có nề nếp mà chế độ toàn trị đang phá hủy. Chúng ta
quý trọng nhân dân Trung Hoa nhưng không thể chấp nhận mô hình chính trị
tồi tệ và độc hai hiện nay của họ mà chính những người Trung Quốc sáng
suốt cũng đang cố gắng vất bỏ.
(11/2013)
Nguyễn Gia Kiểng
Nguồn: https://www.facebook.com/levanquy/posts/3652548009275
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét