Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2012

SỐNG ĐỂ CHIẾN TRANH- CHẾT CHO HÒA BÌNH- XVIII



                Lịch Sử Quân Sự Việt Nam Cộng Hòa
Tiếp theo…

 SỐNG ĐỂ CHIẾN TRANH- CHẾT CHO HÒA BÌNNH{18}


Huỳnh Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
September, 14-2012
6:00 PM
   Hoa sứ năm cánh hình cờ VNCH- Đây là hiện tượng thiên nhiên kỳ thú; báo hiệu vận nước thanh bình Việt Nam!!!
     


Binh Chủng Nhảy Dù
20 Năm Chiến Sự

Cập nhật Feb 25 2008
Tổng Công Kích Năm MẬU THÂN
Kể từ ngày 29/1/1968

Các địa phương bị tấn công trong dịp Tết Mậu Thân
Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và công cụ của họ là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) đã xuất toàn lực đánh lén Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) vào những ngày đầu Tết Mậu Thân trong năm 1968 trên khắp lãnh thổ Miền Nam khi họ đột ngột không giữ lời đề nghị ngưng chiến do chính họ đưa ra. Cộng Sản Bắc Việt cũng đã không nghĩ gì đến 3 ngày Tết Nguyên Đán, ngày truyền thống của dân tộc, những ngày đầm ấm nhất của xứ sở mỗi năm, hay sự yên vui của đồng bào để xum họp và cúng bái tổ tiên, một tập tục thiêng liêng từ ngàn xưa. Tuy mưu mô đã khéo, thuật xảo sắp đã hay, tiếng súng của Cộng Sản chỉ tạo được lợi thế bất ngờ trong vỏn vẹn ít tiếng đồng hồ ở thủ đô Saigon và một số thị trấn của Việt Nam Cộng Hòa. Tính chung, Cộng Sản đã thảm bại vì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã phản ứng rất mau lẹ. Và ngược lại điều tai hại cho họ là đã đụng đầu với sự lạnh nhạt của đồng bào Miền Nam khắp nơi.
Ngày Tết đến, người dân thành thị đã đón mừng Xuân Mậu Thân 1968 với tiếng pháo liên hồi. Tết Mậu Thân là Tết nhiều pháo nổ hơn mọi Tết khác rất nhiều. Giới giàu có, giới mại bản đốt những tràng pháo năm bảy thước và đốt rất nhiều. Giới ít tiền cũng tranh hơi cố gắng bỏ tiền đốt một vài tràng pháo đón Xuân lấy hên.
Lợi dụng việc bỏ giới nghiêm và lệnh hưu chiến do chính họ long trọng ưng thuận Việt Cộng đã mở cuộc tổng công kích trên toàn thể miền Nam tự do để đánh vào các lực lượng của quân đội VNCH trong giờ phút uy linh đón mừng Xuân mới. Đột nhiên xen lẫn giữa tiếng pháo mừng Xuân, tiếng súng Việt Cộng bùng nổ. Hậu phương đang thanh bình, trong giây phút biến thành tiền tuyến.
TẾT MẬU THÂN
Đêm giao thừa 30 Tết, tức ngày 29/1/1968, Việt Cộng đồng loạt tấn công vào 5 thị xã thuộc Vùng 2 Chiến Thuật: ( 5 Tỉnh thành nầy thuộc Quân Khu 5 của CSBV họ theo lịch của Hà Nội nên giao thừa trước một ngày nên không đồng loạt với các cánh quân khác)
Thị xã Nha Trang lúc 0 giờ 30.
Thị xã Darlac lúc 1 giờ 30.
Thị xã Kontum lúc 2 giờ 00.
Thị xã Qui Nhơn lúc 4 giờ 10.
Thị xã Pleiku lúc 4 giờ 40.
Đồng thời, Việt Cộng pháo kích và đột nhập vào Tổng Hành Dinh Quân Đoàn 1 lúc 3 giờ 40 sáng. Cũng trong đêm này, Việt Cộng đột kích vào Chi Khu Hội An, pháo kích vào thị xã Quảng Trị, phi trường Đà Nẵng, phi trường Non Nước về phía Nam Đà Nẵng khoảng 4 km và pháo kích tấn công nhiều đồn bót lẻ tẻ trên toàn quốc. Cả 5 thị xã kể trên và Tổng Hành Dinh Quân Đoàn 1 đều bị Việt Cộng lọt vào. Tuy nhiên tại Qui Nhơn, Nha Trang và Pleiku áp lực Việt Cộng đã được giải tỏa nhanh chóng. Tổng hành dinh Quân Đoàn 1 cũng đẩy lùi địch quân trong vài giờ đồng hồ. Các lực lượng Việt Cộng tại các thị xã Ban Mê Thuột và Kontum cũng bị đẩy lui ngay. Tuy nhiên, tại hai thị xã này, Việt Cộng đã bám sát và tạo áp lực mạnh quanh vùng. Sau nhiều ngày chiến đấu, quân đội VNCH mới hoàn toàn làm chủ tình hình. Khi xảy ra vụ tấn công đêm giao thừa, chính quyền trung ương VNCH đã thông báo ngay cho các địa phương biết để kịp phòng bị.
Sáng ngày Mồng Một Tết (30/1/1968),trên đài phát thanh quốc gia Saigon Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tố cáo Việt Cộng vi phạm trắng trợn việc hưu chiến trong dịp Tết và tuyên bố hủy bỏ lệnh ngưng  bắn của Chính Phủ VNCH.
Đêm mồng 1 Tết, tức 24 giờ sau các cuộc tấn công vào các tỉnh lỵ miền Cao nguyên và miền Trung, Việt Cộng mở các cuộc tấn công vào đô thành Saigon - Chợ Lớn và các tỉnh lỵ miền Nam. Tính theo kế hoạch tổng công kích, Việt Cộng đã đồng loạt mở các cuộc tấn công và đột kích vào 25 tỉnh lỵ và thị trấn trong số 44 Tỉnh của VNCH ( xem bản đồ phía trên) thời gian như sau: 
Tại Vùng 1 Chiến Thuật :
Huế bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 02 giờ
Quảng Trị bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ
Quảng Tín bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ
Quảng Ngãi bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ
Tại Vùng 2 Chiến Thuật:
Bình Thuận bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 3 giờ 25
Tuyên Đức bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 Tết lúc 02 giờ
Tại Vùng 3 Chiến Thuật:
Thủ đô Saigon - Chợ Lớn - Gia Định bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 02 giờ.
Bình Dương bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 04g25
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh bị tấn công lúc 08g30 sáng mồng 2 Tết
Biên Hoà bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 03 giờ
Long Khánh bị tấn công đêm mồng 4 rạng mồng 5 Tế lúc 01 giờ
Tại Vùng 4 Chiến Thuật:
Phong Dinh bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 03 giờ
Vĩnh Long bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 lúc 03g30
Kiến Hoà bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 03 giờ
Định Tường bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 04 giờ
Kiên Giang bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 02g40
Vĩnh Bình bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 4g15
Kiến Tường bị tấn công đêm mồng 4 rạng mồng 5 lúc 04g15
Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 44 bị tấn công đêm mồng 6 rạng mồng 7 lúc 1g25
Gò Công bị tấn công đêm mồng 7 rạng mồng 8 âm lịch lúc 2g35
Bạc Liêu bị tấn công đêm 12 rạng 13 âm lịch, tức ngày 10/2/68
Như vậy trong 44 tỉnh lỵ, Việt Cộng đã tấn công vào 28 nơi.Cuộc tấn công của Việt cộng kể ra cũng khá linh hoạt, tuy không diễn ra trong một lúc nhưng khoảng cách của các trận đánh ở các tỉnh lỵ không quá rời rạc.
Tại Sàigòn, Quân Lực VNCH kịp thời đưa quân tặng viện vào thủ đô để đối phó. Quân số trực tiếp tham chiến tại thủ đô tính đến ngày 4 tháng 2/1968 đã lên hơn 10 tiểu đoàn, không kể các lực lượng Cảnh Sát đô thành.
Măt Trận Sài Gòn
Lịch Sử Sài Gòn.
Địa danh Sài Gòn tồn tại trên nhiều thế kỷ, khoảng trên 300 năm, trước đó Sài Gòn có nhiều tên khác nữa. Đến năm 1668 Sài Gòn có tên là Huyện Tân Bình, lúc này chỉ khoảng 5,000 km², phía Tây là sông Sài Gòn. 
            Vào thời kỳ cổ đại, Sài Gòn thuộc đế quốc Phù Nam. Đầu thế kỷ 17 vùng đất này, lúc đó là một làng nhỏ, dân cư thưa thớt và mang tên Prei Nokor, nằm trong khu vực tranh chấp giữa Chân LạpChiêm Thành.
            Năm 1623, Chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II ( năm 1920 cưới Công Chúa Ngọc Vạn của Chúa Nguyễn ) cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng cũng là địa điểm qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi CampuchiaXiêm La. Cùng khi đó, người Việt bắt đầu tập trung sinh sống tại xung quanh hai đồn này. Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành trung tâm thị tứ công nghiệp và thương nghiệp sầm uất.
Năm 1698, chúa Nguyễn cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, thiết lập chính quyền, các đơn vị hành chánh, chia đặt tỉnh lỵ v.v.. Nguyễn Hữu Cảnh lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long và xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, đặt ra hai dinh Trấn Biên (Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định), ("Trấn" là khu vực quân sự, chưa ổn định việc cai trị). Từ đó, xứ Sài Gòn trở thành huyện Tân Bình, huyện sở đặt ở làng Tân Khai. Những xóm làng đầu tiên của Sài Gòn là xóm Hòa Mỹ (gần đường Cường Để) xóm Tân Khai (đường mé sông khoảng cầu Mống), xóm Long Điền, xóm Than, xóm Bàu Sen (cây Mai), xóm Phú Giáo, xóm Lò Bún, xóm cây Củi, xóm Rẫy Cải, xóm Ụ Ghe. Sài Gòn trở thành một thị trấn đông đúc với hơn một vạn dân và Minh Hương là xã đầu tiên của người Hoa tại Tân Bình.
Năm 1790, Sài Gòn được nâng lên thành Kinh Gia Định, nơi đóng đô của Nguyễn Ánh chống quân Tây Sơn. Vào năm 1802, dưới triều vua Gia Long, Gia Định Kinh được đổi thành Thành Gia Định (vì kinh đô là Huế), thuộc Trấn Gia Định.
Sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, thành Gia Định bị phá huỷ, một thành mới nhỏ hơn gọi là thành Phụng được xây dựng. Thành này không chống nổi cuộc vây hãm của quân Pháp vài năm sau đó.
Vào năm 1859 sau khi chiếm được Sài Gòn, người Pháp đã gấp rút quy hoạch xây dựng Sài Gòn thành một đô thị lớn. Ngày 11 tháng 4 năm 1861, Phó Đô đốc Charner ra nghị định xác định địa giới Sài Gòn lúc đó: phía đông là sông Sài Gòn, phía bắc là rạch Thị Nghè, phía nam là rạch Bến Nghé, phía tây từ chùa Cây Mai đến đồn Kỳ Hòa, diện tích 25 km².
            Từ năm 1954  sau Hiệp định Genève, Sài Gòn chính thức là Thủ Đô của Việt Nam Cộng hòa. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 143-NV đổi "Đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn" thành "Đô thành Sài Gòn" và chia thành 8 quận hành chính (được đánh số: Quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8), dưới quận là phường (có 54 phường), dưới phường là khóm. Đầu năm 1967 hai xã An Khánh và Thủ Thiêm của quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định kế cận, được sáp nhập vào Đô thành Sài Gòn lập nên Quận 9. Tháng 7 năm 1969 thành lập Quận 10, Quận 11 trên cơ sở tách một phần Quận 5 và Quận 6. Lúc này thành phố có diện tích 71 km² với dân số khoảng 2 triệu người.
Thành phố tiếp tục phát triển rực rỡ và được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" (The Pearl of the Far East) hay "Paris Viễn Đông" (Paris de l'Extrême-Orient), với một hạ tầng cơ sở được xây dựng khá hoàn chỉnh.
Trong những ngày Tết Mậu Thân, VC muốn gây tiếng vang trong dư luận, đặc biệt là trong dư luận Hoa Kỳ nơi phong trào phản chiến đang lan rộng. Việt Cộng muốn cho mọi người thấy rằng ngay cả Dinh Ðộc Lập là biểu tượng quyền lực của miền Nam cũng có thể bị chúng uy hiếp. Chính vì vậy mà ngay trong đợt tấn công đầu, hai mục tiêu quan trọng nhất của chúng là Dinh Ðộc Lập và Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ. VC tập trung nỗ lực vào các khu lao động đông dân chúng. Ý đồ của chúng là tuyên truyền và khích động dân chúng nổi dậy trong kế hoạch “tổng công kích, tổng khởi nghĩa”. Cộng Sản Hà Nội đã ra lịnh cho c.ác cán bộ và cán binh Việt Cộng tấn công vào đô thị của VNCH phải thực hiện ba nhiệm vụ quan trọng sau đây: a) phá hoại Hoa Kỳ về phương diện quân sự và chính trị, (b) phá hoại Việt Nam Cộng Hòa bằng cách làm tan rã quân đội và làm cho quần chúng không tin tưởng ở chính quyền quốc gia, (c) đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị bằng cách xúi dục người dân nổi dậy lật đổ chánh phủ.
Kết quả là Việt Cộng đã hoàn toàn thất bại, trong khi đó họ đã phá hủy 50,000 căn nhà của dân, đem chết chóc đến cho 14,000 đồng bào đủ cả già trẻ gái trai và "vô sản hóa" 70,000 người đa số là dân lao động. Ngoài ra điều dã man chưa từng thấy trong lịch sử loài người là họ đã xua những lực lượng gồm 7 phần 10 con nít vào lò lửa chiến tranh và mở những cuộc pháo kích bừa bãi vào những khu gia cư nghèo khó, đông đúc không có lấy một cơ quan quân sự, để trả thù sự bất cộng tác của dân chúng.
Cộng Sản dám làm tất cả, dùng bất cứ phương tiện gì dù có tàn ác nhất nếu để đạt đến mục tiêu, tức chiến thắng cho họ

Lực lượng tham chiến của CSBV
Cộng Sản bắt đầu tấn công vào Sàigòn vào lúc 2.00 sáng ngày mồng 2 Tết. Việt cộng dùng lực lượng đặc công F100 để tấn công vào các vị trí quan trọng .Trong khi đó các đơn vị chủ lực từ các vùng ngoại ô tiến vào các khu đông dân cư kêu gọi dân chúng nổi dậy. Các đơn vị cộng quân tấn công vào Sài Gòn Chợ Lớn và Gia Định đặt dưới quyền điều động của BTL tiền phương phía Bắc do Trần Văn Trà, Mai Chí Thọ và Lê Đức Anh chỉ huy và BTL tiền phương phía Nam do Vỏ Văn Kiệt và Trần Bạch Đằng chỉ huy. Danh hiệu của những đơn vị Việt Cộng trực tiếp tham chiến với các mục tiêu tấn kích được ghi nhận trong nội ô đô thành và ở vùng phụ cận như sau:
Một Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 271 (thuộc Công Trường 9) tăng cường cho TĐ/56/U80 đánh vào Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung và vùng phụ cận.
Các Tiểu Đoàn 267 và 269 phối hợp với thành phần của Trung Đoàn 271 đánh vào phi trường Tân Sơn Nhất.
Một tiểu đoàn của Trung Đoàn 273 Công Trường 9 tấn công Chi Khu Thủ Đức.
Tiểu Đoàn 1 Củ-Chi, được tăng cường một tiểu đoàn của Trung Đoàn 101 (thuộc Công Trường 7) và một thành phần của Tiểu Đoàn 2 Cơ Giới  đánh chiếm các căn cứ quân sự Gò Vấp.
Tiểu Đoàn 2 Gò Môn phối hợp với đội đặc công J1/F100 tấn công Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ở cổng số 4.
Tiểu Đoàn 3 Dĩ An, còn được gọi là "3/165A," tấn công khu vực Hàng Xanh.
Tiểu Đoàn 4 Thủ Đức, còn được gọi là "4/165A," tấn công khu xa lộ Saigon.
Tiểu Đoàn 6 Bình Tân, còn được gọi là "6/165A," tấn công vùng Phú Thọ - Bà Hạt.
Tiểu Đoàn 508 Long An tấn công vùng Bình Tây.
Biệt-Động Đội F100 tấn công vào nhiều mục tiêu khác nhau, gồm đài phát thanh, cổng số 5 ở Bộ Tổng Tham Mưu, Dinh Độc Lập, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, và Tòa Đại sứ Phi Luật Tân.

Diển Tiến : 
6.00 giờ chiều ngày mồng 1 Tết (30/1/1968), TÐ1ND được lệnh tăng phái khẩn cấp cho Biệt Khu Thủ Ðô một Ðại Ðội để giữ an ninh. ÐÐ15ND do Ðại Úy La Trịnh Tường chỉ huy được chỉ định thi hành và đặt dưới quyền điều động của cục An Ninh Quân Ðội.
Ðại Ðội 15 ND chia đơn vị ra thành 3 toán, một Trung Ðội trấn giữ tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ ở đường Hồng Thập Tự, một Trung Ðội giữ an ninh vòng đai cục An Ninh Quân Ðội ở đường Mạc Ðỉnh Chi và một Trung Ðội trấn giữ trên lầu đài Phát Thanh Sài Gòn làm thành phần trừ bị cho một đơn vị Ðại Ðội Cảnh Sát Dả chiến và chỉ đặt một chốt chặn có 4 binh sỉ trên đường Phan Ðình Phùng phía trái đài phát thanh. Ðến nữa đêm, tình hình vẫn yên tỉnh.
Trong khi đó TĐ8ND chuẩn bị lên đường ra Đà Nẳng để hoán chuyển TĐ5ND về hậu cứ dưởng quân và chỉnh trang đơn vị. Vì vậy 2 Đại Đội / TĐ8ND đã sẳn sàng với trang bị đầy đũ lúc nửa đêm đã có mặt tại bải bốc Phi Trường Tân Sơn Nhất cạnh Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù chờ lên phi cơ.
Ðến 1.00 giờ sáng, (ngày 31/1/1968) VC khởi đầu tấn công vào cổng gác Nguyễn Du của Dinh Ðộc Lập bằng B-40 và hàng loạt AK-47. Cổng này nằm trên đường Nguyễn Du ngay góc đường Thủ Khoa Huân. VC dự tính bắn sập vọng gác nầy để vượt rào cản vào bên trong đặt chất nổ, toán Cảnh Sát Chi Tao Ðàn liền nhào tới bắn trả đẩy chúng vào một cao ốc 5 tầng bỏ trống đang xây cất dở trên đường Thủ Khoa Huân và tiêu diệt.
Sau đó lệnh báo động được ban hành, cấm tất cả mọi xe cộ kể cả xe tuần tiểu xuất nhập vào các công thự quốc gia kể cả đài phát thanh. Ðúng 2.55 giờ, một xe Quân cảnh Mỹ và một xe Simca dân sự  đến dừng lại trước cổng đài phát thành và bất thần tấn công toán gát cổng. 3 Binh sỉ Nhảy Dù tử thương ngay tức khắc. Lực lượng Nhảy Dù phản ứng nhanh chóng, điều động toán ứng trực trên nóc đài phát thanh và Trung Ðội tại cục ANQÐ phản công quyết liệt ( Toán CSDC canh gát đã lặn mất ). Sau 2 giờ quần thảo, Trung Ðội Nhảy Dù đã tiêu diệt 14 tên VC dự định đột nhập đài phát thanh để phát đi lời kêu gọi dân chúng hưởng ứng nổi dậy.
Vào khoảng 3 giờ 45 rạng ngày mồng 2 Tết, Đại Đội 1 của Tiểu Đoàn 269 Việt Cộng xung phong vào Phi đạo Tân Sơn Nhất, tiền đồn OF 50-51 và OF 49-50. Bị phản công mạnh, Việt Cộng bèn cắt hàng rào mở một đường nhỏ xuyên qua bãi mìn để đánh xuyên hông cố gấp rút thanh toán hai tiền đồn này. Sau khi nhổ xong hai tiền đồn này, Việt Cộng bắt đầu dàn hàng ngang và di chuyển qua một bãi trống ở cuối phi đạo. Tại đây Việt Cộng nhìn thấy rõ ràng một bãi đậu phi cơ đủ-loại ở cách đó chừng 600 mét. Lúc đó là 5 giờ 20 sáng.
Giữa lúc đó, hai chiến xa M-8 của lực lượng phòng thủ  xuất hiện bắn cản đường. Hai Đại Đội / TĐ8ND ( chờ lên phi cơ để không vận ra Đà Nẳng ) được lệnh tăng phái trợ chiến cho BTL Không Đoàn 33 bảo vệ phi trường. Loạt súng phản công đầu tiên đã chận đứng toán Việt Cộng khi họ chỉ còn cách phi đạo khoảng 400 mét. Những cán binh Việt Cộng hốt hoảng tìm chỗ ẩn nấp và bố trí nhưng không kiếm được một điểm tựa nào trong cánh đồng cỏ hoang này.
Hai chiến xa M-8 dần dần tẻ qua hai bên rồi bắn chéo cạnh xe để nhường chính diện cho đơn vị Nhảy Dù phản công. Quân Việt Cộng đột nhiên bị dồn vào một vi thế bất lợi. Họ tháo lui và chạy vào cố thủ trong các tiền đồn đã chiếm được.
Khoảng 8.00 giờ sáng, một đoàn thiết vận xa của Hoa Kỳ từ Củ Chi về Saigon di chuyển ngang qua  phía đầu phi đạo, bị Việt Cộng bắn chận làm cháy hai chiếc. Các thiết vận xa đã phản công bắn đại bác ngay vào đồn OF 50-51 khiến Việt Cộng phải rời khỏi khu vực phòng thủ và rút vào khu vực hãng dệt Vinatexco, sau đó lực lượng Nhảy Dù đã xung phong và chiếm lại các tiền đồn OF và bao vây Cộng quân trốn vào hảng dệt. Trong trận này có 162 Việt Cộng bỏ thây. Một xe ủi đất đã được đem đến để đào một hố rộng để chôn họ.
Sáng mồng 2 Tết, các đơn vị Việt Cộng mưu toan đánh úp các cơ quan đầu não của Việt Nam Cộng Hòa đã không thành công trong đêm trước. Việt Cộng không đánh vào bất cứ một cơ quan nào của Hoa Kỳ. Và với các cánh quân nói trên, họ hy vọng ở sự tiếp tay nổi dậy của dân chúng, cố gắng lan tràn vào các khu đông dân cư. Dân chúng thấy Việt Cộng đến đâu, đều lũ lượt dắt díu nhau lánh cư vào trong thành phố.
Ngay trong đêm mồng 2, lực lượng phản công của chánh phủ được tung ra. Trong khi đó Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù chia quân làm hai cánh. Cánh thứ nhất gồm hai đại đội được phái tới giải tỏa cổng số 4 của Bộ Tổng Tham Mưu. Nhưng suốt ngày vẫn không giải quyết xong vì Việt Cộng núp trong khu nhà bằng gạch của Trường Sinh Ngữ Quân Đội và bắn ra dữ dội.
Cánh thứ hai với hai đại đội còn lại bảo vệ đầu phi đạo Tân Sơn Nhất ở Bà Quẹo và ngăn chận Cộng quân xâm nhập khu hãng dệt Vinatexco.
Vào buổi trưa, toàn bộ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù từ Vũng Tàu được đưa về phi trường Tân Sơn Nhất chờ lệnh. Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân (BĐQ) với bốn tiểu đoàn (Tiểu Đoàn 30, 33, 34 và 38) đang trấn đóng vòng quanh khu bán nguyệt từ Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh đến Hốc Môn. Đêm hôm đó, Liên Đoàn 5 nhận được lệnh gửi ngay hai tiểu đoàn Biệt Động Quân về giải cứu thủ đô. Tiểu Đoàn 30 và 38 Biệt Động Quân lập tức đã tiến vào thành phố trước khi trời sáng. Tiểu Đoàn 30 Biệt Động Quân đến khu vực Hàng Xanh Xa Lộ lúc 4 giờ sáng ngày mồng 2 Tết. Tại đây, các binh sĩ Mũ Nâu này đã chạm súng dữ dội với Việt Cộng. Trong khi đó Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân xuất phát từ Nhà Bè vào 4 giờ sáng ngày mồng 2 Tết đến giải tỏa khu Phú Thọ, Trần Quốc Toản.
Vào buổi chiều, đài phát thanh loan tin chiến sự tại khu Hàng Xanh cho biết quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã cầm chân một đơn vị VC. Một tin khác được loan đi vào hồi 17 giờ 00 yêu cầu dân chúng Bà Quẹo tránh xa khỏi hãng dệt Vinatexco, nơi Việt Cộng đã bị TĐ8ND bao vây và dồn chúng vào khu vực nầy, quân đội sẽ oanh tạc vào đúng 18 giờ 00. Loa phóng thanh cũng kêu gọi toàn bộ lực lượng Việt Cộng trong khu vực này ra đầu hàng. Hãng dệt Vinatexco sau đó đã bị oanh tạc thiêu rụi vào giờ ấn định trên. Quyết định oanh tạc được ban ra vì sợ Việt Cộng lợi dụng đêm tối sắp đến để tăng cường thêm quân đánh vào phi trường Tân Sơn Nhất.
Sáng mồng 3 Tết ( 1/2/1968), tám tiểu đoàn tổng trừ bị đã có mặt tại đô thành. Các lực lượng này được phối trí để mở các cuộc phản kích như sau:
-   Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù bảo vệ đài phát thanh và làm lực lượng trừ bị.
-   Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đi giải tỏa cổng xe lửa số 2 (Gia Định).
-   Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến giải tỏa trại Cổ Loa và Phù Đổng.
            -   Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến chận đường rút lui của Việt Cộng tại trại Cổ Loa.
-   Tiểu Đoàn 30 Biệt Động Quân giải tỏa khu Hàng Xanh Xa Lộ.
-   Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân giải tỏa khu Phú Thọ, Bà Hạt.
-   Tiểu Đoàn 6 và 8 Nhảy Dù giải tỏa cổng số 4 trại Trần Hưng Đạo.
Cánh quân thứ hai của Việt Cộng mãi tới 7 giờ 05 sáng ngày mồng 2 Tết mới bắt đầu đánh vào cổng số 4 Bộ Tổng Tham Mưu. Việt Cộng lọt được vào cổng nhưng chỉ bám vào khu trường Sinh Ngữ Quân Đội không tiến sâu vào trong được.
Đến 09 giờ 00, 2 ĐĐ/TĐ8 Nhảy Dù đến tăng cường Bộ Tổng Tham Mưu. Lực lượng này với một vài thiết giáp M-41 mở cuộc phản công ở cổng số 4. Việt Cộng nằm trong các công sự phòng thủ có sẵn, nấp theo các nhà cửa và từ các cao ốc tại đường Võ Di Nguy nối dài bắn vào khiến các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa không thể tiến được. Một chiến xa M-41 bị B-40 bắn cháy, một số chiến sĩ Nhảy Dù bị thương. Cả ngày mồng 2 Việt Cộng bám giữ khu cổng số 4.
Sáng ngày mồng 3 Tết, Bộ Tư Lịnh Sư Đoàn Nhảy Dù điều động Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù đến phối hợp với TĐ 8 Nhảy Dù đã hiện diện để thanh toán mục tiêu cổng số 4.
Trước cuộc phản công, các phi cơ trực thăng thay nhau xạ kích khu hành chánh của Đại Đội Tổng Hành Dinh, khu trường Sinh Ngữ Quân Đội, khu trường Tổng Quản Trị. Kế đó các đơn vị Nhảy Dù theo hướng từ cổng số 3 và cổng số 2 tiến lên. Trước hỏa lực mạnh mẽ của Nhảy Dù từ 2 mặt dàn rộng ra bắn vào, Việt Cộng phải mở đường máu rút ra phía rào trốn vào đường Võ Di Nguy. Cuộc hành quân này hoàn tất lúc 10 giờ sáng. Việt Cộng bỏ lại chiến địa 10 xác chết.
Trong ngày này, lực lượng Nhảy Dù đã hoàn tất nhiệm vụ giải tỏa cổng số 4 trại Trần Hưng Đạo ngay trong buổi sáng. Trực thăng võ trang đã phải oanh kích vào khu vực này gây thiệt hại về doanh trại cho Trường Sinh Ngữ Quân Đội, Trường Tổng Quản Trị, Trung Tâm Huấn Cụ và Thính Thị và một vài thiệt hại nhỏ cho các cơ sở khác kế cận. Cũng trong ngày hôm đó, các tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến chiếm lại được các trại Cổ Loa và Phù Đổng. Cả hai nơi này đều bị Việt Cộng trấn giữ từ hôm xảy ra các trận đánh.
Trong ngày mồng 3 Tết, hoạt động của Việt Cộng trên toàn quốc có phần suy giảm tuy họ vẫn bám sát được vào một vài thành phố như Saigon, Huế, Ban Mê Thuột, Kontum, Mỹ Tho và Vĩnh Long. Còn tại các nơi, các phần tử Việt Cộng thất tán trong các khu dân cư và đang bị tiêu diệt.
Ngày 5/2/1968 Chiến dịch Trần Hưng Đạo được khai sinh do Đại tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa) đích thân điều khiển để cấp thời giải tỏa thủ đô và thanh toán địch.
Thiếu Tướng Trần Thanh Phong (Tham Mưu Trưởng Liên Quân) làm tham mưu trưởng chiến dịch. Chuẩn Tướng Cao Hảo Hớn là tham mưu phó.
Chiến dịch Trần Hưng Đạo bao gồm một địa bàn hoạt động gồm thủ-đô cùng các vùng ven-đô, và cuộc hành quân đại quy mô này đã được chia làm sáu khu vực trách nhiệm (đến ngày 9 tháng 2/1968 thêm một khu vực trách nhiệm khác được giao cho lực lượng Hoa Kỳ phụ trách) và chiến dịch nầy được chấm dứt vào ngày 17/2/1968.
1-   Khu Vực Trách Nhiệm A do Thiếu Tướng Dư Quốc Đống (Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) chỉ huy. Cuộc hành quân tảo thanh Việt Cộng tại Khu A do hai chiến đoàn Nhảy Dù phụ trách. Đó là Chiến Đoàn 2 (với các Tiểu Đoàn 6 và 8) phụ trách khu vực Bà Quẹo, Phú Thọ Hòa, Bà Điểm, và Tân Phú. Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù (với Tiểu Đoàn 1 và 3 Nhảy Dù) phụ trách khu vực Cổ Loa, Xóm Mới, và Gò Vấp. Trong khi đó tại Bộ Chỉ Huy Khu A có Tiểu Đoàn Pháo Binh Nhảy Dù và Chi Đoàn 2/10 Thiết vận xa trấn đóng.
2-   Khu Vực Trách Nhiệm B do Đại Tá Yên (Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến) chỉ huy. Khu B thuộc vùng trách nhiệm của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến gồm Chiến Đoàn "B", Tiểu Đoàn Pháo Binh (cũng trực thuộc Thủy Quân Lục Chiến) và Chi Đoàn 1/5 Chiến Xa phụ trách khu vực Gia Định, xa lộ, và Thủ Đức.
3-    Khu Vực Trách Nhiệm C do Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia) chỉ huy. Khu C tương đối yên tỉnh. Trách nhiệm tảo thanh Việt Cộng được trao cho các đơn vị Cảnh Sát đô thành và Cảnh Sát Dã Chiến phụ trách.Cuộc hành quân tại khu này bao gồm các quận hành chánh 1, 2, 3, 4 và 5.
4-   Khu Vực Trách Nhiệm D do Đại Tá Trần Văn Hai (Chỉ Huy Trưởng BCH/BĐQ) chỉ huy. Khu D thuộc vùng trách nhiệm của binh chủng Biệt Động Quân, gồm Liên Đoàn 5 (với 4 tiểu đoàn) được phân chia như sau: Tiểu Đoàn 33 phụ trách khu vực Bình Thới, Cầu Tre. Tiểu Đoàn 38 phụ trách khu vực Minh Phụng. Tiểu Đoàn 41 phụ trách khu vực Phú Định. Tiểu Đoàn 30 phụ trách khu vực Bình Đông. Các đơn vị Biệt Động Quân này phải hoạt động trên địa bàn của các quận hành chánh 6, 7 và 8. Ngoài các lực lượng trên, Bộ Chỉ Huy Khu D còn có Chi Đoàn 5/1 Thiết Quân Vận, một đại đội Giang Thuyền (hoạt động tại Quận 6) và một đại đội Trinh Sát của Biệt Động Quân.
5-    Khu Vực Trách Nhiệm E do Chuẩn Tướng Ngô Dzu chỉ huy. Khu E thuộc khu vực trách nhiệm của các quân nhân phục vụ tại Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Các quân nhân này ngoài nhiệm vụ tham mưu được tổ chức thành đội ngũ để phụ trách phòng thủ trại Trần Hưng Đạo và bảo vệ các khu vực xung quanh trại này.
Ngoại trừ tiểu đoàn danh-dự liên quân, Đại Đội 1 Quân Cảnh và các chi đội chiến xa M-41, thiết vận xa M-113 với Chi Đội V-100 được tăng cường đều là những thành phần chiến đấu đã có sẵn, tất cả các Phòng, Sở, Tổng cục ở trong trại Trần Hưng Đạo đều phải tham gia vào tổ chức chiến đấu này.
6-   Khu Vực Trách Nhiệm F do lực lượng Hoa Kỳ phụ trách. Khu F thuộc vùng trách nhiệm của lực lượng Hoa Kỳ gồm khu vực Nam kinh đô và Tây Phú Thọ Hòa được tách ra khỏi Khu D kể từ ngày 9 tháng 2/1968. Trong khuôn khổ chiến dịch Trần Hưng Đạo còn có một lực lượng Hoa Kỳ đóng quân ở vòng ngoài thủ đô.
Ngày 6/2/1968 tại Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, lực lượng Nhảy Dù cũng chạm súng lẻ tẻ với Việt Cộng. Trận đáng kể nhất đã xảy ra tại Xóm Mới, Gò Vấp. Vào buổi trưa ngày 6 tháng 2/1968, Chiến Ðoàn 3 Nhảy Dù chạm súng mạnh với một tiểu đoàn Việt Cộng. Điạ điểm xảy ra trận đánh ở Trại Phù Đổng, một cây số về phía Đông Bắc trại Cổ Loa. Ở đầu trận đánh, Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù đưa TĐ3ND và chi đội chiến xa mới được tăng phái dẫn đầu tiến thẳng vào khu Xóm Mới, đến khu Lạng Sơn và Xóm Dừa liền bị Việt Cộng chận đánh bằng các loại súng nặng như thượng liên, đại liên và B-40 khiến một thiết vận xa M-113 bị bắn cháy và một chiến xa M-41 bị hư hại.
Lúc này trực thăng đến dùng rocket bắn yểm trợ, vì vậy quân đội chánh phủ lên tinh thần và ồ ạt tiến quân càng lúc càng bám sát đối phương. Việt Cộng vội vàng kéo cờ trắng đầu hàng, các binh sĩ Nhảy Dù ngưng nổ súng để đón rước. Việt Cộng lợi dụng lúc quân đội chánh phủ không tiếp tục bắn, họ tháo chạy, nhưng vòng vây quân đội đã xiết chặt. Kết quả trận đánh gồm 120 Việt Cộng chết với 35 vũ khí bị tịch thu, phía quân đội Việt Nam Cộng Hòa có 12 binh sĩ tử thương cùng 42 bị thương.
Vào ngày kế tiếp, Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù tiếp tục chạm địch mạnh tại vùng Thông Tây Hội phía Tây Bắc trại Cổ Loa. Tại đây có 60 Việt Cộng bị bắn hạ, 30 vũ khí đủ loại bị tịch thu.
Tại khu C, Việt Cộng chận bắn Đại Ðội 114 Nhảy Dù tại gốc đường Tổng Đốc Phương và Khổng Tử khi đơn vị này đến tăng cường cho khu D nhưng chúng bị tiêu diệt ngay.
Ngày 10 / 2/1968, tại đô thành Saigon - Chợ Lớn, quân đội VNCH tiếp tục mở các cuộc lục soát trong nội thành và hành quân tảo thanh vùng ven độ. Các lực lượng Việt Cộng lần lượt rút ra xa đô thành.

Theo một bản ước tính, lực lượng Cộng Sản tính từ trước ngày mở cuộc tổng công kích 29 tháng 1/1968 được xác nhận vào khoảng 323,500 người. Số tổn thất của họ được ước lượng trong thời gian TCK đến ngày 29/2/1968 là khoảng 45,000 người. Con số tổn thất này được phân loại như sau:
18,600 chết: gồm cán binh thuộc các đơn vị tác chiến
4,000 chết: gồm cán binh thuộc các cơ quan hậu cần
12,400 chết: gồm các thành phần du kích
5,000 chết: gồm các thành phần cán bộ chính trị
5,000 chết: gồm các thành phần phụ lực khác
Như thế, chỉ trong vòng một tháng chiến đấu, có 45,000 quân Cộng Sản đã bị tiêu diệt trong các cuộc phản công của các lực lượng Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ.
Trừ số tổn thất từ ngày tổng công kích, quân số còn lại của VC tính cho đến ngày 29/2/1968 là: 110,600 cán binh tác chiến , 33,700 cán bộ tham mưu và chỉ huy hậu cần , 62,200 quân du kích (riêng rẻ) , 79,000 cán bộ chính trị
Ngày 11/3/1968 Cuộc hành quân "Quyết Thắng." gồm Khoảng 50,000 binh sĩ thuộc các đơn vị của 6 sư đoàn và 2 chiến đoàn Tổng trừ bị đã tham dự  tại năm tỉnh quanh thủ đô : Gia Định, Long An, Biên Hòa, Bình Dương và Hậu Nghĩa.
Phía Việt Nam Cộng Hòa,có các đơn vị thuộc Sư Đoàn 5 và Sư Đoàn 25 Bộ Binh, một chiến đoàn Nhảy Dù, một chiến đoàn Thủy Quân Lục Chiến, một đơn vị Biệt Động Quân và một số Cảnh Sát.
Về phía Hoa Kỳ có các đơn vị thuộc Sư Đoàn 9 và Sư Đoàn 25. Kết quả của chiến dịch này không thu hoạch như mong muốn vì chủ lực của Việt Cộng đã lẩn trốn để tránh né các cuộc chạm súng.
Các tin tức tình báo thu lượm được trong cuộc hành quân nầy cho biết phía CS đang chuẩn bị phát động một cuộc tấn công mới vào QLVNCH quanh Sàigòn Gia Định







Mặt Trận  Quảng Trị.

Không ảnh thành phố Quảng Trị

Nhân dịp hưu chiến Tết Mậu Thân, Chiến Đoàn I ND do Trung Tá Lê Quang Lưởng chỉ huy được dừng quân nghỉ ngơi. TĐ2ND và TĐ7ND đóng tại An-Lổ và Quảng Điền phiá Bắc Huế, TÐ5ND  được đưa về Đà-Nẳng và TĐ9ND do Thiếu Tá Nguyễn Thế Nhả làm Tiểu Đoàn Trưởng được đưa ra bố trí xung quanh thị trấn Quảng Trị. ĐĐ92 bảo vệ tuyến Đông Nam thành phố, ĐĐ94 bảo vệ làng Tri Bưu, ĐĐ 93 đóng dọc theo bờ sông Thạch Hản và ĐĐ 91 đóng chung với BCH Tiểu Đoàn tại Cầu Quảng Trị.
Ngày 30 Tết Chiến Đoàn Trưởng Lê-Quang Lưởng mật lệnh cho các đơn vị trưởng Nhảy Dù sẳn sàng chiến đấu vì VC sẽ tổng tấn công bất chấp lệnh hưu chiến. Các đơn vị Nhảy Dù chuẩn bị hầm hố cá nhân, sẳn sàng chiến đấu, trong khi các đơn vị Bộ-Binh, Điạ Phương Quân và Nghiả Quân trốn về nhà ăn Tết gần hết.
Ngày 30/1/1968           lúc 4.20 giờ sáng rạng mồng 2 Tết, trong lúc mọi ngươi còn đang say ngủ vì tối qua chè chén dã chiến trong ba ngày xuân nên có phần mệt mỏi, thì CSBV tung 2  Trung Đoàn 812 và Trung Đoàn 814 đồng loạt khai hoả tấn công vào thành phố Quảng Trị tại khắp mọi nơi.
Tiểu đoàn K4/812 chia làm 2 mủi tấn công vào mặt hướng Đông thành phố, muốn tấn chiếm tường thành phía trái và làng Tri Bưu. Từ một tuần trước , CSBV đã cho một đơn vị đặc công, mặc thường phục trà trộn với giáo dân để điều nghiên vị trí, địa thế và sinh hoạt trong khu vực xóm đạo mà mọi người trong giáo xứ không ngờ được. Đến khi Đại Đội 94ND đến đóng quân tại một khu trong giáo xứ, Cộng quân đã chú ý đến các cấp chỉ huy của ĐĐ94 nên khi tiếng súng nổ đầu tiên thì tất cả các Sỉ quan chỉ huy đều bị bất ngờ tấn công trước nên không kịp phản ứng.
Đại Đội 94 ND đóng quân quanh nhà thờ Tri Bưu đã bị công quân tấn công tràn ngập, Đại Uý Thừa ĐĐT, Cố vấn Mỷ, và các Tr/U Lê Phát Lộc, Nguyển Văn Hổ bị hy sinh ngày từ những giờ phút giao tranh đầu tiên. Chuẩn Úy Trần Ngọc Chỉ, một Trung Đội Trưởng điều động các binh sỉ chống trả quyết liệt, nhưng vì địch quân quá đông nên tìm cách hướng dẩn các binh sỉ còn lại rút lui ra ngoài.
Tiểu Đoàn K8/812 tấn công vào mặt Tây Bắc nhằm vào các đơn vị Bộ Binh và Địa Phương Quân & Nghỉa Quân nhằm chiếm lỉnh phần lảnh thổ phía Bắc Quảng Trị.
Tiểu đoàn K6/812 tấn công vào mặt phía Đông Nam dọc Quốc lộ I và đường rầy xe lửa nhằm tấn chiếm khu nhà thờ La Vang. Và Tiểu Đoàn K5/812 làm thành phần trừ bị, ém quân về phía Đông Nam thành phố.
Trong khi đó Trung đoàn 814 VC chuẩn bị tấn công vòng thứ nhì xa luân chiến từ phía Tây Bắc để đánh chiếm hoàn toàn thành phố và ngăn chận viện binh VNCH tái chiếm thị trấn.
Nhưng vì ảnh hưởng thời tiết ẩm ước và không thông thuộc đường sá nên một số đơn vị cộng quân đã không thi hành cùng giờ để mất yếu tố bất ngờ nên bị các đơn vị phòng thủ phản công quyết liệt .
Nhất là gặp các Đại Đội thuộc TĐ9Nhảy Dù đã chống trả dũng mảnh bao dàn ở cả 3 mặt Đông, Nam và phía Bắc. Phía trong Thành Đinh Công Tráng các đơn vị Bộ Binh, Địa Phương Quân và Cảnh Sát  vững tinh thần chống trả nên địch quân không làm gì được.
Khi bình minh ló dạng, lực lượng TĐ9ND tung quân mở rộng vòng đai lục soát các vị trí giao tranh đêm qua bắt sống 10 tù binh, chúng toàn là trẻ con khoàng 16,17 tuổi nói giọng Quảng Bình và mặt mày đỏ gay vì uống thuốc “Hùng Binh” không sợ chết cuả Trung Cộng
8.00 giờ sáng Công quân cố gắng mở thêm mặt trận khác tấn công vào BCH Tiểu-Đoàn 9ND gần cầu sông Thạch Hản và ĐĐ91ND cạnh Quốc Lộ 1. Lực lượng ND phản công quyết liệt, BCH/Tiểu Đoàn điều động ĐĐ92ND trở về đánh bọc hậu phía sau đơn vị VC dọc theo QL1. Khi ĐĐ92ND từ Ngả Ba Long Hưng hướng về BCH Tiểu Đoàn qua khỏi nhà thờ La Vang thì chạm địch. Địch quân đông đảo cấp Tiểu Đoàn đã phục kích trong khu nghỉa địa bên trái QL1 tấn công vào đội hình di chuyển của ĐĐ92ND. Không chút nao núng, các chiến sỉ Nhảy Dù dàn đội hình tác chiến, hô xung phong vang rền tấn công trực diện vào thế trận của địch. Sau nhiều giờ giao tranh, trận chiến rất ác liệt đôi khi phải đánh “xáp lá cà” cộng quân bị thiệt hại nặng và rút lui, bỏ lại trận điạ nhiều xác chết và súng đạn.
Đến chiều ngày mồng 2 Tết tình hình quanh thành phố Quảng Trị hoàn toàn im tiếng súng. Công quân bị thiệt hại nặng nề và đại bại nên đã rút lui. Nhờ vậy thành phố Quảng Trị được yên ổn ăn Tết.
Ngày 1/2/1968 sáng ngày mồng Ba Tết, Thành phố Quảng Trị hoàn toàn yên tỉnh, dân chúng vui mừng tổ chức tuyên dương TĐ9ND đã bảo vệ làng xóm để dân chúng được an cư lạc nghiệp. Sau đó, ngày Mồng 5 Tết, TĐ9ND được trực thăng vận vào giải vây thành phố Huế.

Mặt Trận Huế
Lịch sử cố đô Huế

Tỉnh Thừa Thiên nằm giữa miền Trung VN, có diện tích 5054km2, với 10 quận từ phía bắc giáp ranh với tỉnh Quảng Trị là Phong Điền,Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà, Phía nam thành phố Huế là Hương Thủy, Phú Vang, Vinh Lộc, Phú Lộc, Phú Thứ, phía tây là Quận lỵ Nam Hòa. Tổng cộng có 73 Xã. Tỉnh lỵ là thành phố Huế có diện tích 380km2 với dân số  khoảng 209.043 người. Huế có 3 quận đó là quận Hữu Ngạn, Tả Ngạn và quận Thành Nội. 
Theo từ nguyên, Huế là do Hóa tên nôm của Thuận Hóa đọc trại ra nhưng đến nay vẫn chưa tìm được xuất xứ, Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) có lẽ là người đầu tiên nói đến địa danh Huế trong bài văn nôm “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”. Trong đó có câu: “Hương kỳ nam, vảy đồi mồi, búi an tức, bì hồ tiêu, thau Lào, thóc Huế, thuyền tám tầm chở đã vạy then". Bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim là bộ sử đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, ngoài nguồn sử liệu truyền thống, tác giả đã sử dụng nguồn sử liệu của phương Tây, và tên Huế xuất hiện.
Là cố đô của nhà Nguyễn (1802-1945), Huế mang nhiều sắc thái tiêu biểu cho dân tộc, nhân chứng của một chặng đường lịch sử, văn hóa, kiến trúc Việt Nam, nên trong hội nghị lần thứ 17 tại Catagenna, Columbia, tháng 12-1993, tổ chức UNESCO của LHQ, đã công nhận Huế là di sản văn hóa của nhân loại cần bảo tồn. 
Huế, bao gồm những công trình kiến trúc lịch sử cung điện và lăng tẩm của các tiên vương nhà Nguyễn. Kinh thành Huế do vua Gia Long cho khởi công xây cất từ năm 1805 mãi tới năm 1838 đời vua Minh Mạng mới xong. Đây là một tòa thành hình vuông, mỗi cạnh 2.223m, bề cao 6,60m, chân thành có hào sâu 4m, phía Đông Nam bên bờ sông Hương nhìn về phía trước là núi Ngự Bình. Ngoại thành hướng bắc có pháo đài Mang Cá, ngoài ra còn có 10 cửa chính với những vọng lầu cao ngất, dùng để ra vàọ Tòa thành được kiến trúc độc đáo, từ kiểu cách của Pháp cho tới nghệ thuật xây cất Á Đông, biểu hiện nét hoành tráng, lộng lẫy nhưng không kém phần thơ mộng trang đài từ vách thành, vọng lầu, cửa ngọ môn.. cho tới đền đài cung các được chạm trổ, điêu khắc hài hòa trong cảnh trí thiên nhiên tuyệt diệu.


Từ năm 1366 Huế đã là thủ phủ của Đàng Trong, tức là hai Châu Ô, Rí do vua Chế Mân của Chiêm Thành, dâng cho nhà Trần làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân của Đại Việt, từ đó trở thành đất Thuận Hóa. Sau Tết Mậu Thân 1968, Huế chỉ còn là đống gạch vụn do VC và bọn Việt Gian tàn phá .
Ngoài ra Huế còn nhiều nét tiêu biểu khác như Chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền, chợ Đông Ba, với trường Quốc Học cổ kính nằm cạnh bờ sông với hàng phượng vỹ nở rộ mỗi độ hè về, núi Ngự Bình trước tròn sau méo, sông An Cựu nắng đục mưa trong, hồ Tĩnh Tâm sen nở ngút ngàn và Phú Văn Lâu trơ gan cùng tuế nguyệt.
Cuối năm 1966 không hiểu vì lý do gì, trại Lực Lượng Đặc Biệt Ashau được rút bỏ sau khi bị CS tràn ngập vào ngày 12/3/66, nên thung lũng A Shau bị bỏ ngõ. Do đó CS lợi dụng cơ hội này chuyển vận một số lớn bộ đội và vũ khí để lập căn cứ và từ đây tấn công Huế năm 1968 với sự dẫn đường chỉ lối của đám Việt gian nằm vùng.Cũng vì lý do nầy mà Huế bị VC chiếm đóng lâu hơn các thành phố khác trong cuộc TCK tết  Mậu-Thân.
Ngày 29/1/1968           Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh SĐ1 BB, cùng toàn thể quân nhân các cấp dự lể chào cờ đầu năm tại Phú Văn Lâu. Ngay sau đó ông được tin trong đêm giao thừa, VC đã tấn công vào Qui Nhơn, và Nha Trang. Lệnh cấm trại được ban hành tức khắc cho các đơn vị trực thuộc.
Ngày 30/1/1968           sáng mùng 2 Tết, lúc 2.00 sáng , CS bắt đầu pháo kích hằng trăm quả đạn vào  BTL /SĐ1BB , BCH Tiểu Khu, Trung Tâm Huấn Luyện Đống Đa và Thiết Đoàn 7 Kỵ Binh ở An Cựu. Sau đó quân CS bắt đầu xâm nhập và tấn công vào Huế bằng bằng hai cánh quân chính:
- Cánh thứ nhất là Đoàn 6 gồm các tiểu đoàn đặc công K1, K2, K6 và K12 từ phía bắc bên tả ngạn sông Hương, tấn công BTL.SD1BB tại đồn Mang Cá, phi trường Tây Lộc, Đại Nội.
- Cánh thứ hai là Đoàn 5 gồm các tiểu đoàn K4A, K4B, K10 và K21 từ phía Nam, hữu ngạn sông Hương, hợp với Thành đội tấn công các cơ sở hành chánh phía nam.
Ngoài ra còn có :
- Đoàn 9 gồm hai tiểu đoàn 416, 418 từ Đồng Xuyên, Mỷ Xá, dọc theo La-Vân Thượng chiếm cửa Đông Ba
- Một cánh khác mang tên Đường 12 từ Phú-Thứ, Đập Đá qua cầu Trường Tiền chiếm cửa Thượng Tứ.

Cũng nên biết Việt Cộng đã lợi dụng những xáo trộn tại Huế trong các năm 1965, 1966, xâm nhập hoạt động móc nối dụ dỗ một số học sinh, sinh viên, quá nể nang các thầy giáo của mình mà phản bội lại VNCH. Thật ra mặt trận quan trọng nhất của VC ở Huế là mặt trận chính trị, vì vậy Hà Nội bất chấp máu xương của cán binh và thường dân vô tội, ra lịnh cho đám tàn binh phải cố thủ trong Đại Nội trong thực trạng bi thảm tuyệt vọng bởi các vòng vây của quân lực VNCH và sau ngày mùng 6 Tết có thêm sự tham chiến của Hoa Kỳ.
( Phụ trách công tác chính trị tổng khởi nghĩa, để lập chính quyền cách mạng ở Huế là Hoàng Kim Loan và Hoàng Lanh, đã vào nằm vùng từ lâu trong nhà một giám thị trường Quốc Học là Nguyễn Đóạ. Ngoài ra còn có Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Hữu Vân (giáo sư trường Âm Nhạc Kịch Nghệ), Phan Nam, Nguyễn Thiết. Trái với dự đoán của cộng sản, dân chúng Huế không hưởng ứng tổng khởi nghĩa lại còn bỏ trốn sang các khu vực có QLVNCH như Mang Cá, Trường Kiểu Mẫu, Tiểu Khu Thừa Thiên, Bến Tàu, Phú Bài.. 
Ngày 14-2-1968 đài VC phát thanh tại Hà Nội cho biết đã lập xong chính quyền cách mạng tại Huế do Lê Văn Hảo làm chủ tịch, Đào Thị Xuân Yến và Hoàng Phương Thảo làm phó. Ngoài ra còn có cái gọi là Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình được Hà Nội nặn ra ngày mồng ba Tết (1-2-1968) cũng do Lê Văn Hảo, tiến sĩ về nhân chủng học tại Đại Học Huế làm chủ tịch liên minh. Hảo trốn lính, năm 1953 qua Pháp du học và tiêm nhiễm chủ nghĩa cộng sản của Trần Văn Khê, Nguyễn Khắc Viện, nên vào các năm 1965, 1966 dù đang sống trong cảnh giàu sang, chức trọng nhưng vẫn táng tận lương tâm, theo các tên VC nằm vùng là Hoàng Phủ Ngọc Tường và Tôn Thất Dương Tiềm gia nhập MTGPMN rồi ra bưng cuối tháng 12/1967). 
Tính ra, ngay từ lúc khởi đầu, nhờ lợi dụng dịp hưu chiến nhiều đơn vị VNCH cho các quân nhân về nhà ăn Tết, nên VC đã chiếm được hầu hết các cơ sở hành chính, khu Đại Nội, chợ Đông Ba, các cửa Thượng Tứ, An Hòa, Chánh Tây.. lực lượng Cộng quân đã chiếm lỉnh  hầu hết bên trong thành Nội, từ cổng thành cho đến các điểm cao kiên cố, chỉ còn một lỏm nhỏ Trại Mang Cá (BTL/SĐ1BB/Khu11CT), đang bị vây kín, nhờ các toán Tiền Trạm của Nhảy Dù trợ chiến chống giữ. Cơ sở MACV, Tiểu khu Thừa Thiên, đài phát thanh, Trường Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải Quân vẫn do QLVNCH kiểm soát.  
Trong lúc đó BCH/LĐIND do Trung Tá Lê Quang Lưởng chỉ huy vừa được lịnh thay thế BCH/LĐ2 ND của Trung Tá Đào Văn Hùng vào ngày 27 Tết. TĐ2ND đóng tại Phong Điền (Sịa). TĐ7ND, sau 3 tháng hành quân trong vùng Phá Tam Giang trở ra, đáng lẻ được về Saigon dưỡng quân. nhưng trên đường di chuyển bằng xe ra phi trường Phú Bài, đến ngang cửa Chánh Tây, đã bị Bộ Tư lệnh SĐ1BB/Khu 11 CT, cho Quân Cảnh chận lại, trao công điện mang tay, cho lệnh trở ngược ra Phong Điền, tìm chỗ đóng quân chờ lệnh (29 tết), TĐ9ND ra trấn giữ Quảng Trị và TĐ5ND thay vì được về SG nghỉ ngơi lại phải di chuyển bằng đường bộ ra trấn thủ tại Đà Nẳng.
Sáng sớm ngày mồng 2 Tết (Ngày 30/1/1968), TĐ7ND, TĐ2ND cùng Chi Đoàn 7 Thiết Giáp  được lệnh điều động gấp rút băng đồng gần 20 km từ vùng Phong Điền, phía Bắc sông Cổ Bi, về giải cứu cố đô Huê’.
Tiến dọc theo hai bên QL1 từ Bắc xuống Nam, TĐ2ND di chuyển bộ, lục soát  phía Đông Quốc Lộ 1, TĐ7ND di chuyển phía Tây, giữa  Quốc Lộ 1 và thiết lộ Xuyên Việt.
Xế trưa mồng 2 Tết, vừa qua khỏi thôn Hương Trà về hướng Nam, cách đầu cầu An Hoà khoảng 500m TĐ2ND chạm địch mạnh, giao tranh ác liệt với địch quân. Một Đại Đội Trưởng bị thương nặng, Đại Úy Nguyễn Hữu Nghi (Cố Thiếu Tá Nghi xuất thân Khóa 5 Trường BB Thủ Đức) Tiểu Đoàn Phó bị tử thương. TĐ2ND tạm dừng lại, đễ thanh toán lực lượng cộng sản chận viện tại đâỵ.
Trong khi đó, TĐ7ND được lệnh tiếp tục tiến nhanh về hướng Thành Nội Huê. Khoảng 2 giờ chiều, cánh quân đầu gồm 2 Đại Đội 72 và 73, do Đại Úy Lê Minh Ngọc (Tiểu Đoàn Phó) chỉ huy, bị lọt vào ổ độn thổ phục kích của cộng quân ngay bờ Bắc thôn An Hòạ. Cộng quân đã đào hố ém quân giữa đồng trống vừa gặt xong, đậy rơm lên, ngụy trang  phủ kín, có hỏa lực đại liên từ bờ thôn An Hòa bắn ra yểm trợ. Đại đội 73 do Trung Úy Phạm Như Đà Lạc chỉ huy, bị tổn thất gần hết Trung Đội đi đầụ.Trung Úy Lê Phước Cương tử trận. Đại Đội 73 vẫn bám chặt trận tuyến trên phần đất giữa quốc lộ và thiết lộ. Đại Đội 72  đi trục phía Tây, do Đại Úy Tạ Văn Ngọc chỉ huy, cũng chạm địch nặng tại khu nghĩa trang An Hòạ. Đại Úy Tạ Văn Ngọc bị tử thương tại đâỵ. Cánh quân đầu của TĐ7ND phải tạm dừng lại tại phía Bắc thôn An Hòa để tái tổ chức đội ngũ.
Thiếu Tá Lê Văn Ngọc (Tiểu Đoàn Trưởng TĐ7ND), từ phía sau gởi lên 2 chiếc thiết vận xa M.113, tăng cường hỏa lực cho cánh quân của TĐP Lê Minh Ngọc. Đến 5 giờ chiều, Đại Úy Lê Minh Ngọc điều động hai Đại Đội 72 và 73 dàn hàng ngang xung phong tấn chiếm thôn An Hòa, tiến đến chân thành nội, kiểm soát khoảng quốc lộ 1 bên ngoài cửa Chánh Tâỵ.
Trong trận chiến vừa qua, phía Nhảy Dù báo cáo có 131 thương vong trong số đó có 40 bị tử thương , 4 chiếc trong tổng số 12 Thiết Vận Xa bị bắn cháy. Về phía cộng quân có trên 250 bỏ xác tại trận, 5 tù binh và 96 vũ khí đủ loại bị tích thu.
Khi Bộ Chỉ Huy TĐ7ND theo sau, vừa tiến vào An Hòa, thì bị cộng quân từ phía câù Bạch Hổ pháo kích bằng nhiều loạt đạn súng cối 82 lỵ Thiếu Tá TĐT Lê văn Ngọc bị trọng thương. Các Trung Úy Nguyễn Lô, Nguyễn Trọng Nhi bị thương. Lệnh từ BTL/SĐ1BB trong Trại Mang Cá truyền ra, chỉ định Đại Úy Lê Minh Ngọc thay thế Thiếu Tá Lê Văn Ngọc, chỉ huy TĐ7ND, tiếp tục nhiệm vụ giải cứu Thành Nội Huế.
TĐ7ND gói ghém nhanh chóng thương tử binh, và điều động ĐĐ73 do Trung Úy Phạm Như Đà Lạc vượt lên trước, bám chặt theo bờ hào sâu, dọc theo chân Thành Nội tiến về hướng trại Mang Cá (Bộ Tư Lệnh SĐ1 Bộ Binh). Đại Đội 73 cho khinh binh len lỏi theo các hào sâu phá cửa hậu nhà xác, vào được bên trong thành, ngay doanh trại Đại Đội 1 Quân Y / SĐ1BB. Thương bệnh binh và nhân viên Quân Y tại đây bị cộng quân sát hại khá nhiềụ. TĐ7ND tiếp tục tiến về hướng Đông, chiếm các cao ốc vây quanh trại Mang Cá.
Cộng quân đang vây chặt Bộ Tư lệnh SĐ1BB, chỉ còn cách  một sân cờ nhỏ, bị lực lượng Nhảy Dù đánh bọc phía sau lưng nên rối loạn đội hình bỏ chạy tán loạn  làm bia cho các chiến sỉ mủ đỏ tác xạ. Khi tiến chiếm cao ốc sau cùng, Trung Úy Phạm Như Đà Lạc ĐĐT/ĐĐ73 lại bị thương nơi chân phảị.
Sau khi vượt qua được sân cờ trước Trung Tâm Hành Quân SĐ1BB,  TĐ7ND là đơn vị đầu tiên, từ bên ngoài tiến vào, bắt tay được với Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, khuya mồng 2 rạng ngày mồng 3 Tết Mậu Thân .. 
Ngày 31/1/1968, sau khi thanh toán xong lực lượng chận viện của cộng quân tại Hương Trà, sáng mồng 3 tết, TĐ2ND cũng nương theo cửa An Hòa được khai thông nhập thành, được lệnh tiến về hướng Đông, giải tỏa khu Gia Hội, cửa Đông Ba. Phần lớn Thành Nội Huế vẫn còn nằm trong tay cộng quân. Giao tranh khắp nơi khi lực lượng Nhảy Dù tiến vào, hoả lực cuả VC rất mạnh núp trong nhà dân, trong các công sự phòng thủ kiên cố của tòa cổ thành bắn ra, trong khi đó quân ta chiến đấu không có hỏa lực yểm trợ.
Ngày nầy lúc 2.00 giờ sáng, VC cũng pháo kích và tấn công vào pháo đội C3ND tại An Lổ nhưng bị đẩy lui; chỉ một binh sỉ bị thương nhẹ.
Giao thương binh, tử binh lại cho đơn vị Dù tiền trạm, nhận đạn dược và lương khô qua loa, TĐ7ND do Đại Úy Lê Minh Ngọc chỉ huy lại được lệnh  xuất thành Mang Cá, chiếm khu hồ Tịnh Tâm, rồi tiến chiếm khu phi trường Tây Lộc. Pháo binh 105 ly từ Cây số17 (An Lổ) đã vừa mút tầm, vả lại không còn đạn nổ để yểm trợ. TĐ7ND yêu cầu tác xạ đạn khói, làm màn che, để tiến quân qua phi đạo, diệt khẩu đại bác không giật tại đây, đã làm tê liệt mọi di động trong trại Mang cá suốt mấy ngày quạ.
Trời mưa phùn, gió thật lạnh suốt mấy ngày tết. Phi trường nhỏ này được TĐ7ND chiếm lại vào lúc xế chiều ngày mồng 3 Tết Mậu Thân. Một điều đáng chú ý là từ ngày khởi đầu trận chiến, TĐ7ND đụng nặng ở An Hoà, và TĐ2ND đụng nặng ở Hương Trà, người bạn đồng minh của chúng ta vẫn ‘bình chân như vại’ án binh bất động không can thiệp. Năm ngày sau, tức là ngày mồng 6 Tết quân Mỹ mới nhào vộ,  TQLC Mỹ mới bắt đầu tham chiến giải tỏa khu An Cựu (và chạm địch rất nặng tại nơi đây)
Sau khi làm cỏ Trung Đoàn Sông Lô của Cộng quân tới trưa ngày mồng 3 Tết, 2 TĐ2 & 7ND  mới giải tỏa được từ  cửa An Hòa đến cửa Tây và cửa Bắc Thành Nội Huế. Sau khi bàn giao phi trường Tây Lộc lại cho một đơn vị của SĐ1BB giữ phi trường.. Đại Úy Lê Minh Ngọc điều quân trở về Hồ Tịnh Tâm, giao thương binh, lấy đạn dược, và được lệnh trực chỉ tái chiếm Trường Nữ Trung Học Thành Nội, làm bàn đạp để xuất phát tái chiếm khu cao ốc thành Đại Nội (Hoàng Cung cũ). Trong ngày mồng 4 Tết, TĐ7ND đã tái chiếm xong khu vực Trường Nữ Trung Học Thành Nội.
Trại Mang Cá không có đủ đạn M.16 và M.79, nên những ngày sau đó, Các đơn vị Nhảy Dù đã xử dụng luôn cả các vũ khí tịch thu được của địch như tiểu liên AK-47, súng phóng lựu B-40, và luôn cả lương khô (bánh in Trung cộng) trong túi đeo lưng trên xác cộng quân ... Vì đã có 1 Đại Đội Trưởng tử thương và 2 Đại đội trưởng khác bị thương, nên đơn vị thiếu cán bộ chỉ huy, Đại Úy Lê Minh Ngọc chỉ định Trung Úy Vũ Đình Nguyên, y sĩ trưởng TĐ7ND kiêm nhiệm Đại Đội Trưởng Đại Đội 70 (Đại đội súng nặng).


Đêm Mồng 4 Tết, Trung đoàn 9 Cù Chính Lan, một đơn vị chính quy của CSBV vừa từ Bắc xâm nhập vào Nam, từ hướng cầu Bạch Hổ tăng cường xâm nhập vào thành nội, lấn chiếm lại khu phi trường Tây Lộc, vừa được TĐ7ND giải tỏa hôm trước. Buổi trưa, xe chỉ huy cuả Thiết Đoàn 7 KB bị trúng B40 gần Ty Cảnh Sát Huế, Trung Tá Phan Hửu Chí bị tử thương. Tại thành Mang Cá, VC cố gắng tấn công vào nhiều đợt và chiếm lại những nơi đã được Nhảy Dù giải tỏa.
Ngày mồng 5 Tết, 2/2/1968, TĐ9ND sau khi làm chủ tình hình tại Quảng Trị, được trực thăng vận  đến Bệnh Viện Nguyển Tri Phương trong đồn Mang Cá vào sáng ngày mồng 5 tết. Vừa vào đến Thành Nội Huê’. Chiến Đoàn 1 ND cho lệnh TĐ9ND tiến ra tái chiếm lại phi trường thành nội lần nữạ. Từ thành Mang Cá, TĐ9ND xuất phát tái chiếm phi trường Tây Lộc.Lực lượng Nhảy Dù phải phá tường, leo cửa sổ để di chuyển từ nhà nầy sang nhà khác. Các ngả tư, cao ốc, các ngỏ hẻm đều có thượng liên VC chờ sẳn.
Sau khi tái chiếm phi trường Tây Lộc, TĐ9ND bàn giao phi trường nầy lại cho Trung đoàn 3 BB (vừa được trực thăng vận từ An Lỗ vào). Và TĐ9ND được lệnh tiến về phía Gia Hội, trợ chiến cho TĐ2ND giải tỏa khu Gia Hội Đông Ba ..  Tại đây, cộng quân xích chân xạ thủ vào chân súng đại liên, kháng cự khá mạnh ..
Sáng ngày mồng 5 Tết, với 2 thiết vận xa tăng cường, TĐ7ND bắt đầu tấn công vào khu Đại Nội. Một chiếc M113 ủi sập một lổ tường để mở trục tiến quân, đã bị hỏa lực bên trong tập trung bắn cháy ngay tại chỗ. Chiếc còn lại được TĐ7ND xử dụng bắn triệt hạ các tổ quan sát và bắn tỉa của cộng quân, đặt trên các ngọn cây cao dọc bờ thành Đại Nộị.
Tấn công liên tiếp từ nhiều hướng khác nhau, TĐ7ND đã đột nhập được vào khu Đại Nội (Hoàng Cung cũ) sáng mồng 6 tết, và hoàn toàn làm chủ tình hình khu vực này vào buổi chiều cùng ngàỵ  Ngày mồng 7 tết, TĐ7ND được lệnh tiến chiếm khu Phú Vân Lâu (nơi có dàn súng thần công cũ), và ngày mồng 8 tết, kiểm soát được bờ phía Bắc sông Hương, khu vực giữa cầu Bạch Hổ và cầu Tràng Tiền ..
Ngày 3/2/1968 ( mồng 6 Tết) tại cửa Chánh Tây, nhiều VC đội mủ cối, mang AK47,B40 qua lại canh gát trên bờ thành. Nhảy Dù phải chờ tối trời cho khinh binh lén leo lên tường dùng lưởi lê đánh cận chiến với địch chiếm được một góc thành làm đầu cầu rồi cho đơn vị ào-ạt tấn công, khiến địch trở tay không kịp. Sau 2 ngày giao tranh ác liệt, Nhảy Dù đã chiếm lại được cửa thành phiá Tây và giao lại cho SĐ1BB trấn giử. Lực lượng Nhảy Dù tiếp tục sang tái chiếm cửa Đông Ba.
Ngày nầy, phiá hửu ngạn sông Hương, lực lượng Mỷ mới bắt đầu tham chiến gởi TĐ2/5 TQLC, và một chi đoàn chiến xa hành quân giải toả quanh khu vực MACV và chiếm lại tòa nhà đại biểu chính phủ.
Ngày 5/2/1968 tại cửa Đông Ba, VC đặt thượng liên trên cửa thành rất kiên cố, TĐ2Nhảy Dù thử xung phong nhiều lần nhưng vô hiệu. Sau đó BCH Chiến đoàn Dù phải điều động pháo đội C/PBND bắn trực xạ  dập tắc khẩu thượng liên cuả địch, các Binh sỉ ND vừa bắn vừa xung phong thật nhanh, chiếm lại được cửa thành Đông Ba. Xác tên xạ thủ đại liên của địch còn nằm trên súng , chân bị xiềng.
Ngày 7/2/1968 11.30 giờ VC tấn công vào TĐ 4/3 BB tại cửa chánh Tây, và cũng trong ngày nầy VC giật sập cầu Tràng Tiền. Ngày 8/2/1968 TĐ9ND được lệnh tiếp tục vượt qua Hồ Tịnh-Tâm để tái chiếm cửa Thượng Tứ (cửa thành hướng Nam đi thẳng vào Đại Nội ). Trận chiến ác liệt kéo dài cả hai tuần lể , các đơn vị thuộc Chiến Đoàn I Nhảy Dù sau khi đánh tan tác 2 Trung Đoàn Sông Lô và Cù Chính Lan của CSBV  cũng đã bị thiệt hại nhiều.
             Ngày 9/2/1968 phía Nam sông Hương,            Lực lượng Hoa Kỳ đẩy lui VC ở các khu vực Khu Đại Học, sân vận động, Phú Cam và Nhà Ga., VC bỏ chạy về Nam Giao.
Tính đến ngày nầy, giao tranh với lực lượng Hoa Kỳ, VC có 934 chết tại chổ, 4 bị bắt, 307 súng các loại bị tịch thu. Hoa kỳ có 31 tử thương, 201 bị thương nặng, 80 bị thương nhẹ.
Ngày 10/2/1968           người ta bắt đầu thu lượm xác VC. Các lực lượng Điạ Phương Quân, phối hợp với các Khoá sinh TTHL Đống Đa tổ chức hành quân tảo thanh các khu vực đã được giải toả.
Ngày 12/2/1968           Chiến Đoàn A TQLC  bắt đầu được không vận đến Huế để thay thế Chiến Đoàn 1 Dù để triển khai một cuộc hành quân càn quét các tên VC năm vùng còn sót lại.
18.00 giờ một đơn vị TQLC Hoa Kỳ băng qua sông Hương cập bến  Bao Vinh vào cổng sau Thành Nội.
Ngày 13/2/1968           TQLC Hoa Ky tiếp tục đổ bộ vào Thành Nội tăng cường  cho QLVNCH. Trong khi đó Pháo binh và phi cơ oanh kích dử dội vùng Lai Chữ, nơi đặt BCH cuả VC.
Vào ngày 15/5, có lệnh từ BTL/SD1BB/Khu11CT cho toàn bộ Trung Đoàn 3 BB từ An Lổ di chuyển vào Thành Nội thay thế vị trí CĐ1ND, để lực lượng Nhảy Dù được trả về cho Bộ TTM nhận nhiệm vụ mới.. TĐ7ND được lệnh từ Chiến Đoàn 1 ND vượt qua bờ Nam sông Hương.(vì Cầu Tràng Tiền đã bị cộng quân giật sập 1 nhịp) lục soát an ninh khu này, để CĐ1ND chuẩn bị di chuyển bằng xe đến phi trường Phú Bài, trở về hậu cứ ở Saigon.
Tình hình tại bờ nam Sông Hương từ khu Phú Cam ra Phú Bài chưa được an ninh hoàn toàn. TD7ND đã chứng kiến cảnh chiến trường tan hoang nơi đây, với chó gặm xác VC, với xe tăng M.41 và M.48 của Mỹ bị cháy .. quân trang quân dụng vất bừa bải, dân chúng hồi cư “khóc như ri”.. cho hay VC trói dân từng chùm 20 người bằng dây điện thoại, bịt mắt dắt xuống hướng Phú Thứ chôn sống tập thể .. (Cộng sản bắt đi những thanh niên từ 15, 16 tuổi đến ông già 60, 70 đem giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ bị dẫn đi lên đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế bị trói. Khi tàn sát thì dùng súng máy, trung liên, đại liên, cả lựu đạn hoặc đập đầu bằng cuốc xẻng, báng súng. Các xác đó đã bị vùi xuống khe)
 Đặc biệt tại khu An Cựu này, TĐ7ND cũng đã giải cứu được Linh Mục Tuyên Úy Nhảy Dù Vũ Ngọc Đáng, đang mặc thường phục lẩn trốn trong dân chúng !
Sau 3 tuần lễ giao tranh đẫm máu dưới thời tiết lạnh lẻo rét mướt để giải tỏa cố đô Huế, CĐ1ND được các đơn vị bạn thay thế. Ngày 21/2/1968, toàn bộ các đơn vị Nhảy Dù lần lượt được không vận về Sài Gòn để nhận nhiệm vụ mới..
Ngày 19/2, Chiến Đoàn A TQLC mở chiến dịch Sóng Thần 739/68. Ngày 22/2 hai tiểu đoàn 21 và 39 BĐQ được tăng cường tại Huế và VC cũng bắt đầu tháo chạy. 
Ngày 23-2 VC bị đẩy ra khỏi Huế, lá cờ VNCH lại tung bay trên kỳ đài ở Phú Văn Lâu. Tính chung cộng sản tàn sát đồng bào Huế nhiều nhất là tại khu dân cư Gia Hội vì vùng này bị VC chiếm lâu nhất từ ngày mùng 2 Tết ( 30/1 ) đến 22/2/1968 mới được Biệt Động Quân giải tỏa, bởi vậy giặc cộng và Việt gian mới có cơ hội giết nhiều đồng bào vô tội một cách man rợ không thể tưởng tượng nổi đối với người đồng chủng chỉ vì đã không theo họ. (Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được các”mồ tập thể”, có nơi tới hàng ngàn xác, hoặc vài ba trăm xác và có những xác bị chôn còn bị xiềng xích. Sau tết Hội Gia Đình Nạn Nhân Cộng Sản trong Tết Mậu Thân  kê khai số người chết và mất tích lên đến 4,000 gia đình. Người ta ước tính vào khoảng 6,000 người )
Ngày 25/2/1968 chiến cuộc chấm dứt tại Huế với đổ nát, điêu tàn, nhà cửa, cầu cống, cây cối, đường sá gần như tử địa với xác người nằm la liệt đã sình thối. Tất cả chỉ còn là sự tàn nhẫn, thê lương, từ bàn tay đẫm máu của VC và bọn Việt gian mang đủ loại mặt nạ gây nên.
Mặt Trận Khe Sanh 
Hành Quân Lam Sơn 207A (Pegasus ) từ 1/4 đến 12/4/1968

Bản đồ vùng Khe Sanh của Trần Đổ Cẩm

Căn cứ Khe Sanh tọa lạc trên một trảng cao của ngọn núi cao nhất vùng Đông Trị trong dảy Trường Sơn, cạnh sông Rào Quan, một chi nhánh của Sông Quảng Trị. Phía Bắc và Tây Bắc có 4 ngọn đồi án ngữ là 881 Bắc, 861, 558 và 881 Nam. Khe Sanh chỉ cách biên giới Lào-Việt chừng 2 cây số trên đường số 9 chạy theo hướng Đông-Tây nối liền Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị, ngang qua Cam Lộ, Cà Lu, xuyên qua biên giới Lào-Việt tới tận Savannakhet bên Lào. Vì Lào nằm trong đất liền nên người Pháp xây dựng đường số 9 để thông thương ra vùng bờ biển Việt Nam. Trong cuộc chiến Việt Nam, đường số 9 là trục lộ chiến lược quan trọng được Cộng Quân xử dụng để xâm nhập người và vũ khí từ bên Lào vào các tỉnh cực bắc Việt Nam Cộng Hòa.
Về phương diện hành chánh,Khe Sanh thuộc quận Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị với quận đường đặt gần làng Khe Sanh. Về mặt quân sự, Chi Khu Hướng Hóa do một Đại Úy chỉ huy, gồm chừng một đại đội Địa Phương Quân (ÐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) cùng một số cảnh sát. Thông thường có thêm một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 2, Sư Đoàn 1 Bộ Binh tăng phái hoạt động trong vùng cùng một Pháo Đội 105 ly (-) với 2 khẩu đặt tại sân bay Khe Sanh và 2 khẩu đặt tại Làng Vei. Sau này, vì tình hình an ninh không đuợc khả quan nên Quận Hướng Hóa được di chuyển về vùng Cùa gần căn cứ Mai Lộc.
Về dân cư, vì là vùng đồi núi hoang dã, khí hậu khắc nghiệt nên chỉ có chừng trên ngàn người Việt cư ngụ, đa số là thân nhân và gia đình nhân viên, binh sĩ phục vụ tại chi khu Hướng Hóa. Sắc tộc thiểu số Bru đông hơn, tổng cộng chừng 50,000 người sống rải rác trên các đồi, núí dọc biên giới Lào, nhưng qui tụ khá đông đảo tại hai làng Khe Sanh và Làng Vei dọc đường số 9. Cũng như những sắc dân thiểu số khác như Rhadê, Hrê v.v..., giống Bru thuộc chủng loại Mã Lai-Polynesia nên đen đúa và khá lực lưỡng.
Tuy đường số 9 chỉ là một trục giao thông nhỏ, coi như bị bỏ hoang từ lâu, nhưng khu vực này lại là một chiến trường quan trọng, nơi xảy ra nhiều trận đánh lớn. Lý do vì con đường này dẫn sang Lào, giao tiếp với đường mòn HCM, lại nằm trong vùng đồi nuí hiểm trở nên rất thuận tiện cho quân Bắc Việt đưa người và vũ khí xâm nhập các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Để ngăn chận đối phương, người Mỹ đã lập hàng rào điện tử McNamara theo hình vòng cung dọc theo mặt Bắc đường số 9, hướng Đông kéo dài từ Cửa Việt sát biển tới Khe Sanh gần biên giới Lào. Như vậy, Khe Sanh là điểm cực Tây của hàng rào Mc Namara nằm trong phần đất Việt Nam, giữ nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo kỹ thuật và chiến lược của quân lực Mỹ nhắm vào các hoạt động di chuyển, xâm nhập của các đại đoàn chính quy CSBV cơ động sát vùng Bắc Vĩ Tuyến 17 và phía Tây biên giới Việt Lào cũng như trên lãnh thổ Lào. Thủy quân lục chiến Mỹ có 3 Tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 26 đóng quân trong căn cứ Khe Sanh . Đó là các Tiểu Đoàn 1, 2, 3 và Tiểu Đoàn 13 Cơ giới cùng một đơn vị Tình Báo chiến lược.
19/1/1968  Một đơn vị TQLC Mỹ tảo thanh vùng đồi 881 Bắc đã đụng độ dữ dội với cộng quân. Chiều ngày hôm sau một Trung Úy CSBV đại đội trưởng pháo đội 14 phòng không thuộc trung đoàn 95/SĐ325 về đầu thú, và tiết lộ kế hoạch tấn công căn cứ Khe Sanh. 
20/1/1968 Đúng như lời tiết lộ, nửa đêm hôm đó sau nửa giờ pháo kích, Cộng quân bắt đầu tấn công vào căn cứ. Lực lượng trú phòng phản công và đẩy lui cuộc tấn công nầy, một binh sỉ TQLC bị tử thương, công quân bỏ lại 47 xác.
21/1/1968 Sáng ngày, căn cứ bị pháo dữ dội hằng ngàn quả đạn, kho bom dự trử bị nổ tung, nhiều phi cơ trực thăng bị hư hại, đài kiểm lưu bất khiển dụng, nhiều dụng cụ quan trắc khí tượng bị hư hỏng… Tình hình trở nên vô cùng nghiêm trọng.
22/1/1968 Tiểu Đoàn 1/9 TQLC Mỹ được trực thăng vận đến tăng viện.
25/1/1968 Thiếu Tướng J.J.Tolson, Tư lệnh Sư Đoàn 1 KBKV, chuẩn bị tổ chức một cuộc hành quân để giải tỏa căn cứ Khe Sanh.
27/1/1968 Tiểu Đoàn 37BĐQ-VNCH được không vận đến để tăng viện thành 5 tiểu đoàn họp thành lực lượng phòng thủ căn cứ. TĐT/TĐ37BĐQ là Đại Úy Hoàng Phổ.
Trong khi đó tin tức tình báo ghi nhận SĐ325 CSBV đang hiện diện quanh quẩn tại phía Bắc đồi 881 Bắc. SĐ304 từ Lào cũng đã xâm nhập vào VN và hiện đang có mặt tại phía Tây-Nam của Khe Sanh. Một Trung Đoàn của SĐ324CSBV cũng được phát giác tại khu phi quân sự cách Khe Sanh chừng 24 km. SĐ320CSBV đang ở phía Bắc căn cứ Rockpile, cũng có thể tiếp ứng cho mặt trận Khe Sanh. Thêm vào đó hai Trung đoàn pháo 68 và 164 cũng được tăng cường cho hai SĐ325 và SĐ 304.
5/2/1968 Từ ngày nầy ( mồng 7 Tết) Cộng quân bắt đầu liên tục pháo kích, tấn công bằng bộ binh và bao vây quanh vòng đai căn cứ chiến lược Khe Sanh. Lực lượng trú phòng đã phản công chống trả quyết liệt gây nhiều tổn thất cho địch quân.
9/2/1968 một tiểu đoàn CSBV thuộc Trung Đoàn 101D của Sư Đoàn 325 tấn công đồi 64 do Đại Đội A/1/9 TQLC trấn giữ. Các vị trí phòng thủ trên đồi bị Bắc quân tràn ngập. Không chút chậm trễ, các khẩu đại bác quanh vùng đều nhắm hướng đồi 64 và tác xạ. Một lực lượng TQLC khác được gởi đến tiếp viện. Trong 3 tiếng đồng hồ máu lửa này, có 150 bộ đội Bắc Việt chết và 26 binh sĩ Hoa Kỳ tử thương.
Sau trận đánh ở Đồi 64 nầy, quân Bắc Việt tạm ngưng các hoạt động để bổ sung quân số. Chiến trường lắng dịu trong hai tuần.
21/2/1968 Khoảng 1 Đại Đội cộng quân tấn công vào phòng tuyến của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. Nhưng các binh sĩ Mũ Nâu VNCH đã vững vàng cố thủ. Đợt tấn công của đối phương đã bị Biệt Động Quân bẻ gảỵ
23/2/1968 Hai ngày sau, quân CSBV tập trung pháo binh để phục hận. Một nghìn ba trăm (1,300) quả đạn đủ loại đã được bắn vào Khe Sanh. Trận địa pháo 8 tiếng đồng hồ này đã làm nổ tung một kho tồn trữ đạn trong căn cứ, gây thiệt mạng cho 10 quân nhân Hoa Kỳ và 51 người khác bị thương.
29/2/1968, 9giờ 30 tối, một tiểu đoàn Cộng quân (thuộc Sư Đoàn 304 CSBV) đánh thẳng vào mặt Đông của Khe Sanh. Đây là khu vực trách nhiệm của TĐ37 Biệt Động Quân VNCH. Sau một màn pháo kích dọn đường, và ba lần biển-người xung phong, CSBV cũng không phá được phòng tuyến thép. Đêm hôm đó, các binh sĩ Biệt Động Quân bình tĩnh chiến đấụ Họ đợi đối phương xung phong đến thật gần rồi mới khai hỏạ Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân đã chống trã mãnh liệt. Kinh nghiệm chiến đấu và sự gan dạ của họ chính là một trong các yếu tố quan trọng giúp đẩy lui cả 3 lần xung phong của Bắc quân. Ngày hôm sau, kiểm điểm tình hình chiến trận họ đếm được 70 xác chết địch quân trên trận địạ
Sau nhiều ngày thảo luận tình hình chiến sự, sau cùng Tướng Westmoreland chấp thuận kế hoạch hành quân giải vây Khe Sanh. Hành quân mang tên Pegasus về phía Mỹ và về phía VNCH nằm trong kế hoạch Hành Quân Lam Sơn 207A. Cả hai cuộc hành quân đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng J.J. Tolson.Lực lượng tham dự hành quân gồm có :
1/   Lữ Đoàn 1 KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá J.F. Stannard.
2/   Lử Đoàn 2 KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là  Đại Tá J.C. Mc Donough.
3/   Lữ Đoàn 3 KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá H.S.Campbell.
4/   Trung Đoàn 26 TQLC với Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá D.E. Lownds
5/   Trung đoàn 1 TQLC.
6/   Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù –VNCH gồm 3 Tiểu Đoàn dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Nguyễn Khoa Nam.
Tiểu Đoàn 3 ND – TĐT là Thiếu Tá Trần Quốc Lịch.
Tiểu Đoàn 6 ND – TĐT là Thiếu Tá Trương Vĩnh Phước.
Tiểu Đoàn 8 ND – TĐT là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thọ.
Bộ Tư Lệnh hành quân đóng tại căn cứ Stud gần Cà Lu. Quân số tham chiến lên đến khoảng 20,000 người với sự yểm trợ bởi 300 trực thăng, 148 khẩu pháo binh.
25/3/1968 Thiết Đoàn 1/9 KBKV dưới quyền chỉ huy của Trung Tá R.W.Diller sử dụng trực thăng trinh sát dọc theo QL 9 hướng về Khe Sanh để thu thập tin tức về địch quân, xác định các vị trí bải đáp trực thăng đồng thời tiêu diệt các ổ phòng không của địch.
30/3/1968 Sáng ngày, SĐ3TQLC Mỹ phối họp với SĐ1BB-VNCH hành quân  nghi binh tại vùng Côn Thiện và Gio Linh. Lực lượng của Mỹ hơp thành lực lượng Đặc Nhiệm Kilo trong khi cánh quân SĐ1BB VNCH nằm trong kế hoạch Lam Sơn 203. Cuộc hành quân chấm dứt lúc trưa ngày 1/5/1968. chỉ có những cuộc chạm súng lẻ tẻ không đáng kể.
1/4/1968 Cuộc hành quân chính thức khai diển. Hai Tiểu Đoàn 2/1 và 1/3 TQLC Mỹ từ Cà-Lu tiến dọc hai bên đường QL9 hướng về Khe Sanh để bảo vệ cho TĐ11Công Binh tu sửa lại con đường nầy.Trong khi đó 3 Tiểu Đoàn thuộc Lữ Đoàn 3KBKV được trực thăng vận đổ xuống các bải đáp phía trước cách Khe Sanh khoảng 5 dậm.
2/4/1968 Liên tiếp 2 ngày, hai Lữ đoàn 2 và 1 KBKV được thả xuống  phía Nam căn cứ Khe Sanh và đường số 9 trong khu vực đồn điền của người Pháp khi xưa.
4/4/1968 Các Tiểu Đoàn 3, 6 và 8ND thuộc LĐ3ND-VNCH được thả xuống khu vực phía Tây và Tây Nam căn cứ Khe Sanh. ( bên ngoài và phía sau vị trí của địch quân đang bao vây căn cứ.) để chận đường lui binh của địch.
Sau khi được thả xuống bải đáp, TĐ1/5KBKV hướng về mục tiêu đồn Pháp cũ, đã đụng độ với một Tiểu Đoàn cộng quân đang cố thủ tại đây,TĐ1/5KBKV bị thiệt hại nặng, Trung Tá Runkle Tiểu Đoàn Trưởng bị tử thương . TĐ2/5KBKV được lịnh vào thay thế nhưng cộng quân đã rút lui.
Trong khi đó, các đơn vị phòng thủ bên trong căn cứ  Khe Sanh, TĐ1/9TQLC cũng bắt đầu tấn công ra về phía Nam để chiếm lại ngọn đồi 471 theo chiến thuật gộng kềm, ép đơn vị Tiểu Đoàn 7 Trung Đoàn 66 địch quân vào giửa. Cộng quân cố thoát ra khỏi vòng vây nhưng với hoả lực hùng hậu của các đơn vị tham chiến, Công quân phải rút chạy và bỏ lại chiến trường 148 xác.
6/4/1968 Các đơn vi KBKV đã bắt tay được với TQLC bên trong căn cứ  tại đồi 471.Sau đó TĐ 1/9 TQLC bắt đầu càn quét khu vực chung quanh căn cứ khởi đi từ ngọn đồi 552 rồi đến đồi 681. không gặp một kháng cự nào của địch.

Bản đồ khu  giới tuyến và QL 9 của Trần Đổ Cẩm
Cùng lúc đó về mặt Bắc, TĐ2/26TQLC cũng tiến ra ngọn đồi 558. Mủi tiến quân nầy gập sự chống trả mạnh mẽ của công quân; trận chiến phải mất hết 2 ngày mới bứng hết các ổ kháng cự.
7/4/1968 Trong khi tiến về Khe Sanh dọc theo QL9 , TĐ2/7KBKV đã chạm địch mạnh tại địa điểm chỉ cách Khe Sanh chừng 2 dậm. Để 3 Đại Đội cầm chân địch quân ở mặt trận chính, Đại Đội thứ tư lòn ra sau bọc hậu, mới đánh bật được Cộng quân ra khỏi các công sự phòng thủ.

Map 14: Relief of Khe Sanh Operation Pegasus (Schematic No.4)

Cũng trong ngày nầy các Tiểu Đoàn Nhảy Dù Việt Nam đã chạm địch, Sau khi  đáp xuống vị trí đã định Lữ Đoàn Trưởng cho lệnh các đơn vị trực thuộc mở rộng đội hình hàng ngang tiến vào phía căn cứ , xiết chặc vòng vây. Khi biết có lính Dù VN tăng cường, binh sỉ TQLC bên trong căn cứ lên tinh thần, khi  lực lượng Dù chạm địch, bên trong căn cứ cũng bắn ra dữ dội. Do đó địch quân bị kẹt giữa hai lằn đạn, vì quá gần trong khoảng cách không quá 200m, biết không thể tiến cũng không thể thoát được, địch quân gọi pháo tác xạ vào ngay đội hình của chúng nên bị chết rất nhiều, một số bị bắt sống, bên ta cũng bị tổn thương khá cao. Đại Đội 33ND là tổn thất nặng nhất Đại Úy Nguyễn Đức Cần, ĐĐT cùng 2 Chuẩn Úy Trung Đội Trưởng bị tử thương. Một Thiếu Úy Trung Đội Trưởng bị thương. chỉ còn một Trung Đội Trưởng là Thiếu Úy Trương Văn Dũng không bị thương tích.
Ngày 8/4/1968 Căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải toả sau 77 ngày bị cộng quân vây hảm , các đơn vị tham chiến tung quân càn quét các khu vực xung quanh, chỉ một vài cuộc đụng độ lẻ tẻ quanh ngọn đồi 881 Bắc.
Tổng kết thiệt hại về phía đồng minh 41 Bộ Binh Mỹ, 51 TQLC Mỹ và 34 quân nhân VNCH bị tử trận, đổi lại 1304 quân CSBV bỏ xác tại trận và 21 tù binh.
Cuộc hành quân Lam Sơn 207 A chính thức kết thúc vào ngày 15/4/1968 Lữ Đoàn 3ND được đưa  về Huế  để tham dự một cuộc hành quân mới chiếm lại thung lủng A Shau.
Sau này, có người nhận xét cho rằng tướng Giáp muốn dụ Hoa Kỳ dồn quân vào Khe Sanh để quân Cộng Sản có thể rãnh tay tấn công các vùng khác. Người khác lại cho rằng ông Giáp bao vây Khe Sanh với lý do muốn tạo dựng một chiến thắng như Điện Biên để buộc Hoa Kỳ phải nhượng bộ. Trong khi đó, một số tài liệu chiến sử Hoa Kỳ lại nghĩ rằng tướng Westmoreland đã "tương kế tựu kế." Ông mong Cộng quân sẽ tập trung nhiều binh đoàn gần Khe Sanh để ông có thể dùng hỏa lực pháo binh và phi cơ tiêu diệt.
Nhưng lịch sử đã đổi chiều không phải của Điện Biên Phủ 14 năm về trước. Năm 1968, Hoa Kỳ có đầy đủ phương tiện để phòng thủ, yểm trợ, và tiếp tế Khe Sanh trong 77 ngày, hoặc lâu dài hơn nếu cần thiết. Phía bên kia, Cộng quân đã không chiếm nổi Khe Sanh, mà lại còn bị thiệt mất từ 10 đến 13,000 bộ độị Đó là chưa kể thiệt hại trên các phương diện khác như quân cụ, chiến thuật, cùng hàng ngàn thương binh.

Tài liệu tham khảo:  
-         Trận chiến Tết Mậu Thân 1968 của Phạm Văn Sơn trên trang nhà History of the Viet NamWar.
-         Chiến tranh Việt Nam toàn tập của  Tiến Sĩ Nguyẽn Đức Phương, nxb Làng Văn  2001. 
-         Một Cánh Hoa Dù của Trương Dưởng. Tác giả xb 1998
-     The War in The Northern Provinces 1966-1968 by Lieutenant General Willard Pearson  Dept of The  Army Washington, D.C., 1975
-         Phỏng vấn trực tiếp các chiến hữu trong SĐND.
-         Khe Sanh 77 ngày trong năm 1968 của Phạm Cường Lể  trên trang nhà History of the VN War.
-         A-Shau valley của Thomas Pilsch trên trang Web: cc.gatech.edu/fac/Thomas.Pilsch/airops/Ashau.html.
-         The Battle of Ashau Valley trên trang Web : army.mil/cmh-pg/books/Vietnam/northern/nprovinces-ch6.htm#ashau.

Mặt Trận A-Shau
Hành Quân Lam Sơn 216 ( Delaware )
Thung lủng A-Shau 19/4/1968 – 17/5/1968

Bản đồ Thung lủng A Shau

Lực lượng bạn :
-   Lữ  Đoàn 3 / SĐ1KBKV Hoa Kỳ .
-   SĐ23 Bộ Binh Hoa Kỳ.
-   Lữ Đoàn 1/101 Nhảy Dù Hoa Kỳ.
-   Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù VNCH.
Lực lượng địch :
-   SĐ324B CSBV.
            -   SĐ325 CSBV

Thung lũng A-Shau (còn gọi là An Hậu) cách biên giới Việt Lào khoảng 3 km, cách thành phố Huế hơn 40 km về phía Tây-Nam. Địa thế tại vùng này rất hiểm trở, mây mù bao phủ quanh năm, hạn chế tầm quan sát của phi cơ khi muốn thám sát trục lộ chuyển quân và vũ khí của Cộng quân. Năm 1966, Bắc Việt đánh chiếm thung lũng này sau khi tấn công tiền đồn biên phòng của Lực Lượng Đặc Biệt Việt-Mỹ tại đây. Do không đủ quân số để chiếm lại đồn này, nên Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ tại Vùng 1 và Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1 Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã cho các đơn vị trú phòng triệt thoái. Sau đó, Cộng quân đã khởi sự xây dựng căn cứ địa để tập trung các đơn vị Cộng Sản từ Bắc xâm nhập vào khu vực phía Tây tỉnh Thừa Thiên.
Ngày 11 tháng 4 năm 1968, liên quân Việt-Mỹ tại Vùng 1 Chiến Thuật khởi động cuộc hành quân hỗn hợp mang tên Delaware (phía Hoa Kỳ) và Lam Sơn 216 (phía VNCH) vào ngày 19/4/1966 chỉ 4 ngày sau Lam Sơn 207A giải tỏa căn cứ Khe Sanh, nhằm tảo thanh các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tại thung lũng này và để tái chiếm tiền đồn A-Shau. Nơi mà Công quân dùng làm căn cứ tiếp vận quan trọng phát xuất các cuộc tấn công vào Huế.
Lực lượng tham chiến gồm Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù VNCH với 3 Tiểu Đoàn 3, 6 & 8ND và hai lữ đoàn thuộc Quân Ðoàn 24 Hoa Kỳ. Lực lượng này triển khai đội hình trên một khu vực 60 km-vuông. Giao tranh diễn ra quyết liệt giữa các đơn vị Việt-Mỹ và các trung đoàn Cộng Sản thuộc Sư Ðoàn 324B và SĐ325 CS Bắc Việt.

Diển Tiến :
19/4/1968 Sáng sớm, các  pháo đài B52 trải thảm trên các vị trí của cộng quân và sau đó pháo binh  tác xạ liên tục vào các vị trí phòng không của địch. Sau đó hàng đoàn 200 trực thăng thả Lữ Đoàn 3 KBKV và Trung Đoàn 327Bộ Binh vào thung lủng A-Shau dọc theo con đường 548. Tuy nhiên, phòng không của địch vẫn còn dầy đặc bắn vào các trực thăng chuyển quân.
Từ hướng Đông, Lữ Đoàn 1/SĐ101Nhảy Dù Hoa Kỳ bắt đầu tiến dọc theo Tỉnh lộ 547 tiến về hướng Tây của thung lủng A-Shau tới giao điểm với đường 547A.. Trong khi đó Tiểu Đoàn 1, của Trung Đoàn 327BB càn quét dọc theo con đường 547A và làm an ninh bải đáp.
20/4/1968 Các Tiểu Đoàn 1/7 và 5/7 KBKV được thả xuống vùng hành quân tiếp tục càn quét về phía Bắc của thung lủng  để chận đường lui quân của địch sang Lào.
10.00 giờ sáng ,TĐ6ND-VN tiếp theo là các đơn vị thuôc LĐ3ND-VN được thả xuống bải đáp do TĐ1/327 giữ an ninh và sau khi di chuyển khỏi landing zone thì bắt đầu giao tranh  ác liệt với các đơn vị cộng quân.
21/4/1968 Các cuộc giao tranh tiếp tục ác liệt, các đơn vị hành quân khám phá một khu bảo trì các cơ giới của địch quân gồm cả xe ủi đất do Liên Xô chế tạo còn đang hoạt động.
Tiểu đoàn 2/502 Bộ Binh Hoa Kỳ được gởi đến tăng viện cho khu vực giao tranh của LĐ3ND-VN và Tiểu Đoàn 1/327.
22/4/1968 Thời tiết ngày nầy tốt đẹp, các phi cơ tham chiến yểm trơ cho quân bạn. Các cánh quân bắt đầu tấn chiếm khu phi đạo của  A-Lươi và khu trung tâm của thung lủng.
24/4/1968 Tiểu đoàn 2/8 KBKV tiến chiếm bải đáp phía đầu phi đạo khoảng 2 km. và các đơn vị LĐ1KBKV lục soát  mở rộng vòng đai xung quanh.
Ở phía Nam của phi đạo, lực lượng hành quân đã bắt gập những hệ thống truyền tin và đài phát thanh gồm những trang thiết bị tân tiến đồng thời khám phá ra nhiều kho quân dụng, súng phòng không 37 mm, xe molotova... Cuộc hành quân nầy cày nát kho tiếp liệu CS trong thung lủng A-Shau.
Những ngày sau cùng của tháng 4, LĐ3ND-VN giúp khai triển an ninh khu vực thung lủng sông Rao Nho, dọc con đường 547 và 547A để đơn vi bạn xây dựng lại những căn cứ như A-Lưới, A-Shau và Tà-Bạt.
Trong suốt 21 ngày của cuộc hành quân, pháo đài B-52 dội xuống thung lũng A-Shau hơn 1,000 tấn bom. Tổng kết sau 3 tuần giao tranh, phía Bắc Việt có 850 cán binh tử thương, 2 bị bắt, 598 vũ khí cá nhân, 37 súng cộng đồng và 5 xe molotova còn tốt bị tịch thu, 2 chiếc thiết giáp xa bị phá hủy cùng nhiều tấn quân dụng, thực phẩm, thuốc men.
Phía liên quân Việt-Mỹ có 82 tử thương, 442 bị thương, 20 trực thăng bị bắn rớt hoặc trúng đạn hư hại. Sau đó LĐ3ND được không vận về Sài Gòn để tham dự hành quân giải tỏa Thủ Đô trong cuộc TCK đợt hai

Tài liệu tham khảo:
-         Trận chiến Tết Mậu Thân 1968 của Phạm Văn Sơn trên trang nhà History of the Viet NamWar.
-         Chiến tranh Việt Nam toàn tập của  Tiến Sĩ Nguyẽn Đức Phương, nxb Làng Văn  2001. 
-         Một Cánh Hoa Dù của Trương Dưởng. Tác giả xb 1998
-     The War in The Northern Provinces 1966-1968 by Lieutenant General Willard Pearson  Dept of The  Army Washington, D.C., 1975
-         Phỏng vấn trực tiếp các chiến hữu trong SĐND.
-         Khe Sanh 77 ngày trong năm 1968 của Phạm Cường Lể  trên trang nhà History of the VN War.
-         A-Shau valley của Thomas Pilsch trên trang Web: cc.gatech.edu/fac/Thomas.Pilsch/airops/Ashau.html.
-         The Battle of Ashau Valley trên trang Web : army.mil/cmh-pg/books/Vietnam/northern/nprovinces-ch6.htm#ashau.

Tổng Coâng Kích Maäu Thaân ñợt 2
( Từ ngày 5/5/1968 )
Sau khi thất bại qua đợt tấn công đầu vào dịp Tết, Việt Cộng vẫn không từ bỏ kế hoạch “tổng công kích, tổng nổi dậy” của chúng. VC nghĩ rằng một đợt tấn công thứ hai sẽ có thể lôi kéo dân 㸅㾋뼮ổi dậy. Họ đã đánh giá sai dân tình miền Nam. Họ vẫn không hiểu được rằng dân miền Nam được sống trong một xã hội tuy chưa hoàn hảo nhưng tương đối tự do và chưa bao giờ thực sự tin theo VC.
Ðợt tấn công Mậu Thân 2, khởi đầu từ ngày 5 Tháng Năm, 1968. Trong đợt này VC tập trung nỗ lực vào những khu đông dân cư, lựa chọn những địa thế khó xoay trở cho ta, chúng đồng loạt xâm nhập và bắn phá tại đô thị, những khu nghèo đông dân cư, nhà cửa chen chúc và đường hẻm chằng chịt khiến cho việc lưu thông hằng ngày và công tác cứu hỏa rất giới hạn và khó khăn.
Song song với các tin tức tình báo QLVNCH thu nhặt được qua cuộc hành quân Quyết Thắng,  ngày 10 /4/1968 Thượng tá Việt Cộng tên Tám Hà về hồi chánh tiết lộ tin tức Việt Cộng đang chuẩn bị tấn công thủ đô Saigon, Chợ Lớn và Gia Định gồm khoảng chừng trên 10,000 cán binh Việt Cộng vào ngày 22 tháng 4/1968. Nhưng có thể vì lý do nào đó đã chậm lại. Lực lượng tấn công của Việt Cộng gồm 2 trung đoàn thuộc Công Trường (CT) 9, hai trung đoàn thuộc Công Trường 5 và được tăng cường thêm chừng hai trung đoàn địa phương gồm các Trung Đoàn 165 và Trung Đoàn Đồng Tháp.
Ngày 3/5/1968 Hoa Kỳ và Hà Nội đồng ý chọn Paris làm địa điểm hội nghị hòa bình và ngày khởi sự sẽ bắt đầu vào ngày 10/5. Do đó Chỉ 24 giờ sau khi tin Hoa Kỳ và Bắc Việt thảo luận họp nhau ở Paris được tung ra là Việt Cộng đã mở cuộc tấn công vào Saigon . Ngày 4/5/1968 một tiếng nổ rất to do Việt Cộng gây ra ở gần đài vô-tuyến truyền hình tại Saigon. Khoảng 60 kg chất nổ TNT được dấu trên xe taxi. Lúc 13 giờ trưa, chiếc taxi bùng nổ gây cho 3 người chết và khoảng 30 người khác bị thương. Một căn nhà ở gần đài truyền hình cũng bị sập đổ. Người ta cho rằng tiếng nổ này là một hiệu lệnh của Việt Cộng phát động cho cán binh của họ mở cuôc tấn công vào thủ đô Saigon và vùng phụ cận để yểm trợ cho mục tiêu chính trị mà chúng đã lựa chọn..
Cuộc tấn công này phát xuất lúc 03 giờ 10 ngày 5 tháng 5/1968. Lúc đầu, Việt Cộng bắn những loạt trọng pháo loạn xạ bưà bãi vào thành phố. Sau đó các đơn vị võ trang của họ xuất hiện tại nhiều nơi. Tuy cuộc tấn công được khai diễn trên toàn quốc bằng hỏa lực pháo kích, nhưng mục đích thật sự là Cộng quân muốn chỉa mũi dùi bộ-chiến vào thủ đô Saigon. Khoảng 2 giờ sáng ngày 5/5  một Tiểu đội Ðặc công VC đã xâm nhập gần các đường Cô Giang-Cô Bắc. Chúng xuất hiện rải truyền đơn và tuyên truyền sách động đồng bào tại các khu chợ Cầu Muối, Cầu Kho, khu Ðề Thám-Bùi Viện.


Tiếng súng VC cũng đồng loạt tấn công ở một vài nơi khác. Quận Tư vùng Khánh Hội, Quận 5 khu Trần Nhân Tôn, Quận 3 khu Chùa Bà Lớn gần đường Nguyễn Thiện Thuật, Quận Nhất khu Phan Ðình Phùng-Nguyễn Bỉnh Khiêm gần Ðài phát thanh, Gò Vấp Kho Quân Cụ, khu Phú Thọ Hòa vùng Gia Ðịnh  đồng loạt bị VC tấn công. Vài nơi tại vùng Khánh Hội và Chợ lớn đã bắt đầu bốc cháy.Các lực lượng võ trang Việt Cộng cũng lọt được vào một vài vùng ven đô. Sau đó lần lượt chúng bị tiêu diệt và đẩy lui ra khỏi thành phố.(ngày 12/5/1968)
Kết quả từ 4 giờ sáng ngày 5 tháng 5/1968 đến 18 giờ chiều, trong 8 quận đô thành lực lượng chánh phủ đã hạ được 32 Việt Cộng, bắt sống 25 và tịch thu 70 vũ khí đủ loại. Về phía Cảnh Sát Dã Chiến có 6 người tử thương.
Ngày 6/ 5/1968  Việt Cộng lại mở thêm mặt trận ngã tư Bảy Hiền. một đơn vị Việt Cộng xâm nhập từ hương lộ 14 qua đường Hồ Tấn Đức, Lê Văn Duyệt ngã tư Bảy Hiền vào nghĩa trang quân đội Pháp. Vào lúc 8 giờ 30 sáng, các khu trục cơ A-1 Skyraider được gởi đến thi nhau dội bom vào khu nghĩa địa.
Thời gian nầy, TĐ7ND đang bổ sung quân số, và huấn luyện tại chỗ trong hậu cứ, gần núi Bửu Sơn Biên Hòạ . Vào khoảng gần trưa, Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù được điều động bằng xe, từ Biên Hòa về tiếp cứu Biệt Khu Thủ Đô
Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù khởi sự xuất phát từ Ngả Tư Bảy Hiền, chia làm 2 cánh,, từ cuối đường Lê văn Duyệt tấn công vào khu nghỉa địa. Cánh trái do Trung Tá Lê Văn Ngọc TĐT, chỉ huy 3 Đại Đội, tiến chiếm khu trường trung học Đắc Lộ, và khu “nhà thợ dệt” phía sau trường học. Cánh phải do Thiếu Tá Lê Minh Ngọc TĐP, điều động 2 Đại Đội 71 và 73, tiến theo đường Nguyễn Văn Thoại, về hướng Lăng Cha Cả. Nửa đường, Đại Đội 73 do Trung Úy Nguyễn Viết Thanh chỉ huy bắt đầu chạm địch. Cộng quân từ các công sự kiên cố bằng bê tông cốt sắt trong khu nghĩa trang cũ của Pháp, khai hỏa dữ dội vào đoàn quân Mủ Đỏ...
Các chiến sĩ ĐĐ73 Nhảy Dù hiên ngang dàn đội hình tác chiến, dùng lựu đạn khói màu làm màn che, rồi xung phong đánh cận chiến chớp nhoáng với tiểu liên và lựu đạn, nhanh chóng chế ngự chiến trường, chiếm lại khu nghĩa trang, dưới sự chứng kiến và khâm khâm phục của dân chúng và các ký giả VN và ngoại quốc...
Trận xung phong này kết thúc với 60 Việt Cộng bị hạ, 11 bị bắt sống, khoảng 100 nhà cửa của dân chúng ở ngã tư Bảy Hiền phía bên mặt đường Lê Văn Duyệt bị thiêu hủy. Cây xăng Shell cũng bị cháy và lực lượng Nhảy Dù tịch thu được 30 võ khí đủ loại trong đó có một súng phòng không và một khẩu đại bác không giật 75 ly, rất may Việt Cộng chưa dùng tới. Một điều may khác là Việt Cộng tới sát trường Quốc Gia Nghĩa Tử mà chưa đột nhập được vào bên trong nơi có nhiều lưu trú học sinh. Nếu Việt Cộng chiếm được nơi này làm nơi cố thủ sẽ gây nhiều khó khăn cho quân đội chánh phủ.
Theo cung từ của tù binh Việt Cộng, đơn vị tấn công tại ngã tư Bảy Hiền thuộc một thành phần của Trung Ðoàn 272 thuộc Công Trường 9 từ Tây Ninh kéo qua ngã vườn cao su vào khu hãng dệt Vinatexco (bị thiêu hủy kỳ tấn công Tết Mậu Thân) và khu nghĩa địa quân đội Pháp với mục đích tấn công căn cứ Tân Sơn Nhất và Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù tại trại Hoàng Hoa Thám. Nhưng Việt Cộng tới trễ vào lúc trời sáng nên bị các đơn vị chánh phủ chận đánh. Toán Việt Cộng xâm nhập vào nghĩa địa Pháp coi như hoàn toàn bị tiêu diệt. Còn những phần tử khác tẩu thoát về ngã Phú Thọ Hòa.
Cánh quân của TĐ7ND tiếp tục lục soát giải tỏa cho đến cổng Phi Long của BTL Không Quân... mãi sáng ngày 7 tháng 5/1968 các đơn vị VNCH mới thanh toán hết những cán binh Việt Cộng chạy tán loạn và ẩn núp trong trại chăn nuôi của Bộ Canh Nông. Vì vậy mà lần đầu tiên dân chúng trong khu Ông Tạ (đa số là dân di cư Công giáo Bắc Việt) phải chạy loạn. Con đường Nguyễn Văn Thoại tới ngày 8 tháng 5/1968 mới mở lại sự lưu thông đều hòa
Sau đó, TĐ7ND được lệnh đổi hướng, di chuyển ngược lại trên đường Nguyễn văn Thoại, hướng về Chợ Lớn giải tỏa khu “nhà thờ hầm”, xong tiếp tục tiến chiếm vùng nghĩa trang Nhị Tỳ Quảng Đông. Nơi đây, quân Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự rất mạnh. Cộng quân từ bên trong khu nghĩa trang, ẩn núp trong những công trình xây cất kiên cố, kẻm gai chằng chịt, bắn ra xối xả .. Đến tối, TĐ7ND tung khinh binh nương theo bóng đêm, len lỏi xâm nhập được vào bên trong nghĩa trang, rồi triển khai đội hình, thanh toán từng chốt địch, đến khuya mới làm chủ được tình hình nơi đây, rồi sáng hôm sau, bàn giao lại cho Cảnh Sát Dã chiến.
 Ngày 8 tháng 5, TĐ7ND được lệnh di chuyển bằng xe, trở ngược lại Ngả Tư Bảy Hiền, trực chỉ lên hướng Quang Trung, đến hảng Bột Ngọt Vị Hương Tố, để tiếp tay với TĐ1ND giải tỏa khu 18 Thôn Vườn Trầu, ra đến xã Nhị Bình ngày 9 tháng 5/1968. Một Đại Đội đặc công cộng quân bị bao vây tại đây, vì chúng không thể vượt sông Saigòn được. TĐ7ND và TĐ1ND đã phối hợp mở cuộc hành quân lục soát, trong hai ngày tiêu diệt đại đội này, bắt được nhiều tù binh và vũ khí cùng tài liệu giao về cho BKTĐ. TĐ1ND cũng đã chạm địch mạnh tại vùng Nhị Bình. Đại Úy Mai Ngọc Liên, TĐP/TĐ1ND bị tử thương tại đây..
Cũng trong ngày 8/5/1968, một mặt trận mới nữa được mở ra tại mật khu An Phú Đông của VC. Ngay khi cộng quân vừa phát động tấn công đợt 2 , TĐ3ND đã đến trấn đóng và lục soát mật khu nầy như khu chợ Cầu, vùng Tân Thới Hiệp Hốc Môn…
TĐ3ND từ Gò Vấp xâm nhập vào mật khu An Phú Đông. Lợi dụng khu ruộng mía rậm rạp , địch quân đã tổ chức những hệ thống hầm hố tác chiến rất vững vàng. TĐ3ND tấn công trực diện vào phòng tuyến địch, VC chống trả và giao tranh ác liệt , nhưng lực lượng Việt Cộng không thể cầm chân được quân Nhảy Dù. Hầu hết các mục tiêu “ruộng mía” đều bị quét sạch. Một số lớn bị hạ sát, một số đã ra đầu hang. Chiến sỉ Dù đã tịch thu một số lớn vũ khí, đạn dược và tài liệu của quân chính quy CSBV.  Mặt trận này đến ngày 11 tháng 5 mới chấm dứt hẳn. TĐ3ND rút về án ngữ tại hảng bột ngọt  ở Tân Thới Hiệp Hốc Môn.
Ngày 25/ 5/1968 Việt Cộng lại tấn công thủ đô Saigon. Lần này họ xâm nhập qua Đồng Ông Cộ vào khu vực Ngã Năm Bình Hòa và những khu kế cận. Họ chiếm và cố thủ trong các nhà của thường dân vô tội để chống lại cuộc phản công của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Tại Chợ Lớn, Việt Cộng cũng xâm nhập được vào nhiều khu phố thuộc Quận 6. Họ tổ chức chiến đấu ngay trong các khu vực đông dân cư, chiếm mấy nhà kiên cố làm pháo đài. Các trận chiến xảy ra tại những khu vực này vô cùng khốc liệt
Trung Đoàn Đồng Nai lặng lẽ xâm nhập qua các kẻ hở của vòng đai phòng thủ vào từ ngày 23 tháng 5/1968, nhưng thực sự tới ngày 25 tháng 5 họ mới phát động trận đánh. Đúng ra, Việt Cộng chưa muốn đánh sớm nhưng vì sự xâm nhập của họ đã bị bại lộ. Khởi sự, Việt Cộng đã từ vùng An Phú Đông xâm nhập vào thành phố Gia Định để đưa bộ chỉ huy nhẹ của Trung Đoàn Đồng Nai với Tiểu Đoàn K3 Phú Lợi vào trước. Toán quân này đã len lõi vào tới khu chùa Tập Thành thuộc Ấp 7. Họ đợi có nhiều cán binh Việt Cộng khác xâm nhập thêm để rồi từ vùng này băng qua cầu tiến tới vùng Bà Chiểu, vượt đường Bùi Hữu Nghĩa qua Ấp 4 xã Bình Hòa, vào đường Trần Nhật Duật để làm đà vọt vào Quận 1 ở Saigon.
Nhưng khi họ đến chùa Tập Thành thì bị quân đội Việt Nam Cộng Hòa phát giác. Liền ngay đó, các lực lượng chánh phủ được điều động đến ngăn chận và mở cuộc hành quân tảo thanh cho nên chiến sự đã chỉ hạn chế trong khu Ấp 7, khu cầu Sơn, cầu Băng Ky, Cây Quéo và Cây Thị.
31/5/1968 Trung Đoàn Quyết Thắng với tiểu đoàn 1 và 2 của Gò Môn (Gò Vấp và Hóc Môn) mãi tới đêm mới từ khu Rạch Ông vượt qua đường rầy xe lửa vào vùng Cây Thị để tăng viện cho các hoạt động trong nội thành. Lực lượng Việt Cộng khi vào thì chạm trán với Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) và xảy ra các cuộc đụng độ ở vùng cầu Băng Ky. Mặt trận cầu Băng Ky vì vậy lại sôi động nhưng chỉ trong 2 ngày lực lượng Thủy Quân Lục Chiến đã dẹp tan hết các toán Việt Cộng ở đây vì Việt Cộng không có bao nhiêu. Đó cũng là vì lực lượng chánh của Việt Cộng đã dồn sâu vào bên trong thành phố, còn tại nơi đây họ chỉ có một số ít quân để bảo vệ đường xâm nhập cho các lực lượng chi viện của họ vào.
Trong khi đó, lực lượng Nhảy Dù đã gặp một sức chống trả mảnh liệt của Việt Cộng ở khu chùa Tập Thành. Việt Cộng đã tổ chức hầm hố quyết tử thủ khu vực này. Mãi sau 13 ngày giao tranh ác liệt, tức là vào ngày 5 tháng 6/1968 thì quân đội chánh phủ mới kiểm soát được khu vực chùa Tập Thành.
Sáng ngày 2/6 có 3 phi tuần dội bom xuống khu vực quanh chùa Tập Thành. Bom hạng nặng làm rung chuyển cả khu vực. Bom vừa trút xong thì Nhảy Dù lại mở đợt xung phong. Nhưng vẫn bị hỏa lực rất mạnh của Việt Cộng cầm chân. Đại Ðội 51 Dù do Đại Úy Quân điều động xung phong 3 lần đều bị hỏa lực dữ dội của Việt Cộng ngăn chặn. 
Ngày 3/6/1968 Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù ở vùng chùa Tập Thành vẫn còn ngun ngút khói lửa. Mở đầu trận này khi hai cánh quân của Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù tiến vào trận địa, các binh sĩ Nhảy Dù đã không dùng chiến thuật đi mà là nhảy và chui, vì di chuyển trên đường sẽ bị Việt Cộng bắn, nên những người lính Nhảy Dù phải leo từ nhà nọ sang nhà kia. Lặng lẽ đi khi tới khu vực quanh chùa thì họ mới chạm Việt Cộng. Ở vùng này có nhiều nhà xây và nhiều cây nên Việt Cộng rất có lợi thế. Lính Nhảy Dù đã cố tránh thiệt hại cho dân chúng nên không xin pháo binh và phi cơ yểm trợ
Vào ban đêm, Việt Cộng tăng viện thêm quân và phân tán thành nhiều toán nhỏ. Họ định lợi dụng đêm tối mở lối qua cầu Mới để vào Saigon nhưng gần chục cán binh Việt Cộng đã bị hạ khi định lọt qua.
Trước quân số VC tăng thêm và địa thế ấy, sáng ngày 4 tháng 6/1968, Nhảy Dù phải dùng pháo binh và phi cơ yểm trợ. Lúc 11 giờ 00, khi máy bay Skyraider tới oanh tạc, Việt Cộng đã bắn trả dữ dội. Sau đó, hai đại đội Nhảy Dù mở cuộc tấn công xuyên vào phòng tuyến Việt Cộng, nhưng họ chỉ tiến thêm được chừng 50 mét. Cũng như đêm trước, Việt Cộng vẫn tìm cách rút đi nhưng không thoát được, có 3 Việt Cộng bị bắn hạ.
Đại Úy Trần Văn Sơn, sĩ quan tham mưu TĐ5ND cho biết, là Việt Cộng vẫn tìm lối lẩn về phía Nam, tức là mưu toan thọc sâu vào Gia Định. Một tù binh Việt Cộng khai rằng cấp chỉ huy cho biết là Saigon đã rơi vào tay Việt Cộng. Họ có nhiệm vụ vào tiếp quản. Giải thích về sự việc bị Nhảy Dù chắn đường thì cấp chỉ huy của họ cho biết đây chỉ là một số quân ngụy còn ngoan cố. Chính tù binh này cho biết đơn vị tham chiến là Tiểu Ðoàn K3 thuộc Trung Ðoàn Đồng Nai và hiện có hai tiểu đoàn Việt Cộng hoạt động trong khu này. 


Trong kỳ Mậu Thân 1968, một trong những vùng bị tàn phá nhiều nhất là Chợ Lớn, một khu vực sinh sống rất đông đảo của Hoa Kiều tại Việt Nam. Trong cuộc tổng tấn công này, các toán quân Việt Cộng đã xâm nhập khu Chợ Lớn để giết dân, phóng hỏa, và tạo nên một sự náo loạn kinh khiếp trong đô thành. Hình chụp tại một góc phố  với nhiều cán binh Việt Cộng nằm chết la liệt bên lề đường. Ở đằng sau, một toán lính Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa đang tập trung, tái phối trí, rồi sau đó chuẩn bị mở một cuộc hành quân truy kích khác để đánh đuổi địch quân ra khỏi đô thành. (Tài liệu: NAM, The Vietnam Experience)

Suốt trong 8 ngày qua, Việt Cộng tử thủ tại nơi này, dựa trên một địa thế thật hiểm trở, nào là những hàng tre kín mít, chằng chịt, nào là cây cối rậm rạp, nào là nhà cửa san sát. VC biết rằng vì sợ sinh mạng và tài sản của dân chúng bị hư hại nên QLVNCH sẽ không mạnh tay tấn công vào những nơi chúng đang trú ẩn, vì vậy chúng ta không thể nhanh chóng thanh toán bọn CS, trong khi chúng chỉ có trên dưới một tiểu đội. Trong nhiều trường hợp, VC còn bắt giữ dân chúng làm con tin hoặc bia đỡ đạn cho chúng. Việt Cộng lại đào hầm hố kiên cố ẩn nấp. Nên các lực lượng hai bên rình nhau như mèo với chuột, bên nào hở cơ để lộ mục tiêu thì bên kia bắn.
Không tiến được, quân đội lại phải dùng phi cơ và pháo binh oanh kích vào phòng tuyến tử thủ của Việt Cộng. Đạn đại bác chỉ nổ cách phòng tuyến Nhảy Dù độ 50 mét. Từ 18 giờ trôi qua người ta ghi nhận có đến 16 phi tuần đã oanh tạc xuống khu vực trên. Sau hơn 10 ngày, cuộc giao tranh ở đây vẫn tiếp diễn khốc liệt. Mỗi ngày các cánh quân Việt Nam Cộng Hòa chỉ tiến được mấy trăm thước, càng tiến vào càng thấy khó khăn vì đường ngang ngõ ngách như mạng nhện. Thêm vào đó nơi đây trước kia là nghĩa trang mà nay dân chúng làm nhà trên đó, mồ mã ở ngay cả trước nhà. Quân đội và Việt Cộng vẫn rình mà bắn nhau. Không Quân vẫn yểm trợ. Nhảy Dù phải tiến chiếm từng căn nhà một cách chậm chạp.
Lực lượng Thủy Quân Lục Chiến được tung vào để tiếp tay với Nhảy Dù ở mặt trận Cây Quéo. Mặt trận ngày hôm nay có vẻ quyết liệt. Bom lửa được xử dụng. Hướng tiến quân cũng được bất thần đổi chiều để đánh xuyên hông Việt Cộng. Mọi ngày hướng tiến quân từ Nam lên Bắc, nhưng tới hôm nay thì đổi khác. Lực lượng của Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù song song nhau đánh từ Tây qua Đông. Lẫn trong tiếng bom nổ thỉnh thoảng lại có tiếng súng nhỏ và tiếng lựu đạn điểm thêm. Đại Úy Sơn thuộc Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù cho biết là để tránh bom khi máy bay tới, Việt Cộng thường mò vào sát tuyến của ta.
Một cuộc tiến quân hết sức gay go từ sáng đến chiều, mặt trận quanh vùng chùa Tập Thành mới được giải quyết. Thủy Quân Lục Chiến chiếm chùa lúc 17 giờ 30 sau 13 ngày giao tranh. Trong lúc đó Nhảy Dù đang còn mở những cuộc lục soát quanh vùng chùa Tập Thành. Trong cuộc hành quân này, Nhảy Dù hạ được 8 Việt Cộng, bắt sống 5, tịch thu 10 súng đủ loại. Về phía Thủy Quân Lục Chiến, họ hạ được 24 Việt Cộng, bắt sống 16, tịch thu 13 AK và 3 khẩu B-40, B-41.
Trong những ngày kế tiếp, Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến phối hợp cùng nhau hành quân lục soát vùng này và được coi như xong hẳn. Nhảy Dù khám phá được một hầm chôn xác địch tập thể gồm 56 xác. Tiểu đoàn Nhảy Dù phải làm nhiệm vụ thu dọn chiến trường, nhặt chôn các xác chết mùi thối bốc lên nồng nặc để dân chúng khỏi kinh sợ khi trở về.
Tổng kết trận này, riêng Nhảy Dù hạ được khoảng trên 100 Việt Cộng, bắt sống 10, tịch thu gần 30 súng. Còn tại xóm Thơm, quân đội hạ 5 Việt Cộng, bắt sống 8, tịch thu 5 súng AK, 1 khẩu B-40, 1 B-41, 1 M-79 và 1 súng lục Trung Cộng. Bên quân đội có một hạ sĩ quan tử thương.
5/6/1968 Chấm dứt mặt trận khu Tập Thành. Chiến trận lại chuyển sang vùng Cây Quéo. Việt Cộng đã bị quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bao vây dồn trong khu tứ giác Ngô Tùng Châu, Hoàng Hoa Thám, Lê Quang Định và một con đường không tên. Trong khi dó, Việt Cộng định lòn qua xóm Thơm để đánh vào các khu vực gần Bộ Tổng Tham Mưu.
Các cấp chỉ huy CSBV muốn mở mặt trận lan rộng ra đã bị các lực lượng Việt Nam Cộng Hòa kềm chế nên chấm dứt ngày 11 tháng 6/1968 do Việt Cộng tự động rút đi sau khi bị thiệt hại quá nặng.
Vào lúc 2 giờ 20 sáng ngày 4 tháng 6/1968, một đơn vị của Liên Ðoàn Trần Hưng Đạo chạm súng với Việt Cộng tại vùng Xóm Thơm gần Bộ Tổng Tham Mưu. Lúc đó Việt Cộng vẫn cố gắng xâm nhập sâu vào thành phố. Việt Cộng định khai thác những kẽ hở để đột nhập vào .
Ngay tại mặt trận này, lực lượng chánh phủ đã phục sẵn để chận lối xâm nhập của Việt Cộng vào khu vực phòng thủ Bộ Tổng Tham Mưu. Bất chợt khi Việt Cộng len lỏi đến, một trung sĩ canh gác trông thấy nên ngăn lại. Việt Cộng nổ súng hạ ngay hạ sĩ quan này và định tràn vào bộ chỉ huy của một đại đội phòng ngự. Nhưng quân phòng thủ đã phản ứng kịp thời bắn hạ toán tiền phong của Việt Cộng gồm 5 người. Vào buổi sáng Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù được tăng cường đến để lục soát diệt địch. 
Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù của Thiếu Tá Nhã chia quân làm nhiều cánh tiến sâu vào đường rầy xe lửa. Khi băng qua nghĩa địa nhiều súng AK bắn ra khiến 3 chiến sĩ Nhảy Dù bị thương nhe. Thành ra Việt Cộng đã lợi dụng các mồ mả làm công sự chiến đấu. Chiến trận ở đây cũng gay go và không giải quyết ngay được. Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù phải lục soát khu tứ giác Ngô Tùng Châu, Hoàng Hoa Thám, Lê Quang Định. Các lực lượng khác như lực lượng của trại Trần Hưng Đạo án ngữ xung quanh.
Tiểu Ðoàn 9 Dù đã hoạt động hết sức khó khăn lùng diệt từng ổ địch. Việt Cộng cứ vài ba tên hợp thành một tổ chiếm các nhà dân hoặc chùa chiền mà cầm cự bắn sẻ. Nhà cửa khu này san sát như bát úp, có nhiều cao ốc rất tiện lợi cho Việt Cộng lợi dụng làm pháo đài cố thủ. Lực lượng Nhảy Dù không được xử dụng tới mức tối đa để tránh thiệt hại cho dân chúng. Suốt cả buổi sáng 5 tháng 6/1968 lùng đuổi Việt Cộng, các binh sĩ Nhảy Dù mới hạ được 2 Việt Cộng, bắt sống 1 và tịch thu 2 súng AK, 1 khẩu B-40.
Tiểu Ðoàn 9 càn quét từ Nam lên Bắc khiến Việt Cộng rút từ 1 số cao ốc về tăng cường cho nhóm phòng thủ tại chùa Trúc Lâm. Buổi sáng, tiểu đoàn này chia khu vực hành quân làm 4 khu A, B, C và D.Hai khu A và B cách đường Ngô Tùng Châu độ 120 mét và đã đuổi sạch địch.
6/6/1968 Từ sáng sớm, lực lượng Nhảy Dù vẫn tiếp tục quét sạch Việt Cộng ở mục tiêu C, trong đó có ngôi chùa Trúc Lâm. Vào 3 giờ chiều mặt trận ngã ba Cây Quéo đột nhiên trở nên dữ dội. Việt Cộng từ trong nhiều công sự phòng thủ quanh các ngôi chùa Linh Sơn và Trúc Lâm thi nhau dùng súng SKZ 57 ly và B-40 thổi ra. Từ các bụi tre rậm rạp, hỏa lưc Việt Cộng nổ ròn không kém. Nhiều chiến sĩ Nhảy Dù đã ngã gục mà mục tiêu vẫn chưa thanh toán được.
Ba lần, Đại Ðội 93 do Trung Úy Tân chỉ huy xung phong vào đều bị 2 khẩu thượng liên địch đẩy lui. Lần đầu tiên trong trận này, vào hồi 4 giờ chiều, các binh sĩ Nhảy Dù phải xử dụng đại bác 90 ly và bích kích pháo cỡ 81 ly. Trọng pháo hoạt động liên tục rót vào phòng tuyến Việt Cộng. Mảnh đạn làm tung cả những cây tre văng lên trời rớt trùm xuống đầu toán khinh binh Nhảy Dù. Sau khoảng hàng trăm quả trọng pháo, 6 giờ chiều khu chùa Trúc Lâm quân ta mới làm chủ được trận địa.
7/6/1968 Sáng sớm , lính Nhảy Dù mới băng qua khúc đường Hoàng Hoa Thám nối dài, nơi đã bị Việt Cộng phong tỏa 3 ngày liền, để chiếm lại ngôi chùa Linh Sơn. Tại khu vực này, cây cối đều cháy xám, bụi tre bứng gốc nát bấy, những ngôi mả tan hoang nhiều máu me loang lỗ và mùi hôi xông lên nồng nặc. Có khoảng 30 hầm hố có cửa ra vào vuông vắn, bên trên nóc xếp gỗ lớn, đồ đạc áo quần với một lớp đất phủ lên. Nhiều trái đạn rớt trúng những công sự không hề hấn gì. Phần lớn các hầm này được Việt Cộng đào theo hình chữ U có 2 cửa song song và bằng nhau, từ đó họ có thể bắn bên này rồi thò súng qua bên kia bắn tiếp. Tại đây, quân đội tìm thấy 5 súng AK và một nơi chôn xác, thịt đã rữa.
Nhập trận buổi sáng ngày 8 tháng 6/1968, Tiểu đoàn Biệt Cách Nhảy Dù xuất phát từ Trung Tâm Tịnh Xá mở hành quân thăm dò địch đóng tại khu vực trường Đức Tin. Đại Ðội 1 đi tiên phong. Cuộc đụng độ xảy ra lẻ tẻ từng lúc. Biệt Cách Nhảy Dù phải mang vào trận địa cả súng không giật 106 ly để yểm trợ cho cuộc tiến quân. Đến 14 giờ, sau khi biết rõ vi trí Việt Cộng, lực lượng Biệt Cách Nhảy Dù liền ngưng các cuộc thám kích mà chỉ bao vây để ngăn địch xuất hoặc nhập khu vực.
Đến 19 giờ, Biệt Cách Nhảy Dù bắt đầu mở cuộc công kích bằng hỏa lực đủ loại súng vào hướng Việt Cộng. Liền trong 2 giờ như vậy, bất thần mọi loại súng đều im lặng. Việt Cộng cũng im theo. 
Trong sự im lặng ấy, 15 toán Biệt Cách Nhảy Dù và Delta lặng lẽ xung trận. mọi người ngoài vũ khí riêng mang theo 10 quả lựu đạn lặng lẽ trườn mình vào mục tiêu. Họ cứ 3 người thành một tổ, Khi còn cách tuyến độ 10 mét, những người lính này đánh bằng lựu đạn. Việt Cộng cuống cuồng phản ứng lại bằng B-40. Phòng tuyến đầu của Việt Cộng bị tan vỡ. Các nhóm Biệt Cách Nhảy Dù và Delta liền xung phong đánh xáp lá cà. Một số Việt Cộng chết và bị thương,và một số khác liền tách làm hai mũi mở đường máu chạy thoát thân. Đến sáng, quân đội hoàn toàn làm chủ tình hình.
Việt Cộng để lại 21 xác và một người bị bắt. Phía quân đội có 9 tử thương. Tù binh Việt Cộng bị bắt khai thuộc Tiểu Ðoàn 1 của Trung Ðoàn Đồng Nai mới xâm nhập vào đây được 3 hôm.  
9/6/1968 Đại Ðội 52 lực lượng Nhảy Dù nằm án ngữ trong khu tứ giác Lê Quang Định, Trần Bình Trọng, Ngô Tùng Châu và đường ranh xóm Thơm với 4 chiến xa M-41 hỗ trợ. Vào chiều ngày 9 tháng 6/1968 bị các đơn vị thuộc Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù ép từ phía Tây Nam qua, Việt Cộng bị lọt vào trong gọng kìm nên đã dồn hết hỏa lực vào Đại Ðội 52/5 ND bằng đủ loại súng lớn nhỏ để toan mở đường chạy về phía cầu Băng Kỵ. Lúc 20 giờ 20, Việt Cộng nhận thấy không chọc thủng nổi phòng tuyến của Nhảy Dù nên họ phải di chuyển về hướng xóm Thơm. Kể từ 10 giờ đêm trở đi tiếng súng của Việt Cộng thưa dần.
10/6/1968 Việt Cộng dường như vẫn tiếp tục xâm nhập thêm quân. Đột nhiên 2 đại đội Biệt Cách Nhảy Dù đóng tại Trung Tâm Tịnh Xá bị Việt Cộng từ hướng Đông Bắc kéo đến phản công và bao vây.
Thoạt tiên vào lúc 13 giờ trưa, Việt Cộng từ hai cao ốc và một khu vườn rậm rạp ở ngay xế cổng và bên hông chùa nổ súng uy hiếp. Trung Úy Bình, đại đội trưởng, liền chia quân làm 2 cánh. Một cánh từ cao ốc đối diện khai hỏa vào địch, cánh quân thứ hai từ góc chùa đánh thẳng vào cao ốc xế trước mặt. Toán Việt Cộng ở cao ốc thứ hai bên hông chùa hợp với toán chiếm ở vườn cây, liền khai hỏa vào cánh quân Biệt Cách Nhảy Dù đang tiến tới. Trung Úy Bình cho một toán quân thứ ba từ hông chùa phía Bắc đánh thẳng vào toán Việt Cộng ở vườn cây. Trong khi đó, toán quân xuất phát đầu tiên nhất loạt tràn sang chiếm cao ốc trước cổng chùa. Việt Cộng bỏ lại 6 xác chết. Số còn lại bỏ chạy về cao ốc phía hông chùa.
Mũi dùi đánh vào khu vườn không tiến được vì có 2 khẩu B-40 của Việt Cộng đặt ở dưới một gốc câỵ Các binh sĩ Biệt Cách Nhảy Dù phải xử dụng rốc kết 35 ly. Kết quả, 3 xạ thủ Việt Cộng chết tại chỗ. Khi lên lấy 2 khẩu B-40 mới thấy 3 người này đều bị xích tay vào nhau.
Còn cao ốc ở ngang hông chùa, Biệt Cách Nhảy Dù phải dùng đại bác 90 ly phá thủng tường nhà làm lối cho cánh quân vừa chiếm lầu trước khi xung phong vào. Việt Cộng bỏ chạy qua bên kia đường Trần Bình Trọng để lại trận địa cả thảy 25 xác chết. Một nhóm lính Biệt Cách Nhảy Dù liền vượt lên gần đường Trần Bình Trọng. Việt Cộng liền vác thượng liên đặt lên một chiếc xe be đậu ở trên đường nã đạn như mưa bấc. Toán khinh binh không tiến nổi.  
Nhưng ít phút sau đó, Một toán quân Biệt Cách Nhảy Dù dùng súng M72 thổi vào chiếc xe be này 1 quả. Cây thượng liên của Việt Cộng bị bắn tung lên cao văng lộn vào trận địa địch. Xạ thủ và phụ xạ thủ Việt Cộng đều tử thương. Một toán quân Biệt Cách Nhảy Dù tiến lên dùng lựu đạn thanh toán những Việt Cộng núp trong hố sát tường. Nhưng Biệt Cách Nhảy Dù không vượt đường Trần Bình Trọng vì bên đó là phần đất trách nhiệm của Thủy Quân Lục Chiến.
Chiều ngày 10 tháng 6/1968 Việt Cộng đốt một vài căn nhà ở phía sau chùa Dược Sư có lẽ để cản đường quân đội, hầu mong tìm lối tháo lui.  Họ bắn mấy phát rồi lợi dụng cây cối um tùm mà bỏ chạy. Việt Cộng rút di quá vội vàng, bỏ ngỏ một khu trận địa mà họ đã sửa soạn từ trước để làm nơi cố thủ. Khu này diện tích khoảng 10,000 mét vuông. Bên trong chuối mọc như rừng, cỏ hoang rậm rạp,Việt Cộng đã đào trong khu vực này 50 hầm chiến đấu. Mỗi hầm có hai cửa, một hầm phía trong 1 hầm phía ngoài cũng 1 kiểu như đã thấy tại quanh chùa Linh Sơn, nơi đã xảy ra trận đánh nhau sáng ngày 7 tháng 6 giữa Việt Cộng và Đại Ðội 94Nhảy Dù.
Với địa hình địa vật và sự sửa soạn như vậy, tại sao Việt Cộng lại rút đi quá vội vàng, có thể vì họ đã tổn thất quá nhiều không còn đủ sức cầm cự  mặt trận Cây Quéo nằm trong khu tứ giác Lê Quang Định, Trần Bình Trọng, Ngô Tùng Châu và ranh xóm Thơm kể từ ngày 11 tháng 6/1968 được coi như chấm dứt.


12/6/1968 Vừa dứt mặt trận Cây Quéo, mặt trận Cây Thị lại mở ra trong ngày 12 tháng 6/1968 rất sôi động. Sau đúng một tuần lễ giao tranh, các đám tàn quân Việt Cộng kiệt quệ định rút lui mà không có lối thoát để rồi cuối cùng tất cả những kẻ sống sót còn lại của Trung Đoàn Quyết Thắng đã phải đầu hàng tập thể ngày 18 tháng 6/1968.
Tóm lại, Trung Đoàn Quyết Thắng Việt Cộng coi như hoàn toàn tan rã sau khi 152 cán binh thuộc hai tiểu đoàn 1 và 2 ra đầu hàng. Theo lời của hàng binh Thượng Úy Phan Văn Xưởng thì Trung Đoàn Quyết Thắng khi xâm nhập vào có 400 cán binh trang bị đầy đủ. Đến chiều ngày 17 tháng 6 trung đoàn này chỉ còn 229 người, trong đó có 120 bị thương nặng nhẹ. Trung Đoàn Trưởng Ba Vinh chết ngay lúc đầu. Chính Ủy Hai Phái lên thay. Với số hàng tập thể và bị chết trong các vụ chạm súng ngày cuối ở vùng cầu Băng Ky, Trung Đoàn Quyết Thắng chỉ còn lối 20 người lọt lưới chạy thất tán.
Trung Đoàn Đồng Nai cũng bị tổn thất nặng trong các vụ chạm súng những ngày đầu tiên và ở vùng Cây Quéo. Mặt khác, một lực lượng của Trung Đoàn này định tăng viện cho mặt trận Gia Định thì đã bị lực lượng Nhảy Dù gây tổn thất nặng ở vùng An Phú Đông. Quân số còn lại của trung đoàn này lối 250 người đã phải rút về vùng Bình Mỹ, 9 km phía Tây Bắc Tân Uyên.
Tại mặt trận Chợ Lớn, Phân Khu 2 của Việt Cộng điều động Tiểu Đoàn 6 Bình Tân và Tiểu Đoàn 308 phân tán xâm nhập từ Phú Định vào các khu vực dân cư phía Nam Chợ Lớn. Hai Tiểu Đoàn này rút ra chỉ còn khoảng 100 người chạy về mật khu Bà Vụ để bồi dưỡng.
Suốt trong thời kỳ tấn công vào thủ đô, không đêm nào là Việt Cộng không bắn hỏa tiển 122 ly vào thành phố. Cứ mỗi lần có pháo kích là có cháy nhà, người chết, người bị thương. Nhịp độ pháo kích vào đô thành sau ngày 18 tháng 6/1968 giảm thiểu và sau vụ pháo kích chót vào phi trường Tân Sơn Nhất đêm 21 tháng 6/1968, Việt Cộng mới chấm dứt hẳn. Thiêt hại của họ khoảng trên 50% quân số.
Thay lời kết :
Mặc dù trong cả 2 đợt tấn công, CSBV hoàn toàn thất bại trên khắp các mặt trận, nhưng chúng đã khai triển được yếu tố bất ngờ và tạo được dư luận quốc tế có lợi cho mặt tuyên truyền của chúng. Chúng ta bị bất ngờ nhưng cũng phải nói thêm là vì chúng ta khinh địch. Dân chúng và cả các lực lượng hành chánh lẫn quân sự ít ai tin rằng VC dám ngang nhiên vi phạm lệnh hưu chiến trong 3 ngày Tết mà chúng đã công khai cam kết. Rất nhiều đơn vị quân sự đã cho phép số lớn quân nhân về ăn Tết với gia đình.Việc phòng thủ do đó bị lơ là ít nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tấn công của VC.
Hơn nửa, cuộc “TCK Mậu Thân” là một âm mưu sâu hiểm của Tư Bản “muốn tháo chạy trong danh dự” ( WAR đồng nghỉa với Withdraw And Run ) mà Kissinger là tay phù thủy nham hiểm điều hợp viên chủ động cấu kết với kẻ thù CSBV nhằm làm suy yếu khả năng của QLVNCH, trong khi CSBV muốn triệt hạ lực lượng quân sự của Việt Cộng tại miền Nam để thay thế nhân sự bằng lực lượng xâm nhập từ miền Bắc. Năm 1967  Hoa Kỳ đã thua trận ngay tại Mỹ trên đường phố, trong nhà thờ, trong các đại học, trong Quốc Hội và ở cả diển đàn quốc tế. Vì thế, để chuẩn bị cho việc tháo chạy trong danh dự, Kissinger đã xếp đặt để cho Việt Cộng  được hợp pháp hóa trở thành một thực thể (mà thành phần chủ chốt xâm nhập từ miền Bắc)có thế giá tương xứng.
Từ đầu tháng 12/1967, Tổng thống Johnson  đã được báo cáo đầy đũ về các chuyển động quân sự của Hà Nội, ngày 21/12/1967 Hoa Kỳ đã biết rỏ giờ giấc cuộc tấn công của Việt cộng nhưng phía chính phủ Mỹ vẫn im lặng.
Ngày 23/12/1967, khi đến Úc dự tang lể Thủ Tướng Úc là ông Holt, Tổng thống Mỹ đã thông báo cho chính phủ Úc trong một cuộc họp mật rằng “CSVN sẽ tổng tấn công quyết tử trong vài tuần lể tới.”
Và một kết quả đúng như dự liệu và sách lược của chính phủ Hoa Kỳ là sau trận chiến, mặc dù thảm bại nặng nề về nhân lực cũng như trang bị, cái gọi là “Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam” được ra đời.
Sau trận TCK Mậu Thân, tình hình an ninh tại miền Nam  trở nên tốt đẹp hơn bao giờ hết, hạ tầng cơ sở của Việt Cộng cơ hồ như tan rả., Hoa Kỳ chuẩn bị Việt Nam Hóa chiến tranh. CS đã thảm bại trên chiến trường với những tổn hại lớn lao nhưng lại là một thành công của họ về mặt ngoại giao trên chính trường quốc tế.
Ngày nay tất cả mọi người đều biết rõ ràng đến biến cố Năm Mậu Thân và Tổng thống Hoa Kỳ là Johnson và tay phù thủy Kissinger phải trực tiếp chịu trách nhiệm vì đã cố tình tạo nên một lỗi lầm nghiêm trọng về đạo đức, gây tử vong cho hằng trăm ngàn người dân Việt Nam vô tội có thể tránh khỏi nếu được báo trước sự thật.

Tài liệu tham khảo:

TÀN SÁT TẾT MẬU THÂN
TẠI HUẾ (1968)
(bài 2)
                                                                                                Trần Gia Phụng                  

III.- CUỘC TÀN SÁT MẬU THÂN TẠI HUẾ

1.  TOÀN CẢNH

Trên toàn lãnh thổ VNCH, trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, chỉ trừ vụ tấn công Tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn để gây tiếng vang trên thế giới, du kích CS hầu như tránh tấn công các căn cứ quân sự Hoa Kỳ trên toàn quốc, mà chỉ nhắm vào các thành phố và các căn cứ quân sự VNCH.

Cuộc tấn công diễn ra sớm nhất tại Quảng Nam khi họ pháo kích trại định cư Trà Kiệu, ở phía Nam thành phố Đà Nẵng khoảng 30 cây số, vào đêm Giao thừa tức đêm 29 rạng 30-1-1968, và rút lui trễ nhất tại Huế vào ngày 25-2-1968.  Như vậy cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân diễn ra trong gần một tháng.  Trong suốt tháng nầy, cộng sản tấn công 44 địa điểm tại các thị trấn, tỉnh lỵ và thành phố trên toàn quốc:

* Vùng 1 Chiến thuật:  Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín (Tam Kỳ), Quảng Ngãi.
* Vùng 2 Chiến thuật:  Bình Định, Bình Thuận, Tuyên Đức (Đà Lạt).
* Vùng 3 Chiến thuật:  Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, Biên Hòa, Long Bình, Bình Dương, Bà Rịa.
*  Vùng 4 Chiến thuật:  Phong Dinh (Cần Thơ), Vĩnh Long, Kiến Hòa, Định Tường, Kiên Giang, Vĩnh Bình (Trà Vinh), Gò Công, Bạc Liêu.

Trong số những nơi bị tấn công, hai địa điểm quan trọng nhất mà cộng sản nhắm tới là hai thành phố Sài Gòn và Huế.  

Sài Gòn là thủ đô của VNCH.  Bộ máy chính quyền trung ương đóng tại đây.  Sài Gòn còn là nơi tập trung trụ sở các tòa đại sứ, các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước.  Cộng sản quyết tấn công Sài Gòn mạnh mẽ để gây tiếng vang lớn trên thế giới.  Vì tầm quan trọng của mặt trận Sài Gòn, cộng sản tung vào đây bộ chỉ huy cao cấp nhất của MTDTGPMNVN như Nguyễn Văn Linh (bí thư mặt trận Sài Gòn), Võ Văn Kiệt (phó bí thư), Trần Văn Trà (chỉ huy phó Lực lượng Võ trang MTDTGPMNVN), Mai Chí Thọ, Lê Đức Anh...(Chính Đạo, Mậu Thân, sđd.173). 

Cộng sản mở cuộc tấn công Sài Gòn vào lúc 2 giờ sáng mồng 2 Tết, tức rạng ngày 31-1-1968, đánh vào Dinh Độc Lập, tòa đại sứ Hoa Kỳ, đài Phát thanh Quốc gia, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng tham mưu, Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, và nhiều vị trí vùng phụ cận.  Lúc đó, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về Mỹ Tho nghỉ Tết tại quê vợ.  Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đã nhạy bén chỉ huy chận đứng được mũi đánh chiếm đài Phát thanh Quốc gia của Việt Cộng (Chính Đạo, Mậu Thân, sđd.183), vì nếu cộng sản chiếm được đài nầy, phát thanh trên toàn quốc lời kêu gọi tổng khởi nghĩa, thì tai hại về ngoại giao và nội trị không thể nào lường được. 

Tuy bị bối rối lúc đầu, nhưng quân đội VNCH phản ứng kịp thời, làm chủ tình hình ngay trong ngày mồng 3 Tết.  Các đơn vị cộng sản thất bại, phải lần lượt rút ra khỏi vòng đai thành phố Sài Gòn trong vòng một tuần lễ.  Một việc đáng tiếc xảy ra trong cuộc phản công là vì quá nóng ruột do đồng đội bị sát hại, chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan, tư lệnh Cảnh sát Quốc gia, đã tự tay bắn chết một trung uý cộng sản giả dạng thường dân bị bắt tại trận khi đang giết hại một hạ sĩ quan cảnh sát gần chùa Ấn Quang, Sài Gòn.  Tấm hình do ký giả Eddie Adams thuộc Associated Press (AP, Hoa Kỳ) chụp lại cảnh nầy, được giải thưởng Pulitzer (ngành báo chí Hoa Kỳ) và đăng tải khắp hoàn cầu, gây tai tiếng rất lớn cho tướng Loan, và nhất là gây bất lợi cho VNCH về phương diện ngoại giao.

2.   HUẾ TRƯỚC MẬU THÂN

Thành phố bị Việt Cộng chiếm lâu nhất và bị thiệt hại nặng nhất về nhân mạng cũng như tài sản là thành phố Huế.  Huế là tỉnh lỵ của tỉnh Thừa Thiên, cách sông Bến Hải, ranh giới Bắc và Nam Việt, khoảng 80 cây số về phía nam.  Các khuynh hướng chính trị của dân chúng Huế lúc đó có thể sơ lược như sau:

* Huế là kinh đô của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn (1802-1945).  Vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, vua Bảo Đại (1913-1997, trị vì 1925-1945), bị truất phế hai lần: Lần thứ nhất vào năm 1945, nhà vua bị Việt Minh áp lực và phải thoái vị.  Lần thứ hai vào năm 1954, ông bị cuộc trưng cầu dân ý do ông Ngô Đình Diệm tổ chức ngày 23-10-1955, loại khỏi chức Quốc trưởng Quốc Gia Việt Nam. Tuy vậy, ảnh hưởng của triều Nguyễn ở Huế vẫn còn khá mạnh, do con cháu của hoàng gia cũng như con cháu của những quan lại triều đình cũ còn sống ở Huế khá đông.  Hội đồng Nguyễn Phúc tộc, hậu thân của Tôn nhơn phủ, dưới sự lãnh đạo tinh thần của Đoan Huy hoàng thái hậu (Đức bà Từ Cung), thân mẫu của cựu hoàng Bảo Đại, vẫn tiếp tục sinh hoạt.  Vào thời điểm năm 1968 (mậu thân) những người nầy hy vọng cựu hoàng Bảo Đại, lúc đó cư ngụ ở Pháp, có thể đóng một vai trò quan trọng đáp ứng giải pháp hòa giải giữa các bên lâm chiến ở Việt Nam.
*  Huế là trung tâm lâu đời của Phật giáo với những ngôi chùa danh tiếng như Báo Quốc, Từ Đàm, Thiên Mụ, Từ Hiếu, Tường Vân... Chùa Báo Quốc còn là một Phật học viện lớn nhất và lâu đời nhất miền Trung, nơi đào tạo nhiều tu sĩ Phật giáo sau nầy đi hoằng pháp và trụ trì các chùa trên toàn cõi VNCH.  Các tăng sĩ Phật giáo xuất thân từ các chùa ở Huế như hòa thượng Thích Tịnh Khiết (1899-1977), thượng tọa Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh (1921-1978), Thích Trí Thủ (1909-1984), giữ những chức vụ cao cấp trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, được thành lập theo Hiến chương ngày 4-1-1964, và được chính phủ thừa nhận bằng sắc luật số 14/5 ký ngày 14-3-1964.  Một số lãnh tụ Phật giáo tranh đấu thường khuyến khích sinh viên học sinh biểu tình chống chính phủ, đòi hỏi hòa bình, trung lập. 
* Huế cũng là nơi có Tòa Tổng giám mục, một địa phận Thiên Chúa giáo được thành lập vào năm 1850.  Đại chủng viện Kim Long, thường được gọi là chủng viện Xuân Bích, do các tu sĩ dòng Sulpice (phiên âm là Xuân Bích) giảng dạy, chuyên đào tạo các linh mục.  Tổng thống Ngô Đình Diệm, gốc người Quảng Bình nhưng sinh sống từ nhỏ tại làng Phú Cam, một khu vực Thiên Chúa giáo nổi tiếng ngoan đạo ở cố đô. 
*  Huế là địa bàn hoạt động khá mạnh của các đảng Việt Quốc và Đại Việt.  Đại Việt đã từng tổ chức chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị), gần Huế để chống chế độ Diệm vào các năm 1954-1955.
* Tại Huế, tổng thống Ngô Đình Diệm đã thành lập viện đại học năm 1957.  Viện đại học nầy là trung tâm văn hóa thu hút sinh viên khắp các tỉnh miền Trung về đây theo học.  Sinh viên càng ngày càng đông, và thường tham gia cũng như tổ chức các cuộc biểu tình tại Huế chống chính phủ từ 1963 đến 1967.  Huế là chốn cựu đô, nên hệ thống giáo dục ở đây lâu đời và rộng rãi.  Ngoài trường Quốc Học được thành lập từ năm 1898, các trường khác cũng khá lâu đời và đông học sinh, kể cả các tư thục.  Hơn nữa, phải kể thêm các trường do các tu sĩ đảm trách như hệ thống trường Bồ Đề của Phật giáo, và các trường Thiên Chúa giáo như trường Thiên Hựu (Providence), trường Bình Linh (Pellerin), và trường Thánh Tâm (Jeanne d'Arc).
*  Cũng tại Huế, "Hội đồng Nhân dân Cứu quốc" ra đời năm 1964 trong đó có một số giáo sư và giảng viên Viện đại học Huế như Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Cao Huy Thuần, Hoàng Văn Giàu...  Báo Lập Trường của nhóm nầy ủng hộ những quan điểm hòa bình và trung lập của một số lãnh tụ Phật giáo tranh đấu miền Trung.  Hội đồng nầy được xem là đã góp tay vào việc kích động các cuộc biểu tình dữ dội tại Huế chống Hiến chương Vũng Tàu của Nguyễn Khánh năm 1964.

Những cuộc biểu tình ở Huế thường do Tổng hội sinh viên Huế tổ chức.  Sinh viên luôn luôn hăng hái và bồng bột.  Trong giới sinh viên, có thể có sự trà trộn các phần tử thân cộng, hay cộng sản trá hình, mà sinh viên lúc đó không nhận chân được.  Cao độ của các cuộc biểu tình nầy là cuộc đốt phá Phòng Thông tin Hoa Kỳ (U.S.I.S. = United States Information Services) tại Huế ngày 1-6-1966 trên đường Lý Thường Kiệt. 

Khi chính quyền địa phương ra lệnh cấm biểu tình và cấm hô hào chống Mỹ, đồng thời đàn áp những cuộc xuống đường, thì một số nhà lãnh đạo Phật giáo ở Huế chống đối bằng cách kêu gọi Phật tử đưa bàn thờ Phật xuống đường để cản trở lưu thông trong thành phố vào đầu tháng 6-1966.  Trật tự tại Huế và các tỉnh miền Trung được vãn hồi vào cuối tháng đó khi chính phủ trung ương gởi Thủy quân lục chiến và Cảnh sát dã chiến tăng viện, và thẳng tay dẹp tan các cuộc rối loạn.  Sau sự kiện nầy, một số trí thức, thanh niên, sinh viên sợ bị chính quyền Sài Gòn bắt giam, đã bỏ trốn lên rừng chạy theo cộng sản.

Do tình hình Huế phức tạp như trên, phía cộng sản hy vọng Huế đủ chín mùi cho một cuộc tổng khởi nghĩa nếu cuộc tổng công kích xảy ra.  Từ đó, cộng sản chuẩn bị khá kỹ lưỡng mặt trận Huế không khác gì mặt trận Sài Gòn.
3.   CUỘC TỔNG CÔNG KÍCH

Trước Tết Mậu Thân, chỉ huy đặc khu Trị-Thiên-Huế (tức Quảng Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế) của Việt Cộng là thiếu tướng Trần Văn Quang.  Trần Văn Quang cử Lê Minh, bí thư tỉnh uỷ đảng Lao Động (Cộng Sản) tỉnh Thừa Thiên-Huế, phụ trách mặt trận Trị-Thiên.  Minh chia mặt trận Trị-Thiên thành 3 khu vực: mặt trận Quảng Trị giao cho Hồ Tú Nam phụ trách; mặt trận Phú Lộc (phía nam Thừa Thiên) giao cho một cán bộ tên Chi chỉ huy; còn mặt trận Huế, quan trọng nhất, do Lê Minh đích thân đảm nhận.  Minh lại chia Huế thành hai điểm để tấn công:  phía bắc Huế (tả ngạn sông Hương), và phía nam Huế (hữu ngạn sông Hương Huế)

Cánh quân phía bắc Huế do một người tên Thu chỉ huy, Trần Anh Liên làm chính uỷ.  Lực lượng gồm có trung đoàn 6 (gọi là E-6, gồm có 3 tiểu đoàn), thêm 1 tiểu đoàn đặc công, 1 đại đội pháo và du kích hai quận Hương Trà và Hương Điền.  Cánh quân nầy xuất phát đúng vào tối Giao thừa (29-1-1968) từ rừng núi tây Huế, chia làm 4 mũi đánh vào cửa Chính Tây (nằm về tay trái hoàng thành từ Kỳ đài nhìn vào), cửa An Hòa (cửa Tây Bắc), Kỳ đài (cột cờ trước Ngọ môn), sân bay Tây Lộc và đồn Mang Cá.  Cộng quân làm chủ ngay được cửa Chính Tây, cửa An Hòa và Kỳ đài, nhưng thất bại ở sân bay Tây Lộc và đồn Mang Cá.  Đồn Mang Cá lúc đó là nơi đặt bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh do chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng đứng đầu.  Chính đồn Mang Cá là điểm tựa vững vàng để  quân đội VNCH cũng như Đồng minh tổ chức phản công trở lại.

Qua cửa Chính Tây, Việt cộng tiến chiếm Đại nội.  Việt cộng dùng bờ thành Đại nội để bảo vệ Kỳ đài, nơi đó, ngày 31-1 (mồng 2 Tết), Việt cộng treo một lá cờ lớn của MTDTGPMNVN.(14)  Từ Kỳ đài, Việt cộng tiến quân theo mé bờ tả ngạn sông Hương (tức bờ phía bắc), chiếm đồn Cảnh sát chợ Đông Ba, bắt tay với một cánh cộng quân khác cũng của E-6, làm chủ hoàn toàn khu vực Đông Ba, Gia Hội.

Cánh quân phía nam Huế do Thân Trọng Một chỉ huy, Nguyễn Vạn làm chính uỷ.  Lực lượng gồm có trung đoàn E-9 của sư đoàn 309, trung đoàn 5 (4 tiểu đoàn), 1 tiểu đoàn pháo, và 4 đội đặc công.(15)  Cánh quân nầy dự định xuất phát tối Giao thừa (29-1), nhưng vừa xuất phát thì bị phi cơ thám thính Mỹ phát hiện và bị pháo kích, phải lẩn tránh nên tiến chậm.  Sáng mồng 1 Tết (30-1) cánh quân nầy mới tiếp tục tiến về phía thị xã Huế. 

Sau 4 ngày giao tranh, cộng quân chiếm gần hết vùng hữu ngạn thành phố Huế cho đến lao xá Thừa Phủ  (gần sát tỉnh đường Thừa Thiên).  Cộng sản thả khoảng 2, 000 tù nhân đang bị giam trong lao xá.  Những người nầy liền được cộng sản võ trang để tiếp tay cho họ.  Quân đội VNCH chỉ còn giữ đài Phát thanh, Tiểu khu Thừa Thiên, Bản doanh MACV (Military Assistance Command, Vietnam) đặt ở khách sạn Thuận Hóa, và Bến tàu Hải Quân.(16)

4.   TỔNG KHỞI NGHĨA THẤT BẠI

Về phương diện chính trị, ngay sau khi chiếm vùng tả ngạn (phiá bắc Huế, vùng chợ Đông Ba, Thành nội...), ngày mồng 2 Tết (31-1) cộng sản tiến hành tổ chức cầm quyền.  Uỷ Ban Nhân Dân (danh xưng của cộng sản) trong Thành nội gồm hai quận, do Nguyễn Hữu Vấn (giáo sư âm nhạc), làm chủ tịch quận 1, và Nguyễn Thiết (sinh viên Đại học Luật khoa), làm chủ tịch quận 2.  Phía hữu ngạn, cộng sản không thành lập kịp các uỷ ban nhân dân, chỉ chú tâm vào việc lùng bắt và kiểm soát tù hàng binh.

Ngày mồng 3 Tết (1-2-1968), đài phát thanh Hà Nội loan báo thành lập tổ chức Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ Và Hòa Bình tại Huế do Lê Văn Hảo, giáo sư Đại học Văn khoa Huế, làm chủ tịch, và Hoàng Phủ Ngọc Tường làm tổng thư ký.(17)  Đài phát thanh Hà Nội cũng thông báo ngày 14-2-1968, Lê Văn Hảo được đưa lên làm chủ tịch chính quyền cách mạng Huế, với hai phó chủ tịch là bà Đào Thị Xuân Yến (còn gọi là bà Tuần Chi), và Hoàng Phương Thảo (Thường vụ Thành uỷ cộng sản) (Chính Đạo, Mậu Thân, sđd.131).

Nguyễn Đắc Xuân, khi còn là sinh viên sống tại Huế, đã từng tổ chức đoàn "Phật Tử Quyết Tử" vào năm 1966 để chống chế độ "Thiệu Kỳ", rồi bỏ trốn theo cộng sản, nay trở lại Huế, phụ trách đội "Công tác Thanh niên".  Xuân được cộng sản giao nhiệm vụ tổ chức "đoàn Nghĩa binh", gồm những quân nhân Cộng Hòa bị kẹt trong vùng cộng sản tạm chiếm, gọi là "Quân nhân Sư đoàn 1 ly khai".  Ngày 4-2-1968 (mồng 6 Tết), đoàn nầy ra thông cáo đả kích chế độ "Thiệu Kỳ", nhưng sau đó đoàn bị cộng sản phân tán ngay, vì sợ các quân nhân trong đoàn nầy quay lại chống cộng sản.  Nguyễn Đắc Xuân còn tổ chức đội "Nghĩa binh Cảnh Sát", giữ nhiệm vụ ngăn chận không cho dân di tản khi quân đội VNCH và Đồng minh phản công.

Những đơn vị an ninh của cộng sản hoạt động mạnh sau khi cộng quân tạm chiếm Huế.  Những đơn vị nầy do một người tên Lê (Tư) điều khiển chung, còn Tống Hoàng Nguyên phụ trách tả ngạn, và Nguyễn Đình Bảy (Bảy Khiêm) lo phía hữu ngạn.  Những đơn vị nầy truy lùng và bắt giết tất cả những nhân viên chính quyền VNCH và nhân viên làm việc tại các cơ quan Hoa Kỳ, hoặc những người cộng tác với Cơ quan tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA: Central Intelligence Agency).  Chính những đơn vị an ninh nầy là tác giả của những cái chết thê thảm tại Huế, nhất là lúc cộng sản chuẩn bị rút lui.

Trái với dự đoán của cộng sản, đôi khi bị ép buộc phải dự những cuộc hội họp, mít tinh do cộng sản tổ chức, nhưng dân chúng không hưởng ứng cuộc tổng khởi nghĩa do công sản đề ra.  Rõ nét nhất là dân chúng không đi theo du kích CS, mà bỏ chạy qua các vùng do quân đội VNCH kiểm soát ở khu vực Mang Cá, hay trường Kiểu Mẫu gần trường Đại Học Sư Phạm, nằm giữa Tiểu khu Thừa Thiên và Bến tàu Hải quân, hoặc khu vực phi trường Phú Bài, cách Huế khoảng trên 10 cây số về phía nam.  Đặc biệt, chỉ trừ những quân nhân về thăm nhà bất ngờ bị du kích CS bắt được, có thể nói hầu hết các quân nhân đều kiếm cách liên lạc hay gia nhập các đơn vị tác chiến gần nhất để cầm súng chống CS, chứ không gia nhập hay chạy theo du kích CS.  Các đơn vị hành chánh nhỏ cũng kiếm cách phòng thủ để chận đứng sự thâm nhập của du kích CS.

Không tổ chức được cuộc tổng khởi nghĩa, Việt cộng còn bị quân đội VNCH và Đồng minh phản công, đẩy lui ra khỏi Huế.  Cuộc phản công bắt đầu vào ngày mồng 3 Tết (1-2-1968).  Ngày mồng 5 Tết (3-2), các chiến sĩ binh chủng Nhảy Dù tái chiếm cửa An Hòa.  Cũng trong ngày nầy, Thủy quân lục chiến (TQLC) Hoa Kỳ đổ bộ ở Bến tàu Hải quân, đến đóng tại Bộ Chỉ huy MACV.  Lo ngại cánh quân Hoa Kỳ từ hữu ngạn kéo sang tả ngạn, cộng quân đánh sập cầu Trường Tiền tối mồng 9 Tết (7-2-1968). 



















Quân đội VNCH đã cùng quân đội Hoa Kỳ phản công mạnh mẽ.  Ngày 14-2-, tình hình hữu ngạn được xem là yên ổn, chỉ còn bộ chỉ huy của Thân Trọng Một trốn tránh tại vùng lăng Tự Đức cho đến ngày 25-2.  Khi tình hình hữu ngạn được ổn định, lực lượng Dù Việt Nam rút vào Nam, và các chiến sĩ TQLC Việt Nam đến thay thế. 

Ngày 12-2, TQLC của cả quân Việt Nam lẫn Hoa Kỳ đổ bộ lên bến Bao Vinh, nằm trên bờ sông Gia Hội, gần đồn Mang Cá.  Hai bên phối hợp mở "chiến dịch Sóng Thần 739/ 68" ngày 14-2, tảo thanh quân cộng sản còn lại trong Thành nội.  Trận chiến càng ngày càng ác liệt, có khi hai bên chỉ cách nhau vài chục thước.  Ngày 18-2, TQLC Hoa Kỳ chiếm được cửa Đông Ba (đường Mai Thúc Loan).  Cộng quân đóng trong Thành nội chỉ còn liên lạc với cánh quân Gia Hội của họ bằng cửa Thượng Tứ.

Trước nguy cơ thất bại, cộng quân tính chuyện rút lui.  Ngày mồng 8 Tết (6-2), cộng sản bắt đầu di chuyển thương binh, tù binh, chiến lợi phẩm ra khỏi Huế.  Lúc đó, tại miền núi phía tây tỉnh Quảng Trị, cộng quân đã chiếm được Làng Vei, một vị trí chiến lược ở tiền đồn Khe Sanh ngày 7-2.  Sau đó phi cơ Hoa Kỳ tái oanh tạc vùng phụ cận Hà Nội ngày 14-2, nên ngày 15-2, Quân uỷ Trung ương ở Hà Nội, gởi vào đảng uỷ cộng sản Thừa Thiên Huế một công điện nội dung như sau: "Phải giữ Thành nội, không được rút ra ngoài để phục vụ nhiệm vụ chính trị chung cả nước."(Chính Đạo, Mậu Thân, sđd.146). 

Tình hình càng lúc càng bất lợi cho cộng sản.  Lê Minh, bí thư Thừa Thiên Huế, giữ trách nhiệm trực tiếp mặt trận Huế, tỏ ý muốn rút lui trong cuộc họp ngày 19-2, nhưng còn phải chờ lệnh trên.  Quân đội VNCH và Đồng minh Hoa Kỳ đẩy dần quân cộng sản ra khỏi Thành nội.  Sáng sớm 23-2, lá cờ VNCH tung bay trên kỳ đài thay thế cờ của MTDTGPMNVN.  Quân đội VNCH và Đồng minh có thể nói đã làm chủ được tình hình Thành nội từ đây. 


















Phía cộng sản, "về sau có lệnh: chuẩn bị rút lui lên vùng rừng núi phía Tây, cố bảo toàn lực lượng, mang theo đủ vũ khí chưa sử dụng đến.  Khi lệnh rút lui ban bố vào đêm 25 tháng 2, một không khí có phần hoảng loạn diễn ra..."(18)

Gia Hội là khu vực hoàn toàn dân sự, không có cơ sở quân sự, cơ sở hành chánh hay kinh tế gì quan trọng.  Những nhà chỉ huy hành quân VNCH cũng như Đồng minh nghĩ rằng cần phải thanh toán trước những cứ điểm đầu não của cộng sản đang chiếm đóng Thành nội, thì tức khắc cộng quân ở vùng Gia Hội sẽ tự tan hàng rút lui.  Mãi đến ngày 22-2, hai tiểu đoàn Biệt Động Quân của Quân lực VNCH mới được tung vào Gia Hội để đẩy lui cộng quân.  Chính vì quân đội VNCH đến giải tỏa trễ, và cộng sản vùng Gia Hội đóng lại tại đây lâu, nên cộng sản có cơ hội tàn sát đồng bào nơi đây nhiều nhất trong thành phố Huế.

5.   CỘNG SẢN TÀN SÁT ĐỒNG BÀO

Trong lúc hai bên đánh nhau, thống kê ước lượng cho thấy tại mặt trận Huế, quân đội VNCH có 384 tử trận, 1, 830 bị thương; Bộ binh Mỹ 74 tử trận, 507 bị thương; Thủy quân lục chiến Mỹ 142 tử trận, 857 bị thương, Bộ đội Bắc Việt và Việt cộng khoảng 5, 000 tử trận, số bị thương không tính được.(19) 

Trong chiến tranh, chiến sĩ các bên lâm chiến bị thương vong là chuyện không thể tránh khỏi, nhưng trong biến cố Mậu Thân (1968) tại Huế, rất nhiều nạn nhân bị cộng quân giết hại thảm khốc trong thời gian cộng sản tạm chiếm Huế, nhiều nhất là các nhân viên chính quyền, cảnh sát, binh sĩ và sĩ quan Quân lực VNCH đang nghỉ Tết, không ở vị trí chiến đấu, và một số khá lớn thường dân không cầm súng chống lại họ, chỉ chạy tỵ nạn chiến tranh. 

Cho đến nay, không ai có thể kiểm kê đích xác số thường dân cũng như số người không ở vị trí chiến đấu (đang nghỉ Tết) bị phía cộng sản giết hại.  Theo sự phân tích của ông Nguyễn Trân, một nhà hoạt động chính trị thời VNCH, đưa ra trong quyển hồi ký của ông ta thì:

"Về phía dân chúng, có 5, 800 người chết, trong đó có 2, 800 người bị Việt cộng giết và chôn tập thể: 790 hội viên các Hội đồng tỉnh, thị xã và xã bị gán cái tội "cường hào ác bá", 1892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, hằng trăm thanh niên tuổi quân dịch, một linh mục Việt (Bửu Đồng), hai linh mục Pháp, một bác sĩ Đức và vợ, và một số Phi Luật Tân."(20) 

Những con số trên đây có thể sai biệt chút ít, nhưng chắc chắn số thường dân cũng như số người nghỉ phép nhân dịp Tết tại Huế, bị giết chôn trong các hầm tập thể rất nhiều.  Sau đây là thống kê tóm tắt số hài cốt tìm được trong các mồ chôn tập thể sau khi cộng quân rút lui do một bác sĩ người nước ngoài ghi lại: (21)

Tên địa điểm                                Số nạn nhân

Trường Gia Hội                                    203                        
Chùa Theravada [Gia Hội]                                 43
Bãi Dâu [Gia Hội]                                 26
Cồn Hến [Gia Hội]                              101
Tiểu Chủng Viện [Gia Hội]                    6
Quận Tả ngạn                                         21
Phía đông Huế                                        25
Lăng Tự Đức, Đồng Khánh               203
Cầu An Ninh                                          20
Cửa Đông Ba                                           7
Trường An Ninh Hạ                                4
Trường Văn Chí                                       8
Chợ Thông                                            102
Lăng Gia Long                                 < 200
Chùa Từ Quang                                       4
Đồng Di                                                 110
Vinh Thái                                              135
Phù Lương                                              22
Phú Xuân                                              587
Thượng Hòa                                            11
Thủy Thanh - Vinh Hưng                     70
Khe Đá Mài                                         428  
                                                           --------
                                Cộng:             < 2, 326 


TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, Canada)


Tết Mậu Thân - Bốn mươi năm sau (1968-2008)

| | Comments (0)
Trần Giao Thủy
hue3.jpg
Ai bắn, ai đạp, ai đập, ai giết đồng bào Huế - Việt cộng nằm vùng hay Việt cộng chính quy? Tất cả chỉ là chi tiết. Tranh cãi những điểm này chỉ là nguỵ biện, chỉ là bao che cho tội ác.

(Ảnh bên: Gia đình nạn nhân cuộc thảm sát Tết Mậu Thân bên đống xương những người đã bị giết. Nguồn: Vietnam Bulletin)
Báo chí thế giới 40 năm sau “Tet Offensive”
Viết về Mậu Thân 40 năm sau dường như không phải là đề tài nóng hổi, giựt gân, thu hút bạn đọc nên các bài viết về Mậu Thân 1968 ở báo chí thế giới năm 2008 là điều hiếm có. The Lies of Tet (34) của Arthur Herman, đăng ngày February 6, 2008 trên Wall Street Journal Online là một thí dụ.
“Vietnam Syndrome” (Hội chứng Việt Nam) (35) của David Warren, một columnist của tờ Ottawa Citizen - Ottawa, Ontario, Canada - viết ngày 3 tháng 2, 2008 là một bài khác. Trong bài Hội chứng Việt Nam, Warren đã nhắc lại cuộc tổng công kích Mậu Thân của Việt Cộng:

Cộng sản tuyên bố Tổng khởi nghĩa, nhưng việc đó đã không xẩy ra. Chỉ vài ngày sau quân và đồng minh đã chuyển sang phản công. Khi tái chiếm lại các thị xã, và thành phố họ phát hiện những cuộc thảm sát do quân cộng sản thực hiện. Mục tiêu chính của cuộc tổng công kích của địch là tiêu diệt cả xã hội (nguyên văn “decapitate a whole society”)

Warren viết tiếp, thuật lại lời một người bạn là ký giả, mục sư Lút-ti người Đức Uwe Siemon-Netto:
Uwe_Siemon-Netto.jpg
Uwe Siemon-Netto
Nguồn: concordia.typepad.com


Tôi đi vào khu ký túc xá đại học (Huế) để thăm hỏi tin tức bạn bè, những giáo sư người Đức của trường Y khoa. Tôi được cho biết tên của những người bạn tôi cùng nằm trong danh sách 1.800 người sống tại Huế được chọn để thủ tiêu.

Sáu tuần sau, người ta tìm thấy xác của các bác sĩ Alois Altekoester, Raimund Discher, Horst-Guenther Krainick, và Elisabeth, vợ của Krainick, trong một mồ chôn chung mà Việt Cộng đã bắt họ tự đào lấy.

Sau đó người ta tiếp tục tìm được những mồ chôn tập thể đây xác phụ nữ và trẻ em. Đa số đã bị đập chết, một số khác bị chôn sống. Người ta có thể biết được thế qua những bàn tay phụ nữ cố cào đất thoát khỏi mồ chôn họ.
Tại một mồ chôn tập thể, ký giả Peter Braestrup của tờ Washington Post quay sang hỏi một người quay phim của hãng truyền hình Mỹ, ‘Sao anh không quay phim cảnh này đi?’ Người quay phim trả lời, ‘Tôi đến đây không phải để phát tán tuyên truyền chống cộng.’


Warren viết tiếp:

Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân chấm dứt không những chỉ bằng một chiến thắng vĩ đại ở chiến trường - khoảng 45.000 Việt Cộng chết ở mặt trận, hạ tầng cơ sở của cộng sản ở miền Nam bị tiêu huỷ toàn bộ. Mà, sau sự kiện, đây còn là một chiến thắng để cho những người miền Nam Việt nam còn ngờ vực - và đáng lý phải cho cả thế giới - thấy rõ bản chất của đối phương mà quân đồng minh phải chống trả.
...
David Warren cũng nhắc đến nhận định chủ hoà của nhà báo được tin cậy nhất nước Mỹ, Walter Cronkite, kêu gọi hoà đàm với cộng sản chỉ sau một chuyến viếng thăm rất ngắn tại Sài Gòn sau Mậu Thân. Waren viết:

“Giới truyền thông đã chuyển một chiến thắng vĩ đại thành một chiến bại khổng lồ.”

Một phân tích mới về quyết định “Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa”
lien-hang.jpg
Nguyễn T. Liên-Hằng
Nguồn: cisac.stanford.edu



Trong một khảo cứu tương đối mới, “The War Politburo: North Vietnam's Diplomatic and Political Road to the Têt Offensive” (36), tác giả Nguyễn Thị Liên-Hằng cho biết, theo tài liệu chính thức của Đảng cộng sản Việt Nam thì những nguyên nhân chính đưa đến quyết định “Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa” là: một, thấy rằng Mỹ không đủ khả năng kết thúc cuộc chiến (thắng trận) nhanh chóng, hai là Mỹ đã thất bại trong chiến dịch thả bom miền Bắc (Operation Rolling Thunder, bắt đầu từ 2 tháng 3, 1965), và ba là phong trào phản chiến đang lan rộng và ảnh hưởng lớn trong quần chúng tại Mỹ (37). Tiến trình đi đến quyết định Tổng công kích năm Mậu Thân, thực sự phức tạp hơn nhiều.
Cuộc đấu đá trong nội bộ đảng Lao Động (Cộng sản) Việt Nam đã kéo dài cả 10 năm giữa hai phe, sau đó thành ba, trong ban lãnh đạo Việt Cộng. Phe ôn hoà chủ trương phát triển miền Bắc, tiến lên xã hội chủ nghĩa bằng viện trợ của các nước cộng sản anh em trước khi hỗ trợ cho cuộc chiến tranh quy ước ở miền Nam. Nhóm này đa số chịu ảnh hưởng của Liên Xô, tin tưởng vào chủ trương “sống chung hoà bình” và thống nhất đất nước bằng đường lối chính trị. Đứng đầu nhóm ôn hoà này có Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, và ban đầu có cả Trường Chinh Đặng Xuân Khu, lý thuyết gia của Đảng. Phía chủ chiến, ảnh hưởng đường lối ngoại giao của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (Cộng sản Trung Hoa, Trung Cộng), chủ trương tự lực kinh tế và nhất trí vận động việc thống nhất Việt Nam bằng chiến tranh vũ trang, nhất quyết không chấp nhận hoàn đàm với Mỹ. Đứng đầu phe diều hâu cộng sản này là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Từ đầu đến giữa thập niên 60 nhóm diều hâu thực sự quyết định hướng đi của cuộc chiến tranh ở miền Nam (38).
Tướng Nguyễn Chí Thanh, Chính Uỷ Trung ương Cục, Tổng Tư lệnh lực lượng Việt Cộng miền Nam, một thành viên nặng ký của nhóm diều hâu chủ chiến, là người đề xuất chiến dịch Tổng công kích, Tổng khởi Nghĩa (39). Năm 1963, Nguyễn Chí Thanh và Phạm Hùng đi B trực tiếp chỉ huy cuộc chiến tại Miền Nam theo ý của Đảng ở miền Bắc.
Dù ảnh hưởng Trung Cộng nhưng phe diều hâu đã không dùng chiến tranh du kích như Mao. Thư Lê Duẩn gởi Nguyễn Chí Thanh đã xác định cả đã hai đồng ý dùng chiến tranh quy ước để đối đầu với Mỹ (40).
Tới khoảng 1966-67, phe đồng minh đã gây thiệt hại khổng lồ cho quân Việt Cộng bằng chiến dịch lùng-và-diệt ở miền Nam và phá huỷ cơ sở kinh tế miền Bắc bằng Operation Rolling Thunder. Đó cũng là thời cơ để phe chủ hoà vận động hoà đàm với Mỹ và xét lại chiến lược đấu tranh, chuyển sang du kích chiến, tại miền Nam. Nhóm cộng sản này chủ trương “vừa đánh vừa đàm” mới có cơ hội làm Mỹ mệt mỏi và bỏ cuộc.
Cũng trong giai đoạn này, nhóm thứ ba trong tập đoàn lãnh đạo cộng sản thành hình với Hồ Chí Minh, Lê Đức Thọ (Trưởng ban Tổ chức Đảng), và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh. Nhóm thứ ba này vận động chấm dứt chiến tranh bằng hoà đàm.
Từ tháng 10, 1966 đến tháng 4, 1967, đáng kể tới là cuộc tranh cãi lớn trên báo đài ở Hà Nội giữa hai phe diều hâu và chủ hoà mà đại diện là Nguyễn Chí Thanh và Võ Nguyên Giáp về chiến dịch Đông Xuân 1965-66. Giáp lên án Thanh đã phung phí làm hao tổn lực lượng chính quy trong những trận đụng độ lớn với quân đồng minh. Thanh khẳng định, chỉ trực diện đánh Mỹ bằng chiến tranh quy ước mới đi đến thành công, và phê bình phe Giáp là xa rời thực tế, chỉ bàn về cuộc chiến ở hậu cứ bình yên ở Hà Nội. Tới 1967, tình hình đã quá xấu, Lê Duẩn ra lệnh cho Nguyễn Chí Thanh đưa chiến tranh du kích trở lại mặt trận (41).
Mùa hè 1967 cuộc tranh cãi im bặt, không phải vì Nguyễn Chí Thanh đã thay đổi khuynh hướng, đã thua trong cuộc tranh cãi với phe Võ Nguyên Giáp, hay quân đội cộng sản đã nhất thống và hoà hợp. Một nguồn tin nội bộ của đảng cộng sản cho rằng sự bế tắc ở chiến trường miền Nam đã đưa các phe phái trong hàng ngũ quân đội cộng sản lại gần nhau hơn.
Tình hình phức tạp hơn như thế. Hai đàn anh của cộng sản Việt Nam đang trong cuộc tranh giành ảnh hưởng quyết định cuộc chiến Việt Nam. Liên Xô là nguồn vũ khí nặng và pháo phòng không chống máy bay Mỹ ở mặt trận (42) trong khi Trung Cộng kiểm soát mặt vận chuyển hậu cần với 320.000 binh sĩ đóng quân ở miền Bắc, chủ yếu là công binh và phòng không. Liên Xô thúc dục Việt Nam tiến đến hoà đàm cùng lúc viện trợ những vũ khí (hạng nặng) cho một cuộc chiến tranh quy ước; Cùng lúc, Trung Cộng thúc đẩy Việt Nam kéo dài cuộc chiến tranh du kích kiểu Mao Trạch Đông và không chấp nhận nói chuyện với Washington (43).
Trước sức ép từ ngoài của Liên Xô và sức ép bên trong của nhóm chủ hoà, Lê Duẩn tiến công. Bắt đầu từ ngày 27 tháng 7, 1967 hàng trăm đảng viên, sĩ quan quân đội, trí thức theo khuynh hướng “sống chung hoà bình” của Liên Xô đồng loạt bị bắt giam vào nhà tù Hoả Lò trong vụ án (không xử) có tên là “Xét lại chống đảng” (44). Hoàng Minh Chính bị bắt giam trong đợt đầu tiên này. Loạt bắt giam kế tiếp vào ngày 18 tháng 10, 1967 có cả nhân viên của Võ Nguyên Giáp là Đặng Kim Giang và Lê Liêm, cựu thư ký của Hồ Chí Minh là Vũ Đình Huỳnh và Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương. Loạt tấn công thứ 3 của phe Lê Duẩn vào nhóm chủ hoà là cuộc bắt giam hàng loạt và nhiều nhất nhắm vào đảng viên cũng như những chuyên viên không đảng tịch như Vũ Thư Hiên, tác giả Đêm Giữa Ban Ngày - cuốn sách kể lại kinh nghiệm của tác giả trong vụ “Xét lại chống đảng”.
Phe cộng sản diều hâu lý luận nếu dẹp được phe chủ hoà và cưỡng lại sức ép hoà đàm từ Liên Xô đồng thời tổng tấn công miền Nam vào năm Mỹ đang có bầu cử Tổng thống, Hà nội có khả năng sẽ đạt được một chiến thắng quân sự quyết định và cuộc tổng khởi nghĩa sẽ lật đổ chính quyền Sài Gòn. Nếu không được thế thì ít nhất cuộc tổng công kích cũng giúp Việt Cộng ngồi vào bàn hoà đàm ở vị trí thuận lợi hơn.
Cuối năm 1967, nhóm chỉ trích Nguyễn Chí Thanh và cả Trung Cộng đều bất ngờ ngã ngửa vì Bộ Chính trị Đảng Lao Động Việt Nam quyết định chọn sách lược chiến tranh quy ước, dùng quân đội chính quy và quân của MTDTGPMN đè bẹp quân đội VNCH cùng lúc kích động dân chúng nổi dậy lật đổ chính phủ VNCH. Đầu năm 1968 Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam thông qua Nghị quyết 14, bí số cho quyết định “Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa”

Bốn mươi năm sau
- Tuổi trẻ Việt Nam
Tuổi trẻ Việt Nam hôm nay, dù đang sống trong nước dưới sự cai trị độc tài, độc đảng hay đang ở nước ngoài, có nhiều cơ hội, phương tiện kỹ thuật và nhất là không nặng gánh gồng, hệ luỵ với quá khứ để tự đi tìm và hiểu rõ hơn về lịch sử cận đại về cuộc nội chiến mà thế hệ cha anh đã trải qua.
Trong một loạt bài mang tiêu đề Đánh giá ‘Tổng tiến công, Tổng nổi dậy’ (45), Thảm sát Tết Mậu Thân Tại Huế, Trần Trung Thực, sinh viên khoa Sử và nhóm T&X (Thảo & Xuân) đã có những cố gắng nhất định thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để tìm hiểu và tự đánh giá những sự kiện lịch sử chung quanh biến cố Tết Mậu Thân, 1968.
Đây là những thanh niên Việt Nam rất trẻ, Trần Trung thực viết: “Khi nổ ra cuộc tổng tấn công Mậu Thân (1968) thì thế hệ cha mẹ chúng tôi đang mang khăn quàng đỏ ngồi ở các lớp tiểu học.”
Không chỉ thế hệ cha mẹ của tác giả, là những người sinh sống ở miền Bắc, hẳn không biết gì về Tết Mậu Thân, mà ngay cả thế hệ ông bà của Trần Trung Thực cũng chưa khi nào nghe đến cuộc “Thảm sát Mậu Thân” ở Huế. Tác giả viết: “Cho đến tận hôm nay (2008) cha mẹ (và cả ông bà chúng tôi) không ai biết gì về vụ ‘Thảm sát Mậu Thân ở Huế’. Nếu vụ này là có thật, thì quả là nó bị che dấu rất cố ý từ 40 năm nay.”
Tuy thế nhưng thế hệ ông cha của Thực lại nhớ rất rõ, “cái tin: khi Mặt trận Giải phóng chiếm được Huế thì các vị như GS Lê Văn Hảo, hoà thượng Thích Đôn Hậu… vốn từ lâu là người của Mặt trận Giải phóng, hoạt động bí mật ở Huế rồi được đưa ra công khai để đứng đầu một tổ chức gọi “Liên Minh dân tộc” và kêu gọi dân chúng khởi nghĩa.” (46)

Về con số nạn nhân bị thảm sát ở Huế, Trần Trung Thực viết:

Tóm lại, thế hệ chúng tôi nếu tò mò muốn biết những điều còn bị che dấu hoặc bịa đặt, cần tốn công tìm hiểu nhiều hơn nữa. Dễ nhất là hỏi các thế hệ trước và tự gạn lọc; đồng thời tìm những tài liệu tin cậy, khách quan.
Ví dụ, trong tổng số 30 bài có cụm từ “thảm sát” “mậu thân” lấy được trên internet thì có 3 tài liệu của người nước ngoài; nhưng chúng tôi chưa hoàn toàn tin vào những con số của ông Pike (viên chức của cơ quan Thông Tin Mỹ) vì - qua văn phong - rõ ràng ông chỉ một chiều lên án với các số liệu có vẻ bị “đội” lên. Còn bài phản bác của ông Porter (tiến sĩ, nhà nghiên cứu) nhằm “lật tẩy” sự tuyên truyền quá mức, nhưng ông đã quá đà; đọc xong, chúng tôi thấy dường như ông dám chối bỏ cả những bức ảnh mà không ai giả tạo chúng được. Chúng tôi cho rằng bài của bác sĩ Vennema một người đã đến tận nơi, tự quan sát và hỏi chuyện nhiều người dân… là sát với sự thật hơn.

Một đoạn trích trong The Vietcong Massacre at Hue (47), Alje Vennema, Vintage Press, New York, 1976.
Mồ tập thể được khám phá đầu tiên ở trường trung học quận Gia Hội, nằm bên cạnh khu dân cư. Sở dĩ cư dân gần đó biết được là vì họ nghe tiếng súng và biết ở đó có mở tòa án nhân dân. Một số người sau khi tham dự phiên tòa đầu tiên đã liều trốn và may mắn thoát. Một số khác nhờ bơi qua sông. Trước ngôi trường có tất cả 14 hố gồm 101 tử thi. Sau ba ngày tìm kiếm, người ta khám phá thêm một số hố rải rác trước, sau và bên hông trường, nâng tổng số tử thi lên 203, gồm xác thanh niên, người già và phụ nữ.
Trong một bài viết khác tựa đề “Thanh niên năm 2008 với Mậu Thân 1968” (48) của hai sinh viên khoa sư phạm, Đào Thắng và Lê Vĩnh Nghiêm. Hai tác giả mở đầu:
Thanh niên chúng ta nói riêng và thế hệ U40 nói chung hiện nay chiếm tới 2/3 dân số nhưng không biết tý gì về cuộc “tổng tấn công và tổng khởi nghĩa - Mậu Thân 1968” (còn có tên là “tổng công kích và tổng nổi dậy - Mậu thân 1968”). Nhưng tất thảy chúng ta đều được học ở trường về sự kiện này. Dù học nhiều hay học ít, thì kết luận cuối cùng vẫn là đại thắng lợi của “chiến tranh nhân dân” dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của “đảng ta” (dĩ nhiên là “đảng tây” thì không dính dáng).
Đào Thắng và Lê Vĩnh Nghiêm viết tiếp:
Dù sao, chúng tôi cũng tỏ lòng biết ơn bạn Trần Trung Thực đã bỏ công đọc nhiều bài rồi viết ra một “thu hoạch” và so sánh thảm sát Mậu thân với vụ thảm sát Katyn mà đảng CS Liên Xô là thủ phạm, nay những người kế thừa đảng này đã phải nhận tội. (TGT viết nghiêng).

Sau khi đọc các bài từ cả hai phía, chúng tôi có thêm những hiểu biết mới mẻ (nay còn bị che dấu) trong đó ít nhiều có sự đóng góp của bạn Trần Trung Thực.


Hai tác giả đã thẳng thắn đưa ra nhận định trên dữ kiện thu lượm được.
Trước hết, đó là thất bại rất lớn về quân sự của “đảng ta”

Sau “tổng công kích” (3 đợt) là “tổng tháo chạy” - Hàng trăm ngàn sinh mạng của thanh niên (chủ yếu là ở miền bắc) đã bị nướng vào cuộc chiến chỉ trong vòng một tháng. Chúng tôi đã tự kiểm tra bằng cách xem mộ chí trong một số nghĩa trang liệt sĩ: số người chết vào thời điểm “tổng tấn công và tổng khởi nghĩa - Mậu Thân 1968” quả là rất nhiều so với số chết trước đó và sau đó.
Và gần đây nhất, là bài trả lời phỏng vấn của cụ Lê Khả Phiêu (49) đối với báo Nông thôn ngày nay. Năm 1968 chính cụ Phiêu là trung đoàn trưởng một trung đoàn tấn công vào Huế. Do tổn thất quá nặng nề, cụ muốn… tháo chạy để bảo toàn tính mạng còn sót lại của đám tàn quân, nhưng cấp trên của cụ cứ bắt cụ “cố thủ”. Rốt cuộc, cụ cứ bỏ chạy. Ấy thế mà cụ đã không bị bắt tội thì chớ; ngược lại, cụ cứ leo lên tận cấp Thượng tướng, rồi cấp Tổng bí thư.
Tóm lại, cấp cao nhất trong đảng phải công nhận cuộc tháo chạy của cụ Phiêu là “đúng”, để khỏi bị tiêu diệt toàn bộ.
Có thể kết luận rằng sau khi “tổng công kích” (3 đợt) là cuộc “tổng tháo chạy”. Thất bại về quân sự là hết sức to lớn.
...

Thứ hai, đó là không có chuyện “khởi nghĩa” hay “nổi dậy” của quần chúng, nhân dân.
Mục tiêu “phát động dân nổi dậy” là mục tiêu rất lớn, nhưng mục tiêu này hoàn toàn thất bại. Không có chuyện đông đảo nhân dân nổi dậy khởi nghĩa.
....
Thứ ba, chuyện thảm sát ở Huế. Đối với chúng tôi hôm nay thì đã rõ “như ban ngày. Vấn đề là đảng ta (đang mê mải xây dựng CNXH) liệu sẽ đến lúc buộc phải công nhận hay không mà thôi. Có lẽ các bước công nhận cũng giống như đảng CS và chính quyền Nga công nhận “từng bước” vụ Katyn chăng?
...
Thứ tư, một thắng lợi bất ngờ, chưa dự kiến trước: phong trào phản chiến ở Mỹ dâng cao.
Đọc lại các nghị quyết về “tổng tấn công và tổng khởi nghĩa” tuyệt nhiên không thấy đảng ta đặt ra mục tiêu về phong trào phản chiến ở Mỹ.

Cuối cùng, một câu hỏi chưa được trả lời dứt khoát:
Đảng ta có vi phạm thoả thuận tạm ngừng bắn trong ngày tết hay không? Nếu vi phạm, thì đừng hòng chúng tôi “tuyệt đối tin tưởng” vào sự lãnh đạo “anh minh và thiên tài”.
Hỏi han nhưng vị cao tuổi, các vị cho biết: trước 1968 (Mậu Thân) năm nào cũng có sự tạm ngừng bắn giữa hai bên. Dân miền bắc yên ổn ăn tết (không lo máy bay Mỹ ném bom). Còn năm tết Mậu Thân 1968, các vị không biết có thoả thuận ngừng bắn hay không; nếu có thoả thuận thì “có lẽ” đảng ta vi phạm. Năm 1968 sự tuyên truyền quá rùm beng, cho nên dân miền bắc quên hẳn câu hỏi “ai vi phạm thoả thuận ngừng bắn”.
Tuổi trẻ Việt Nam hôm nay đã dám tự đặt cho mình những câu hỏi về Tết Mậu Thân và từ đó đi tìm câu trả lời.


Nhìn về tương lai
Tổng công kích Mậu Thân đã chấm dứt từ 40 năm trước; Chiến tranh Việt Nam cũng kết thúc từ gần 33 năm qua. Dù lần lượt nhiều sự kiện về cuộc tổng tấn công kích này đã được trình bày dưới dưới ánh sáng sự thật, việc nghiên cứu thâm sâu để đánh giá đúng đắn về Thảm sát Mậu Thân vẫn là điều cần thiết và cũng là trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam và nhất là những nhà nghiên cứu sử.

Sự thật về Thảm sát Mậu Thân ở Huế phải được đưa vào lịch sử thế giới; Hiện nay ở các tổ chức đòi công lý cho nạn nhân chiến tranh, người ta liệt kê tội ác ở năm châu, từ Rwanda ở châu Phi, Colombia ở Nam Mỹ, vùng Balkans ở châu Âu, ở Nga, ở Mỹ, nhưng ở Á châu, không ai kể, không biết đến Thảm sát Mậu Thân là một tội ác chiến tranh cần phải đưa ra ánh sáng công lý. Đây cũng là một trách nhiệm của thế hệ tuổi trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau.

warcrimes.jpg
Rwanda, Columbia, Balkanns, ... và Huế 1968: tội ác chiến tranh
Nguồn: josemorineaux.afrikblog.com


Công lý cho nạn nhân của vụ thảm sát ở Huế không có nghĩa là “xử lý nội bộ”, không thể chỉ là “Tướng Trần Văn Quang, Tư lệnh Mặt trận Trị Thiên - Huế bị phê bình” (50) hay Đảng khiển trách các ông Lê Minh, Lê Chưởng các sĩ quan trực tiếp chỉ huy và lãnh đạo mặt trận Huế là đủ. Ai trực tiếp ngồi xử tử đồng bào ở các toà án “nhân dân”, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đọc? Ai bắn, ai đạp, ai đập, ai giết đồng bào Huế - Việt cộng nằm vùng hay Việt cộng chính quy? Tất cả chỉ là chi tiết. Tranh cãi những điểm này chỉ là nguỵ biện, chỉ là bao che cho tội ác.
Trong một Việt Nam dân chủ mai sau, những chính phạm có chủ trương, có tính toán trước việc thảm sát đồng bào Huế một cách hệ thống, dù còn sống hay đã chết, đều phải trả lời trước toà án dân tộc. Lịch sử Việt nam sẽ ghi rõ trang Mậu Thân đẫm máu một cách công minh, sòng phẳng.
Nói cho cả thế giới biết rõ về cuộc Tổng công kích Xuân Mậu Thân 1968; Đem công lý xét xử phạm nhân gây tội ác ở Huế, ghi rõ sự kiện vào lịch sử Việt Nam, tất cả không phải để trả thù. Đó chỉ là một phần đền bù nhỏ, rất nhỏ, cho những thiệt hại, mất mát, đau thương của hàng ngàn nạn nhân và gia đình liên hệ.
Những di sản xã hội bi đát từ cuộc Thảm sát Mậu Thân làm vẩn đục dòng phát triển văn minh nước Việt là những thiệt hại, những đổ vỡ không thế hệ nào có thể hàn gắn hay đền bù được.

Những bài học về cuộc Tổng-công-kích-không-có-tổng-khởi-nghĩa đã biến thành cuộc Thảm sát Mậu Thân không những là cơ hội để thế hệ trẻ hôm nay bắt đầu những bức phá mới về tư duy lịch sử và ý thức dân chủ mà còn là điểm bắt đầu để nhận trách nhiệm góp phần xây dựng và phát triển một xã hội dân sự Việt Nam văn minh và bền vững.


Montréal, tháng 2, 2008




                   
    VIỆT NAM HÓA CHIẾNTRANH-{1971- 1975}

Sách lược rút quân của quân đội Mỹ ra khỏi chiến tranh VN được an toàn, và  danh dự.Từng phần quân Mỹ rút đi ,và được thay thế quân bởi VNCH., theo chiến thuật Win-Win, cùng thắng của Hoa Kỳ. Và tạo nên ảo tưởng Mỹ thắng trận tại VN, đem quân trở về Hoa Kỳ; bỏ lại phần thất bại cho QL.VNCH gánh lấy trách nhiệm… sau khi cuộc  hội nghị bí mật Mỹ và Trung Quốc, năm 1972 tại bắc Kinh kết thúc, giữa TT Nixon và Đặng Tiểu Bình. Vận mệnh Miền Nam VNCH rơi vào tay Trung Quốc Cộng Sản,để đổi lấy thị trường tiêu thụ đông dân của Trung Cộng còn kém phát triển sản xuất tiêu thụ.
   Những trận đánh Oai hùng lịch sử QL.VNCH trức khi mất Miền Nam VN.

Hạ Lào- Lam Sơn719.

Người Mỹ Phản Bội Hay Tội Đánh Mỹ
Một thời chinh chiến
Tg Huỳnh Mai St.8872
Bh.Dạ Lệ Huỳnh
March 15, 2012
9:49 PM
Mỹ Cộng, Việt Cộng bắt tay Hai thằng Đối Tác Việt Nam ăn mày!
Chúng tôi, những chiến sĩ QL.VNCH nơi địa đầu, hỏa tuyến -Tây Nguyên trung phần- ngà ba biên giới Việt- Miên –Lào, trong trận địa chiến Lam Sơn 719 Nam Hạ Lào. Nơi đây căn cứ Hỏa Lục 6 của Mỹ đã bàn giao“ Lầm lộn” cho quân cộng sản Bắc Việt, để rút quân, trước khi Việt Nam hóa chiến tranh…Đã nhận rỏ hành động phản bội của đồng minh Hoa Kỳ, bắt tay, và bật đèn xanh cho quân Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập và tiến chiếm Miền nam VNCH tại ngả ba biên giới, được sự bỏ ngỏ căn cứ hỏa lực số 6 Hoa Kỳ. Do Hà Nội áp lực “Việt Nam hóa chiến tranh” trong bàn thảo HĐ Paris có Trung Cộng cố vấn Bắc Việt-Hà Nội tham dự cùng phía Hoa Kỳ để quyết định con cờ Miền Nam VNCH trong chiến tranh VN.
Để chiếm lại ngọn núi máu Vinky, cao trên 1.886 m, thuộc Căn cứ 6 của Mỹ. Trung Đoàn 47/SĐ.22BB được lệnh chuyển quân rời bỏ vùng bình nguyên Tuy Hòa-Phú Yên đầy sóng biển, lên vùng Tây Nguyên Pleiku-KomTum rừng núi chập chùng; mây bay ngang đầu. Chuyển từ vùng Du Kích chiến sang vùng Trận Địa Chiến với mệnh lệnh tiếp viện giải cứu Căn Cứ Hỏa Lực 6 tại Đắc-Tô tỉnh Kom-Tum bị Cộng Quân chính qui Bắc Việt chiếm lấy khi Hoa Kỳ rút quân theo kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh.


Ông Thần “Ben Hét”- Lạc Lối Tạo Anh Hùng
Đoàn quân chúng tôi đến vùng giới tuyến địa đầu Đắk-Tô, Tân Cảnh tỉnh Kom-Tum được quân bạn và “Chị em ta…” trong quán nước vệ đường cho hay: Quân Mỹ đã bàn giao Căn Cứ 6 cho Việt Cộng và quân ta đang đánh nhau để giành lại ngọn đồi căn cứ 6.
Cũng đáng ghi nhận từ các cô ả gái điếm giang hồ này, vì là ổ tình báo chiến trường giữa ta và địch. Có những cô gái quê mùa làm giao liên VC nằm vùng đang hoạt động lấy tin tức, và cũng có những cô gái Thượng-Fulro là tình báo của Mỹ cho tin tức hổ trợ hành quân phe ta. Tất cả là một bải chiến trường đủ màu sắc, giai nhân và chiến sĩ trong lửa khói chiến tranh.
Sau khi nắm được tin tức tình hình và nhận lương thực tiếp tế hành quân, đoàn quân chúng tôi rời điểm xuất phát và tiến sâu vào vùng núi Ben-Hét bên cách mặt của căn cứ Hỏa Lực 6. Ben-Hét cũng là một ngọn núi có căn cứ tiền đồn của quân ta quan sát sự xâm nhập vũ khí, chuyển quân của địch trên đường mòn Hồ Chí minh. Quân chúng tôi chia làm 3 cánh, của 3 tiểu đoàn tiến qua những cứ điểm tiền đồn nổi tiếng khát máu của du kích quân VC, cắt cổ người, trùm poncho rồi im lặng chiếm đồn không tiếng súng. Chúng tôi tiến qua và hướng đến mục tiêu ấn định trên đỉnh Ben-Hét bắt tay quân ta.
Vì trời tối mù mờ đầy mưa gió bảo bùng và địa bàn xa lạ vùng mới đến, nên đỉnh núi nào cũng là ngọn núi! Trong đêm trên bản đồ hành quân, và tôi đi chệch phương giác theo địa bàn trong đêm mưa bảo che mờ đỉnh núi mà tôi nhận dạng lúc ban ngày. Tôi dẫn đầu đoàn quân vì là ngày trực chiến của tiểu đoàn tôi đi lệch sang đỉnh núi nối liền sau lưng Ben Hét bằng một khe suối rộng có giải đất rộng bằng phẳng mà không thấy quân ta. Đặt ống nhòm Hồng Ngoại Tuyến xuyên đêm xuống thung lũng bên kia đình núi bạn thấy lố nhố Cộng Quân đang tập trung quân, đầy đủ xe tăng, đại pháo, cao xạ phòng không hạng nặng của địch đang định nhổ chốt tiền đồn Ben Hét để chúng chuyển vũ khí từ đường mòn Hồ Chí Minh nơi đây; tăng viện quân đánh Căn Cứ Hỏa Lực số 6.
Dẫn lối lạc đường của tiểu đoàn 4/Trung Đoàn 47 do tôi hướng dẫn trở thành lực lương đánh bọc hậu tiêu diệt Cộng Quân một cách tài tình. Bất ngờ theo yếu tố chiến thuật hành quân; gây thiệt hại tối đa cho cộng quân trên đường xâm nhập ngả ba biên giới Nam Hạ Lào bằng đường mòn Hồ Chí Minh tại mặt trận Ben Hét. Và bắt đắt dĩ tôi nhận biệt danh “Ông Thần Ben Hét” của các bạn sĩ quan tác chiến trung đoàn và binh sĩ hành quân trong trận đánh “Đem con bỏ chợ” và “Đì lính” của chúa Tướng Ngô DZU Quân Đoàn II-Plei-Ku
  –{Cũng trong bài viết Cơn Uất Hạ Lào, đã cho biết là Việt Cộng biết rõ kế họach hành quân của quân lực VNCH trước khi các chiến sĩ tới, và theo Bùi Đức Lạc thì có thể gián điệp Vũ Ngọc Nhạ, cố vấn tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã thông báo cho Hà.nội}.
Căn Cứ Hỏa Lực 6, Ngọn Đồi Phản Bội!
Và chúng tôi vẫn phải tiếp tục hành quân tiến chiếm lại ngọn đồi VINKY- Căn Cứ Hỏa Lực 6-cao 1.886 mét, cũng không một nguồn tin tức tình báo về địch tình của BTL/Sư Đoàn 22BB cho cuộc hành quân, chỉ có Chị Em Ta-Gái giang hồ tứ xứ- cung cấp tình báo quân sự là Quân Mỹ đã bỏ căn cứ rút quân bằng trực thăng để lại toàn bộ chiến cụ mìn bải không kịp phá hủy hay bàn giao lại cho đơn vị VNCH nên để Cộng Quân chiếm và làm chủ tình hình.
Vì đây là căn cứ chiến lược, kiểm soát toàn diện ngả ba biên giới Nam Hạ Lào- Campuchia - Việt Nam và cũng là đầu cuối đường mòn HCM có sân bay dã chiến “Phương Hoàng” của MỸ áng ngữ đổ quân, ngăn chặn Cộng quân xâm nhập Tây Nguyên trung phần.
Chúng tôi, trung đoàn 47+41+42/SĐ 22.BB có tăng phái 3 trung đoàn của SĐ.23BB cùng 3 tiểu đoàn Biệt Động Quân chia làm 3 cánh quân tiến chiến lại ngọn đồi Hỏa Lục số 6.
Ngọn núi có dốc cao, lõm chỗm đá núi, mây mù. Đơn vị quân tôi đánh vào chánh diện có ngọn đồi nhỏ nằm kề bên hông núi làm bàn đạp tấn công. Trời còn mờ tối lúc 4 giờ 30 là giờ G ấn định xuất phát hành quân. Giờ này chỉ có sao trời đưa lối dẫn đường và ru êm giấc ngủ cộng quân. Nhưng chúng tôi dẫm phải bải mìn của Mỹ để lại lúc rút quân và đánh thức cộng quân từ các hầm lô cốt Mỹ kiên cố bắn xối xả những khẩu đại liên M60 vào quân chúng tôi trước sự tấn công mãnh liệt đành lại ngọn đồi. Thây người chiến sĩ đồng đội ngả xuống trước họng súng đồng minh Mỹ bắn lại phe ta, máu đã dính lên từng vách đá khe núi quanh ngọn đồi máu đầy xác người chiến sĩ VNCH bị Mỹ phản bội.
Hai đợt tấn công tái chiến ngọn đồi không thành,trước hỏa lực hùng hậu của Mỹ để lại cho địch quân cộng sản xử dụng bắn lại phe ta, và các lô cốt kiên cố, giao thông có “Bonker, cover”, vỉ sắt che chắn vững chắc, và bải mìn dày đặt ngăn chặn sức tấn công của quân ta. Dù cho pháo binh yểm trợ bắn ngang đầu củng không làm nao núng địch quân. Hỏa pháo bắn lên soi sáng vùng trời, toàn là xác người lính ta bên rào lô cốt kiên cố của Mỹ có cộng quân bên trong ẩn núp bắn ra toàn là đạn pháo của Mỹ do cộng quân rành rẻ xử dụng như có sự chỉ dẫn của người Mỹ đồng minh.
Chúng tôi nhận lệnh rút quân xuống sườn núi và áng ngữ con đường viện binh của địch khi BTL tiền phương Sư Đoàn 22BB quyết định ra lệnh bắn pháo binh đầu đạn nổ chụp từ trên cao theo từ tính tầm nhiệt, để tiêu diệt dịch ẩn núp dưới giao thông hào hay ẩn núp kẹt đá núi. Và cho không yểm bằng máy bay ném bomb, tiêu hủy lô cốt Mỹ và dọn sạch bải mìn để quân ta tấn công tái chiếm đỉnh đồi. Nhưng vì hỏa lực của Mỹ quá mạnh, được xử dụng thuần thục như có huấn luyện chu đáo chiến thuật phòng thủ căn cứ vững chắc của đồng minh Hoa Kỳ.
Các đơn vị tấn công được lệnh ngưng bắn và bố trí tải thương về tuyến sau. Khi rút quân xuống chân núi và bố trí ẩn núp an toàn, thì pháo binh của sư đoàn và tiểu khu tỉnh Kom Tum phối hợp với pháo đội 3 tiểu đoàn Nhảy Dù 1-2-3 tăng phái thêm quân số, đang đóng tại sân bay, phía dưới chân núi bắn trục xạ lên đỉnh cao ngọn núi. Đứng dưới nhìn lên, thấy lổ chỗ từng vết bom đạn loang ra nham nhở như hành tinh mặt trăng. Các đợt pháo binh bắn phá vừa chấm dứt, thì đến các phi tuần ném bom của các phi đội Skyraider không quân Việt Nam đảm nhận phần việc san bằng ngọn núi đầy cộng quân chiếm đóng do Mỹ “Bàn giao”. Khói lửa vang rền bốc cao trắng xóa như đỉnh tuyết Phú Sĩ Sơn có pha sắc màu xám xịt tang thương cuộc chinh chiến.
Các phi tuần đánh bom chấm dứt nhiệm vụ, là các đơn vị phối hợp quân binh chủng chúng tôi mở tổng loạt tấn công lên đỉnh núi. Sức kháng cự cộng quân vẫn còn trong  đóng đổ nát, nhưng rời rạc và yếu ớt hơn, sau đợt bắn phá pháo binh và ném bom. Làm lộ nguyên hình đầy thương tích từ các lô cốt bay nóc xiêu vẹo, giao thông hào đầy xác địch chết ngỗn ngang. Còn bên rào lưới thép kẽm gai là xác quân ta nằm vắt vẻo trước họng đại liên Mỹ M60 nằm chổng trơ sau đợt bom phá hủy. Cảnh hoang tàn đổ nát, những khẩu pháo binh chôn vùi dưới lớp đá núi chất chồng phủ kín chỉ còn ló những nồng súng sáng loáng vươn cao trong nắng chiều tà tím tái máu khô. Nghe mùi tử khí ngồn ngột mà lợn cả giọng. Chỉ cần có  điếu thuốc lá mới chấn tỉnh tinh thần!. Và nhìn kỹ lại ngọn núi cao đã bị bom cày, đạn xới san bằng cụt chõm xuống vòng cao độ bản đồ hành quân, mất hết một vòng cao độ 50 mét thành một hố huyệt mộ tập thể chôn cả xác ta và địch lẫn lộn trong cát đá núi cao cho sự phản bội của đồng minh Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên VN.
Sau khi thu dọn chiến trường và tập hợp tàn quân các đơn vị chiến đấu, quân ta thiệt mất và tan rã 2 tiểu đoàn vừa tăng phái và cơ hữu sư đoàn 22BB. Phía cộng quân tan rả 3 trung đoàn  bỏ xác tại chỗ với hơn1.630 xác chết. Đơn vị hành quân hỗn hợp chúng tôi tiếp tục truy đuổi và lục soát địch trên đường tháo chạy về sườn núi phía bên kia tiếp giáp với đường mòn HCM, là cứ địa xuất phát của 2 Sư đoàn: Sao Vàng và 324 cộng quân trấn giử đường mòn HCM. Trên đường rút lui chúng bỏ lại những khẩu pháo và giàn cao xạ bắn máy bay tối tân của Trung Quốc, còn thơm mỡ bò, bọc giấy bảo dưỡng China. Trên những khẩu pháo, và có những xác chết trong tư thế bị xiềng xích chân vào ổ đại pháo. Chúng không phải là bộ đội Vn mà là quân Trung Quốc với đôi mắt xếch, một mí người Tàu Chợ Lớn, theo xác nhận của người lính Chợ lớn VNCH. Và lục xác chết trong túi  họ mang theo tiền Campuchia đầy ấp và mới tinh khôi được in ấn lậu từ phía Trung Quốc đem qua Campuchia giao cho du kích pônpốt-Khờme Đỏ phá rối nền kinh tế chính phủ Lonol thân Mỹ. Và số tiền lậu này, tiểu đoàn đơn vị chúng tôi đã tịch thu chiến lợi phẩm trong trận đánh vừa qua tại mặt trận Ben Hét và biên giới Nam hạ Lào…
Những Phát hiện này và vừa qua có dấu vết xe tăng-thiết giáp địch hạng nặng T.54; PT.76 của Liên Xô và Trung Cộng tăng cường xâm nhập chiến trường Miền Nam VN trong khi Mỹ rút quân và Việt Nam Hóa chiến tranh. Mỹ sợ quân VNCH phát hiện âm mưu đi đêm thỏa thuận với Tàu Cộng bán đứng và phản bội đồng minh qua trận đánh Căn Cứ HỎA LỰC 6, nên cả vú lấp miệng em, bằng cách chối từ nhận xét tình hình mặt trận chiến trường qua mặt Mỹ, hầu xin tăng viện vũ khí hiện đại hóa, để bắt kịp tăng trưởng đà viện trợ, tăng cường của khối Nga-Tàu cho cộng quân Cộng sản Bắc Việt tiến chiếm Miền Nam VN.
http://saigonecho.com/main/lichsuvn/37-chientranhvn/30884-cau-chuyn-cm-ng-ca-mt-i-ta-phi-cong-hoa-k-tng-b-tu-vc.html
Và hậu quả đau buồn dân tộc, của người lính VNCH 30-4-1975, ngày gãy súng tan hàng.
 Xin xem link hướng dẫn cùng tác giả:
http://vietnamesebooks.blogspot.com/2011/04/vuot-bien-tren-ong-xuong-tan-huynh-mai.html
http://www.truclamyentu.info/tlls_nhungdongtho/vuotbien1.htm
 - Buồn trong chiến thắng
Nhờ tăng phái thêm 3 tiểu đoàn Dù, và 2 tiểu đoàn biệt kích biệt Lôi Hổ, Biệt Kích 81 Dù này chúng tôi chiếm lại chiếm lại ngọn đồi máu căn cứ 6 này và rảnh tay bung ra lục soát quanh vùng tạo vòng đai an toàn căn cứ trước khi chia tay quân bạn để nhận lãnh trách nhiệm bảo vệ ngọn đồi. Tôi có dịp chứng kiến những mất mát của chiến tranh và tình người trong cuộc chiến.
Chiến thắng nào cũng có cái giá của nó,và miền vui nào cũng có buồn ẩn chứa bên trong, không có cái gì trọn vẹn bao giờ, xin nhớ cho!Trong trận chiến này, người lính chúng tôi phải mượn xác đồng đội trải dài trên rào kẽm thép đánh dấu bải mìn và bước qua  xác bạn để tiến tới lổ châu mai nơi đặt ổ đại liên địch. Thây người chồng chất bịt kín, làm im tiếng súng địch…Tại sao chúng tôi, người lính chiến sĩ VNCH chết nhiều như vậy là vì chúng tôi có tình thần đồng đội rất cao biết hy sinh và chết thế cho nhau trước họng súng kẻ thù để bảo vệ Tự-Do miền Nam. Người lính chúng tôi không thù hằn với anh em Bộ Đội Miền Bắc và, vì chúng tôi chỉ là nạn nhân của chiến tranh, bắt buộc phải giết  lẫn nhau tranh giành sự sống, đó là luật sinh tồn không ai muốn giết nhau giữa Bắc -Nam bao giờ!?.
Trên đường lục soát, tôi bắt gặp nhiều cán binh bộ đội Miền Bắc còn rất trẻ tuổi- Học trò cấp một- bị bắt vào Nam với khẩu hiệu; ”Sinh Bắc Tử Nam”. Vượt dãy Trường sơn vào Nam “Giải Phóng”. Họ được tuyên truyền dụ dỗ cho uống thuốc “Hùng Tâm” do Trung Quốc cung cấp {Kích thích tố hăng say chiến đấu}là chất độc mang lại hệ quả chiến tranh sau này, nhưng trước mắt vẫn là thuốc “Hăng máu” liều mạng, tấn công biển người của Cộng Sản!?. Xác chết cán binh Cộng Sản Miền Bắc có màu da trắng bệch như một xác người di động vô hồn…trên vai mang túi gạo và ít đòn bánh tết{Tét} hẩm hiu, chắc do mẹ tiễn con lên đường vào Nam chống Mỹ…Trong túi áo rách nát đầy máu vết thương, còn sót lại những bức thư tình vụng-dại tuổi học trò nào biết gì chiến tranh!?, Tôi thương họ lắm, và biết nói gì với chiến tranh, khi chính mình cũng là nạn nhân  trong  cuộc chiến phi lý và vô nhân đạo này!!!



 Tội đánh Mỹ...!?

Trên con đường lên Tây Nguyên của đoàn xe-Convoi- chở đầy vợ con lính, dọn  nhà khu gia binh và quần áo mang theo rời  khỏi Phú yên, tỉnh Tuy Hòa lên núi Hàm Rồng thuộc tỉnh pkeiku, để tiếp nhận khu gia binh của căn cứ Mỹ nằm dưới chân núi. Trên đường đi theo quốc lộ 19 tới An Khê, Phù Mỹ- tỉnh Quy Nhơn- gặp đoàn  xe- Convoi GMC - chở lính Mỹ đầy máy móc dụng cụ văn phòng ngược chiều về Tuy Hòa cho kịp chuyến bay hay ra khơi với hạm đội số 7 trong đợt rút quân. Với lối ngang tàng, hống hách theo kiểu cow-boy miền tây hoang dã Hoa Kỳ của một đạo quân Viễn Chinh chủ chiến tại Miền Nam VN, không coi trọng tài sản và sinh mệnh của người dân Việt Nam trong thời chiến tranh giúp VN với một chút quyền, mà Mỹ tự cho họ có quyền sinh sát, bố thí Tự- Do cho người dân VN phải mang ơn ngươi Mỹ. Trên con đường vội rút quân. Đoàn quân xa Mỹ lái xe cán bừa lên người, lên vật đang lao nhao hợp chợ phiên làng quê bên đường. Phiên chợ quốc lộ 19 thị trấn An Khê - Phù Mỹ đông đúc dân làng sinh hoạt. Phải một phen làm người dân chạy tán loạn, kinh hoàng bởi đoàn xe lính Mỹ bất thần ào ào tiến tới vói những hung thần Mỹ hất tung hàng hóa, gióng gánh, thúng mẹt ăng tung tóe trên vệ đường quốc lộ. Làm tôm cá, mắm thóc, rau cải của nông dân khuya sớm lặn lội, tảo tần từ trong các đồng sâu mang về đây, để bị người Mỹ đạp đổ không chút tiếc thương quê nghèo. Có người bị thương, chảy máu kêu khóc vang trời…cũng không động lòng văn minh lối sống người Mỹ, sang đây giúp đỡ nhân phẩm tự do của người Việt Nam.
Chúng tôi người lính VNCH, vì thể diện tinh thần dân tộc, không thể chịu đựng trước những hành động côn đồ, mất dạy và khoanh tay đứng nhìn người Mỹ ngang nhiên nhục mạ và sỉ nhục quyền sống đồng bào mình, và họ-Mỹ- rất khinh khi, kỳ thị sắc tộc  da màu khi tới được Miền Nam VNCH, và chà đạp nhân quyền dân bổn xứ VN. Coi đồng minh VNCH là kẻ đánh thuê. Tự cho mình là đỉnh văn minh Hoa Kỳ; khinh rẻ dân bản xứ Việt Nam. Và vì chủ động trong cuộc chiến chống cộng sản, mà Mỹ muốn bỏ rơi chiến hữu đồng minh VNCH trong hợp đồng tác chiến chống Bắc Cộng sản rất tùy tiện, và cố ý thân Tàu Cộng Trung Quốc, để rút quân vội vàng cho sự sắp xếp Việt Nam hóa chiến tranh. Nên đoàn quân chúng tôi phải can thiệp bằng vũ lực quân sự với quân đội Mỹ trong bất bình tột độ. Bắn nhiều loạt đại liên M60 đặt trên nốc xe GMC dẩn đầu mở đường, bảo vệ khu gia binh lính. bắn thẳng vào lốp xe đoàn Mỹ bể bánh, lật trái sang lề đường, gây cản trở cho đoàn xe Mỹ phải dừng lại.Và lính chúng tôi tủa xuống đường, bố trí thành trận địa sẵn sàng nghinh chiến nếu  lính Mỹ có phản ứng cứng đầu, chống lại, và nổ súng ngay, cho dù là chiến hữu, kể cả đồng minh Hoa Kỳ, khi tàn nhẫn với dân tộc minh…Rất may không gặp phản ứng gì khi đoàn xe Mỹ biết nhận lỗi về mình. Nhưng không thể xoa dịu tính tự tôn dân tộc và khí phách kiêu hùng của người lính VNCH, nên chúng tôi bảo chúng đầu hàng,hai tay để trên đầu như kẻ tù binh thua trận đứng về một bên và chúng tôi cho nổ lựu đạn phá hủy chiếc xe gây nạn khủng khiếp cho đồng bào được thỏa lòng hả dạ tự ái dân tộc mình không ai dám công khai chà đạp dân mình dù là ân nhân Mỹ trong cuộc chiến VN. Đứng xa xa là đồng bọn Mỹ thủ súng tự vệ và gọi máy truyền tin, báo cáo sự việc về cho Tướng Cố vấn Hoa Kỳ và tướng Tư lệnh Ngô Dzu SĐ 22BB lên can thiệp vì sợ chúng tôi đốt sạch hết cả đoàn xe Mỹ chở đầy hàng hóa và của cải rút quân về biếu tặng tướng lãnh Sư Đoàn…để trả thù dân tộc và bảo vệ  cho dân.
Khi tiếng trực thăng kêu phạch phạch trên bầu trời là lúc ngọn lửa sắp tàn của chiếc xe bị đốt, khói vẫn bốc lên cao tạo thành hỏa khói chỉ điểm cho trực thăng của Tướng Tư lệnh SĐ vùng II đáp xuống xử lý nội vụ. Nhưng trực thăng không đáp xuống…Mà đoàn xe chở đầy hàng của cãi hàng hóa mỹ, được lệnh tướng tư lệnh cho chở về bản doanh BTL/SĐ 22BB cầu Bà Gi. Còn trung đoàn 47/SĐ 22 BB lập tức theo lệnh lên đường trục chỉ hành quân tiếp viện căn cứ 6, không kịp đưa vợ con lính về căn cứ khu gia binh mới nhận được của Mỹ, ở căn cứ Hàm Rồng. Đây là hình phạt lưu đày lính “Cầm lựu đạn đi tiền đồn” theo luật phạt nhà binh cho lính và ít nhất lảnh “100 củ” ghi vào hồ sơ quân bạ của mỗi sĩ quan trước khi đưa ra tòa án binh giáng cấp chức vụ-xuống cấp bực quân hàm sau đó…! khi chấm dứt lệnh hành quân.
Từ đó, chúng tôi có mối bất hòa với cố vấn quân sự Hoa kỳ trong mỗi lần hành quân phối hợp Việt Mỹ. Vì người Mỹ đánh giặc theo kiểu công tử con nhà giàu rất là keo kiệt, tính toán lời-lỗ với chiến hữu đồng minh VNCH trong tiếp xúc ngoại giao vì công vụ: “Anh ăn, anh trả. Tôi ăn tôi trả…!?”{He ate his return, I eat I pay}, làm tôi muốn điên cái đầu  khi đi công tác, công vụ với cố vấn Mỹ được họ mời cơm, thì phải soát lại trong túi có đủ tiền trả cho buổi cơm đó không!? Và tôi phải mất mặt ghi nợ trước mặt ngươi đẹp bán hàng cho buổi cơm 2 người cố vấn kia theo phong cách hiếu khách dân tộc Việt. Lề lối cư xử con buôn quốc tế từ thời lập quốc tới nay, nên họ mới giàu ra! Về mặt  quyền lợi kinh tế. khi họ cho ai món quà nào thì họ móc cả lưỡi câu vào món mồi đó, có nối liền lưỡi câu bằng một sợi dây dài cằm sẵn nơi bàn tay khôn ngoan đóa để của họ. Không thua gì dân Ba Tàu Trung Quốc.
Tuy nhiên, người Mỹ thiếu kinh nghiệm về chính trị, lẫn quân sự, chỉ biết lấy sức mạnh quân sự làm phương tiện phục vụ kinh tế cho họ. Nên chiến tranh Việt Nam, Mỹ không chủ trương đánh thắng Cộng Sản Bắc Việt, mà muốn mở của thị trường đông dân Trung Quốc mà thôi. Và Hoa Kỳ cóc cần biết ai là Cộng Sản; ai là Quốc Gia tự do yêu nước trong số 25 triệu dân miền nam trong chiến tranh VN. Trước năm 75, có nhiều cố vấn quân Sự Hoa Kỳ hỏi tôi: “ Ai trong số các anh là VC làm sao tôi phân biệt được kẻ thù!???”- Tôi trả lời: “Khi chúng tôi còn mặc quân phục và người dân chúng tôi còn mang ơn các các chiến hữu Hoa Kỳ đem lại hòa bình tự do đó chính là đồng minh, bạn anh. Và khi chúng tôi đánh đuổi, đòi giết anh,thì chúng tôi mới là VC kẻ thù của anh, xin anh rõ nghĩa, thế nào là Cộng Sản rạch ròi đen trắng!?
Và có một điều thú vị, các bạn Mỹ là ân nhân cứu mạng cho Cộng Sản nằm vùng mỗi khi đơn vị Mỹ phối hợp hành quân lục soát mật cứ địch trong vùng “Giải phóng. Với tiếng động ồn ào như đi hội chợ, làm cho VC nằm vùng hoảng hồn bỏ chạy trước khi Mỹ đến mục tiêu không có VC, mà chỉ toàn là nông dân, tay lấm chân bùn…giả dạng thường dân vô tội và làm cho lính Mỹ có cảm tưởng VC hết giờ làm việc,và đi ngủ tất cả rồi! và đưa đến trạng thái ngây thơ trong cuộc chiến VN là lẽ tất nhiên phải thua cuộc với Cộng Sản MTGPMN.
Mọi sự việc xảy ra lính tôi đều chấp nhận, miễn sao gánh bớt thương đau cho dân vùng chiến nạn hằng ngày phải đối mặt với chiến tranh!
-Về… trong nỗi nhục-nhằng bơ-vơ!
Mỗi lần hành quân về, đoàn quân chiến thắng chúng tôi không được vào thành phố, là nơi chúng tôi tìm chút nghĩ ngơi và giải trí sau những ngày hành quân gian khổ, mệt nhọc, thiếu vắng tình người thành phố cho ấm lại hoang vắng núi rừng. Lính chúng tôi chỉ được đón tiếp, chào hỏi, mời mọc của những cô Ả “ Gái giang hồ”{Giải quyết chiến tranh}. Đời lính chúng tôi chỉ được vinh danh trong cái thừa thải xã hội, còn được đồng hóa với chúng tôi vào hàng đỉ điếm…!?
Cấp trên mệnh lệnh đóng quân ra xa khỏi thành phố để tránh tình trạng lính phá phách và đánh nhau giành “Gái”…Người lính trận chúng tôi bị coi thừơng về giá trị Tự-Do mà Tổ Quốc vinh dự trao cho trách nhiệm bảo vệ đến hơi thở cuối cùng, và người lính chúng tôi phải có được quyền sống -Tự- Do- cho cá nhân cộng đồng người lính sau mỗi cuộc hành quân về. Lính chúng tôi là giá trị thể hiện Tự Do tại sao chúng tôi không có quyền hưởng nhu cầu tự do chính mình làm ra cho hòa bình,Tự do dân tộc.
Các ông Tư Lệnh Quân đoàn, Sư Đoàn và Tướng Lãnh Quân khu không cho lính vào các thành phố “Ăn Chơi” của đám thanh niêm, sinh viên con ông cháu cha –Thế lực- trốn lính ăn chơi sa đọa trong các tửu lầu nhạc nhúng sập xình cùng gái đẹp-bia ôm-Cùng đám đại gia; con buôn lậu đồ Mỹ quốc viện trợ chiến tranh…làm đau lòng chiến sĩ ngày đêm đánh trận cho hậu phương an ổn ăn chơi trên xương máu các anh chiến sĩ ngoài trận địa sống chết với kẻ thù, thử hỏi ai không buồn!?.
Và chính các ông tướng lãnh này đứng ra chỉ đạo kinh doanh bằng quyền lực chiến tranh cho phép mở các quán Bar đèn mờ và các động đỉ cao sang tiếp khách quốc tế và các thương gia- Bọn gian thương-chuyên buôn bán đồ Mỹ lậu là mặt hàng viện trợ quân sự chiến tranh, cũng là xương máu của anh em chiến sĩ VNCH do các tướng lãnh quân đội đứng ra làm ma cô, ma cạo ”bảo kê”, hoặc làm chủ kinh doanh bia ôm, động điếm…nên không cho lính dưới quyền mình về phá phách xóm làng và đập bể nồi cơm, nhờ chiến tranh làm giàu cho họ.
Các tướng lãnh quân đội VNCH thời đệ nhị cộng hòa của “ Hội Đồng Cách Mạng Quân Nhân” lên nắm quyền điều hành đất nước Miền Nam thay thế chính phủ dân sự đệ nhất cộng hòa Ngô Đình Diệm, đã làm lu mờ vai trò yêu nước của người quân nhân, chiến sĩ VNCH và mất miền tin trong lòng nhân dân lẫn quần chúng Miền Nam. Người lính chiến đấu bảo vệ Tự-Do Miền Nam mà dân chúng cứ hoài nghi cho thế lực ngoại bang Mỹ-Theo lời VC/MTGPMN nói - Để rồi cuộc chiến đấu này của người lính VNCH bị phủi công ơn và quên lãng của người dân trước sự hy sinh vô bờ bến cho Tự Do Độc lập VNCH.
 -Một thời chinh chiến, một thời ngang dọc…!
Lính tôi trước sự bất công xã hội và bất bình cấp trên, nên rơi vào trạng thái, không ai biết thương mình!?-Một thành phần cuộc chiến bỏ rơi. Nên phản kháng bất cần đời…!!!
Chúng tôi kéo nguyên cả một tiểu đoàn hành quân với đầy đủ súng đạn về thành phố Pleiku-“Phố núi Mây Bay” vì có vài người lính của đơn vị chúng tôi ra phố uống rượu nhằm vào quán Bar đèn mờ của Tướng Ngô DZU thành lập kinh doanh và cho vài lính bảo vệ và có quân cảnh xét giấy tờ bắt quân nhân trên trên thành phố vào nơi có em út sập xình uốn éo cho đám thanh niên vô công rổi nghề, phè phởn ăn chơi trên xương máu, chết sống của người lính. Các chiến hữu đơn vị bị bắt, chạy về báo cáo sự việc, nên tiểu đoàn tôi tức tốc từ căn cứ núi “ Hàm Rồng” vác theo 2 khẩu đại liên M60 và 4 xe GMC đầy nhóc lính chạy ra phố và đặt 2 khẩu đại liên, hai bên đồn lính quân cảnh,và ra lệnh phải thả ngay lập tức 5 người lính của tiểu đoàn bị quân cảnh bắt giữ. Và được một sĩ quan trong đồn ra giải hòa và hứa thả với một chầu bia lon- bia Heineken- tại chổ cho các cấp sĩ quan hai bên vốn đã ghét nhau từ lâu…giữa lính kiểng và lính tác chiến không ưa gì nhau!- Một đàng sống-chết, một đàng lính cô, lính cậu….
Sau khi lấy lính ra khỏi đồn Quân Cảnh, chúng tôi chở lính đến các quán “ Bar” đèn mờ, nhà hàng hạng sang của Tướng Ngô Dzu cho các lính kiểng  đứng ra bảo kê làm đầu nậu,ma cô. Lính chúng tôi vào ăn uống rồi đập phá quán… Ông Tướng Ngô Dzu và ngài Tỉnh Trưởng Pleiku biết được và biệt phái các lính kiểng gác dinh tòa tỉnh. Cả ba chục người trên 5 xe Jeep và lại có thêm 4 xe Quân Cảnh hộ tống. Hai bên lính chúng tôi dàn trận ngay trên những con đường chính của thành phố Pleiku như một trận địa và bắn hai khẩu đại liên{Gà Cồ M6o}bay cao trên đầu họ với làn đạn lửa như pháo hoa và ném lựu đạn ra giửa lòng đường phố nổ tung, gây áp đảo tinh thần lính kiểng-chết nhát!- Làm họ phải tìm nơi ẩn núp bằng hai tay che đầu, núp dưới gốc cây hai bên đường, thấy mà thương cho đời lính kiểng. Họ bỏ xe sắp hàng dài như đi duyệt binh mà không sợ địch phục kích như chúng tôi !?. Sẵn máu nóng hăng say do rượu vào nhưng có biết đâu là bạn,đâu là thù! Lính chúng tôi châm lửa đốt 4 xe Jeep của Quân Khu II. Và lật ngửa chúng ra lộ đường cho hả giận, vì tức tối Tướng cầm quân, hy sinh xương máu chiến hữu dưới quyền tại chiến trận, để bảo vệ thành phố cho các thanh niên, thiếu nữ sống sa đọa, ăn chơi nhảy múa trên máu xương các chiến sĩ VNCH ngoài mặt trận. Không phải là nạn kiêu binh trong thời chinh chiến nhưng là sự nhắc nhở các tướng lãnh cầm quân, hãy quay về với trách nhiệm và danh dự tổ quốc giao phó, khi Miền Nam VN sắp rơi vào cộng quân Bắc Việt, mà Mỹ đã đánh mùi biết trước. Nên Hoa Kỳ rút quân rất sớm để được an toàn!!?
Và 36 năm sau bổng giựt mình nhớ lại cuộc chiến hôm nay; tưởng đã lãng quên chôn vùi trong quá vãng, nào ngờ hiện thực phủ phàng lôi tôi sống lại chiến trường xưa!
 “Ví dù miền Nam Việt Nam có bị đại bại hoàn toàn, cái yểm trợ tận lực của Hoa Kỳ sẽ cho phép người Mỹ nhún vai và nói rằng họ đã cố gắng hết sức. Nhưng, Hoa Kỳ đã không tận lực, mà trái lại người Mỹ lại còn cố gắng che đậy sự thật bằng cách bôi nhọ miền Nam Việt Nam và nhục mạ quân lực VNCH đã sai lầm, không chiến đấu cho dân tộc họ.
Bây giờ đã quá trễ để Hoa Kỳ chuộc lại tội ác tầy trời khi bỏ rơi nhân dân miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản. Nhưng nó chưa quá trễ để Hoa Kỳ thú nhận lỗi lầm trong việc nhục mạ họ-VNCH. Và cũng chưa quá trễ để bắt đầu vinh danh các thành quả và lòng dũng cảm của những binh sĩ VNCH đã chiến đấu bảo vệ lý tưởng Tự Do cho hòa bình Việt Nam!!!
Huỳnh Mai St.8872
{Thân phận chiến Tranh-VNCH}


Bản đồ này được làm bởi những người như bạn!





TÂN CẢNH - ĐẮK TÔ

Một thời là chiến trường đẩm máu, năm 1967 thế kỷ 20Tank T54 nỗi kinh hoàng của bộ binh Việt Nam Cộng Hòa,niềm tự hào của QĐND VN.
Ngay từ lần đầu tiên xuất hiện T54 đã gây cho binh lính Việt Nam Cộng Hòa nhiều cơn ác mộng,trận Tân Cảnh là một bằng chứng không thể chối cãi. Đây là dựa vào lời tự thuật của ?ocác sĩ quan Quân lực VNCH?.
Sau khi đánh chiếm các căn cứ hỏa lực vành đai,quân giải phóng chuyển sang tấn công căn cứ Tân Cảnh của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22, đặc biệt lần đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ xe tăng T54 đã xuất hiện làm kinh hoàng tinh thần chiến đấu của quân đội Sài Gòn.Trịnh Tiếu kể:?Các toán biệt kích và viễn thám của ta (VNCH) phục kích trong rừng,hằng đêm nghe tiếng chiến xa của Cộng Sản di chuyển.Tôi báo động về sự xuất hiện của chiến xa T54 để tướng Ngô Du và Paul Vann tím cách đối phó.Tướng Ngô Du tin những báo cáo của tôi ,nhưng Paul Vann thì nghi hoặc. Ông cho rằng đó chỉ là loại xe thường,hoặc la T76s,chiến xa lội nước không đáng kể của Cộng Sản. Đối với Paul Vann phải trông thấy tận mắt mới tin?.
Bùi Đức Lạc cũng ghi nhận sự kiện nủa tin nửa ngờ này và cố tìm kiếm nhưng không thấy dấu tích cụ thể:?Ngày 20-4-1972 các đơn vị hoạt động chung quanh căn cứ Tân Cảnh ghi nhận địch quân di chuyển đông và tiến dần về Tân Cảnh,hướng tây bắc(Đắc Tô) có tiếng đoàn chiến xa di chuyển.Khi bay lên vùng này chúng tôi cố gắng tìm dấu vết chiến xa nhưng địch quân không để lộ.Như vậy chiến xa địch nếu có cũng ít mà thôi?.
Xin dừng lại để giới thiệu chút ít. ?oTrịnh Tiếu- Một đại tá của Quân Lực VNCH?,?Bùi Đức Lạc-Trung tá Tiểu đoàn 1 Pháo binh dù ?o, Tướng Ngô Du- Tư lệnh Quân Đoàn 4 sau được Tổng Thống Thiệu bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân Đoàn 2 và Quân khu 2.John Paul Vann,Trung tá Bộ binh làm cố vấn Sư Đoàn 7 Bộ binh tại Vùng 4 từ năm 1962-1963.Tháng 4-1971 Paul Vannđược bổ nhiệm làm cố vấn Quân Đoàn 2.
Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp (QĐND VN) đã giải thích sự bí mật bất ngờ của những chiếc T54 này đã ẩn mình trong ngầm Pô Cô hạ và bộ đội công binh đã mở đường K50 băng cắt qua rừng bằng cách cưa đường kính than cây trên dọc đường rồi ngụy trang lại. Đêm 23-4,chin chiếc tăng từ ngầm xuất phát lướt qua quận lỵ Đắc Tô và hướng về Tân Cảnh.
Trịnh Tiếu tiếp tục bàn luận về vai trò của T54 và những diễn biến tiếp theo:?Tướng Hòang Minh Thảo thấy Lữ doàn Dù đã rút kinh nghiệm,nên ông có kế hoạch tấn công cấp tốc để dứt điểm Sư đoàn 22 Bộ binh tại tân Cảnh bằng Sư Đoàn 320 và SƯ ĐOÀN SAO VÀNG với chiến xa T54 và hỏa tiễn Sagger do Liên Xô chế tạo.Chiến Xa T54 và hỏa tiễn Sagger là 2 loại vũ khí tối tân được sử dụng lần đầu tiên tại chiến trường miền Nam trong Mùa Hè đỏ lửa 1972.T54 là loại chiến xa bọc sắt cứng,dày,tương đương với chiến xa M48 của Hoa Kỳ. Hỏa tiễn Sagger mà ta gọi là AT3, là loại hỏa tiễn chống chiến xa bằng dây. Giống như hỏa tiễn Tow của Mỹ, nhưng tầm xa kém( hoả tiễn Tow tầm xa 3000m, hỏa tiễn Sagger 200m).
Trong những ngày 20,21 và 22-4-1972, các sư đoàn địch áp sát bao vây Tân Cảnh. Khi đã khám phá đầy đủ các vị trí của địch xuất hiện, tôi trình Tướng Ngô Duphải diệt địch ngay bằng B52 theo như kế hoạch trước đây mà ông và Paul Vann đã tính toán. Nhưng Paul Vann đã từ chối sử dụng B52, vì trong thâm ý, ông không muốn yểm trợ cho Đại tá Lê Đức Đạt-Lê Đức Đạt lúc này đang là tư lệnh tại mặt trận Tân Cảnh. Tướng Ngô Du nổi giận la to:? Ông Paul, ông là bạn hay là kẻ thù của chúng tôi?? Paul Vann làm thinh bỏ đi. Ông dung trực thăng bay xuống mặt Bắc Bình Định.
23-4-1972, một tiểu đoàn Bộ binh của Sư 22 chạm sung với địch từ rất sớm, không quá xa Bộ Tư Lệnh sư Đoàn, đồng thời địch pháo kích tới tấp vào căn cứ Tân Cảnh bằng hỏa tiễn 122 ly. Chiến xa bảo vệ Bộ Tư Lệnh của sư đoàn đại tá Đạt gồm 10 chiếc được điều động ra để chống lại địch, đã bị hỏa tiễn Sagger bắn cháy hết 8 chiếc, cón lại 2 chiếc thì bị đứt xích. Người bạn than với tôi trước đây tại Quy Nhơn là thiếu tá Như cùng Đại úy Kenneth Yonan,23 tuổi, xuất than từ trường Wespoint, đã leo lên tháp nước cao tại căn cứ, sử dụng đại lien 12.7 ly để tấn công địch, cũng bị hỏa tiễn Sagger bắn, bồn nước nổ tung và cả hai người chết tại chỗ. Các đơn vị của ta chạm súng suốt ngày hôm đó với địch tại tân Cảnh. Tướng Ngô Du sử dụng tối đa hỏa lực không quân để yểm trợ cho Đại tá Đạt.
Khỏang 10h tối ngày 23-4-1972, quận Đắc Tô cách Tân Cảnh 2 km về phía bắc, do địa phương quân và nghĩa quân người Thượng bảo vệ, đã quan sát thấy đèn của 11 chiến xa T54 đang tiến về hướng quận. Quân đoàn liền điều động C-130 spectre lên thư trái sang. Chiến sĩ ta trong các hầm chiến đấu cá nhân thấy tất cả 15 chiếc chiến xa T54 của địch xếp hang dọc chạy tiến về Tân Cảnh. Phi cơ C-130 tác xạ để ngăn không cho chiến xa địch tiến, nhưng vô hiệu vì loại phi cơ này không có loại đạn chống chiến xa?.
Được sự chi viện của Mỹ, quân đội Sài Gòn tự tin ỷ lại về ưu thế khí tài quân sự, phương tiện chiến tranh nên khi lần đầu đối diện với xe tăng T54, và loại hỏa tiễn chống tăng mới của quân giải phóng, lực lượng thiết giáp cơ hữu của chiến trường tân Cảnh gồm 22 chiếc chiến xa M41 đã hoàn toàn tê liệt và bị tiêu diệt. Hà Mai Việt đã kể về diễn biến này:? Từ hơn 1 tuần lễ trước, cả Tân Cảnh lẫn Đắc Tô II đã bị quân Cộng Sản bao vây. Mỗi ngày căn cứ Tân Cảnh phải chịu trên dưới 1000 trái đại bác và hỏa tiễn đủ loại rót vào. Đặc biệt sang ngày 23-4, một chiến xa M41 thuộc Thiết đoàn 19 nằm tại cổng chính căn cứ Tân Cảnh đã bị phá hủy bằng đạn xuyên phá mà xa đội ước đóan là do hỏa tiễn B40 từ ngoài rót vào.
Nhưng ban cố vấn Hoa Kỳ lại không nghĩ như vậy,vì B40 chỉ có tầm bắn hữu hiệu khỏang 100 thước, mà lúc ấy địch quân còn cách vị trí của chiến xa hơn 500 thước. Sauk hi quan sát tại chỗ để tìm hiểu, ban cố vấn đã xác nhận đó là loại hỏa tiễn chống tăng mới xuất hiện, được điều khiển bằng dây điện, có tầm bắn tối đa là 2500 thước và có thể xuyên phá 400 ly thép. Đây là loại hỏa tiễn AT3 do Nga chế tạo, được Cộng Sản Bắc Việt sử dụng lần đầu tiên tại Tân Cảnh và trên chiến trường Việt Nam.
Vào lúc 10 giờ 30 phút sáng ngày 23-4, một tiếng nổ long trời của hỏa tiễn AT3 đã phá hủy phần lớn trung tâm hành quân của Sư 33 Bộ binh. Phòng truyền tin và quân dụng bị thiêu hủy. về nhân sự có 20 quân nhân chết và bị thương nặng bởi những mảnh đạn tung tóe trong hầm. Vào khoảng giữa trưa hang loạt hỏa tiễn điều khiển AT3 phóng vào căn cứ gây thiệt hại nặng cho quân trú phòng, đồng thời phá hủy một số pháo đài kiên cố và 4 xe tăng M41 còn lại. nhưng thiệt hại quan trọng nhất lại là tinh thần chiến đấu của quân nhân các cấp xuống rất thấp, nhất là sau khi họ thấy quân đoàn không can thiệp để xin B52 yểm trợ hành quân như thường lệ.
Lúc 9h đêm, quận trưởng Đắc tô báo cáo lên Bộ Tư Lệnh sư đoàn:?Chiến xa địch xuất hiệ, chạy qua ấp đắc Brung hướng về quận lỵ Đắc Tô.? Trung tâm hành quân Sư 22 liền xin vận tải cơ võ trang AC130 Spectre xuất hiện trên vòm trời Tân Cảnh. Phi cơ này dung hồng ngoại tuyến phát hiện được 18 chiến xa cộng sản tiến từ Tây sang Đông hướng về Đắc Tô. Vào khỏang nửa đêm, đoàn chiến xa này quẹo về hướng nam, theo quốc lộ xuống Tân Cảnh.
Vì nhận thấy sẽ có một cuộc đụng độ lớn và không thấy sư đoàn ra lệnh phản công nên Đại tá Kaplan, cố vấn trưởng của Sư 22 đã tập họp ban cố vấn lại để lưu ý mọi người về kế hoạch đào thoát và lẩn trốn. Rồi ông tập trung họ trong 1 pháo đài để chờ lệnh. Cũng trong thời gian này,chiếc AC130 báo cáo có 3 chiến xa bị hạ tại ấp Đắc Brung. Vào lúc 0h ngày 24-4, một thành phần thuộc Sư đoàn 2 cộng sản Bắc Việt tấn công vào cao điểm ở phía đông Tân Cảnh,gần ngôi chùa Phật giáo. Đồng thời, 2 thiết xa vận PT-76 lờ mờ xuất hiện ở phía bắc kho đạn.
Sau khi dừng lại, 2 chiếc PT-76 của Cộng Sản phất cờ hiệu cho nhau. Vào lúc này kỵ binh Việt Nam Cộng Hòa đều lên rất cao. Cả hai chi đội trưởng của Chi đội 1 và 2 tại Đắc Tô và Bến Hét theo dõi tình hình trên tần số chỉ huy của chi đoàn, đều xin trở về với chi đoàn để chiến đấu. Đại úy Giang liền chấp thậun cho tập trung để điều động toàn khối. Nhưng có lẽ thiết đoàn gập trở ngại truyền tin nên không thấy đáp nhận.
Trên bầu trời Đắc Tô, chiếc AC130 đang trút đạn bắn vào đoàn chiến xa Cộng quân tiến từ Đắc Tô xuống Tân Cảnh. Ở hướng đông, một chiếc AC-47 Hỏa Long của không quân Việt Nam Cộng Hòa cũng đang yểm trợ cho đơn vị bạn bị địch tấn công. Ngoài 2 phi cơ nói trên và pháo binh yểm trợ trực tiếp,vào lúc này Sư 22 Bộ binh không nhận được sự yểm trợ hỏa lực nào khác.
Cho đến 3 giờ sáng 24-4,Chi đoàn 1/14 Chíân xa vẫn không lien lạc được với Bộ chỉ huy Thiết đoàn 14 Kỵ binh, nên Đại úy Giang đã tự ý ra lệnh cho chi đội 1 và 2 tập trung tại Tân Cảnh để tác chiến.Do đó cả 2 chi đội nói trên đều rời vị trí về Tân Cảnh ngay sau khi nhận lệnh.
Chi đội 2/1 tại Bến Hét có 5 xe tăng M41 do chuẩn úy Nguyễn Thi chỉ huy. Vào phút chót,một chiếc bị trục trặc nên được bỏ lại. Bốn chiến xa kia tuy không có bộ binh tùng thiết nhưng cả 4 chiếc cũng theo tỉnh lộ 512 tiến về Tân Cảnh. Khi tới eo Tử Thần, một chiến xa nữa hư. Xa đội này tự sửa chữa rồi trở lại căn cứ Bến Hét. Kể từ đó chi đội chỉ còn lại 3 xe tăng M41 mà thôi. Lúc ấy chi đội trưởng vẫn cho lệnh tiếp tục tiến.
Vừa di chuyển tới cầu Đắc Mốt thì đoàn xe gập ổ phục kích nằm trên cao điểm phía bắc đầu cầu. Ổphục kích này phóng hỏa tiễn B40 xuống. Sau 1 cuộc giao tranh ác liệt, phân đội chiến xa bị loại khỏi vòng chiến và sĩ quan chi đội trưởng bị bắt.
Khỏang 6h 30 phút sáng, quân Cộng Sản chọc thủng phòng tuyến phía Đông bắc Đắc Tô II bằng chiến xa có bộ đội tùng thiết. Cũng trong thời gian này, khoảng một tiểu đoàn bộ đội bắc việt và 1 chi đội chiến xa T54 cùng tấn công vào hướng Tây Bắc của chu vi phòng thủ.
Trong khi đó chi đội 3/1 với các tăng M41 tại Đắc Tô II sau khi được lệnh tập trung của chi đoàn trưởng, đã di chuyển tới đầu phi trường Phượng Hoàng thì đụng địch. Sau đó chi đội này mất liên lạc truyền tin với chi đoàn.
Đại úy Charles Carden, cố vấn của trung đoàn 47 bộ binh đã thuật lại như sau: Khoảng 1 tiếng đồng hồ sau khi Tân Cảnh bị tấn công, 1 trực thăng UH1 đến Đắc Tô II đón 6 viên cố vấn Hoa Kỳ của sư 22 Bộ binh. Chiếc trực thăng này bị trúng đạn phòng không,cháy và rớt tại phía nam chu vi phòng thủ. Tại khu vực phòng thủ của trung đoàn, chính ông được mục kích 2 chiến xa T54 địch tiến vào phi trường rồi chia làm 2 ngả. Một chiếc tiến về hướng Tây của phi trường, án ngữ lộ trình chuyển quân từ Bến Hét về Đắc Tô II. Chiếc kia từ hướng Bắc chạy vào giữa phi trường, tấn công vị trí phòng thủ của trung đoàn 47 bộ binh.
Ngay lúc đó, 2 xe tăng M41 thuộc chi đoàn 1/14 liền điều động và tác xạ. Mỗi chiếc M41 bắn 3 phát đại bác 76 ly vào sườn tây của chiềc T54. Lúc ấy cố vấn Carden, chỉ cách chiến xa địch khoảng 100 thứoc, nhìn thấy chiếc T54 bị trúng đạn và bốc khói nhưng chưa bị hạ. Chiếc T54, vỏ thép dầy 105 ly, nặng 36 tấn, đã hồi phục mau lẹ rồi quay nòng súng lại bắn hạ 1 chiến xa M41 bằng 2 quả đạn 100 ly. Ngay sau đó chiếc T54 này cũng hạ chiếc M41 còn lại bằng trái thứ ba. Đây là trận xa chiến cuối cùng tại mặt trận Đắc Tô II.
Đúng 4 giờ sáng, 2 chiếc PT76 của Cộng quân ở phía bắc kho đạn bắt đầu tác xạ. Chi đội 1/1 khai hỏa bắn trúng cả hai chiếc PT76, nhưng xe không cháy mà chỉ nằm quay ngang trước cổng kho đạn. Để phản công, Cộng quân phóng hỏa tiễn AT3 vào chi đội 1/1 do thiếu úy Trần Nhuần chỉ huy. Chiến xa chỉ huy bị trúng đạn, Thiếu úy Nhuần chết ngay tại chỗ. Đại đội thám kích giữ kho đạn tự động rút lui lúc nào không rõ.
Trong khi ấy, 4 xe tăng M41 còn lại và hai thiết xa vận M113 của ban chỉ huy chi đoàn đã ngoan cố chống trả. Trung sĩ Nguyễn Văn Khanh. hạ sĩ quan truyền tin trên chiếc M113 đã nhảy lên thay thế xạ thủ đại liên 30 bị tử thương. Trong hki Trung sĩ Khánh đang bắn vào các bộ đội cộng quân đang bảo vệ 2 chiềc PT-76 thì 1 trái hỏa tiễn B40 của đối phương phóng trúng vào xe M113 chỉ huy. Kết quả trung sĩ Khánh tử thương và Đại úy Giang bị thưong.
Đại úy Giang được đồng đội cõng chạy vào rừng. nhưng bị bắt vào ngày 3-5-1972.?

Diễn biến xấu báo hiệu sự nguy ngập của Tân Cảnh quá rõ rang, Bùi Đức Lạc đã kể:? Nhất là hiện nay trục lộ tiếp tế cũng bắt đầu bị chặn đứng, trong khi những đoàn xe tiếp tế của địch quân di chuyển cả ban ngày,còn ban đêm xe địch quân di chuyển đèn sáng như trong thành phố vậy. Hỏi làm sao tinh thần của an hem Sư 22 còn vững được. Các dấu hiệu rõ rang sự xuất hiện của Sư đoàn 320, sư đoàn 304, sư đoàn 986, các trung đoàn phòng không, các trung đoàn chiến xa. Thời điểm này nếu chúng ta khôn ngoan 1 chút thì phải cho Bộ tư lệnh sư đoàn 22 bộ binh rút về cố thủ tại KonTum. Tân Cảnh nếu cần chỉ để lại một trung đoàn là nhiều,chứ không nên để một Bộ tư lệnh/Sư đoàn làm tiền đồn cho quân đoàn,lúc đó quân số mà bộ tư lệnh sư đoàn 22 bộ binh chỉ huy chỉ vỏn vẹn có Trung đoàn 42 bộ binh còn lữ đoàn dù thì bộ tổng tham mưu có thể rút đi bất cứ lúc nào, ai cũng rõ là địch sẽ dung 1 sư đoàn cộng với chiến xa để dứt điểm Tân Cảnh, trong khi Sư đoàn 22 chỉ có 1 tiểu đoàn trừ trong căn cứ để bảo vệ bộ tư lệnh. Không có chiến lược hay chiến thậut nào lại sử dụng bộ tư lệnh sư đoàn làm tiền đồn bao giờ,một sự bất nhẫn tàn bạo đã phí mạng hang trăm quân nhân và làm thành làn sóng bất mãn- Điều này thể hiện rõ sự bất lực trong chiến lược cũng như chỉ huy của Việt nam cộng hòa. Quân số không quan trọng bằng tinh thần, tôi thấy anh em trong căn cứ tinh thần xuống từ khi không được sự yểm trợ của không quân (B52 Mỹ) đúng mức nhất là những mục tiêu rõ rang, chẳng hạn như đoàn xe địch di chuyển ban ngày không bị 1 lực lượng nào ngăn cản, hay những vị trí phòng không, vị trí pháo binh của địch. Việc Tân Cảnh còn hay mất chỉ còn chờ thời gian khi nào địch quân khởi sự tấn công mà thôi, thật sự là như vậy.?
Bùi Đức Lạc kể về những giây phút cuối cùng của Tân Cảnh và của đại tá sư trưởng Sư đoàn 22 qua liên lạc vô tuyến điện:?Ngày 23-4-1972 tức ngày chủ nhật, Playcu hay Sài Gòn giờ này có thể trời đang đẹp, 10h không quân mới giúp mở được hàng rào có thể rút sang phi trường, tuy vậy muốn băng qua được cũng vẫn rất khó khăn, lúc này Tiểu đoàn 9 dù cũng bị tấn công mạnh, bốn đại đội tác chiên đều ở ngoài nên Bộ chỉ huy tiểu đoàn không có khả năng tiếp cứu,13h thiết giáp hạng nhẹ của địch không 1 chiếc nào bị thương vào tới cột cờ, nhưng địch không có tùng thiết nên thiết giáp nằm tại đó, quân ta vẫn cứ chạy qua mặt thiết giáp ra phía hàng rào đã phá.
Hưng liên lạc cho biết anh và Đại Tá tư lệnh sư đoàn 22 bộ binh ra tới hàng rào,lúc đó Đại Tá tư lệnh giật máy.
-11 (chỉ huy của tôi) đây 01(chỉ danh của Đại Tá Tư lệnh sư 22). Nguy rồi 11 anh bắn ngay vào sân cờ thiết giáp nó vào sân cờ rồi.
-01 đây 11 tôi thi hành ngay.
-11 đây 01 anh tiếp tục cho bắn như vậy may ra tôi có thể gặp Cửu Long ( Tiểu đoàn 9 dù) được,khoảng 2 phút sau tôi nhận được Hưng gọi.
-11 đây Hồng Hà gọi????01 theo ông Bắc Bình rồi.
Tôi hiểu Hưng muốn nói gì nhưng tôi vẫn cứ hỏi lại.
-Hồng Hà đây 11 anh nói gì lặp lại.
11 đây Hồng Hà tôi nói???..01 theo ông Bảo rồi
-Hồng Hà đây 11,anh cố gắng mang 01 ra Cửu Long được không.
-Không được vì tăng nó bắn nên kẽm gai quấn chặt lấy ông ấy rồi, tôi cố gỡ ra nhưng không ai có kềm cắt gai cả. Giọng Hưng yếu hẳn đi, tôi nghe rõ tiếng nổ chat chúa và tôi hoàn toàn mất liên lạc từ lúc 14 giờ ngày 23-4-1972?:
Theo lời Đại Tá Kaplan,có lẽ Đại tá Đạt tự sát sau khi đồn Tân Cảnh tràn ngập quân giải phóng. Đó là ngày 24-4-1972,lúc 10 giờ sáng.
Trịnh Tiếu đánh giá về hậu quả trận Tân Cảnh khá bi đát:?Sauk hi mặt trận Tân Cảnh bị thảm bại,tư lệnh sư 22 Bộ binh chết mất xác tại mặt trận, thành phần Bộ tham mưu sư đoàn và chỉ huy trưởng các cấp cũng như binh sĩ bị bắt làm tù binh hay bị chết,chỉ 1 số ?orất ít?chạy được về Kon Tum.Sư đoàn 22 tan rã. Vì thế, phòng tuyến kiên cố nhất để bảo vệ thị xã Kon Tum coi như không còn nữa.?
Tháng 4/1975, toàn thể Quân lưc VNCH đã bị "bức tử" một cách nhục nhã. Nhưng trước đó 3 năm, vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, Sư đoàn 22 Bộ binh cũng đã bị "bức tử" tại Tân Cảnh, Kontum trong trường hợp tương tợ. Tại sao lúc đó Sư đoàn 22BB đã bịbức tử và đã bị bức tử như thế nào ? Trận Tân Cảnh 1972 là một trong những trận đánh lớn nhất của Quân lực VNCH. Chúng tôi qua các chức vụ được giao phó có cơ hội biết được một số sự kiện liên hệ đến trận đánh nàỵ Chúng tôi xin ghi lại dưới đây với hy vọng giúp các sử gia sau này tìm ra được câu trả lời chính xác cho những' vấn nạn kể trên.

1. Tướng Ngô Du và Quân đoàn II :

Tháng 8/1970, Thiếu tướng Ngô Du, quyền Tư lịnh Quân đoàn IV (sau khi Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh tử trận), đã được Tổng thống Thiệu bổ nhiệm chức vụ Tư lịnh Quân đoàn II và Quân khu IỊ Tướng Ngô Du, theo nhận xét của các giới chức Hoa Kỳ, là một tướng lãnh thông minh, giỏi về tham mưu, hăng say phục vụ cho đất nước và quân độị Tuy nhiên, theo nhận xét của họ, ông không can đảm bằng Đại tướng Đỗ Cao Trí hay Trung tướng Dư Quốc Đống.

Ông đến Pleiku với vài sĩ quan thân tín của ông, lập một bộ tham mưu riêng để làm việc. Trong thời gian này, tôi (Đại tá Trịnh Tiếu) là Trưởng Phòng Nhì Quân đoàn II và Quân khu II từ thời Trung tướng Vĩnh Lộc và Lữ Lan. Đây là lần đầu tôi phục vụ dưới quyền Tướng Ngô Du mặc dù đến năm này (1970) tôi đã phục vụ trong quân đội được 17 năm. Những ngày đầu làm việc với Tướng Ngô Du, tôi phải trải qua một thời gian trắc nghiệm khả năng chuyên môn và thủ tục tham mưu theo sách vở Hoa Kỳ thật gay gọ Có những buổi ông gọi tôi lên văn phòng của ông hàng giờ để nhận xét xem tôi có hiểu những danh từ chuyên môn về tình báo theo sách vở tham mưu của quân đội Hoa Kỳ mà ông đã biết. Rất may là tôi đã tốt nghiệp khóa tình báo cao cấp tại Hoa Kỳ vào năm 1968. Tôi trả lời ông rất rõ ràng và đầy đủ những gì ông muốn trắc nghiệm tôi, lúc đó tôi có cảm tưởng ông là vị Tướng chỉ huy trưởng tham mưu Hoa Kỳ, vì ông rất giỏi về thủ tục tham mưu.

Tướng Ngô Du giữ chức vụ Tư lịnh Quân đoàn II vào một thời gian rất thuận lợi cho ông, vì trước đó 3 tháng (5/1970), Tướng Lữ Lan đã tổ chức một cuộc hành quân vượt biên qua lãnh thổ Cam-bốt đánh thẳng vào Quân khu 702 của CS tại tỉnh Ratanakirị Quân đội ta đã phá hủy toàn bộ khu hậu cần của CS tại mật khu này, ta tịch thu rất nhiều vũ khí nặng của địch, như súng phòng không, cối 120 ly, đại liên 12.7 và hỏa tiễn, v.v... Còn những mật khu nhỏ của CS trong lãnh thổ Quân khu II, Sư đoàn 22BB và Sư đoàn 23BB cùng với địa phương quân đã thanh toán. Trong thời gian này, CS rất yếu, các đơn vị chính quy của địch hầu như bị tê liệt, vì thế Tướng Ngô Du đặt hết trọng tâm vào công tác bình định và phát triển tại Quân khu IỊ Ông say mê làm việc suốt ngày đêm, vợ con ông đều để lại Saigon. Bà Ngô Du đặc biệt không bao giờ tham gia vào công việc của chồng. Có nhiều đêm, Tướng Ngô Du gọi tôi qua để thảo luận tình hình vào lúc 2, 3 giờ sáng. Ông cũng thường điện thoại các Tỉnh trưởng trong vùng cũng vào giờ nàỵ

2. Tướng Ngô Du và cố vấn John Paul Vann :

John Paul Vann, Trung tá Bộ Binh làm cố vấn Sư đoàn 7BB tại vùng IV từ năm 1962-1963. Sau đó, ông về Hoa Kỳ, xin giải ngũ để tiếp tục đại học. Đến năm 1966, ông sang VN trở lại và làm cố vấn dân sự cho các chương trình bình định và phát triển. Tướng Ngô Du rất tâm đắc với Paul Vann về kế hoạch bình định phát triển tại vùng IV trước đâỵ John Paul Vann thông minh, can đảm, hiếu thắng, kiêu căng, tự phụ và thích làm anh hùng cá nhân. Sau khi Tướng Ngô Du được bổ nhiệm Tư lịnh Quân đoàn II thì Paul Vann cũng muốn chức vụ cố vấn Quân đoàn II, mặc dù ông là dân sự. Dịp may đến với Paul Vann : Tháng 4/1971, quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại VN phải giảm quân số, từ 543,500 xuống còn 270,000 quân. Vị tướng đang làm cố vấn cho Tướng Ngô Du cũng được lịnh về Mỹ trong đợt giảm quân nàỵ Paul Vann liền nắm cơ hội hiếm có, vận động ngầm vơi Tướng Ngô Du xin Hoa Kỳ bổ nhiệm Paul Vann làm cố vấn Quân đoàn IỊ

Một điều rất khó xử cho Đại tướng Hoa Kỳ Creighton Abrams lúc bấy giờ là làm thế nào để một vị dân sự chỉ huy Hoa Kỳ còn lại tại Quân đoàn II. Trong lịch sử Hoa Kỳ, chưa bao giờ có một dân sự giữ chức vụ cấp tướng và chỉ huy các đơn vị Hoa Kỳ tại mặt trận trong thời chiến, trường hợp của Vann là một biệt lệ..

Theo ước tính của các tướng lãnh Hoa Kỳ tại VN, vào năm 1972, CS sẽ mở nhiều mặt trận lớn tại Quân đoàn I và Quân đoàn II, vì thế kế hoạch bình định và phát triển phải đặt hàng đầu trong năm 1971, để các dơn vị chính quy của ta rãnh tay đối đầu với địch vào năm 1972. Quân đoàn II cần có một cố vấn nhiều kinh nghiệm về bình định phát triển, hợp tác chặt chẽ với Tướng Ngô Du, Tư lịnh Quân đoàn. Người cố vấn đó không khác ai ngoài Paul Vann, vì ông đã xuất sắc trong chức vụ nàỵ Tháng 5/1971, Paul Vann đã được Tướng Abrams bổ nhiệm làm cố vấn Tư lịnh Quân đoàn II và Quân khu IỊ

3. Tin tình báo Hoa Kỳ :

Tháng 12/1971, tôi đang làm việc tại văn phòng, Đại tá Cahn, cố vấn tình báo của tôi, đến mời tôi qua văn phòng cố vấn Paul Vann (cũng ở tại Bộ tư lịnh Quân đoàn, gần văn phòng Tướng Ngô Du) để thảo luận tình hình. Mở đầu, ông Vann hỏi tôi :

- Đại tá có biết Sư đoà 320 của CS Bắc Việt hay không ?

Tôi trả lời :

- Sư đoàn 320 là sư đoàn nổi tiếng tại Điện Biên Phủ trong thời gian chiến tranh với Pháp vào năm 1954.

- Đại tá có biết sư đoàn này đang ở đâu không ?

- Vị trí đóng quân của các sư đoàn CS miền Bắc, Phòng Nhì của Bộ Tổng tham mưu nắm rất vững, tôi sẽ hỏi và tin cho ông biết saụ

Paul Vann nói tiếp :

- Tôi có nguồn tin chính xác, sư đoàn này đang dưỡng quân tại Thanh Hóa, trong tháng 2/1972 này sẽ di chuyển vào vùng Tam Biên Việt - Miên - Lào, và sẽ tham chiến với ta vào tháng 2/1972.

Ông nói thêm :

"Kỳ này tôi nghỉ phép Giáng sinh 15 ngày tại Hoa Kỳ. Vậy Đại tá cố gắng dùng các phương tiện về tình báo của Đại tá để xác nhận chính xác vị trí của Sư đoàn 320, sư đoàn này chuyển vào vùng Tam Biên. Tướng Ngô Du và tôi sẽ có kế hoạch tiêu diệt sư đoàn này".

Tôi cám ơn về những tin tức vừa chọ Trước đây, tôi đã có dịp đi quan sát phi trường N.K.P. của Hoa Kỳ nằm trên lãnh thổ Thái Lan, đối diện với tỉnh Thakkhet của Làọ Tại phi trường này, khi phi cơ cất cánh lên cao độ thì có thể quan sát được đèo Mụ Gia trên đường đi qua biên giới Viêt - Lào, nằm giữa Vinh và Đồng Hớị Với những phương tiện tình báo điện tử rất tối tân, Hoa Kỳ có thể biết được sự di chuyển của CS từ Bắc vào Nam, vì thế tôi tin những tin tức tình báo của Hoa Kỳ trên lãnh thổ Bắc Việt là chính xác.

4. Tung màng lưới tình báo điện tử vào tháng 1/1972 :

Tôi cho thả rất nhiều chùm điện tử (được ngụy trang như những cây nhỏ trong rừng) trên đường mòn Hồ Chí Minh để báo động khi có người đi quạ Các máy điện tử đều hướng về Mật khu 609, nơi trú quân của Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lịnh Mặt trận B3 của CS tại vùng Attopeu (Nam Lào) để dò bắt các mật điện của Bộ tư lịnh nàỵ

Hàng ngày đều có máy bay không thám của Quân đoàn và phi cơ chụp không ả?nh của Bộ Tổng tham mưu CS, chụp ảnh một khu vực rộng lớn trên đường mòn Hồ Chí Minh để theo dõi các hoạt động của địch trên các đường mòn đưa vào lãnh thổ Quân khu IỊ Các toán viễn thám, biệt kích, trinh sát và tình báo đã được thả xuống khắp nơi tại vùng ba biên giới để rình bắt các cán binh CS đi lẻ tẻ trong rừng.

Quả nhiên, đến cuối tháng 1/1972, các toán thám báo đã bắt được một cán binh CS nhỏ tuổi (khoảng 17 tuổi). Người này khai thuộc Sư đoàn 320 vừa mới hành quân đến vùng ba biên giớị Tù binh khai Sư đoàn 320 di chuyển ngày đêm, đúng một tháng từ Thanh Hóa đến vùng dương sự vừa bị bắt. Tôi liền trình lên Tướng Ngô Du và cố vấn Paul Vann các tin tức mà tù binh này đã cung cấp.

5. Kế hoạch tiêu diệt Sư đoàn 320 bằng B-52 của Tướng Ngô Du và John Paul Vann :

Tướng Ngô Du và Paul Vann không muốn các đơn vị bộ binh VNCH tiến sâu vào các mật khu kiên cố đầy rừng núi hiểm trở để tiêu diệt địch như Tướng Westmoreland đã làm trước đây trong chiếc dịch "Tìm và Diệt". Năm 1967, Lữ đoàn 173 Nhảy Dù và Sư đoàn 4 Hoa Kỳ đã thiệt mất 287 người và trên 1000 người bị thương tại Mật khu 609 của Tướng Hoàng Minh Thảo, nhưng Tướng Westmoreland tuyên bố chiến thắng tại Hoa Thịnh Đốn. Paul Vann muốn bắt chước Tướng Walton Walker trong kế hoạch đánh bại quân Bắc Triều Tiên năm 1953. Vì thế, 2 ông đã đưa ra kế hoạch dụ Sư đoàn 320 tiến sâu vào trong lãnh thổ Quân đoàn II (vùng Tân Cảnh - Dakto thuộc Kontum) để tiêu diệt toàn bộ sư đoàn thiện chiến này bằng pháo đài bay B-52. Paul Vann hứa với Tướng Ngô Du rằng ông có thể xin Đại tướng Abrams tất cả 25 "Box" của pháo đài bay B-52 mà Hoa Kỳ đang dùng để yểm trợ cho VN trên 4 vùng chiến thuật mỗi ngày, để tiêu diệt tối đa quân địch tại Quân đoàn IỊ (Mỗi "Box" B-52, bề dài 3 km, bề ngang 1 km, được thả bằng 3 chiếc B-52 chứa trên 100 quả bom đủ loại, từ 100 lbs đến 500 lbs). Sư đoàn 22BB tại Bình Định được lịnh di chuyển 2 trung đoàn và Bộ Tham mưu một của sư đoàn lên Tân Cảnh để giao chiến với Sư đoàn 320 của CS Bắc Việt. Quân đoàn dự trù CS sẽ tăng cường Sư đoàn 2 Sao Vàng cho mặt trận nàỵ Tướng Ngô Du thiết lập thêm 2 căn cứ hỏa lực là căn cứ 5 và 6 trên các sườn đồi phía Nam Tân Cảnh để yểm trợ hỏa lực pháo binh cho Sư đoàn 22BB. Toàn bộ pháo binh và chiến xa cơ hữu của sư đoàn cũg được điều động lên vùng nàỵ Ngoài ra, Quân đoàn còn tăng cường thêm Biệt Động Quân để củng cố vững chắc đồn biên phòng Ban Het, cửa ngõ đi vào lãnh thổ Quân Đoàn II và Quân khu IỊ Nhiệm vụ của Sư đoàn 22BB là dụ cho địch xuất hiện và đi vào thật sâu để Không quân Hoa Kỳ tiêu diệt bằng B-52.

Sau khi dàn binh bố trận xong, Tướng Ngô Du mời Đại tướng Cao Văn Viên lên quan sát mặt trận vào cuối tháng 2/1972. Qua một ngày đi thăm tất cả các đồn bót và công sự bố phòng của ta, trước khi ra về, Đại tướng đã bắt tay thân mật Tướng Ngô Du và Paul Vann và nói :"Tôi chưa thấy một cuộc phối trí quân sự nào chu đáo và đầy đủ như sự phối trí nàỵ Tôi tin tưởng 2 ông sẽ đập nát Sư đoàn 320 bằng hỏa lực không quân và pháo binh của VN và Hoa Kỳ. Chúc 2 ông thành công tốt đẹp".

6. Những trục trặc đáng tiếc :

Quân đoàn II có 2 sư đoàn chính quy là Sư đoàn 22BB và Sư đoàn 23BB. Sư đoàn 22BB chịu trách nhiệm lãnh thổ 5 tỉnh phía Bắc Quân đoàn II gồm Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn, Pleiku và Kontum. Sư đoàn 23BB chịu trách nhiệm lãnh thổ 7 tỉnh còn lại của Quân đoàn II là Ban Mê Thuộc, Tuyên Đức, Quảng Đức, Khánh Hoà, Cam Ranh, Ninh Thuận và Bình Thuận. Sư đoàn 22BB do Thiếu tướng Triễn làm Tư lịnh; Sư đoàn 23BB do Thiếu tướng Cảnh làm Tư lịnh. 2 vị tư lịnh này lập được nhiều chiến công trên các mặt trận tiêu diệt địch tại Quân đoàn II nhiều năm trước đâỵ

Paul Vann đề nghị Tướng Ngô Du thay thế 2 vị tư lịnh này viện lý do sau đây : Mặt trận sắp tới sẽ sôi động và gây cấn, cần phải có các tư lịnh sư đoàn năng động, trẻ tuổị 2 Tướng Triễn và Cảnh đã lớn tuổị Như tôi (Đại tá Trịnh Tiếu) đã nói trên, John Paul Vann rất năng động, hiếu thắng và kiêu căng, nên ông chỉ thích các đại tá trẻ, có can đảm làm tư lịnh sư đoàn. Tướng Ngô Du bị bất ngờ trước ý kiến này của Paul Vann, nên đã nói với Paul Vann biết rằng việc bổ nhiệm tư lịnh sư đoàn là do Tổng thống Thiệu quyết định, ông không có quyền. Hơn nữa, 2 vị tướng tư lịnh nói trên không phạm lỗi gì, nên không thể đề nghị thay đổi được. Nhưng Paul Vann nhất quyết đề nghị thay thế 2 vị tư lịnh sư đoàn. Tướng Triễn và Tướng Cảnh biết được những khó khăn của Tướng Ngô Du trong lúc mặt trận sắp bùng nổ nên 2 ông đã nói với Tướng Ngô Du rằng vì "đất nước và quân đội", 2 ông sẽ sẵn sàng làm đơn lên Tổng thống xin từ chức vì lý do sức khoẻ để Tướng Ngô Du tiện việc sắp xế. Thái độ của 2 Tướng này đã làm cho quân nhân các cấp ở trong Quân doàn khâm phục. Paul Vann đề nghị :"Đại tá Lý Tòng Bá và Đại tá Lê Minh Đảo, là các sĩ quan trẻ, năng động và có nhiều kinh nghiệm chiến trường mà tôi biết tại Quân đoàn IIỊ Tướng Ngô Du hỏi : "Quân đoàn II có nhiêu Đại tá trẻ và giỏi như Đại tá Lê Đức Đạt. Đại tá Tôn Thất Hùng, và nhiều Đại tá khác, tại sao ông không đề nghị ?". Paul Vann trả lời :"Đại ta Lê Đức Đạt mang tiếng tham nhũng tại Quân đoàn III, nên tôi không đề nghị, còn Đại tá Tôn Thất Hùng tôi chưa có cơ hội được biết khả năng của ông ta".

Tình hình quân sự tại mặt trận càng ngày càng khẩn trương, Tướng Ngô Du cần phải thỏa mãn gấp điều kiện của Paul Vann, nhưng ông chỉ thỏa mãn 50%. Ông đề nghị Tổng thống Thiệu bổ nhiệm Đại tá Lý Tòng Bá làm Tư lịnh Sư đoàn 23BB và Đại tá Lê Đức Đạt làm Tư lịnh Sư đoàn 22BB. Sở dĩ Tướng Ngô Du đề nghị Đại tá Lê Đức Đạt là vì Đại tá Đạt đang là Tư lịnh phó Sư đoàn 22BB, lên thay thế Tư lịnh sư đoàn là hợp lý. Hơn nữa, Đại tá Đạt rất thân với Đại tướng Cao Văn Viên, nên ông nghĩ rằng khi Đại tá Đạt lên làm Tư lịnh tại mặt trận thì Đại tướng Viên sẽ yểm trợ tối đa cho Đại tá Đạt. Paul Vann rất giận Tướng Ngô Du đã không đề nghị Đại tá Lê Minh Đảo trong chức vụ Tư lịnh Sư đoàn 22BB.

Đại tá Đạt làm Tư lịnh tại mặt trận Tân Cảnh được một tuần lễ thì địch bắt đầu chạm súng lẻ tẻ với ta tại nhiều nơị Đại tướng Cao Văn Viên liền tăng cường cho Đại tá Đạt một Lữ đoàn Dù. Tướng Ngô Du đã thổ lộ với tôi trên trực thăng chỉ huy của ông là Paul Vann là một người Mỹ rất hăng say muốn giúp VN, nhưng không thông cảm cho hoàn cảnh và tình cảm của người VN.

7. Mặt trận bùng nổ :

Theo tin tức khai thác được của các tù binh CS thì mặt trận sẽ bùng nổ lớn vào trung tuần tháng 3/1972, nhưng Hà Nội đã ra lịnh cho Tướng Hoàng Minh Thảo tấn công vào đầu tháng 4/1972 để phối hợp nhịp nhàng với các mặt trận khác tại Quân đoàn I (Quảng Trị) và Quân đoàn III (Bình Long). Theo tin tức tình báo mà Phòng II chúng tôi thu thập được vào giờ chót thì Tướng Hoàng Minh Thảo sẽ xử dụng Sư đoàn 2 của CS Bắc Việt đương đầu với các đơn vị của Sư đoàn 22BB để cầm chân sư đoàn này tại Tân Cảnh, còn Sư đoàn 320 của CS sẽ tiến quân vào Kontum.

Để đối phó với tình thế mới, Tướng Ngô Du đã xử dụng Lữ đoàn Dù vừa được Đại tướng Viên tăng cường, tiến chiếm dãy đồi phía Tây sông Polco và thiết lập 2 căn cứ hỏa lực mới là "Charlie" và "Delta" để ngăn chặn Sư đoàn 320 của CS. Kế hoạc phối trí này rất tốt đẹp lúc đầụ

Vào 4g sáng ngày 3/4/1972, Sư đoàn 320 tấn công biển người vào căn cứ "Delta", nhưng đã gặp sức kháng cự vô cùng mãnh liệt của các chiến sĩ Dù (Mũ đỏ). Sau nhiều đợt tấn công và pháo kích tới tấp bằng hỏa tiển 122 ly và cối 120 ly, địch chỉ chiếm được hàng rào đầu tiên vào căn cứ. Tướng Ngô Du và tham mưu lên căn cứ Võ Định trên Quốc lộ 14 để chỉ huy mặt trận. Cố vấn Paul Vann được tin này rất phấn khởi, cũng bay lên quan sát 2 căn cứ "Delta" và "Charlie". Paul Vann thấy rõ một số Cộng quân đông đảo đang bao vây quanh căn cứ "Delta" giữa hàng rào thứ nhất và thứ hai, ông liền gọi các phi tuần của Không lực Hoa Kỳ cất cánh từ Thái Lan qua oanh kích liên tục chung quanh căn cứ "Delta", ông còn gọi thêm các phi cơ Stinger và Spectre, được trang bị đặc biệt đại bác Bofors và đại liên Volcan để yểm trợ căn cứ nàỵ

Chiều ngày 3/4/1972, Cộng quân chưa chiếm dược đồn nhưng các chiến sĩ Dù đã cạn hết đạn dược, thuốc men và nước uống. Trực thăng Chinook của ta được lịnh Tướng Ngô Du tiếp tế khẩn cấp đạn dược và thuốc men vào căn cứ "Delta" để các chiến sĩ có thể bảo vệ căn cứ trong đêm naỵ Nhưng trực thăng đã bị hỏa lực phòng không của địch bắn rới ngoài đồn. Thấy thế, Paul Vann đã liều lĩnh xử dụng trực thăng nhỏ, loại mới nhất của quân đội Hoa Kỳ, là OH58 Kiowa, chỉ có 2 chỗ ngồi để tiếp tế. Đích thân ông lái máy bay còn Trung úy Huỳnh Văn Cai, người được Tướng Ngô Du chỉ định làm sĩ quan tùy viên cho Paul Vann, đạp từng thùng đạn, thùng thuốc xuống giữa căn cứ, mặc dù súng phòng không địch đủ loại 14.5 ly, 12.7 ly bắn lên tới tấp. Bất chấp mọi nguy hiểm, Paul Vann đã tiếp tế cho đơn vị Dù các chuyến đầy đủ dạn dược, mìn chiếu sáng, thuốc men và nước uống, để đơn vị này có thể cầm cự với địch quân đêm sắp tớị Chuẩn tướng Gerge Wear, Tư lịnh phó, và Đại tá Joseph Pizzi, Tham mưu trưởng của Paul Vann phải kêu lên :"Thật điên rồ !". Tướng Ngô Du phải khâm phục hành động táo bạo của Paul Vann.

Kết quả, Sư đoàn 320 của CS bị thảm bị thảm bại nặng nề tại căn cứ "Delta". Tướng Hoàng Minh Thảo phải bổ sung quân số cấp tốc cho sư đoàn này và sau đó 10 ngày (14/4/1972) lại cho mở cuộc tấn công vào căn cứ "Charlie". Lần này Lữ đoàn Dù do Trung Tá Nguyễn Đình Bảo chỉ huy bị một hỏa tiễn 122 ly trúng vào hầm chỉ huy làm Trung tá Bảo tử trận ngay giây phút đầu tiên. Những sĩ qan còn lại của Trung tá Bảo thấy địch quá đông nên đã rút khỏi căn cứ và bỏ xác Trung tá Bảo lại trong hầm.

Ngày 20/4/1972, tình hình tại Quảng Trị (Quân đoàn I) quá nặng, nên Đại tướng Viên phải rút Lữ đoàn Dù tại Kontum để tăng cường cho mặt trận Quảng Trị. Tình hình quân sự tại mặt trận Tân Cảnh bắt đầu đen tốị Tướng Ngô Du vô cùng lo lắng.

8. Không tin nhưng phải làm :

Câu chuyện sau đây do chính Trung tá Trần Hữu Công, Chánh văn phòng của Tướng Ngô Du, kể lại cho tôị Thân sinh Tướng Ngô Du là cụ Ngô Khôi, một viên chức của chính quyền thuộc địa Pháp. Đang sống tại Qui Nhơn, thấy con mình quá lo âu cho chiến trường sắp đến, nên đã vội lên Pleiku và nói với Tướng Ngô Du như sau :"Con à, cha biết trách nhiệm của con rất nặng đối với đất nước và quân đội, nhất là sinh mạng của các chiến sĩ. Vậy con phải xin ơn trên phù hộ.. Cha đề nghị con xuống Qui Nhơn, ở đó có đền Đức Thánh Trần. Dân địa phương rất tin vào sự thiêng liêng của ngàị Con mang lễ vật đến xin ngài phù hộ, cứu độ sinh mạng đồng bào và các chiến sĩ trong vùng trách nhiệm của con". Lắng nghe lời dặn của cha, Tướng Ngô Du đã vâng dạ rất lễ phép, nhưng ông không thi hành vì ông theo đạo Thiên Chúạ Tuy nhiên, Tướng Ngô Du giao nhiệm vụ này cho Trung tá Công. Khi Trung Tá Công đem lễ vật vào đền thì vị sư trụ trì nhìn thẳng vào Trung tá và nói rõ :"Ông không có niềm tin thì đến đây làm gì ? Hãy mang lễ vật rở về ". Trung tá Công giật mình hoảng sợ, đã cố trình bày lý do tại sao ông cần phải đến cầu xin Đức Thánh Trần và xin vị sư đó giúp chọ Vị sư này chấp nhận và cùng với Trung tá Công khấn váị Lễ lạc xong, nhà sư đưa cho Trung tá Công một lá bùa, bảo đốt ra tro và rải xuống những vị trí nào thấy nguy hiểm nhất. Trung tá Công đã làm đúng theo lời vị sư, ông dùng trực thăng rải xuống đồn Ben Het (giáp biên giới Lào) theo lịnh của Tướng Ngô Dụ

Ngày 28/4/1972, CS tấn công đồn này bằng 10 chiến xa T54, nhưng đã bị Paul Vann điều động 2 trực thăng võ trang Cobra trang bị hỏa tiễn chống chiến xa, được điều khiển bằng tia Laser bắn rất chính xác, tiêu diệt 5 chiến xa T54 tại chỗ, 5 chiếc còn lại phải chạy trốn qua biên giới Làọ Sau đó ta rút quân khỏi đồn này, vì vị trí quá xa và hẻo lánh.

9. Đại tá Lê Đức Đạt, Tư lịnh Sư đoàn 22BB và John Paul Vann :

Các toán biệt kích và viễn thám của ta phục kích sâu trong rừng, hằng đêm đều nghe tiếng chiến xa của CS di chuyển. Tôi báo động về sự xuất hiện của chiến xa T54 để Tướng Ngô Du và Paul Vann tìm cách đối phó. Tướng Ngô Du tin những báo cáo của tôi, nhưng Paul Vann thì hoài nghị Ông cho rằng đó chỉ là loại xe thường, hoặc là T76S, chiến xa lội nước hạng nhẹ không đáng kể của CS. Đối với Paul Vann phải trông thấy tận mắt mới tin.

Tướng Hoàng Minh Thảo thấy Lữ đoàn Dù đã rút, nên ông có kế hoạch tấn công cấp tốc để dứt điểm Sư đoàn 22BB tại Tân Cảnh bằng Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2 Sao Vàng bằng chiến xa T54 và hỏa tiễn Sagger do Liên Xô chế tạọ Chiến xa T54 và hoả tiễn Sagger là 2 loại vũ khí tối tân được sử dụng lần đầu tiên tại chiến trường Miền Nam trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. T54 là loại chiến xa bọc sắt cứng, dày, tương đương với chiến xa M48 của Hoa Kỳ. Hỏa tiễn Sagger mà ta gọi là AT3, là loại hoả tiễn chống chiến xa bằng giâỵ Giống như hỏa tiễn Tow của Mỹ, nhưng tầm xa kém (hỏa tiễn Tow tầm xa 3000; hoả tiễn Sagger 200 m).

Trong những ngày 20, 21 và 22/4/1972, các sư đoàn địch áp sát bao vây Tân Cảnh. Khi đã khám phá đầy đủ các vị trí của địch xuất hiện, tôi trình Tướng Ngô Du phải diệt địch ngay bằng B52 theo như kế hoạch trước đây mà ông và Paul Vann đã tính toán. Nhưng Paul Vann đã từ chối xử dụng B-52, vì trong thâm ý, ông không muốn yểm trợ cho Đại tá Lê Đức Đạt. Tướng Ngô Du nổi giận la to :"Ông Paul Vann, ông là bạn hay là kẻ thù của tôỉ". Paul Vann làm thinh bỏ đị Ông dùng trực thăg bay xuống mặt Bắc Bình Định.

Thời gian này, mặt trận mặt Bắc Bình Định cũng rất sôi động. Tướng Ngô Du chỉ dịnh Đại tá Trần Hiếu Đức, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 40 thuộc Sư đoàn 22BB làm Tư lịnh chiến trường, chịu trách nhiệm bảo vệ 3 quận Hoài Ân, Bồng Sơn và Tam Quang. Sư đoàn 3 Sao Vàng CS được lịnh phối hợp nhịp nhàng với các mặt trận khác nên đã tung quân bao vây quận Hoài Ân. Tại đây, Paul Vann cũng gây khó khăn cho Đại tá Đức về yểm trợ hỏa lực trong khi bị áp lực nặng nề của địch. Đại tá Đức liền ra lịnh rút bỏ quận Hoài Ân để cố thủ quận Bồng Sơn. Ngày 21/4/1972, Paul Vann bay lên Tân Cảnh thăm Đại tá Philip Kaplan, cố vấn cho Đại tá Lê Đức Đạt. Tại ầm chỉ huy, mặc dù biết Paul Vann không ưa thích, Đại tá Đạt vẫn trình bày đầy đủ chi tiết cho Paul Vann rõ. Paul Vann đã có hành dộng thiếu lịch sự, ông chỉ mạnh vào bản đồ và nói cộc lốc bằng giọng mũi :"Đại tá Đạt, ông sẽ là vị Tư lịnhSư đoàn VN đầu tiên làm mất Sư đoàn và bại trận". Đại tá Đạt rất tức giận, ông đã vứt điếu tuốc đang hút xuống đất, cười gằn và bảo Paul Vann :"Ồ, chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra".

Ngày 23/4/1972, một Tiểu đoàn Bộ Binh của Sư đoàn 22 chạm súng với địc rất sớm, không quá xa Bộ tư lịnh sư đoàn, đồng thời địc pháo kích tới tấp vào căn cứ Tân Cản bằng hỏa tiễn 122 lỵ Chiến xa bảo vệ Bộ tư lịnh của sư đoàn của Đại tá Đạt gồm 10 chiếc được điều động ra để chống lại địch, đã bị hỏa tiễn Sagger bắn cháy mất 8 chiếc, còn lại 2 chiếc thì bị đứt xích. Người bạn rất thân với tôi trước đây tại Qui Nhơn là Thiếu tá Như cùng Đại úy Kenneth Yonan, 23 tuổi, xuất thân từ trường Wespoint, đã leo lên tháp nước cao tại căn cứ, xử dụng đại liên 12.7 ly để tấn công địch, cũng bị hỏa tiễn Sagger bắn, bồn nước nổ tung và cả hai người chết tại chỗ. Các đơn vị của ta chạm súng suốt ngày với địch tại Tân Cảnh. Tướng Ngô Du sử dụng tối đa hỏa lực không quân để yểm trợ cho Đại tá Đạt.

Khoảng 10g tối ngày 23/4/1972, quận Dakto cách Tân Cảnh 2 km về phía Bắc, do Địa Pương Quân và Nghĩa Quân người Thượng bảo vệ, đã quan sát thấy đèn của 11 chiến xa T54 đang tiến về hướng quận. Quân đoàn liền điều động C-130 Spectre lên thả trái sáng. Chiến sĩ ta trong các hầm chiến đấu cá nhân đã thấy tất cả 15 chiếc chiến xa T54 của địch xếp hàng dọc chạy tiến về Tân Cảnh. Phi cơ C-130 tác xạ để ngăn kông cho chiến xa địch tiến, nhưng vô hiệu quả, vì loại phi cơ này không có loại đạn chống chiến xạ

Khoảng 2g sáng ngày 24/4/1972, 15 chiến xa địch đã bao vây căn cứ Tân Cản. Đại tá Philip Kaplan yêu cầu Paul Vann lên cứu ông vào lúc 4g khi trời chưa sáng tại bãi đáp rất nhỏ bên cạnh bãi mìn. Đại tá Kaplan cho Đại tá Đạt biết và yêu cầu cùng lên trực thăng cấp cứu của Paul Vann nhưng Đại tá Đạt từ chốị Đại tá Đạt biết tình hình rất bi đát, địch sẽ tràn ngập căn cứ vào khoảng 7g sáng, nhưng ông không yêu cầu Tướng Ngô Du lên cứu như Đại tá Kaplan đã làm. Ông ra lịnh cho tất cả các sĩ quan và binh sĩ còn lại tìm cách thoát ra ngoài trước khi trời sáng. Đại tá Tôn Thất Hùng đã thoát được nưng bị thương; ông chạy vào một buông Thượng gần đó. Nhờ nói được tiếng Thượng rất rành, nên đã được một gia đình người Thượng che dấu và bảo vệ ông, đưa ông về đến thị xã Kontum sau 15 ngày đi loanh quanh trong rừng. 3 tháng sau, ông cùng gia đình lên Pleiku để đền ơn cho gia đình người Thượng này đang sống trong trại tị nạn.

Đại tá Lê Đức Đạt đã ở lại trong căn cứ Tân Cảnh. Theo lời Đại tá Kaplan, có lẽ Đại tá Đạt đã tự sát sau khi đồn Tân Cảnh bị Cộng quân tràn ngập. Đó là ngày 24/4/1972, lúc 10g sáng.

Ai cứu Kontum trong cơn hấp hối ?

Sau khi mặt trận Tân Cản bị thảm bại, Tư lịnh Sư đoàn 22BB chết mất xác tại mặt trận, thành pần Bộ tham mưu sư đoàn và chỉ huy trưởng các cấp cũng như binh sĩ bị bắt làm tù binh hay bị chết, chỉ một số rất ít chạy được về Kontum. Sư đoàn 22B tan rã. Vì thế, phòng tuyến kiên cố nhất để bảo vệ thị xã Kontum coi như không còn nữạ Toà hành chánh tỉnh Kontum với dân số 25,000 người sống trong thị xã đã hoang mang giao động cao độ, chuẩn bị tản cự

Tướng Ngô Du rất khổ tâm trong thời gian nàỵ Ông bị xúc động khi được tin Đại tá Lê Đức Đạt tử trận. Những hy vọng thắng trận vinh quang mà ông ấp ủ trong lòng trên 3 tháng nay đã tiêu tan và biến thành thảm bại cay đắng vì có những bất đồng giữa ông và Paul Vann, và thành kiến không tốt đẹp của Paul Vann đối với Đại tá Lê Đức Đạt. Do đó, bịnh tim của ông bị tái phát. Thông thường chiến thuật Cộng quân là thừa thắng xông lên. Do đó, chúng tôi không loại bỏ giả thuyết Cộng quân sẽ đánh Kontum, vì nơi đây chỉ có Địa Phương Quân và Nghĩa Quân trấn giữ. Tướng Ngô Du phải cho tái phối trí lực lượng, điều động 2 Trung đoàn Bộ Binh từ Ban Mê Thuột lên cố thủ Kontum, chỉ để lại một Trung đoàn phòng thủ 7 tỉnh phía Nam của Quân đoàn.

Đại tá Lý Tòng Bá, Tư lịnh Sư đoàn 23BB, được chỉ định làm Tư lịnh mặt trận Kontum. Tướng Ngô Du chỉ mong Tướng Hoàng Minh Thảo hoãn tấn công vào Kontum 5 ngày thôi, thì ông và Đại tá Lý Tòng Bá đủ thời gian phối trí quân và đào công sự vững chắc phòng thủ thị xã nàỵ

Đường chuyển quân và tiếp vận chính giữa Pleiku - Kontum là Quốc lộ 14 rất yên tĩnh trong 3 ngày đầu, đến ngày thứ tư thì Cộng quân chiếm và đóng chốt đèo Chu Pao, giao thông bị gián đoạn. Rất may khi địch chiếm đèo Chu Pao thì ta vừa chuyển quân xong. Cộng quân không tiến quân tiếp vào Kontum sau 5 ngày như Tướng Ngô Du dựtính mà đến 20 ngày saụ Như vậy, chúng ta có thể tin rằng Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2 của Cộng quân đã bị tổn thất khá nặng trong các cuộc chạm súng trước đây với Lữ đoàn Dù và Sư đoàn 22BB. Các chiến xa T54 của địch cũng bị tiêu hao một số tại phi trường Dakto do Không quân VN bắn cháy và một số tại đồn Ben Het do Cobra của Hoa Kỳ phá hủỵ Vì thế, Tướng Hoàng Minh Thảo cần có thời gian củng cố lại đơn vị của ông chớ không thể mở cuộc tấn công mới ngay được.

Phối trí quân xong tại Kontum, Tướng Ngô Du ngã bịnh nặng, không ăn, không ngũ. Tôi thấy ông ngày đêm ôm tim và nhăn nhó. Trước đó một ngày, ông đã điện thoại Tổng thống Thiệu và yêu cầu Tổng thống đề cử người thay thế ông. Tại Saigon, TT Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên tham khảo ý kiến với nhiều vị Trung tướng, nhưng không ông nào chịu lên làm Tư lịnh Quân đoàn II, vì biết tình hình rất đen tối tại đâỵ Cuối cùng, TT Thiệu chọn Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn, vì Tướng Toàn đồng ý tử thủ tại Kontum.

Đại tá Lý Tòng Bá, người mà Paul Vann khẩn thiết yêu cầu Tướng Ngô Du đề nghị TT Thiệu đề cử làm Tư lịnh Sư đoàn 23BB, nay đang nằm tại mặt trận chính. Paul Vann làm việc tại Kontum với Đại tá Lý Tòng Bá trong lúc chưa có cố vấn của Sư đoàn. Paul Vann nhớ đến Đại tá Rhotenberry là người làm cố vấn cho Đại tá Bá tại Bình Dương. Khi đưa Đại tá Rhotenberry đến Kontum, Paul Vann nói :"Ông và tôi phải hết sức yểm trợ Đại tá Bá vì tôi đã hứa với Đại tướng Abrams là không để mất Kontum. Nếu mất Kontum, thì Kissinger, Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ tại Hoà đàm Paris, sẽ gặp nhiều khó khăn".

+ Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn và Quân đoàn II : Đầu tháng 5/1972, TT Thiệu bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn giữ chức vụ Tư lịnh Quân đoàn II thay thế Trung tướng Ngô Dụ Trước khi nhận nhiệm vụ, Tướng Toàn trình diện Đại tướng Cao Văn Viên và yêu cầu Đại tướng thỏa mãn cho ông về những thay đổi nhân sự. Ông cho rằng Quân đoàn II thất trận là do Bộ Tham mưu Quân đoàn thiếu khả năng. Đến Pleiku, việc đầu tiên của Tướng Toàn là tập hợp các sĩ quan Quân đoàn lại và xỉ vã nặng lờị Ông chỉ trích Bộ Tham mưu của Quân đoàn yếu kém, thiếu khả năng tham mưu nên tình hình Quân đoàn mới đen tối như hiện naỵ Ông giận dữ và tỏ ý muốn đưa hết các sĩ quan trong Bộ Tham mưu ra tuyến đầu với các đơn vị tiểu đoàn và trung đoàn để chiến đấụ

Sau khi nghe tường trình về tình hình, ông chỉ thị Đại tá Vĩnh Phúc, Trưởng phòng IV Quân đoàn, ra làm việc tại phi trường Kontum tiếp nhận vũ khí và đạn dược từ Saigon không vận rạ Thời gian này phi trường Kontum luôn luôn bị pháo kíc bằng hỏa tiễn 122 ly, nên có một vài phi cơ C-130 tiếp vận của ta đã bị trúng đạn bốc cháỵ

Tướng Toàn kêu Trưởng phòng II cùng với ông lên Kontum. Tôi liền cầm bản đồ theo ông lên trực thăng của Tư lịnh. Trên trực thăng chỉ huỵ chỉ có ông và tôi cùng sĩ quan Đại úy tùy viên. Tôi thấy Tướng Toàn rất lo âu, mồ hôi nhễ nhại, mặc dù khí hậu Cao nguyên không nóng. Ông hỏi tôi : "Anh cho tôi biết, chúng ta có đủ khả năng giữ vững được Kontum không ?". Thời gian bay lên Kontum chỉ 20' nên tôi phải trả lời ông rất ngắn gọn. Căn cứ theo các chuyện đã xảy ra tại mặt trận Tân Cảnh, tôi tính toán kỹ và nói : "Thưa Thiếu tướng, ta có thể giữ được, mặc dù quân địch có đến 3 sư đoàn (Sư đoàn 320, Sư đoàn 2 và Sư đoàn 968), ta chỉ có một (Sư đoàn 23BB). Điều kiện là Thiếu tướng và cố vấn Paul Vann phải thảo luận với nhau không có gì trục trặc xảy rạ Đại tá Lý Tòng Bá là người quen rất thân với Paul Vann đang ở lại mặt trận nên sẽ được Paul Vann giúp đỡ tận tình". Sau này tôi mới biết câu trả lời của tôi đã trùng hợp với lời khuyên của Đại tướng Cao Văn Viên trước khi Tướng Toàn đi nhận chức :"Ông lên trên đó phải chiều cố vấn Paul Vann mới xong được".

Đến Kontum, Đại tá Lý Tòng Bá và Đại tá Rhotenberry hướng dẫn Tướng Toàn thăm tuyến đầu bảo vệ Kontum về phía Bắc 5 km. Tại đây, các sĩ quan các cấp và các binh sĩ Sư đoàn 23BB, mỗi người một chiếc xẻng cá nhân, đang hăng say đào công sự phòng thủ. Tướng Toàn vui vẻ an ủi, khích lệ và nhắc nhủ mọi người phải cố gắng chuẩn bị chiến đấu, quyết tâm tử thủ, không để CS chiếm một tấc đất nào tại Kontum. Ông chỉ thị cho Đại tá Lý Tòng Bá và các Trung đoàn trưởng, Tiểu đoàn trưởng phải chọn một số binh sĩ can đảm để thành lập ngay các tổ chống chiến xa bằng súng M72 Law, cho các binh sĩ này thực tập tác xạ vào các chiến xa hư của ta vào ngày kế để họ tin tưởng rằng vũ khí M72 Law của Mỹ có thể tiêu diệt được các chiến xa T54 của Cộng quân. Ông cho Đại tá Bá biết ông sẽ cho không vận trung đoàn còn lại của Sư đoàn 23BB tại Ban Mê Thuột lên Kontum để Đại tá Bá có đầy đủ quân số và thống nhất chỉ huỵ Về hành chánh, Tướng Toàn chỉ thị Đại tá Nguyễn Bá Long tự Thìn, Tỉnh trưởng Kontum, phải lo trấn an và ủy lạo dân, làm cho họ tin tuởng vào chính phủ và quân độị Khuyến khích dân chúng phải hết sức ủng hộ Quân đoàn để tử thủ. Trở về Pleiku, Tướng Toàn bàn ngay với cố vấn Paul Vann nhiều giờ về kế hoạch bảo vệ Kontum. Sau đó, ông chỉ thị Đại tá Hoàng, Tham mưu phó Chiến Tranh Chính trị Quân đoàn xử dụng phi cơ C47 của ông đi Phan Thiết và Saigon mua cá tươi và xoài tượng đem lên phân phát cho các binh sĩ tại Kontum để bữa ăn có thêm chất tươị

Về hành quân, Tướng Toàn chỉ thị Trung tá Nguyễn Đức Dung chỉ huy Lữ đoàn 2 Thiết Giáp với một Liên đoàn Biệt Động Quân tăng cường phải đem các chiến xa lên Kontum bằng mọi giá. Ông nói rằng không cần thanh toán các lực lượng địch chốt tại đèo Chu Pao mất thời giờ, phải mở Quốc lộ 14bis vònh quanh sau lưng địch để đi; ông chỉ thị trong 3 ngày phải thực hiện xong cuộc hành quân nàỵ Cuộc hành quân của Trung tá Dung gặp rất nhiều khó khăn vì sức kháng cự của Cộng quân rất mãnh liệt. Nhưng với quyết tâm thi hành đúng chỉ thị của Tư lịnh Quân đoàn, Lữ đoàn 2 Thiết Giáp và Biệt Động Quân đã thanh toán và đè bẹp các lực lượng của Cộng quân, mở được Quốc lộ 14bis quanh đèo Chu Pao đem nhiều chiến xa lên mặt trận Kontum đúng ngày N+3. Đoàn xe thiết giáp và Biệt Động Quân qua cầu Dak-Bla tiến vào Kontum, đồng bào trong thị xã chạy ra xem rất đông, nồng nhiệt chào mừng và hoan hô vang trờị Đây là chuyện chưa từng có trước đâỵ Tướng Toàn gắn cấp bậc Đại tá tại mặt trận cho Trung tá Nguyễn Đức Dung ở đầu cầu Dak-Bla.

Tính đến ngày thứ ba, kể từ ngày nhận chức, Tướng Toàn đã tăng cường cho Đại tá Lý Tòng Bá Bá một Trung đoàn Bộ Binh, một Liên đoàn Biệt Động Quân, trên 20 chiếc xa thiết giáp, nhiều đạn dược, nguyên liệu, và thuốc men mới được không vận từ Saigon lên. Số đạn dược và nhiên liệu này đủ để bảo đảm cho các đơn vị tại Kontum phòng thủ trong thời gian một tháng. Tình hình Kontum bắt đầu sôi động. Các hỏa tiễn 122 ly của địch cứ đều đều rót vào các căn cứ quân sự và phi trường Kontum làm tinh thần dân và quân luôn luôn bị căng thẳng.

Về tình báo, Tướng Toàn chỉ thị tôi phải báo cáo cho ông biết trước ngày giờ Cộng quân tấn công vào Kontum và làm gấp kế hoạc trải thãm B52 phía Bắc tuyến đầu của ta để ông và Paul Vann áp dụng kế hoạch khi địch tấn công. Hôm sau, tôi trình lên ông kế hoạch 100 "Box" B52 (mỗi Box chiều dài 3 km, chiều ngang 1 km) chận đứng các mũi tấn công và tiêu diệt các ổ phòng không của địch, căn cứ vào địa hình, địa vật và tin tức bằng không ảnh. Tướng Toàn và Paul Vann đã chấp thuận hoàn toàn ý kiến của tôị

+ Tướng Hoàng Minh Thảo của CS bị thảm bại trong đợt đầu tấn công vào Kontum :

Tướng Toàn rất chú trọng đến vai trò tình báọ Lần đầu tiên trong binh nghiệp tôi phục vụ dưới quyền ông. Sau vài ngày làm việc, tôi thấy ông có vẻ có phần tin tưởng nơi tôi, nên tôi càng lo và cố sứ chu toàn nhiệm vụ. Tôi đốc thúc các phần hành chuyên môn, nhất là các toán tình báo kỹ thuật, ngày đêm bám sát địch, không được chểnh mảng trong nhiệm vụ giao phó.

Ngày 13/5/72, nhân viên kỹ thuật báo cáo đã bắt được mật điện của B3. Trong mật điện này, Bộ tư lịnh B3 CS đã ra lịnh như sau :"Mũi tấn công hướng Bắc - Sư đoàn 2 - Stop - Tăng cường mỗi sư đoàn 10 T54 - Stop - Ngày giờ tấn công hướng Tây Bắc Sư đoàn 320 - Stop - Ngày giờ tấn công 05g00 ngày 14/5/72 - Stop". Tôi vội vàng trình ngay tin này cho Tướng Toàn. Đọc xong mật điện, ông liền bảo tôi theo ông lên Kontum.

Trong giao thông của tuyến đầu, Tướng Toàn và Đại tá Lý Tòng Bá đi từng hầm để nhắn nhủ từng binh sĩ hãy can đảm nằm yên tại chỗ khi địch tấn công. Tướng Toàn nói :"Khi địch nổ súng thì sẽ có B52 thả ngay trên đầu địch. Các em phải chịu khó bịt tai lại và hả miệng để bớt áp lực của bom nổ". Áp lực của bom sẽ rất lớn đối với các binh sĩ của ta vì theo kế hoạch đã vạch sẵn, B52 sẽ thả bom sát quân ta, ở mức an toàn là 500m thay vì 1000m như thường lệ..

Tại hầm chỉ huy Sư đoàn 23, Tướng Toàn, Paul Vann, Đại tá Bá, Đại tá Rhotenberry nghiên cứu trên bản đồ và thảo luận vị trí từng Box B52 sẽ dội bom xuống và thời gian dộị Paul Vann gọi máy yêu cầu Trung tướng chỉ huy Không quân chiến lược Hoa Kỳ (Strategic Air Command) tại Thái Lan để thảo luận với ông về thể tức chuyển đổi các Box B52 cho thật hợp với tình hình mặt trận dưới đất. Paul Vann cũng điện đàm với Đại tướng Abrams tại Saigon khẩn khoản cho ông được xử dụng hết tất cả 25 Box B52 dành để yểm trợ cho 4 vùng chiến thuật trong ngày 14/5/72, để Quân đoàn II có thể tiêu địch tối đạ Đề nghị này được Đại tướng Abrams chấp thuận. Đêm 13 rạng 14/2/72, Tướng Toàn, Paul Vann và 2 Bộ tham mưu Việt - Mỹ đều thức suốt đêm theo dõi tình hình từng phút và hồi hộp chờ đợị Phi đoàn A37 của Sư đoàn 6 Không quân tại Pleiku túc trực 100%. Chiếc trực thăng của Chuẩn tướng John Hill, Tư lịnh phó của Paul Vann cấp tốc gắn 2 đại liên 12.7 ly bên hông và các xạ thủ luôn túc trực ở trực tăng. Tướng John Hill đang nghĩ dưỡng sức ở Cam Ranh để chờ ngày về nước, cũng đã tình nguyện ở lại để giúp Paul Vann đối phó với CS tại mặt trận Kontum. Nhiều cặp phi cơ trực thăng võ trang Cobra của Hoa Kỳ đã ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu kể từ 12g đêm. 2 đoàn B52 cất cánh từ đảo Guam và Sattahip ở Thái Lan đã cất cánh và xuất hiện trên bầu trời biển Thái Bình Dương. Tất cả hồi hộp cờ đợi giờ G (tức 5g00 sáng).

Kém 5 phút đến 5g, Đại tá Bá báo cáo trên máy rất lớn, địch đã bắt đầu nổ súng. Trực thăng của Chuẩn tướng John Hill với 2 đại liên 12.7 ly cất cánh đầu tiên, tiếp theo là trực thăng của Paul Vann và sau cùng là trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn bay về hướng Kontum trong sương mù. Paul Vann ra lịnh cho phi hành đoàn B52 vào vùng đúng 5g ngày 14/2/72. Tất cả 25 Box B52 đồng loạt bấm nút thả xuống trên 3000 quả bom đủ loại, từ 100 lbs đến 500 lbs, trên đầu Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2 của Cộng quân, tiếng nổ long trời lỡ đất, khói bụi bay mịt mù. Diện tích trải thảm của các B52 là 75 km2. Tiếp theo từng đoàn A37 và AD6 của Sư đoàn 6 Không quân VNCH bay vào mục tiêu tiếp tục bắn vào các chiến xa và các ổ phòng không địch. Vì bị áp lực quá mạnh của bom, nhiều đoàn quân của Cộng quân bị ngất ngư, đã hốt hoảng chạy lui về phía sau, lại bị trực thăg của Chuẩn tướng John Hill và trực thăng võ trang Cobra bọc hậu thanh toán rất nhiềụ

Tại tuyến đầu, 9 chiến xa T54 của địch nằm ngoài khu ném bom của B52 đã hốt hoảng lao vào phía ta và đã bị các chiến xa của ta bắn cháy mất 6 chiếc. 3 chiếc còn lại bỏ chạy, nhưng vì các chiến binh của Cộng quân điều khiển các xe này đã bị sức dội quá mạnh của B52, không còn chủ động được, nên các binh sĩ của ta đã nhào ra bắt sống. Một giờ sau, Tướng Toàn và Paul Vann bay vào vùng thả bom B52 để kiểm soát tì thấy rất nhiều xác của Cộng quân trong các hố bom, không thể đếm hết được. Paul Vann thấy một số Cộng quân đang lảo đảo đi trong các hố bom B52, đã hạ thấp trực thăng xuống cho Trung úy Huỳnh Văn Cai, Trung úy tùy viên, dùng M16 thanh toán.

Không quân ta và Không quân Hoa Kỳ tiếp tục thanh toán tàn quân và các ổ phòng không địch trong vùng suốt ngày 14/5/72. Trong các cuộc oanh kích này, Không quân ta bị thiệt mất một AD6 do Thiếu tá Phạm Thặng làm hoa tiêu. Phòng không địch đã bắn trúng chiếc phi cơ do Thiếu tá Thặng lái khiến ông bị tử thương và chiếc phi cơ rớt ở phía Nam Kontum (Thiếu tá Phạm Thặng là anh ruột của Đại úy Phạm Thục, hoa tiêu trực thăng, là em rể tôi).

Kế hoạch trải thảm B52 đã dứt điểm cuộc tấn công đầu tiên của 2 sư đoàn Cộng quân vào Kontum. Trong trận này, chắc chắn Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lịnh mặt trận B3, đã phải ôm hận vì đã gặp phải một đối thủ nguy hiểm là Tướng Toàn, một vị tướng có nhiều kinh nghiệm khi điều khiển chiến trường. Theo ước tính về phía Hoa Kỳ, trong cuộc tấn công này, địch đã thiệt mất 1000 người và 20 chiến xa T54. Quân ta đã thắng trận đầụ Các chiến xa T54 của địch mà ta đã bắt sống được mang về triển lãm tại Saigon. Sau trận đánh này, các binh sĩ VNCH đã đặt tên cho Paul Vann là "ông B52".

Cuối cùng cộng sản đại bại tại Kontum

Thị xã Kontum được xây cất bên cạnh bờ sông Dak-Bla nằm về hướng Bắc. Sông Dakbla uốn quanh như con rồng rất đẹp và cảnh 2 bên bờ sông rất thơ mộng, nước sông chảy mạnh từ hướng Đông qua hướng Tâỵ Dân số Kontum độ 25,000 người, cả Kinh lẫn Thượng, đa số sinh sống trong thị xã và các vùng phụ cận thị xã. Khoảng 70% dân theo đạo Thiên Chúạ Vì thế, Toà Giám mục giáo phận Kontum (gồm Kontum và Pleiku) đã được đặt ở số 44 Trần Hưng Đạo, Kontum, do Đức cha Seitz, một giáo sĩ thừa sai người Pháp làm Giám mục. Ông nói và viết thông thạo cả tiếng Việt lẫn tiếng Thượng. Ông đã bị Cộng quân trục xuất sau 30/4/75.

Kế hoạch phòng thủ Kontum được giao cho Sư đoàn 23BB của Đại tá Lý Tòng Bá. Sư đoàn này có nhiệm vụ đảm trách 3 mặt nặng nhất của tỉnh là Đông, Tây và Bắc. Hướng Nam có phần nhẹ hơn nhờ có chướng ngại Vật của thiên nhiên là con sông Dakbla, nên giao cho Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đảm nhiệm.

Sự thảm bại cay đắng trong trận ngày 14/5/72, Tướng Hoàng Minh Thảo và các Cộng quân đã phải kiểm thảo rất chu đáo để rút kin nghiệm. Một câu hỏi quan trọng đã được Tướng Hoàng Minh Thảo đặt ra : Tại sao đối phương biết rõ được lực lượng và ngày giờ Cộng quân sẽ tấn công để xử dụng B52 ồ ạt ? Tướng Thảo đoán rằng có thể kỹ thuật rà bắt điện đài của đối phương rất cao nên đã bắt được tất cả những mật lịnh mà Bộ tư lịnh B3 của ông đã đánh đi.

Rút kinh nghiệm, ông không xử dụng điện đài nữa mà xử dùng điện thoại và người để liên lạc. Vì thế, sau ngày 14/5/72, cả toán kỹ thuật của Quân đoàn II đều ngạc nhiên không thấy địch lên máy nữa. Tôi làm phúc trình lên Tướng Toàn về sự việc này và ước tính địch còn khả năng tấn công ta vài đợt nữa trong những ngày sắp tới. Quân đoàn nên cẩn thận, không nên khinh địch. Tôi đã liên lạc với ông Archer, Trưởng toán Tình báo của Toà Đại sứ Hoa Kỳ và mượn được 2 máy nghe lén điện thoại. Loại máy này rất tối tân, chỉ nhỏ bằng nắm tay, ta chỉ cần đâm vào dây điện thoại của địch bằng một cây kim rồi cắm máy chui vào bụi cây cách nơi cắm vài trăm thước cũng nghe được các cuộc điện đàm của địch. Tôi liền cho các biệt kích lọt vào các khu hậu cần của địch, xử dụng máy điện thám nghe lén điện thoại của địch, nhưng chưa ghi nhận được điều gì quan trọng.

+ Vinh nhục trong ngành tình báo :

Ngày 20/5/72, Thiếu tá Hưng, Trưởng phòng II Tiểu khu Kontum, báo cho tôi biết một tin động trời là đặc công CS đã vượt qua sông tiến vào chiếm được gần nửa thành phố. Bị bất ngờ, tôi hoảng hốt chạy vội vào Trung tâm hành quân của Quân đoàn để tìm hiểu thật hự Đại tá Long, Tỉnh trưởng Kontum, cho tôi biết độ 2 tiểu đoàn đặc công của Cộng quân đã lợi dụng đêm tối có nhiều sương mù, lội qua sông và tiến chiếm được phi trường, kho đạn và khu Tòa Giám mục trong thành phố. Cuộc giao tranh giữa Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của Tiểu khu với đặc công của địch rất dữ dộị Khu dân chúng và khu Tòa Hành chánh chưa có địch xuất hiện.

Đúng 5g sáng, Tướng Toàn được báo cáo về cuộc tấn công này, ông đã hối hả chạy vào Quân đoàn. Vừa gặp tôi ông liền quát tháo om sòm và dọa đưa tôi ra Tòa án Quân sự. Ông hỏi :"Tại sao để cho đặc công Cộng quân vào chiếm thị xã Kontum mà không hay biết ?". Tôi nghiêm người đứng chịu trận. Biết nói gì bây giờ ? Binh sĩ ta hời hợt, mới thắng một trận mà đã khinh dịch. Cấp chỉ huy của ta thiếu đôn đốc và kiểm soát. Cộng quân rất tinh ranh, chúng biết được yếu điểm của ta nên đã lợi dụng địa hình địa vật xử dụng đặc công len lỏi vào thị xã bằng hướng phòng thủ yếu nhất.

Lúc 6g sáng ngày 20/5/72, Tướng Toàn và tôi bay lên Kontum. Trên trực thăng, tôi không dám nhìn thẳng vào ông vì biết ông đang nóng giận và lo âụ Đến Bộ Chỉ huy của Đại tá Lý Tòng Bá, chúng tôi thấy nơi đây đang bị pháo kích nên trực thăng phải tìm cách lượn quanh tránh đạn mới đáp xuống được. Trực thăng vừa đáp xuống thì chúng tôi thấy Đại tá Bá và Bộ Tham mưu của ông đang hốt hoảng chạy ra khỏi hầm chỉ huy và hình như đang muốn di chuyển đi nơi khác. Mặc dù tiếng đại liên và AK47 nổ chát chúa rất gần, Tướng Toàn vẫn bình tĩnh nói lớn với Đại tá Bá :"Tử thủ, ông và tôi không chết nơi đây đâu ! Không chạy đi đâu hết". Ông yêu cầu Đại tá Bá cho biết tình hình như thế nàọ Đại tá Bá chỉ vào khu nghĩa địa của thành phố cách hầm chỉ huy của ông độ 300 m và cho biết một đại đội đặc công của địch đang cố thủ ở đó. Ông đã xử dụng một đại đội trinh sát tinh nhuệ nhất của sư đoàn vào nằm chiếm lại khu vực này nhưng gặp sự kháng cự rất mãnh liệt, 2 chiến xa bị cháy, đại đội trinh sát không tiến lên được.

Tướng Toàn bảo đưa máy cho ông chỉ huy và chỉ thị trong máy :

- Tư lịnh Quân đoàn ra lịnh ! Bằng mọi giá phải thanh toán sạch đặc công Cộng quân đó. Tôi đang đứng đằng sau các anh và chờ kết quả".

Bên kia đầu máy trả lời :

- Nghe lịnh ! Tin Mặt Trời rõ ! Tôi đang thi hành !

Tiếng đại lên trên 3 chiến xa đang nổ dòn trong khu nghĩa địa. Trong khi đặc công tràn vào thành phố, Chuẩn tướng John Hill dùng trực thăng có gắn 2 khẩu đại liên 12.7 ly bay quan sát vùng Võ Định (Bắc Kontum 15 km) và thấy nhiều đơn vị Cộng quân di chuyển về hướng Nam, ông liền tác xạ liên tục và báo cho Paul Vann biết để xử dụng B52. Ngay hôm đó, Paul Vann đã xử dụng trên 10 Box B52 để làm giảm áp lực của địch. Thiếu Tướng Toàn quan sát mặt trận và chỉ thị thêm cho Đại tá Bá đề phòng tuyến đầu vì địch có ý định tấn công phía trước trong khi ta đang bấn loạn bên trong.

Sau một giờ đánh nhau ác liệt với đặc công của địch, Đại đội trưởng Trinh Sát báo cáo trong máy :

- Trình Mặt Trời ! Tôi đã thanh toán xong đặc công tại khu nghĩa địa.

Tướng Toàn đáp :

- Tốt ! Tôi sẽ thưởng công cho anh !

Đại tá Nguyễn Bá Long tự Thìn, Tỉn trưởng Kontum, chạy qua trình diện Tướng Toàn đã bị xỉ vả một trận tơi bời. Sau đó, Tướng Toàn bảo Đại tá Long cùng ông lên xe chạy thẳng vào khu Tòa Giám mục và nói: "Có gì ông chết tôi cũng chết". Đại tá Long hướng dẫn Tướng Toàn đến quan sát các ổ kháng cự của đặc công Cộng quân trong các tòa nhà được xây cất kiên cố từ thời Pháp trong khu Tòa Giám mục, đang chống trả với Địa Phương Quân. Tướng Toàn liền tăng cường cho Đại tá Long 5 chiến xa, một Liên doàn Biệt Động Quân, và chỉ thị nếu cần phải bắn sập một vài tòa nhà trong khu Tòa Giám mục để tiêu diệt đặc công thì cứ làm, sau này chính phủ sẽ xây cất lại, nhưng phải cố gắng đừng gây thiệt hại về nhân mạng cho dân chúng đang ở trong khụ 2 ngày sau, Đại tá Bá và Đại tá Long mới thanh toán sạch sẽ các lực lượng đặc công Cộng quân trong thành phố. Bên ta thiệt hại nhẹ..

+ Anh hùng và mỹ nhân :

Gia đình Đại tá Long được đưa về Saigon khi Kontum bắt đầu sôi động. Sau vụ đặc công xâm nhập vào thành phố, Đại tá Long và tất cả các sĩ quan mật khu kiểm soát chặt chẽ các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân hơn. Hàng đêm, ông và một số sĩ quan đi khắp nơi trong thành phố để đôn đốc Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ tăng cường canh phòng cẩn mật.

Như mọi người trog thị xã Kontum đều biết, tại đây có cô gái lai Pháp rất xinh đẹp và dễ tương tên Lucie, cô là chủ một tiệm sách nằm giữa thị xã, các sĩ quan trẻ tuổi thường đến mua sách và trò chuyện đùa giỡn với cộ Đại tá Long, Tỉnh trưởng Kontum, khi đi kiểm soát vùng cũng vài lần ghé lại tiệm sách này để "thăm dân cho biết sự tình". Không biết ai đã báo cáo lại chuyện này với bà Long tại Saigon, bà liền cấp tốc tìm phương tiện bay lên Kontum này và chạy vào Tòa Hành chánh tỉnh la lối om sòm, đập nát kính chiếc xe Toyota của Đại tá Tỉnh trưởng. Bị mất mặt, Đại tá Long lôi bà về tư thất đánh cho một trận và bắt bà phải trở về lại Saigon.

Năm 1970, khi Đại tá Long làm Tỉnh trưởng tỉnh Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà Lạt, bà Thủ tướng Khiêm thường hay lên đây nghỉ mát, nên bà Long có dịp tiếp xúc và chuyện trò với bà Khiêm. Nhờ sự quen biết đó nên khi về tới Saigon, bà Long đã chạy ngay vào nhà bà Khiêm khóc lóc, vạch lưng vạch ngực cho bà Khiêm xem các dấu vết đánh của Đại tá Long. Phụ nữ thường hay bênh nhau, nên bà Khiêm đã chở bà Long sang gặp bà Thiệu để trình bày mọi chuyện.

Nghe bà Long kể lể, bà Thiệu xúc động liền yêu cầu TT Thiệu cách chức Đại tá Long. Hôm sau, Quân đoàn nhận được mật điện của TT Thiệu chỉ thị Tư lịnh Quân đoàn II đề cử một sĩ quan khác giữ chức vụ Tỉnh trưởng Kontum thay. thế Đại tá Nguyễn Bá Long trong 24 giờ. Lý do sẽ cho biết sau.

Trong trận chiến Kontum, Đại tá Long là người có chiến công. Trực thăng chỉ huy của Đại tá Long đã một lần bị địch bắn rơi, nhưng rất may ông không chết và được cứu thoát. Tôi được biết Đại tá Long đã cưới bà này làm vợ trong một hoàn cảnh đặc biệt, vì lòng nhân đạo hơn là vì tình. Nhưng nay, vì một sự ghen tương nhãm nhí của bà vợ và sự nóng giận không kềm chế của Đại tá Long đã làm cho ông thân bại danh liệt. Năm 1974, Đại tá Long bị giải ngũ. Sau 30/4/75, Đại tá Long phải đi học tập cải tạo và bị chuyển ra Bắc. Ông là Đại tá Quân lực VNCH đầu tiên chết trong trại cải tạo tại miền Bắc. VC bắt ông phải đi gánh nước hàng ngày, ông bị té bể xương chậu (xương mông) và nằm đau đớn cho tới chết vì cán bộ trại giam không cho ông thuốc men hay đưa đi bệnh xá để cứu chữa. Đại tá Nguyễn Bá Long tự Thìn đã tốt ngiệp khóa 8 Sĩ Quan Đà Lạt và đậu thủ khoa. Ông là một sĩ quan rất giỏi về cả tham mưu lẫn tác chiến.

+ Kontum kiêu hùng :

Cuộc tấn công của đặc công Cộng quân đã bị ta thanh toán trong 3 ngàỵ Các đơn vị chính qui của Cộng quân được bố trí xung quanh để tiến vào thị xã hợp đồng tác chiến với đặc công đã bị B52 và Không Quân ta tiêu diệt. Cuộc tấn công đợt 2 của Tướng Hoàng Minh Thảo tiến chiếm Kontum coi như thất bạị Cộng quân điên cuồng trả đũa trong những ngày kế tiếp bằng những hỏa tiễn 122 ly rót vào thị xã liên tục ngày đêm, bất kể khu quân sự hay dân sự. Kontum luôn luôn ở trong tình trạng căng thẳng.

Tôi làm tờ trình ước tính tình báo lên Tướng Toàn và Paul Vann là địch còn khả năng tấn công ta đợt 3 trong vòng 10 ngày tớị Sư đoàn 968 trừ bị của mặt trận B3 của Tướng Hoàng Minh Thảo còn chưa ra quân. Ước tín mức độ và cường độ đợt 3 yếu hơn đợt 1. Tướng Toàn và Paul Vann tiếp tục nghiên cứu và xử dụng kế hoạc 100 Box B52 mà tôi đã trình khi Tướng Toàn mới nhận chức. Paul Van có uy tín với Đại tướng Abrams nên được xử dụng nhiều Box B52 hơn các Quân đoàn khác.

Đúng 5g sáng ngày 28/5/72, Cộng quân tấn công đợt 3 vào Kontum bằng 3 mũi chính :

- Mũi từ hướng Bắc do lực lượng Sư đoàn 2 Cộng quân.

- Mũi 2 từ hướng Tây Bắc do lực lượng Sư đoàn 320.

- Mũi 3 từ hướng Nam do lực lượng Sư đoàn 968.

Trong đợt tấn công này địch không dùng chiến xa T54.

Mũi 1 và 2 đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của các chiến sĩ can trường của Sư đoàn 23BB. Địch đã xung phong nhiều đợt để cố chiếm tuyến phòng thủ đầu của ta nhưng đều bị đẩy luị Phi cơ chiến đấu của Sư đoàn 6 Không Quân tại Pleiku xuất trận liên tục để yểm trợ quân ta tại tuyến đầụ

Mũi 3 do lực lượng Sư đoàn 968, một lực lượng trừ bị của Tướng Hoàng Minh Thảo phụ trách. Lực lượng này mới tham gia trận Kontum lần đầu, chưa nếm mùi B52 nên khí thế có vẻ mạnh hơn mũi 1 và 2.

Sông Dakbla bọc quanh phía Nam thị xã là một chướng ngại vật thiên nhiên ngăn chặn không cho địch tiến quân một các dễ dàng. Sư đoàn 968 cố gắng vượt sông nhưng bị các phòng tuyến của Địa Phương Quân và Nghĩa Quân ngăn cặn. Paul Vann đã xử dụng các phi tuần của Không Quân Hoa Kỳ cất cánh từ Thái Lan trợ chiến, sau đó ông mới gọi các phi vụ B52 đến trải thảm.

Trong ngày 28/5/72 này, Paul Vann cũng đã được Đại tướng Abrams cấp hết 25 Box B52 cho mặt trận Kontum. 2 bên quần thảo nhau suốt ngày; đến tối địch vẫn không chiếm được vị trí nào của tạ Tướng Hoàng Min Thảo thấy không thể kéo dài cuộc tấn công vì sợ B52 đến dội bom, đã ra lịnh rút lui thật nhanh.
World / Vietnam / Thai Nguyen / Kon_Tum
Toạ độ: 14°39'12"N   107°48'12"E

Thể loại: Tàn tích, vùng, miền


 thẳng vào khu Tòa Giám mục và nói: "Có gì ông chết tôi cũng chết". Đại tá Long hướng dẫn Tướng Toàn đến quan sát các ổ kháng cự của đặc công Cộng quân trong các tòa nhà được xây cất kiên cố từ thời Pháp trong khu Tòa Giám mục, đang chống trả với Địa Phương Quân. Tướng Toàn liền tăng cường cho Đại tá Long 5 chiến xa, một Liên doàn Biệt Động Quân, và chỉ thị nếu cần phải bắn sập một vài tòa nhà trong khu Tòa Giám mục để tiêu diệt đặc công thì cứ làm, sau này chính phủ sẽ xây cất lại, nhưng phải cố gắng đừng gây thiệt hại về nhân mạng cho dân chúng đang ở trong khụ 2 ngày sau, Đại tá Bá và Đại tá Long mới thanh toán sạch sẽ các lực lượng đặc công Cộng quân trong thành phố. Bên ta thiệt hại nhẹ..

+ Anh hùng và mỹ nhân :

Gia đình Đại tá Long được đưa về Saigon khi Kontum bắt đầu sôi động. Sau vụ đặc công xâm nhập vào thành phố, Đại tá Long và tất cả các sĩ quan mật khu kiểm soát chặt chẽ các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân hơn. Hàng đêm, ông và một số sĩ quan đi khắp nơi trong thành phố để đôn đốc Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ tăng cường canh phòng cẩn mật.

Như mọi người trog thị xã Kontum đều biết, tại đây có cô gái lai Pháp rất xinh đẹp và dễ tương tên Lucie, cô là chủ một tiệm sách nằm giữa thị xã, các sĩ quan trẻ tuổi thường đến mua sách và trò chuyện đùa giỡn với cộ Đại tá Long, Tỉnh trưởng Kontum, khi đi kiểm soát vùng cũng vài lần ghé lại tiệm sách này để "thăm dân cho biết sự tình". Không biết ai đã báo cáo lại chuyện này với bà Long tại Saigon, bà liền cấp tốc tìm phương tiện bay lên Kontum này và chạy vào Tòa Hành chánh tỉnh la lối om sòm, đập nát kính chiếc xe Toyota của Đại tá Tỉnh trưởng. Bị mất mặt, Đại tá Long lôi bà về tư thất đánh cho một trận và bắt bà phải trở về lại Saigon.

Năm 1970, khi Đại tá Long làm Tỉnh trưởng tỉnh Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà Lạt, bà Thủ tướng Khiêm thường hay lên đây nghỉ mát, nên bà Long có dịp tiếp xúc và chuyện trò với bà Khiêm. Nhờ sự quen biết đó nên khi về tới Saigon, bà Long đã chạy ngay vào nhà bà Khiêm khóc lóc, vạch lưng vạch ngực cho bà Khiêm xem các dấu vết đánh của Đại tá Long. Phụ nữ thường hay bênh nhau, nên bà Khiêm đã chở bà Long sang gặp bà Thiệu để trình bày mọi chuyện.

Nghe bà Long kể lể, bà Thiệu xúc động liền yêu cầu TT Thiệu cách chức Đại tá Long. Hôm sau, Quân đoàn nhận được mật điện của TT Thiệu chỉ thị Tư lịnh Quân đoàn II đề cử một sĩ quan khác giữ chức vụ Tỉnh trưởng Kontum thay. thế Đại tá Nguyễn Bá Long trong 24 giờ. Lý do sẽ cho biết sau.

Trong trận chiến Kontum, Đại tá Long là người có chiến công. Trực thăng chỉ huy của Đại tá Long đã một lần bị địch bắn rơi, nhưng rất may ông không chết và được cứu thoát. Tôi được biết Đại tá Long đã cưới bà này làm vợ trong một hoàn cảnh đặc biệt, vì lòng nhân đạo hơn là vì tình. Nhưng nay, vì một sự ghen tương nhãm nhí của bà vợ và sự nóng giận không kềm chế của Đại tá Long đã làm cho ông thân bại danh liệt. Năm 1974, Đại tá Long bị giải ngũ. Sau 30/4/75, Đại tá Long phải đi học tập cải tạo và bị chuyển ra Bắc. Ông là Đại tá Quân lực VNCH đầu tiên chết trong trại cải tạo tại miền Bắc. VC bắt ông phải đi gánh nước hàng ngày, ông bị té bể xương chậu (xương mông) và nằm đau đớn cho tới chết vì cán bộ trại giam không cho ông thuốc men hay đưa đi bệnh xá để cứu chữa. Đại tá Nguyễn Bá Long tự Thìn đã tốt ngiệp khóa 8 Sĩ Quan Đà Lạt và đậu thủ khoa. Ông là một sĩ quan rất giỏi về cả tham mưu lẫn tác chiến.

+ Kontum kiêu hùng :

Cuộc tấn công của đặc công Cộng quân đã bị ta thanh toán trong 3 ngàỵ Các đơn vị chính qui của Cộng quân được bố trí xung quanh để tiến vào thị xã hợp đồng tác chiến với đặc công đã bị B52 và Không Quân ta tiêu diệt. Cuộc tấn công đợt 2 của Tướng Hoàng Minh Thảo tiến chiếm Kontum coi như thất bạị Cộng quân điên cuồng trả đũa trong những ngày kế tiếp bằng những hỏa tiễn 122 ly rót vào thị xã liên tục ngày đêm, bất kể khu quân sự hay dân sự. Kontum luôn luôn ở trong tình trạng căng thẳng.

Tôi làm tờ trình ước tính tình báo lên Tướng Toàn và Paul Vann là địch còn khả năng tấn công ta đợt 3 trong vòng 10 ngày tớị Sư đoàn 968 trừ bị của mặt trận B3 của Tướng Hoàng Minh Thảo còn chưa ra quân. Ước tín mức độ và cường độ đợt 3 yếu hơn đợt 1. Tướng Toàn và Paul Vann tiếp tục nghiên cứu và xử dụng kế hoạc 100 Box B52 mà tôi đã trình khi Tướng Toàn mới nhận chức. Paul Van có uy tín với Đại tướng Abrams nên được xử dụng nhiều Box B52 hơn các Quân đoàn khác.

Đúng 5g sáng ngày 28/5/72, Cộng quân tấn công đợt 3 vào Kontum bằng 3 mũi chính :

- Mũi từ hướng Bắc do lực lượng Sư đoàn 2 Cộng quân.

- Mũi 2 từ hướng Tây Bắc do lực lượng Sư đoàn 320.

- Mũi 3 từ hướng Nam do lực lượng Sư đoàn 968.

Trong đợt tấn công này địch không dùng chiến xa T54.

Mũi 1 và 2 đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của các chiến sĩ can trường của Sư đoàn 23BB. Địch đã xung phong nhiều đợt để cố chiếm tuyến phòng thủ đầu của ta nhưng đều bị đẩy luị Phi cơ chiến đấu của Sư đoàn 6 Không Quân tại Pleiku xuất trận liên tục để yểm trợ quân ta tại tuyến đầụ

Mũi 3 do lực lượng Sư đoàn 968, một lực lượng trừ bị của Tướng Hoàng Minh Thảo phụ trách. Lực lượng này mới tham gia trận Kontum lần đầu, chưa nếm mùi B52 nên khí thế có vẻ mạnh hơn mũi 1 và 2.

Sông Dakbla bọc quanh phía Nam thị xã là một chướng ngại vật thiên nhiên ngăn chặn không cho địch tiến quân một các dễ dàng. Sư đoàn 968 cố gắng vượt sông nhưng bị các phòng tuyến của Địa Phương Quân và Nghĩa Quân ngăn cặn. Paul Vann đã xử dụng các phi tuần của Không Quân Hoa Kỳ cất cánh từ Thái Lan trợ chiến, sau đó ông mới gọi các phi vụ B52 đến trải thảm.

Trong ngày 28/5/72 này, Paul Vann cũng đã được Đại tướng Abrams cấp hết 25 Box B52 cho mặt trận Kontum. 2 bên quần thảo nhau suốt ngày; đến tối địch vẫn không chiếm được vị trí nào của tạ Tướng Hoàng Min Thảo thấy không thể kéo dài cuộc tấn công vì sợ B52 đến dội bom, đã ra lịnh rút lui thật nhanh.
World / Vietnam / Thai Nguyen / Kon_Tum
Toạ độ: 14°39'12"N   107°48'12"E

Thể loại: Tàn tích, vùng, miền



Đã được sửa đổi: 1 năm trước
Ngôn ngữ: vi


Đã được sửa đổi: 1 năm trước
Ngôn ngữ: vi




CƠN UẤT HẠ LÀO



                                                                                                                                                                       
Kính dâng linh hồn các bạn quí mến Hiền,Phan.Các em thương  mến Thọ , Hạnh , Chương , Đương , Quân , Côn , Thu , Thúc , Quang , Đại , Bình , Bân , Lữ , Khê và các chiến hữu vô danh .


  •             Nếu Sư Doàn Nhảy Dù quân số tổn thất 99%.
  •             Nếu Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến bổ xung 90%.
  •             Nếu Sư Đoàn 1 Bộ Binh phải tái lập.
  •             Nếu Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân bị xóa tên .

            Thì trận Lam Sơn 719 tức trận Hạ Lào chúng ta vẫn thắng chúng tôi khẳng định như vậy; Và thêm một lần nữa đoan quyết rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã thắng Trận Hạ Lào . Bài này tôi viết từ năm 1973, tôi có ý định tặng nhà văn Chu Tử, người mà tôi hằng quí mến; nhưng không may tôi phải nhập viện khẩn cấp do đó tài liệu bị thất lạc; hôm nay 11-11-1987 còn ít tháng nữa là tròn 17 năm kỷ niệm trận Hạ Lào, cũng là góp phần cho số phát hành đầu tiên của đặc san Quân Đội do anh Nguyễn Đạt Thịnh chủ trương tại San jose, nên tôi viết lại một tài liệu gọi là góp phần chính xác cho Quân Sử của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa .
            Nói đến trận Hạ Lào cả trăm cả ngàn người đều nói chúng ta tức QLVNCH đã thua; cái lý luận buông thả này 17 năm nay ai cũng chấp nhận là đúng; vì nó được rập theo khuôn mẫu các báo ngoại quốc, báo chí Sài Gòn từ phóng viên chiến trường, cho đến những cây viết phóng sự theo tưởng tượng và thêu dệt để đầu độc  đọc giả, cho đến cả những người tham dự trận Hạ Lào cũng cứ yên trí rằng mình thua trận thật; vì bạn bè chết nhiều quá, trận chiến kinh hoàng quá, đó là một sự thật hiển nhiên, không ai có can đảm phủ nhận, mà lấy chứng cớ đâu để phủ nhận đây?
Rất tiếc thay ! Những người viết về trận Hạ Lào, ngoại trừ tác giả viết cuốn "Tử Thủ Đồi 30" là có tham dự trận Hạ Lào, hầu như không còn ai đã ở lại chiến trường một vài ngày với anh em chiến sĩ , đếm PHÁO của địch quân để biết rõ cường độ của pháo địch xung mãnh đến mức nào, khi thấy chiến trận khốc liệt, máy bay rớt liên hồi, mỗi ngày chết và bị thương hàng trăm người ; họ liền đứng ở ngoài một bóng mát nào đó, hay ở một phòng máy lạnh nào đó, bên cạnh ly bia lạnh ngọt ngào hương thơm em bé, viết phóng sự chiến trường, như vậy sẽ thêm phần an toàn cho bản thân, có thời gian bình thản, đời thêm hương sắc, bình tâm viết cho mạch lạc sâu sắc hơn, lý luận vững chắc hơn. Vì vậy những loạt bài viết về Hạ Lào toàn đua nhau thêu dệt tưởng tượng miễn sao cho người đọc cảm thấy hợp lý là ăn tiền, chỉ có trời cao đất dầy mới hiểu được vì đây là trận đánh kinh hoàng ngoài sức tưởng tượng của họ, cho nên làm sao họ có thể tưởng tượng đúng cho được; không có một trận địa nào từ cổ chí kim, với khoảng hai ngàn mét vuông, vậy mà trong gần hai tháng trời, mỗi ngày phải đón nhận hai ngàn trái đạn pháo đủ loại, có những ngày được ăn phụ trội lên tới ba hoặc bốn ngàn trái, đó là những ngày chúng quyết tâm tiêu diệt căn cứ 30 và những ngày chúng quyết tâm tiêu diệt căn cứ 31, với một thời gian dài như vậy, với cường độ pháo mãnh liệt như vậy, chắc hẳn những người trong hai ngàn mét vuông này nếu không bầm dập thì cũng phải tê dại, điên loạn, ấy vậy mà chúng tôi vẫn đứng vững, chúng tôi vẫn hiên ngang tiếp tục chiến đấu, không vậy mà chỉ ít ngày sau khi rút quân ra khỏi vùng lửa đạn Hạ Lào, mồ hôi trận địa chưa kịp khô, chúng tôi một Lữ Đoàn Nhảy Dù Việt Nam đã từ phi trường Đông Hà thay vì về Sài Gòn nghỉ xả hơi vài ngày thôi, đoàn quân Mũ Đỏ lại hiên ngang đáp xuống phi trường Pleiku vào thẳng căn cứ hỏa lực số 6 thuộc Tân Cảnh - Kontum quần thảo với một Sư Đoàn chính qui Cộng Sản Bắc Việt Nam, trong vòng 13 ngày chúng tôi đã dứt điểm, chúng tôi lại thêm một lần thắng vẻ vang, nếu như chúng tôi thua tại Hạ Lào, làm sao chúng tôi còn khả năng chiến thắng như vậy, không lẽ chúng tôi mang thương tích thảm bại, để chuốc lấy thêm một lần ê chề nữa hay sao ? Không  lẽ cấp trên của chúng tôi lại điều quân yếu kém như vậy hay sao? Chúng tôi có phải là những Thiên Thần thật sự hay không đây! Xin hãy đón đọc (Trận Chiến 13 Ngày) chiến tích của LĐ2ND Việt Nam tại mặt trận này để chứng minh hùng hồn những điều khẳng định trên .                     
            Đề tài Hạ Lào quá hấp dẫn với người đọc, nó quá nóng bỏng viết ra rất dễ câu khách, muốn cho báo chạy phải có đề tài nóng và hợp thời chứ? Nhưng lấy ở đâu ra tài liệu mà viết đây? Nên báo chí của ta đành tham chiếu tài liệu ngoại quốc để viết, trong khi chính những phóng viên ngoại quốc khi viết bài về Hạ Lào, cũng chưa chắc đã biết Hạ Lào dài ngắn ra sao, (tại cánh quân của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù lúc đầu vì là mũi tên xung kích cho nên nó ê chề quá, không một phóng viên nào dám đi chung lấy một giờ, vì sự sống và cõi chết khó phân định, cái chết đến bất cứ lúc nào, mà sự sống nó cũng đi bất cứ lúc nào)  ai cũng đua nhau viết thêm thắt cho bài báo hấp dẫn, ai cũng muốn chứng tỏ cho đọc giả là mình am tường trận Hạ Lào, có khi còn mập mờ là ta đang ở Hạ Lào, Hạ Lào trở thành cái mốt thời thượng, "cũng như cái mốt Cộng Sản của các nhà trí thức trên thế giới thập niên 40-50 vậy, thời đó các vị có bằng cấp cao, không thích Cộng Sản, không tham gia vào đảng tồi bại này, thì cũng phải phản chiến, nếu không thì chưa phải là trí thức, cái mốt đê hèn này nó nhập nhằng tồn tại tại quê hương tôi cho đến thập niên 70", dễ dàng nhất là tô đậm thêm nét đau thương cho QLVNCH là chắc ăn nhất ; vì vậy chúng tôi những người lính chiến thay vì được vỗ về thì lại bị trả đòn thù sau lưng, cùng trong lúc đó địch quân đang ra sức ca tụng các đơn vị của họ, trong khi những đơn vị này đang bị tan nát, đang bị vùi dập tại Hạ Lào. Thật trớ trêu thay! Chúng tôi lại trở thành tứ bề thọ địch, đang thọ nạn  ngay trên hậu phương "Thủ Đô" của mình . Trận Hạ Lào không đơn vị nào có Cố Vấn theo, kể cả những đơn vị còn nằm tại Khe Sanh hay Lao Bảo, ngoại trừ các bộ tư lệnh từ cấp Sư Đoàn trở lên nằm tại Khe Sanh là còn được giữ Cố Vấn lại mà thôi, vì không có Cố Vấn, đương nhiên không có phóng viên ngoại quốc nào dám ở lại trận địa, ngoại trừ một số tháp tùng theo các máy bay trực thăng bay trên vùng trời Hạ Lào, vậy mà các phóng viên của ta cứ tin vào các tài liệu ngoại quốc ; tài vọng ngoại như vậy hỏi sao mà Hạ Lào chẳng thua; hãy hỏi thêm một tin nữa, là trận Tết Mậu Thân, đối với người ngoại quốc: "chúng ta hãy hỏi bất cứ một công dân Hoa Kỳ nào, mà người đó có để ý đến tình hình chiến sự, chúng ta bình tâm thử hỏi họ về trận Mậu Thân tức tết 1968 tại quê hương của chúng ta, thì một trăm người được hỏi đến, đều nói chúng ta đã thảm bại trận Mậu Thân, bằng cớ là Cộng quân đã có đủ sức mạnh đánh bại quân phòng thủ chọc thủng phòng tuyến để đánh thẳng vào các thành phố, kể cả Thủ Đô của chúng ta, sự thực nếu chúng ta thua trận Mậu Thân thì làm gì còn có các trận giặc nối tiếp sau này, kể như Cộng Sản miền Bắc đã thống nhất đất nước từ ngày đó, không ai cần lý luận sâu xa cứ tin báo chí là đúng, nếu chúng ta thua trận Mậu Thân thì làm gì có trận Hạ Lào, nhưng báo chí, truyền thông đã loan tin là phải đúng người dân khắp năm châu bốn bể tin như vậy" .
            Máu của chúng tôi đã đổ tại đất đai miền nam của vương quốc Lào, thịt xương của bạn bè chúng tôi không vun trồng cho màu mỡ quê mẹ mà lại làm tươi tốt cho đồng cỏ xứ người, đó chính là niềm đau xót xa, niềm đau day dứt, cho những người lính chiến như chúng tôi; nhưng cái đau xót thấm thía, đau lâu dài hơn là khi Hạ Lào bị cơ quan truyền thông ngoại quốc che mờ bằng màn khói bại trận gớm giếc, khinh bỉ ; cái giá xương máu này lại được tô son chuốc lục bởi các phóng viên Việt Nam, bởi những người bạn của chúng ta, họ tô đậm bằng màu tang trắng thê lương ngay trên quê hương của chúng ta; những mảnh khăn tang trên đầu của hàng ngàn quả phụ, ở lứa tuổi đôi mươi xác nhận tài viết của họ là đúng, là hợp lý, ai nói ai viết khác đi là sai, là ngụy biện, có thể là không thức thời, vậy chúng tôi phải ngậm đắng nuốt cay đến bao giờ đây; ngẫm cho cùng cũng không trách họ được, trong thời gian trận chiến đang tiếp diễn tại Hạ Lào, nếu cứ đứng tại phi trường Khe Sanh ( tôi chắc có một số phóng viên chiến trường có mặt ở nơi tương đối an toàn này) sẽ thấy toàn là máy bay chở xác, chở thương binh của ta mặt mày biến sắc "Xin thưa rằng đã là thương binh, trong lúc vết thương hành hạ, thì  ai mặt  cũng xanh mét, cũng biến sắc ", máy bay chiếc lên chiếc xuống nhịp nhàng suốt ngày với nhiệm vụ tiếp tế, tải thương, tải xác ; không thấy có tù binh cũng như chiến lợi phẩm mang về tương xứng, thua là cái chắc! thông thường thì như vậy nhưng đây không phải là trận chiến bình thường, nó vượt khỏi mọi sự suy nghĩ và suy luận theo tam đoạn luận của học sinh trung học, trận Hạ Lào nó ở trên cao, cao lắm muốn với tới phải trả bằng máu bằng xương của chính mình, của bạn bè, của đồng đội,  hoặc tối thiểu cũng phải bằng mồ hôi nước mắt, với sức chịu đựng dẻo dai và lòng  Cố Gắng, quyết chiến, quyết thắng , mới có thể nhìn thấy Hạ Lào tức Lam Sơn 719. Nó linh động thế nào? Nó tàn bạo làm sao? Nó bị phản bội đê hèn tới đâu?
            BÁO CHÍ SÀI GÒN ĐÃ NÓI GÌ ?
            Khi từ Hạ Lào vừa ra tới Đông Hà thay vì  được về Sài Gòn nghỉ dưỡng quân ít ngày, ngược lại chúng tôi được không vận thẳng tới Pleiku, rồi từ đó vào thẳng Tân Cảnh , Kontum , trực thăng vận vào căn cứ Hỏa Lực số 6 , để LĐ2ND dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Trần Quốc Lịch gồm TĐ5BBND , TĐ6BBND , TĐ11BBND , TĐ2PBND , ĐĐ2QYND , ĐĐ2CBND, ĐĐ2TSND  quần thảo với một sư đoàn chánh qui của Cộng Sản Bắc Việt Nam, chỉ trong vòng 13 ngày Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù Việt Nam, đã loại Sư Đoàn này, Sư Đoàn 986 ra khỏi trận chiến, vinh quang trở về Sài Gòn, sung sướng bên vợ hiền con thảo, du dương bên em gái hậu phương, say sưa cùng bạn bè, để rồi chuẩn bị ngày lên đường tiếp tục đón nhận chiếc poncho, đó đời lính của chúng tôi như vậy, nhất là chúng tôi lại hãnh diện được phục vụ trong đơn vị Tổng Trừ Bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Khi về tới Sài Gòn, tôi nôn nao lật chồng báo cũ ra coi, để xem báo Việt Nam nói gì về Hạ Lào ,  không khỏi giật mình, tôi ôm chặt lấy đầu mình để khỏi phát ra tiếng chủi thề, ai oán, chán nản,  thất vọng khi đọc thấy các cơ quan ngôn luận của mình, đăng những tin tức mơ hồ, nóng bỏng, nổ như bắp rang, với những tít lớn như thế này : Địch quân không dùng quân số đông để áp đảo QLVNCH mà chúng đã dùng hỏa lực của Pháo Binh để áp đảo QLVNCH ; Hạ Lào không có cơ sở tiếp liệu của địch vì Hạ Lào là vùng rừng thưa ; Hạ Lào ở xa các chiến trường chính cho nên Hạ Lào không có các kho tàng của địch như tin tình báo ; QLVNCH đã mất hết tinh thần khi gặp phải địch quân có hỏa lực mạnh hơn. Tôi ngậm ngùi suy nghĩ cho thân phận của những người lính như chúng tôi, chắc chắn chúng tôi sẽ phải thua trận chiến này, vì chúng tôi đã thua ngay tại hậu phương của mình, làm sao chúng tôi còn đủ sức để chiến thắng ngoài chiến trường, trận chiến thua trước mắt mà đành bó tay, làm sao chúng tôi có thể tả xung, hữu đột để thoát vòng kiềm tỏa này, tôi ngậm ngùi muốn quỳ xuống van vái những người mà tôi vẫn cho là bạn, xin đừng đâm sau lưng chúng tôi thêm nữa ?
            CHÚNG TÔI GẶP GÌ Ở HẠ LÀO ?
            Tôi muốn viết thật xác thực, những gì mắt Thấy tai Nghe, không mầu mè để chúng ta dễ định giá trận đánh đẫm máu này . Những người tham dự trân đánh Hạ Lào từ đầu cho đến cuối có rất đông tại ngoại quốc , có 4 sĩ quan sau này là cấp Tá dưới quyền chỉ huy trực tiếp của tôi tham dự trận Hạ Lào đang ở Hoa Kỳ, 2 trong 4 người đang có mặt ở thi trấn San Jose . Khu vực hành quân quả thật có nhiều chỗ rừng thưa , không những vậy còn có nhiều chỗ đồi trọc , nhưng khu vực hành quân của Liên Đoàn Đặc Nhiệm gồm 3 Trung Đoàn Thiết Giáp và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù lại là vùng rừng rậm , có đôi chỗ trống trải vì khai quang để làm rẫy , hoặc dấu vết làng mạc cũ, xen lẫn một ít đồi trọc, nhưng chỉ trọc trên đỉnh đồi chu vi khỏang 500m trở lại mà thôi. Tôi muốn tả tình, tả cảnh như vậy, vì có một số tác giả nói rằng Hạ Lào chỉ là vùng rừng thưa, không khác gì sờ chân voi mà nói rằng con voi hình tròn như chiếc cột.
            Ngày N. trừ 1 chúng tôi được xử dụng máy bay quan sát của Hoa Kỳ, ( đối với Quân Lực Hoa Kỳ thì vị Tiểu Đoàn Trưởng Pháo Binh chính là Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực của Lữ Đoàn hay Trung Đoàn, ông ta quyết định tất cả hỏa lực của Hải, Lục, Không quân trong vùng hành quân; bởi lý do này cho nên ông ta phải nắm vững địa hình trong vùng hành quân, đó là lý do mà Hoa Kỳ cung cấp máy bay cho tôi bay thám sát vùng hành quân)  suốt cuộc hành quân không có máy bay quan sát của Việt Nam, nhưng những quan sát viên phi cơ, hay các người điều không tiền tuyến  phần nhiều là người Việt Nam, hoa tiêu chính vẫn là người Hoa Kỳ, lúc này đài BBC và đài VOA đã loan tin thật rõ ràng từ 2 ngày trước hoặc sớm hơn nữa: "QLVNCH sẽ xử dụng các đơn vị Tổng Trừ Bị và SĐ1BB tấn công sang miền nam của vương quốc Lào"; Vậy mà trước khi thi hành nhiệm vụ quan sát chúng tôi vẫn nhận được lệnh ( cố gắng tránh đừng để địch quân biết là chúng ta sắp sửa hành quân vào Hạ Lào ) vừa bay vào vùng trách nhiệm, tôi thật ngạc nhiên, vì nó ngoài sự ước đoán của chính tôi, đường đất mới mầu ngà ngà chằng chịt, nhưng không có trên bản đồ địa hình, bản đồ mà tôi đang có, bản đồ mà tất cả mọi đơn vị hành quân đang dùng đều không có ấn dấu này, (bên phía Khe Sanh, Lao Bảo của Việt Nam đường đất màu đỏ) bụi  bay mù mịt chứng tỏ có đoàn xe đang xử dụng, tôi đếm được 6 đám bụi lớn, không kể những đám bụi nhỏ (một hoặc hai xe) nhưng khi máy bay đến nơi, thì tất cả đã chui vào lùm cây mất hút không để lại dấu vết, bay đến Tchépon tôi thấy một cây cầu bác ngang sông Tchépon, cây cầu này nối liền hai khúc đường mới, không có trên bản đồ, tôi muốn xuống thấp quan sát cây cầu nhưng bị pilot từ chối, sợ nguy hiểm bởi ai cũng biết rằng: Dàn phòng không đâu đó đang rình rập chúng tôi, nhưng vì cây cầu có nhiều điểm khả nghi, nên tôi nhấn mạnh lại một lần nữa là tôi muốn quan sát cây cầu này, Đại Uy pilot người Hoa Kỳ, thở dài xong chìu ý tôi, nhưng nhắc tôi là chỉ một lần mà thôi, khi máy bay xuống thấp khoảng 1000 bộ (khoảng cao độ quen thuộc với chúng tôi, chiều cao của các anh em Mũ Đỏ :Lưng đeo dù lưng bụng deo dù bụng, hai tay vịn cửa máy bay sẵn sàng - GO) tôi thấy rõ không phải là cây cầu mà là đoàn xe đang băng qua sông, khi thấy máy bay đoàn xe xích lại gần sát nhau và tắt máy bất động, trên cao nhìn xuống nếu không tinh thì đúng là một cây cầu đúc . Sau này chúng tôi mới được biết là chúng cho đắp đập đá ngầm cách mặt nước nửa thước để xe có thể băng qua sông (chúng nghiên cứu những nơi nước chảy chậm mới làm đập này) , vì nếu làm nổi sẽ bị không thám chú ý, và sẽ bị máy bay oanh tạc ngay. Sau này tình báo của ta biết được chúng kiến trúc đập đá ngầm bằng cách lợi dụng khi có Bộ Đội di chuyển qua đó, chẳng hạn một Trung Đoàn chỉ cần mỗi người vác một cục đá nặng trên 5 kí lô, khi băng qua sông vất xuống đó thứ tự, từ bờ bên này sang bờ bên kia, đơn vị công binh sửa lại sơ sài, là chúng có một đập đá ngầm tương tự, mà không một tốn phí nào, tại vùng này cũng như dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh, khi trời nắng khô, không có sông sâu, có rất nhiều đoạn chỉ sâu ngang đầu gối chân mà thôi, đó chính là những nơi làm đập đá ngầm lý tưởng .
            Ngày N, ngày khởi đầu cuộc Hành Quân, tất cả các đơn vị tham chiến "Không Quân và Lục Quân", đều theo lệnh miệng của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, để xuất quân, để vượt tuyến xuất phát "xuất quân", khoảng 8:00G tất cả mọi quân nhân đều nghe lệnh xuất quân từ đài phát thanh Quốc Gia/ Sài Gòn chuyền đi, trên làn sóng thường lệ nguyên văn như sau : "Giờ phút này tôi cho lệnh QLVNCH tấn công qua phần đất phía nam của vương quốc Lào . . . . . ." đương nhiên Tổng Thống còn nói nữa, nhưng vừa nghe xong câu này chúng tôi đoàn quân tấn công qua Hạ Lào bằng đường bộ, tắt máy radio, cùng với tất cả các đơn vị khác tùng thiết, hay không vận bằng các loại máy bay đồng loạt vượt qua tuyến xuất phát, chúng tôi bắt đầu lội bộ băng qua con suối nhỏ làm ranh giới Lào-Việt, con suối này dù nhỏ có thể bước qua nhưng lại rất dễ nhận diện, vì bên phần đất của Việt Nam thì đất đỏ nếu là mùa mưa thì  đất dính giầy, còn bên phần đất của Lào thì đất sỏi dù có mưa đất cũng không dính giầy . Không một dấu vết địch quân tại biên giới, nhưng vào sâu khoảng 2 cây số cánh quân đi đầu của TĐ8BBND, Đại Đội 84 của Đại Úy Vân (đen) chạm địch nặng, dọc đường bị chận đánh liên tục, nhưng 15:00G của ngày N cộng 1 chúng tôi cũng đã tới điểm đóng quân Ban Dong để thiết lập căn cứ hỏa lực mang tên ngụy thoại A Lưới, vừa bước chân vào vị trí đóng quân tôi ngại ngùng vì thấy điểm địa hình của địch, trong nghề Pháo Binh nên không lầm lẫn được, chính những điểm địa hình tương tự tôi cũng đã có thiết lập tại nội địa, tôi vừa trình bầy việc này với Đại Tá Lê Quang Lưỡng, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù xong , thì  địch dàn chào đầy hào hứng, những loạt pháo bằng dàn hỏa tiễn 122 ly và 107 ly bay ào ạt tới, như biển lửa chụp trọn căn cứ mới chiếm đóng, nếu anh em Mũ Đỏ không nhanh tay đào hố cá nhân thì cũng dễ bị tan hàng, những trò đùa này chúng tôi đã quen ở các chiến trường Việt Nam, nhờ vậy chúng tôi vẫn đứng vững trên khắp các chiến trường Việt Nam mà không bị tan hàng vì pháo của địch quân; dàn phóng hỏa tiễn này được gắn trên xe chạy bằng xích mỗi dàn phóng có từ 5 cho đến 7 nòng, lần đầu tiên trong đời chúng tôi các chiến binh Mũ Đỏ được thưởng thức pháo bằng Hỏa Tiễn TOT (time on target) từng chùm như vậy, mỗi lần tới trên 100 trái thật tưng bừng, chắc chắn các đơn vị khác của chúng ta chưa được thưởng thức món này, Đ/T Lưỡng đứng ngay bên cạnh tôi để nghe trình bày về các điểm địa hình quân sự, ông bị thương ngay lần pháo này, cũng may điểm nổ gần nhất của trái đạn hỏa tiễn, cách chỗ chúng tôi đứng 20 thước, đến 19:00G ngày N cộng 1, Lữ Đoàn nhận được báo cáo tổng quát như sau, các tin tức này cũng là để minh xác là Hạ Lào có kho tàng của địch hay không .
            TĐ8BBND do Trung Tá Văn bá Ninh Tiểu đoàn Trưởng, Thiếu Tá Trần hữu Phú Tiểu đoàn Phó (T/T Phú thay thế T/T Đào thiện Tuyển ngày N trừ 1 bị thương vì máy bay Mỹ đánh lầm vào Bộ chỉ huy của TĐ8BBND tại Lao Bảo do một phi vụ skypot, trong lúc đơn vị đang chuẩn bị tại vùng tập trung để xuất quân vào Hạ Lào) báo cáo khám phá một kho chứa chừng 2,000. xe đạp mới tinh, một cơ xưởng sửa chữa xe đạp và vào khỏang 1,000. xe đạp cũ còn xử dụng được , một kho nhiên liệu khỏang 50 thùng phuy nhớt và 100 thùng phuy dầu cặn (khác dầu cặn của ta) và xác nhận đã đụng độ với một trung đoàn thuộc Sư Đoàn 320 Bắc Việt Nam, sau khi đã khai thác các tử thi của địch và tù binh .
            TĐ1BBND do Thiếu Tá Nguyễn văn Phan Tiểu đoàn Trưởng, Thiếu Tá Nguyễn quang Sáng Tiểu đoàn Phó khám phá một kho quân trang và xác nhận đụng độ với một Trung Đoàn của Sư Đoàn 306 Bắc Việt Nam, sau khi đã khai thác các tử thi và tù binh cũng như quân dụng của địch .
            TĐ9BBNĐ do Trung Tá Nguyễn văn Trí Tiểu đoàn Trưởng, Thiếu Tá Võ thanh Đồng Tiểu đoàn Phó báo cáo gặp một trung tâm huấn luyện rất quy mô trong khu rừng già nhưng không rõ danh tính .
            Thưa quí vị đó chỉ là ngày N cộng 1 mà các biến cố dồn dập như vậy, còn các ngày sau liên tiếp khám phá ra rất nhiều kho tàng, đủ các loại quân dụng và đạn dược, các kho quân trang quân dụng đều mới toanh, các kho y dược nhãn hiệu sản xuất từ các nước trong khối Cộng Sản . Cũng như TĐ1BBND sau đó khám phá thấy một kho thực phẩm các loại đồ hộp và lương khô của Nga và Trung Cộng, phòng 2 BTL/HQ xác nhận chưa gặp các loại lương khô và đồ hộp này tại khắp các chiến trường miền Nam Việt Nam bao giờ .
            Những ngày mới vào vùng hành quân, các trận đụng độ ác liệt của ta và địch chưa diễn ra cho nên các pass B52 được đánh hằng ngày theo không ảnh, hay theo tiên liệu vào những vùng nghi ngờ có kho tàng hay nơi đồn trú quân của địch, thường là những đường thông thủy, vậy mà không ngày nào là không trúng kho đạn hay kho nhiên liệu, xác định được rõ ràng do quan sát được những đám nổ phụ, hay những cột khói cháy liên tục ngày đêm, đặc biệt kho xăng dưới chân núi 500m cháy liên tục 2 ngày 2 đêm . Xin kể một chuyên vui cười tại Hạ Lào là : Căn cứ A Lưới (Bản Đông) lúc  Đại Tá Lê quang Lưỡng và tôi đang đứng quan sát trên nóc TOC (tactical operation center) của Lữ Đoàn, trong lúc các dàn phóng hỏa tiễn của địch đang pháo vào căn cứ, chúng tôi quan sát và nhận diện được một vị trí dàn phóng hỏa tiễn năm nòng 122 ly, ĐT/LĐT cho lệnh tôi xin phi cơ oanh tạc vào điểm này (lúc này chúng tôi xử dụng hỏa lực của Hoa Kỳ rất dễ dàng luôn luôn họ ưu tiên hỏa lực cho trung tâm phối hợp hỏa lực của LĐ1ND, tại sao như vậy?  Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực là thành phần ban 3 và đài trung ương tác xạ của bộ chỉ huy các Tiểu Đoàn Pháo Binh, khi đang di chuyển vào A Lưới, tôi nghe được những lời than phiền của các đơn vị bạn, kể cả các đơn vị Nhảy Dù, than phiền Không Quân cũng như Pháo Binh Hoa Kỳ bắn lầm vào quân bạn, khi tấn công qua Hạ Lào, thành phần chiến đấu của Hoa Kỳ không đặt chân vào đất Lào, chỉ có các đơn vị kỹ thuật của Hoa Kỳ là yểm trợ chúng ta mà thôi, nhưng họ vẫn đóng quân bên lãnh thổ Việt Nam,  chúng tôi đã hành quân chung với Hoa Kỳ, đây là điều tối kỵ của họ, chắc chắn họ sẽ không yểm trợ hỏa lực cho nữa, tôi lo ngại như vậy và quả thật những lần xin hỏa lực sau vô cùng khó khăn, cho những ai đã than phiền, tôi liền nghĩ ngay đến hậu quả nếu mình cũng than phiền như vậy, nên khi vừa vào tới A Lưới tôi xin hỏa lực Hoa Kỳ yểm trợ ngay, mặc dầu chưa đụng địch nặng, xin mở dấu ngoặc là khi vào Hạ Lào, không một phút nào cấp Lữ Đoàn Nhảy Dù không đụng độ với địch, khi nhẹ chúng tôi không giám xin hỏa lực yểm trợ của Hoa Kỳ, chỉ khi nào cần thiết chúng tôi mới xin họ, nhưng lần này chúng tôi muốn thử, tôi lên máy xin pháo binh 175 ly và 8 inches, bắn cho TĐ1ND cánh quân Bêta, kết quả tác xạ tốt, tôi phóng đại ngay là địch thiệt hại một cây súng 75 ly không dật và một số thương vong do tác xạ của  pháo binh Hoa Kỳ, không bao giờ tôi làm việc như vậy, dầu gì chăng nữa gian dối cũng không nên làm,  nhưng biết làm sao hơn đây, tôi không muốn bạn bè vì thiếu hỏa lực yểm trợ  mà phải chết vì những việc không cần thiết như vậy, tôi gửi lời khen ngợi tới Pháo Đội Trưởng hỗn hợp của Hoa Kỳ, qua Trung Úy Huỳnh Công Ni, sĩ quan liên lạc của tôi bên cạnh pháo đội này, vị Đại Úy pháo đội trưởng mừng rỡ lên máy cảm ơn tôi ngay, sau đó tôi cũng làm như vậy với Sĩ Quan điều không tiền tuyến của Hoa Kỳ, kết quả cũng như ý muốn, tôi trình bày với Đại Tá Lê Quang Lưỡng, lúc này mình cần hỏa lực, muốn được xử dụng hỏa lực dễ dàng sau này, tôi đề nghị xin hai huy chương ngôi sao Bạc, Trung Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn có thể ký tặng cho Pháo Đội Trưởng hỗn hợp và Sĩ Quan Điều Không tiền tuyến của Hoa Kỳ, rất may cho tôi khi Đại Tá Lê Quang Lưỡng đề nghị thì Trung Tướng Tư Lệnh bằng lòng ngay, không những vậy ngay ngày hôm sau vị anh cả của chúng tôi đáp xuống vị trí pháo đội hỗn hợp gắn huy chương cho pháo đội trưởng, đồng thời ông cho lệnh  tôi gọi sĩ quan điều không tiền tuyến đáp xuống phi trường Khe Sanh, ông ra gắn huy chương cho anh ta ngay, kể từ hôm đó bất cứ phi tuần nào vào vùng họ cũng gọi tôi gần như là xin lệnh tác xạ, bất cứ lúc nào có phi tuần oanh kích trong tay sĩ quan điều không tiền tuyến tôi đều lấy được cả, pháo đội hỗn hợp bắn ngày đêm cho cánh quân Bêta của TĐ1ND ) ngoài tầm pháo binh nên trung tâm phối hợp hỏa lực xin phản pháo bằng không quân, qua sĩ  quan không trợ, tọa độ như sau : từ điểm Alpha về phải .5 xuống 5.(-) nhưng sĩ quan không trợ lại chuyển lầm là từ điểm Alpha về phải .5 lên 5.(+) như vậy tọa độ chuyển đi sai 10 cây số, vì là vùng không có quân bạn, cho nên không ai chú ý để clear kỹ càng, khi máy bay lên vùng oanh tạc vào mục tiêu, ĐT/LĐT và tôi thấy sai nhưng cùng lúc đó một đám cháy lớn của kho nhiên liệu phát ra, ngay tại mục tiêu xin sai, đám cháy này cháy lâu một ngày một đêm, tôi muốn dẫn chứng là kho tàng của chúng đầy dẫy trong vùng, thay vì xin phản pháo nhưng chuyển tọa độ sai, lại thành xin tiêu hủy kho tàng địch quân, việc tiêu diệt các kho tàng của địch, cũng chính là một mục tiêu của cuộc hành quân, cùng lúc đó hỏa tiễn lại pháo dồn dập vào căn cứ tại điểm mà trung tâm phối hợp hỏa lực đã xin, vì chính ĐT/LĐT đã nghe đơn xin phản pháo của trung tâm phối hợp hỏa lực nên ông đích thân check lại mới biết sĩ quan không trợ lầm lẫn như trên; Ngoài ra chúng còn có hệ thống dẫn dầu bằng ống dẫn đường kính khỏang 40cm tất cả hệ thống này đều bị bộ binh phá hủy và các pass B52 phá vỡ đã bốc cháy hằng ngày, về nhân mạng địch tổn thất vì giao tranh với ta chỉ một phần nhỏ, phần nhiều là do B52 tiêu diệt, có pass B52 đã giết cả Trung Đoàn địch quân, những thiệt hại của địch quân do B52 oanh tạc đa phần đều có kiểm chứng bằng bộ binh hay bằng quan sát thấp.
            Sau này trận chiến càng ngày càng khốc liệt, chúng tung quân đông để dùng biển người đè bẹp chúng ta, chẳng hạn như cánh quân TĐ8BBND và hai Trung Đoàn Thiết giáp, chúng cho đối đầu bằng Sư Đoàn 320 và các Trung Đoàn chiến xa của chúng mà theo tin tức tình báo thì có chiến xa T54, cánh quân TĐ1BBND sau này tăng cường thêm TĐ7BBND  do Thiếu Tá Lê minh Ngọc Tiểu đoàn Trưởng, Thiếu Tá Trần đăng Khôi Tiểu đoàn Phó và một Trung Đoàn Thiết Giáp, chúng cho đối đầu bằng SĐ 304 và các đơn vị thuộc các trung tâm dưỡng quân tại Hạ Lào( theo như tin tức tình báo sau khi chúng tôi rút ra khỏi Hạ Lào, thì mới biết mỗi trung tâm dưỡng quân tại vùng hành quân Hạ Lào có quân số bằng một trung đoàn, quân số đầy đủ hơn và mạnh khỏe hơn, vì đây là quân số sẵn sàng để bổ sung cho các đơn vị đang tham chiến,trên khắp chiến trường miền Nam)  , tại cánh quân này ĐT/LĐT/LĐ1ND đã phải xử dụng B52 yểm trợ gần như máy bay chiến thuật, loạt bom của B52 có khi chỉ cách lính gác giặc của các đơn vị ta dưới 500m, đây là việc làm hết sức táo bạo, nhưng phải rất khôn ngoan khi vẽ hướng thả cho các phi vụ B52 yểm trợ trực tiếp như vậy, những pass B52 sanh tử này rất hữu hiệu, nhưng cũng rất tai hại, nếu bất cẩn; vì cẩn trọng cho nên trong suốt cuộc hành quân chúng tôi không bị một tai nạn nào về lối xử dụng thần sầu này, có rất nhiều lần các pass B52 đánh, làm lính gác giặc của ta, hay các toán tiền đồn của ta bị sức nổ hất văng ngược trở lại.
            Căn cứ 31 thất thủ, trong căn cứ gồm BCH/LĐ3ND, BCH/TĐ3BBND, BCH/TĐ3PBND, Pháo Đội B3 ND , tổng cộng quân số không trên 300 quân nhân, đây là một tin buồn nhất cho chúng tôi từ trước đến nay . Ngay ngày hôm sau Thiếu Tá Trần hữu Phú dẫn 2ĐĐ/TĐ8BBND tùng thiết hai Chi Đoàn Thiết Giáp tiến về căn cứ 31, (nhiều tác giả "tưởng tượng" cho rằng đây là 2ĐĐ thuộc TĐ9ND nhưng thật sự là của TĐ8ND, không có một cánh quân nào của TĐ9ND tiến về hướng căn cứ 31 trong suốt trận đánh này, hiện T/T Trần Hữu Phú đang ở Orange County, và sĩ quan Tiền Sát Viên là Trung Úy Lê Ngọc Chương (Chương còm sau này lên Đại Úy) hiện đang ở Wisconsine, khi còn cách căn cứ khoảng trên 2Km, đơn vị bị phục kích bởi một trung đoàn địch có chiến xa yểm trợ,  vì thuyết trình viên của Phòng 2 BTL/QĐI/HQ cho biết là địch có chiến xa T54, nên thiết giáp của ta tránh đụng độ với địch, (thực ra địch chỉ xử dụng có PT76 trong trận này, nếu có T54 cũng là mới với chúng, chúng chưa sử dụng để tấn công) vì vậy đơn vị này tưởng chừng như sắp sửa bị tràn ngập, Pháo Binh của ta can thiệp cấp thời dưới cơn mưa pháo của địch tại vị trí Pháo Đội, các pháo đội của ta nhất là PĐA44PB do Đại Uy Trần văn Vẹn chỉ huy và PĐA1ND do Đại Uy Đinh thành Tấn chỉ huy tỏ ra rất can trường các loạt đạn nổ mạnh chính xác, chỉ cách quân bạn khoảng 50m, nhờ vậy địch quân nhả dần ra, trong lúc Pháo Binh đang yểm trợ thì  hai pass B52 kẹp sát hai bên đường, sau đó chiến trường hoàn toàn im lặng, hai ĐĐ/TĐ8BBND bung ra lục soát thấy xác giặc chết không toàn thây, xương thịt bầy nhầy vương vãi khắp nơi, ước lượng khoảng chừng 800 địch quân chết hai bên đường do B52 làm thịt , lấy kinh nghiệm này Đại Tá Lê quang Lưỡng đã áp dụng cho chiến trường An Lộc, khi ông chỉ huy LĐ1ND vào giải tỏa An Lộc.
            MỤC ĐÍCH CHÚNG TA VÀO HẠ LÀO
            Chúng ta vào Hạ Lào không phải để chiếm đất, càng không phải là để đuổi địch ra khỏi vùng này, cũng như không phải là để tiêu diệt địch quân trong vùng mục tiêu, mục đích của chúng ta minh định rõ ràng trong lệnh hành quân là PHÁ VỠ CÁC KHO TÀNG CỦA ĐỊCH, TRIỆT HẠ CÁC CƠ SỞ TIẾP VẬN CỦA ĐỊCH , chúng ta QLVNCH đã hoàn thành sứ mệnh, báo chí Sài Gòn lúc đó đưa tin chúng ta không chiếm được mục tiêu này, vùng đất kia chính là họ đã lầm lẫn như những chiến trường nội địa mà chúng ta thường gặp, vậy QLVNCH đã đạt được mục tiêu mà cấp trên mong muốn, vì chúng ta đã phá vỡ hầu hết các kho tàng của địch, các cơ sở tiếp vận của địch hầu như không còn hoạt động được, mục tiêu đề ra QLVNCH đã hoàn tất. Vậy quí vị còn muốn QLVNCH, chúng tôi phải làm gì để cho quí vị vừa lòng  nữa đây? chắc hẳn quí vị muốn chúng tôi phải bỏ thây tại Hạ Lào để không còn ai nói lên lời nói trung thực, để không còn ai là nhân chứng cho biết những bài viết tưởng tượng của quí vị là nhăng cuội, thì quí vị mới vừa lòng chăng? Như trên tôi đã trình bày đây là cuộc hành quân bất bình thường, mà ngay những người tham dự trận chiến này cũng thuộc loại bất bình thường, nên mới anh dũng trở về trong bình thường .
            PHẢN ỨNG CỦA ĐỊCH
            Phản ứng của địch thật vô cùng mãnh liệt, nhưng là một chiến binh của QLVNCH chúng tôi luôn luôn chấp nhận phản ứng này ở bất cứ một trạng huống nào, nói chung chúng tôi chấp nhận mọi tổn thất miễn sao đạt được mục tiêu của các Bộ Tư Lệnh Chiến Trường đã đề ra . Khi địch quân nhận ra rằng cơ sở tiếp vận của chúng bị phá tan tành, chúng hoảng hốt , nhưng chúng muốn cho thế giới thấy rằng chúng vẫn mạnh, và để chứng minh rằng cuộc chiến Hạ Lào không ảnh hưởng đến lực lượng của chúng; Chúng dùng một Sư Đoàn chính qui đã được ém sẵn tại Kontum tấn công một tiền đồn của ta tại Tân Cảnh, chúng điều động một Trung Đoàn cộng để dứt điểm căn cứ hỏa lực số 6 nơi đóng quân của một BCH Tiểu đoàn Bộ Binh và một Đại Đội tác chiến , một Trung Đoàn chúng chặn đường tiếp viện , một Trung Đoàn chúng cho ém quân làm thành phần trừ bị. Quả nhiên kế hoạch của chúng thành công ngay vì các đài phát thanh chuyên đâm sau lưng chúng ta, lại rầm rộ loan tin," Cộng Sản Việt Nam vẫn còn đầy đủ khả năng tiếp vận để tấn công QLVNCH , vì trận Hạ Lào không gây khó khăn cho chúng về tiếp vận, nên Cộng Sản Việt Nam  đã mở ngay mặt trận mới tại Tây Nguyên Việt Nam" . Nếu Hạ Lào thật sự không làm chúng tổn thương thì chúng đã đánh ngay nhiều nơi, nhất là Huế và Đà Nẵng hoàn toàn bỏ ngỏ khi các đơn vị của SĐ1BB tấn công sang Nam Lào . Tướng lãnh của chúng chỉ cần khôn khéo một chút khi biết trước chúng ta sẽ tấn công qua Hạ Lào , theo tôi thì có lẽ chúng biết trước hàng tháng vì mốc địa hình tại Hạ Lào đã cho chúng tôi biết thời gian thiết lập, cho nên phải nói rằng chiến trường chúng đã chuẩn bị sãn sàng từ trước để chờ chúng ta vào rọ, tù binh của đơn vị đặc công SĐ320 quê tại Nam Điền, huyện Xuân Thủy, Hà Nam Ninh   khai rằng chúng đã đóng quân tại Hạ Lào để chờ ta trước đó hai tuần, vậy mà chúng không khôn ngoan điều động một đơn vị cấp Trung Đoàn đóng chốt dọc theo quốc lộ từ Cam Lộ-Phương Lâm cho đến Khe Sanh, nếu cần kéo dài cho đến Lao Bảo, giật sập cầu Đá Bạc, thì một đơn vị tinh nhuệ có kinh nghiệm diệt chốt, có phi pháo yểm trợ dồi dào may ra một hai tuần lễ mới làm xong công việc khai thông trục lộ, nếu làm như vậy thì trận Hạ Lào còn khó khăn lắm mới khai diễn đúng như dự liệu, còn nếu không làm như vậy, thì cho đoàn quân vào xong khóa đường, đơn vị hành quân sẽ vất vả, khi tái tiếp tế cũng như lúc rút ra Đông Hà, cũng may nếu chúng khôn ngoan làm như vậy thì máu xương của chúng ta còn đổ ra thê thảm hơn biết chừng nào, có người cho rằng chúng không làm như vậy vì chúng muốn đánh lừa chúng ta, để chúng ta yên trí rằng chúng không biết trước kế hoạch của ta, nhưng lập luận này không đứng vững, chúng ta ai cũng hiểu rằng kế hoạch hành quân chúng ta đã nhận được thì dù cho chông gai cách trở cũng phải thi hành cho bằng được, hoặc không thì như trên chúng tôi đã trình bày cứ để đại quân vào êm ả, xong xuôi khóa đường, chúng không biết trước sao được khi mà chúng tôi ra tới Đông Hà thì cả quận này đều biết chúng tôi sẽ sang Hạ Lào, trong khi đơn vị tham chiến, các cấp từ Tiểu Đoàn Phó trở xuống đều không biết mình sẽ hành quân nơi nao .
            HỆ THỐNG BẢO MẬT CHO HẠ LÀO
            Coi như không có, vì các đài phát thanh bạn tìm mọi cách giết (chúng ta) QLVNCH , bằng cách loan tin nóng hổi là chúng ta sẽ tấn công qua Hạ Lào, trong lúc đó đơn vị tham chiến còn đang ở Sài Gòn, riêng đơn vị chúng tôi, ban 2 chưa được lãnh bản đồ, từ Tiểu đoàn Phó trở xuống tại phi trường Tân Sơn Nhất khi bước chân lên máy bay đều chỉ biết là đi Vùng I mà thôi, có người tán ra là đi hành quân tại DMZ , nhưng khi đến Đông Hà thì dân chúng đã biết là chúng tôi sẽ qua Hạ Lào từ ngày hôm trước, hỏi ra họ cho biết là anh em trong BTL hành quân cho biết như vậy, khi nghe được tin này tôi thật buồn, chân tay như muốn tê dại, các cuộc hành quân phối hợp chúng tôi đều giữ kín, nhưng vẫn tiết lộ bằng nhiều ngã khác, không những vậy theo tin đồn thì khi kế hoạch hành quân trình lên Tổng Thống, thì Vũ Ngọc Nhạ đã lén chụp hình gửi ra Hà Nội trước khi Tổng Thống đọc kế hoạch này  . 
            MỨC ĐỘ TIẾP LIỆU CHO HẠ LÀO
            Mọi thứ tạm coi là chu đáo, nhưng một thứ quan trọng sanh tử thì lại lơ là . Buổi họp ngày N trừ 2 tức là ngày chúng tôi vừa đặt chân xuống phi trường Đông Hà, nhận lệnh họp hành quân; các Tiểu đoàn Trưởng Pháo Binh, các Lữ đoàn Trưởng, các Trưởng Phòng của BTL/SĐND, Tham Mưu Trưởng, Tư Lệnh Phó, Tư Lệnh SĐND được mời vào ngay phòng họp . Chúng tôi được BTL/HQ Lam Sôn 719 cho biết có nhiều đơn vị Thiết Giáp địch hiện diện trong vùng hành quân và nhất là chiến xa T54 được chế tạo tại Liên Sô có khả năng tác chiến mạnh hơn chiến xa của chúng ta đang có, nhìn sang các vị Trung Đoàn Trưởng Thiết Giáp tôi thấy sự lo ngại hiện rõ ràng trên mặt; Vì tình hình như vậy cho nên vị anh cả của chúng tôi xin được cấp phát mìn chống chiến xa (cho đến lúc đó QLVNCH chưa đụng độ với chiến xa địch bao giờ, kể cả chúng tôi đơn vị tổng trừ bị, trận Làng Vei giữa đường từ Khe Sanh cho tới Lao Bảo năm 1967 có chiến xa địch xuất hiện nhưng không đụng độ với chúng ta mà đụng độ với quân đội Hoa Kỳ, và những đơn vị do Hoa Kỳ huấn luyện mà thôi) . Thì được BTL/HQ trả lời có mìn chống chiến xa, nhưng còn ở kho đạn Đà Nẵng chúng tôi thở dài thắt ruột, sau đó vị anh cả của chúng tôi xin được cấp phát mìn chống chiến xa trước khi vào vùng hành quân, được hứa thuận, nhưng than ôi mãi tới khi căn cứ 31 bị pháo dữ dội, còn khoảng 1 tuần nữa là thất thủ mới được thả xuống căn cứ hai lưới mìn chống chiến xa; Lúc đó không ai còn có thể ra đặt mìn được nữa vì pháo liên tục, cũng như các loạt đạn của súng đại bác không giật làm cho ĐĐ3CBND đành bó tay, căn cứ A Lưới vừa thả xuống một lưới mìn chống chiến xa thì bị phát hỏa và phát nổ do các chùm hỏa tiễn 122ly của địch, vì chúng pháo quá nhiều nên không may có trái trúng ngay lưới mìn vừa thả xuống; Cho nên khi căn cứ 31 bị thất thủ, chiến xa của địch không gặp một chướng ngại vật nào ngoại trừ sức người và hỏa lực cơ hữu của đơn vị phòng thủ, nếu có mìn chống chiến xa sớm, ngay từ lúc mới vào Hạ Lào thì căn cứ 31 chưa chắc đã phải chịu số phận hẩm hiu như vậy, hoặc có thể vẫn bị thất thủ nhưng địch phải trả giá cao hơn .
            TINH THẦN CHIẾN ĐẤU CỦA TA
            Xin dẫn chứng để quí vị thấy từng khung cảnh một, tôi chỉ viết lại những gì thấy tường tận, còn những khung cảnh khác như nghe kể lại, hoặc nghe báo cáo trên hệ thống hành quân tôi không viết lại ở đoạn này .
            TĐ2BBND . Sau khi căn cứ 31 thất thủ, căn cứ 30 cứ điểm của TĐ2BBND  do Trung Tá Trần kim Thạch Tiểu đoàn Trưởng và Thiếu Tá Lê văn Mạnh Tiểu đoàn Phó, cứ điểm này vào hệ thống chỉ huy của LĐ1ND, trong căn cứ 30 có pháo đội 105 ly là PĐC3ND Pháo Đội Trưởng Đại Uy Bành minh Trí, Và pháo đội 155 ly là PĐC44PB Pháo Đội Trưởng Đại Uy Trương duy Hy, hai Pháo đội này đương nhiên vào hệ thống chỉ huy của tôi, cũng dễ hiểu vì tôi là CHT/trung tâm phối hợp hỏa lực của LĐ1ND, hơn nữa lúc đó tại chiến trường Hạ Lào còn tôi là sĩ quan cấp Tá duy nhất của PBND; mặc dầu trong căn cứ không quá 300 người vậy mà đã chống trả với 2 trung đoàn địch quân thuộc SĐ304 một trung đoàn chiến xa được yểm trợ bởi ít nhất là 3 tiểu đoàn pháo binh + hỏa tiễn với mức độ tiếp tế đạn dược dư thừa, vậy mà sau hai tuần lễ tấn công ngày đêm bằng mọi phương kế, có lúc dùng biển người và biển lửa chúng vào tới hàng rào phòng thủ thứ hai nhưng vẫn bị đẩy lui .
            TĐ1BBND  cánh quân B (Béta) sao chẳng gọi là Bravo, hay Bắc Bình mà lại gọi là Béta, tôi chẳng hiểu sao T/T Nguyễn quang Sáng lại muốn như vậy, sau khi tôi xử dụng Pháo Binh của Hoa Kỳ từ biên giới Lào - Việt Nam,phối hợp cả 8 inches và 175 ly , T/T Sáng đã dẫn quân tấn công cứ điểm của BTL/SĐ306CS Bắc Việt Nam , trận đánh tuyệt vời này đã giết tên Tư Lệnh SĐ306 là Thượng Tá Nguyễn xuân Rục lấy được đầy đủ gậy chỉ huy, bản đồ chỉ huy,đặc lệnh truyền tin, máy chỉ huy liên lạc trong đó có một máy mà các đơn vị hành quân đều không rõ danh hiệu còn mới cáu cạnh đang liên lạc trực tiếp với BTTM tại Hà Nội . Chính nhờ đặc lệnh truyền tin này mà chúng tôi đã biết trước được các cuộc điều quân của địch (mặc dầu địch biết chúng ta lấy được đặc lệnh truyền tin nhưng chúng vẫn không thay đổi, vì chúng không có phương tiện để phổ biến thay thế đặc lệnh truyền tin mới đến các đơn vị đang hành quân)
            TĐ8BBND mặc dầu không tiến đến Tchépon như ý, nhưng đã làm cho SĐ320 CS Việt Nam phải trả một giá quá đắt, cuối trận đánh SĐ320 CS Việt Nam muốn có một tiểu đoàn để chặn đường rút quân của chúng tôi nhưng đành bó tay, lúc đó chính Tư Lệnh SĐ320 xin một tiểu đoàn chặn đường rút quân ra khỏi Hạ Lào của chúng tôi (vì có đặc lệnh truyền tin do cánh quân Béta của TĐ1BBND tịch thu được trên xác chết của tư lệnh sư đoàn 306 CS bắc Việt Nam nên chúng tôi biết được tin này) , nhưng không có kịp vì quân số không còn, cuộc rút lui của chúng ta bị địch quân biết trước ít nhất là 2 ngày trước, do đài BBC và VOA truyền đi, dù cho hai đài này không truyền đi thì chúng cũng phải biết, trong lệnh hành quân của ta, địch đã lấy được trong đó có nói rõ là chúng ta sẽ rút ra, chỉ không ấn định rõ ngày giờ mà thôi .
            TĐ7BBND vào tham chiến trước khi cuộc hành quân chấm dứt 3 tuần lễ vì lúc đó TĐ1BBND quá mệt mỏi. Trong cánh quân này chúng ta chỉ có hai TĐBBND và một Trung Đoàn Thiết Giáp, nhưng chúng đã dàn chào bằng nguyên một sư đoàn chính quy SĐ306 Cộng Sản Bắc Việt, một trung tâm dưỡng quân; Chính vì chúng bu đông như vậy cho nên chúng đã làm mồi cho  B52 và các loại phi pháo khác,TĐ1BBND tiểu đoàn trưởng phải hy sinh, TĐ7BBND tiểu đoàn trưởng phải tản thương khẩn cấp, vậy mà 2 TĐ này đã làm cho địch quân không còn khả năng chặn khi TĐ1BBND rút bằng đường bộ, và TĐ7BBND rút bằng Trực Thăng Vận , Tiểu Đoàn Trưởng TĐ7BBND lúc đó là Thiếu Tá Trần đăng Khôi đã lên chiếc trực thăng cuối cùng, với 3 quân nhân và một người mang máy .
            CHIẾN TRANH TÂM LÝ YỂM TRỢ CHO HẠ LÀO
            Không có một chương trình khích động tinh thần anh em quân nhân tham dự trận chiến thư hùng này trên đài phát thanh của ta dù chỉ một lời ghi ơn vô nghĩa, tôi mở sang đài Việt Cộng chúng ca ngợi tinh thần chiến đấu của hai sư đoàn 320 và 306 ( đã tiêu diệt các cánh quân hung hãn của bọn Ngụy Dù Sài Gòn con đẻ của Mỹ Ngụy) trong lúc mỗi sư đoàn của chúng không còn đủ một tiểu đoàn nguyên vẹn, còn chúng ta, sau trận Hạ Lào Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam vẫn còn cử một Lữ Đoàn tham chiến với một sư đoàn chính quy Cộng Sản Việt Nam tại chiến trường Tây Nguyên . Đến đây tôi xin được mở một dấu ngoặc dài để quí vị suy nghiệm về tâm lý chiến của ta :
 Nói đến Binh Chủng Nhảy Dù ai cũng hình dung ra ngay Binh Chủng với những quân nhân mặc áo hoa đội nón Đỏ có khi còn đệm theo câu cải lương của Hùng Cường;
Hiên ngang ngoài chiến trường.
Thanh lịch trong thành phố.
Nhưng ít ai hiểu rằng những năm sau 1968 chúng tôi hành quân trung bình mỗi năm là 360 ngày tại những vùng mà các đơn vị khác đã chạm địch nặng nề, không thanh toán nổi mục tiêu, chúng tôi đến để thanh toán chiến trường tại những vùng oi ả chê bai như Chiến khu D , chiến khu C , Tam giác sắt , mật khu Dương minh Châu, vùng hỏa tuyến, Đồng Tháp-Cà Mâu những nơi này sau lại trở thành những vùng quen thuộc mát mẻ với chúng tôi, khi thượng cấp cho chúng tôi về Sài Gòn cho dãn gân cốt là chúng tôi mừng vô hạn, thú tiêu khiển Sài Gòn khác với núi rừng là được nghe nhạc sống, như ở Đêm mầu Hồng và nhảy theo điệu nhạc như ở Thanh Thanh . . . v. .v. .vì vậy cho nên bất cứ một bản nhạc nào mới phát hành trong giai đoạn này, chúng tôi đều được thưởng  thức.
Trong thời kỳ này (tết nguyên đán)  bản nhạc "Kỷ Vật Cho Em" chưa được ra đời, đợi cho thời điểm chín mùi nhất là thời gian chúng tôi đang ở Hạ Lào, mới cho phát thanh nhạc phẩm này trên đài Mẹ Việt Nam; Chỉ vào khoảng chúng tôi rời Sài Gòn 10 ngày tức là vào Hạ Lào khoảng 1 tuần lễ, cường độ đụng trận với địch cũng như cường độ pháo kích của địch quân bắt đầu xung mãnh, thì sáng tác mới nhất của Phạm Duy với tiếng ca vượt thời gian muôn thuở của Thái Thanh bắt đầu rót vào tai chúng tôi nhẹ nhàng ngọt lịm với nhạc phẩm Kỷ Vật Cho Em, tiếng ca rót vào hồn chúng tôi với những lời trăn trối tàn nhẫn . Thưa Quí Vị nếu quí vị hay chúng tôi đã được nghe nhạc phẩm này rồi thì tác động tâm lý cũng nhẹ đi một phần; Nhưng đằng này Đài Phát Thanh của ta,tiếng nói tâm lý chiến của ta, lại cho phát thanh lần đầu tiên để chúng tôi được đón nhận nó tại vùng lửa đạn mạnh mẽ nhất, thử hỏi tinh thần anh em quân nhân sẽ sa sút biết chừng nào ? Họ cảm nhận tâm lý chiến của ta, đài phát thanh của ta đã trăn trối lời cuối hộ họ .
Tôi đi một vòng dưới cơn mưa pháo của địch, chỗ nào anh em cũng mở radio nhỏ đủ nghe, ai cũng buông tiếng nguyền rủa tục tĩu, đây đó những anh em khác không nguyền rủa thì đang khóc cho những người có tài tâm lý chiến siêu việt này. Tôi vội gọi điện thoại Hotline về BTL/SĐND/HQ  xin phản đối về bài ca này tuy vậy cũng vẫn phải nghe thêm một đêm nữa, trong giai đoạn này không có cánh quân nào đụng độ cấp Tiểu Đoàn nữa, và cũng không có căn cứ nào bị pháo dưới một ngàn đạn cho một ngày nữa, kèm theo đài phát thanh cho nghe nhạc phản chiến nữa . Quí vị thấy quả là một siêu tâm lý chiến, anh em chúng tôi căm gan mà chịu những cực hình đầy đọa tinh thần, khi thấy chính những người anh em của mình đang đâm những nhát dao lút cán vào sau lưng, cay đắng quá, tàn nhẫn thật như thế này hay sao ! Một trăm, một ngàn lần lời ca tụng cũng vất đi . Tinh thần anh em đang ở mức độ cao 90% nhưng khi nghe xong bản nhạc này, xuống chỉ còn 10% đủ mức độ để tự vệ . Các vị làm nhạc và các vị cho phát thanh vừa lòng chưa ? Ngày xưa trong trận chiến Hán Sở tranh hùng bên Trung Hoa; trong lúc khí thế quân của Sở Vương Hạng Vũ còn đang hùng mạnh, Hán Vương Lưu Bang đã dùng tâm lý chiến khai thác điểm chính yếu là quân Sở vì chinh chiến phải xa nhà lâu ngày mà cho soạn bài Bi Ca Tán Sở, dùng loa cho người ca bài này khi xuôi gió hướng về phía quân Sở cũng chỉ có những câu như sau :
..............................
Vợ con mong nhớ chừ, cha mẹ đau buồn
            Đồng ruộng bỏ hoang chừ, ai người trông nom,
            . . . . . . . . . . . . . .
            Chậm tỉnh, uổng đời thân chiến binh
Những câu ca nhẹ nhàng như vậy hàng ngày réo rắt làm cho một quân đội đang hùng mạnh phải tiêu tan, rồi Sở Quốc bị tiêu diệt luôn .
            Làm sao có được những câu tân kỳ và sắc bén như :
            ...................
            Anh trở về viên đạn đồng đen
            Em sang sông cho làm kỷ vật
             . .  . . . . . . . .
            Anh trở về trên chiếc băng ca
            . . . . . . . .  . . .
            Anh trở về dang dở đời em
            Vậy mà chúng tôi chẳng tan hàng, còn đầy đủ tinh thần để tiếp tục chiến đấu quả là một chuyện lạ, một phép lạ, mà hồn thiêng sông núi của dân tộc Việt ban cho chúng tôi.
            Cùng thời điểm đó, cánh quân Béta của TĐ1BBND  do Thiếu Tá Nguyễn quang Sáng chỉ huy (hiện đang cư ngụ tại Milpitas,California) đã tiêu diệt trọn Bộ Tư Lệnh SĐ306, tịch thu chiến lợi phẩm như : Gậy chỉ huy, máy liên lạc tối tân có thể liên lạc thẳng về Hà Nội và đầy đủ tài liệu chứng minh trọn Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn của chúng bị tiêu diệt, khi rút quân ra tới Khe Sanh tôi còn trông thấy những chiến lợi phẩm này trưng bầy tại phòng chiến lợi phẩm của BTL/SĐND hành quân, nhưng không một giòng báo nào của ta nói tới chiến thắng này, nhưng căn cứ 31 bị thất thủ thì báo nào cũng nói tới, (địch quân bị tiêu diệt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn thì không bị chê bai, cũng như vậy ta chỉ bị tiêu diệt Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn, cấp thấp hơn Sư Đoàn, thì lại bị lôi ra vùi dập, hỏi làm sao chúng ta không thua cho được) thôi cũng đành an ủi là báo chí của chúng ta chỉ đăng những tin cơ quan thông tấn ngoại quốc có loan đi mà thôi, đây là điểm rõ ràng nhất tài viết phóng sự chiến trường của phe ta .
            KHẢ NĂNG TÌNH BÁO CỦA TA
            Khả năng tình báo của ta lệ thuộc vào Hoa Kỳ điều đó không ai chối cãi, không ai trách cứ, nhưng ít ra chúng ta cũng phải có khả năng thâu tin hạn hẹp mới đúng, không lẽ nhân viên an ninh tình báo của ta chỉ ngồi chơi đi bắt bạc hay sao ? Vùng hành quân của chúng ta vào Hạ Lào chỗ xa nhất cũng là chỉ cách xa ranh giới là 50km, tức là khoảng 30 miles, vậy mà địch quân cho làm địa hình tất cả những điểm quân sự (toán địa hình bắt buộc phải làm ban ngày, từ điểm khởi hành phải làm lộ thiên trên vùng trống trải, chẳng hạn trên trục lộ, hay từ trên các đỉnh núi cao, trống trải, không thể làm băng qua rừng rậm được) , tức là những điểm chúng ta có thể đóng quân, hoặc có thể đặt Pháo Binh, địch quân đều đã có tọa độ địa hình ( tức là tọa độ của chúng chính xác đến hằng cm hoặc m/m, trong khi chúng ta các đơn vị hành quân chấm tọa độ sai hằng 100 m) nhìn thấy các mốc địa hình mới làm trong tháng, chúng tôi lạnh người và ngao ngán cho tình báo của ta, khi thuyết trình hành quân BTL/HQ  đều không nhắc nhở gì về vấn đề này .
            Thiết Giáp của địch, theo như Bộ tư lệnh chiến trường, địch có nhiều chiến xa T54 trong Hạ Lào vắn tắt là thiết giáp của địch mạnh hơn của ta, đây chính là yếu tố làm cho anh em Thiết Giáp của ta xuống tinh thần không phải là ít, nhưng trên thực tế địch chỉ xử dụng PT76 loại chiến xa này đại loại còn yếu hơn M41 của ta, có thể trong vùng trận địa địch có đơn vị thiết giáp T54, nhưng chúng ít ỏi như vậy nói ra làm chi để hù dọa quân ta .
            Quân số của địch đông gấp bốn lần của ta hoặc hơn nữa, các trung tâm huấn luyện các trại dưỡng quân có quá nhiều, không ai nói tới . 
            Các dàn phóng hỏa tiễn 122ly, 107ly bắn như mưa bay cũng chỉ nói tới thông thường như các chiến trường nội địa, thực tế hàng ngày chúng tôi phải đón nhận hàng 500 trái hỏa tiễn, những giàn phóng hỏa tiễn này, mỗi giàn từ 5 cho đến 7 nòng, gắn trên xe xích trong chiến trường nội địa không có, và ngay cả chiến trường Campuchia chúng tôi đã tấn công ngay vào trung ương cục Miền Nam cũng chưa có loại hỏa tiễn này gắn trên xe xích với 5 hoặc 7 dàn phóng như vậy .
            TINH THẦN CHIẾN ĐẤU CỦA ĐỊCH
            Mỗi lần chúng tôi bắt được tù binh, dù bị thương hay không bị thương những tù binh này rất hung hãn, những lúc ngoài chiến trận họ đúng là đoàn quân cảm tử coi nhẹ tính mạng, sự sống chết (của quân Cộng Sản bắc Việt Nam) nhẹ tựa lông gà tre; Nhưng sau đó chúng tôi biết ngay và thật tình đau lòng, xót thương cho tuổi trẻ miền bắc, những anh chàng thiêu thân này đã chích thuốc "Hùng Anh" trước khi xung trận, đây là loại thuốc kích thích do xưởng sản xuất của Quân Đội Nhân Dân chế tạo, đại để như các loại thuốc sìke của dân bụi đời Sài Gòn, khi chích thuốc này rồi thì coi trời bằng vung, tính mạng coi như không, nhưng khi dã thuốc rồi thì họ lại lấm lét sợ sệt như con gái mới biết yêu lần đầu ; Loại thuốc Hùng Anh này chúng tôi tịch thu được rất nhiều, một số tiêu hủy tại chỗ, một số gửi về BTL/chiến trường .
            Các đơn vị của ta kể cả những đơn vị phải nhảy ra Bắc Việt Nam, những đơn vị nhảy vùng biên giới, hay những toán Viễn Thám có bao giờ lại hèn kém như vậy; khi chích thuốc này quả thật có liều lĩnh nhưng không còn sáng suốt, nên các toán đặc công cảm tử của chúng hoàn toàn thất bại, khi phải đương đầu với các đơn vị được huấn luyện thuần thục .  
            KỸ THUẬT TÁC CHIẾN CỦA ĐỊCH
            Nếu kỹ thuật tác chiến của những Sư Đoàn chính quy Bắc Việt Nam ở mức độ trung bình thì chắc chắn tôi không còn ngồi để viết những giòng chữ này hầu quí vị, chúng chỉ có khả năng và quen những trận đánh thư hùng với quân đội Pháp, chúng chưa được chuẩn bị kỹ càng để đương đầu với đơn vị có trình độ kỹ thuật tác chiến cao; Bởi vậy cho nên trên trận địa, nếu là tao ngộ chiến, thì 2 tiểu đoàn chính quy của Cộng Sản bắc Việt Nam, gặp 1 tiểu đoàn bộ binh Nhảy Dù Việt Nam, thì kể như ngày đó là ngày giỗ của cả hai tiểu đoàn địch, trận Hạ Lào chúng dùng biển người và biển lửa để tàn sát quân ta nhưng chúng đã thất vọng . Băng cớ là khi chúng tôi rút ra khỏi Hạ Lào, địch quân không còn lực lượng nào khả dĩ có thể làm tổn thất cho đơn vị rút lui bằng đường bộ, trong lúc đó đơn vị lui binh, tinh thần cũng xuống mức độ kém, một điểm vô cùng quan trọng là các đài quan sát gần, các toán tiền sát viên Pháo Binh đã bị các đơn vị trinh sát cuả ta làm sạch sẽ trước khi rút lui, lúc đó chúng chỉ còn khả năng tiêu diệt các đơn vị rút lui bằng trực thăng do các đài quan sát của chúng ở xa xác định được vị trí, nhờ chúng đã làm địa hình, điều chỉnh tác xạ trước không chừng, biết trước nên chiến trường đã được chuẩn bị kỹ càng, chúng đã bố trí các vị trí súng Pháo Binh, Phòng Không, Hỏa Tiễn cũng như các điểm địa hình và các đài quan sát từ khi chúng ta còn ở Sài Gòn cho nên bất cứ điểm bốc quân nào cũng nằm sẵn trên xạ bản tác xạ pháo binh của chúng, bởi vậy nếu không đánh lừa được chúng thì khó mà bốc quân ra an toàn, hơn nữa đạn dược của chúng cất dấu sẵn, dư thừa để dùng trong suốt trận đánh không cần phải tiếp tế, vì có thời gian nên các điểm này được ngụy trang chu đáo, ta rất khó phát hiện được chúng, đó chính là yếu điểm quan trọng của ta .
            KỸ THUẬT PHÁO BINH CỦA ĐỊCH
            Nếu trình độ kỹ thuật Pháo Binh của chúng ở mức độ dưới trung bình thì cũng đủ làm cho cánh quân sang Hạ Lào vất vả, nói khác đi chỉ cần một Hạ Sĩ Quan Pháo Binh của ta chỉ huy Pháo Binh của địch tại trận Hạ Lào, thì tất cả các Bộ Chỉ Huy, các Pháo Đội, các Căn Cứ Hỏa Lực của ta đều bị tiêu diệt 100% mà chỉ cần tiêu thụ đạn dược bàng 1/10 số đạn chúng đã tiêu thụ, tôi không đề cao khả năng Kỹ Thuật Tác Xạ Pháo Binh của QLVNCH quá đáng, vì tại hải ngoại hiện nay binh chủng Pháo Binh rất đông và chắc chắn có anh em Pháo Binh đọc những giòng chữ này, tôi xin đưa một thí dụ ( nếu như một ngọn đồi "mục tiêu" đã được làm địa hình, hay chưa làm cũng chỉ chậm hơn mười phút là cùng, vị trí pháo đội làm địa hình, đài quan sát thấy mục tiêu rất tốt, mục tiêu là một pháo đội địch mới thả xuống, chỉ cần một pháo đội 105ly với 1000 đạn đủ loại thì pháo đội địch bị xóa tên ngay trong vòng một vài giờ là tối đa). Tôi xin dẫn chứng một trường hợp tại Hạ Lào, Pháo Đội A1 Nhảy Dù do Đại Uy Đinh Thành Tấn chỉ huy, pháo đội vừa được trực thăng vận từ Lao Bảo vào vị trí hành quân, vừa gióng hướng súng xong, bị pháo địch pháo phủ đầu ngay; không may cho chúng toán quan sát tại vị trí thấy được một điểm khởi hành (vị trí súng của địch) đúng 3 phút sau PĐA1ND phản pháo trả lời, tiêu thụ khoảng 50 đạn nổ, súng địch im lặng ngay và hai ngày sau ĐĐ1TSND cho một trung đội tới lục soát tìm thấy một súng đại bác của địch tiêu hủy 100% và kho đạn nổ văng vãi, cùng những vết máu chan hòa tại chỗ. Ngược lại tất cả vị trí pháo của ta đều đặt lộ thiên, không ngụy trang gì ca, mà có muốn ngụy trang cũng vô ích, địch có thể quan sát thấy rõ ràng từng khẩu đội, chẳng hạn PĐA1ND là chúng đã có tọa độ địa hình "mục tiêu", chắc hẳn tọa độ vị trí cũng được làm địa hình, vậy mà chúng không làm tê liệt PĐA1ND trong suốt thời gian dài gần hai tháng trời tại Hạ Lào, không những vậy không có một vị trí pháo của ta bị tê liệt bởi pháo của địch (xin trả lời một số bạn đọc hỏi năm 1991 về hai chữ tê liệt dùng trong bài này: xin thưa nó có nghĩa là không còn hoạt động được nữa, trường hợp địch pháo làm cho pháo của ta không hoạt động được, trong lúc đang bị pháo, được gọi là bị pháo cầm chân, tôi dùng hai chữ này ý như vậy )  ; Pháo Đội B3 Nhảy Dù tại đồi 31 bị tê liệt là do thiết giáp và bộ binh địch tràn ngập vị trí, PĐC3ND và PĐC44PB hai pháo đội này vì  phải rút bằng đường rừng (đường bộ)cho nên ta tự phá hủy tại chỗ ; TĐ1PBND vẫ kéo đủ 18 khẩu đại bác về Sài Gòn; TĐ2PBND  súng đại bác vẫn trong tình trạng tốt, nên khi tôi sang nhận chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng tiểu đoàn này tại Đông Hà; Tiểu đoàn đã sẵn sàng 18 súng đại bác 105 ly M102 trong tình trạng tốt để tham chiến giải tỏa áp lực địch tại căn cứ hỏa lực số 6 thuộc Tân Cảnh, Kontum, cuộc hành quân này, khai diễn ngay sau khi chấm dứt cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào khoảng không đầy 1 tuần lễ sau .
            Tôi xác quyết rằng, nếu một Hạ sĩ Quan Pháo Binh của ta làm Tiền sát Viên cho địch, một Hạ Sĩ Quan khác chỉ huy Pháo Đội của địch, bất cứ một Pháo Đội nào của ta, mà địch quan sát được thì chỉ cần 1.000 đạn đủ loại tôi chắc chắn Pháo đội của ta sẽ tê liệt sau một giờ ( thực tế thì pháo đội nào của ta cũng bị địch quan sát từng vị trí một rất rõ ràng và chi tiết vì vị trí pháo nào của ta đều được đóng trên vùng trống trải, cao ráo không có ngụy trang gì cả) ; Chứ đừng nói tới sau hơn 1 tháng trời, đạn dược phủ lên đầu mỗi Pháo Đội của ta trên 50.000 đạn đại bác đủ loại cộng thêm các loại hỏa tiễn tối tân hiện đại, vậy mà pháo đội vẫn đứng vững vàng và làm tròn nhiệm vụ yểm trợ chiến thuật tại Hạ Lào rất đắc lực .
            KỸ THUẬT PHỐI HỢP CỦA ĐỊCH
            Tại Hạ Lào máy liên lạc hữu tuyến cũng như vô tuyến của địch đều nhiều và tinh xảo hơn của ta (nói chung thì tất cả đồ trang bị của địch đều dồi dào hơn ta) . Vậy mà Bộ Binh, Thiết Giáp, Pháo Binh của địch không phối hợp được với nhau; Tôi xin dẫn chứng :
            Sau khi căn cứ 31 thất thủ địch quân dồn mọi nỗ lực vào để dứt điểm căn cứ 30; Lúc đó chúng tôi đang trên máy bay CNC cùng với Đại Tá Lê Quang Lưỡng (tất cả máy bay vào vùng hành quân bị bắn rơi rất nhiều, sau một tuần lễ thì ít ai giám bay trên trời Hạ Lào, chúng tôi bay hàng ngày lại cảm thấy sung sướng hơn khi đang ở dưới căn cứ) sự thực thì chúng đã khởi công đánh căn cứ này từ lâu rồi, nhưng chính lúc này là lúc địch quân muốn dứt điểm ngay giữa thanh thiên bạch nhật . Chúng dùng 2 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn thiết giáp, hỏa lực pháo binh dồi dào gấp 10 lần mình hoặc hơn nữa; chúng tôi vừa vào vùng trời của căn cứ hỏa lực 30 thì cường độ pháo bắt đầu mãnh liệt, phòng không giăng đầy trời, hai người xạ thủ đại liên tay lăm le sẵn sàng thả hỏa châu để chống hỏa tiễn phòng không của địch, pilot chính đầy kinh nghiệm tránh phòng không của địch, nên máy bay luôn luôn bị chao đảo thật khó chịu, nếu bay cao tránh phòng không thì quá dễ dàng, nhưng hành động như  vậy không khác nằm ngủ trùm chăn, hậu quả là ta không vô sự mà địch thì chắc chắn vô sự, vì khổ nỗi chúng tôi cần quan sát tình hình tại trận địa, nên chấp nhận đùa dỡn cho vui, chúng tôi nhận được vị trí pháo của địch tôi vội vàng ghi chú ngay để xin oanh tạc, những vị trí này hoàn toàn ngoài tầm pháo của ta kể cả Pháo 175 ly của Hoa Kỳ đặt tại ranh giới Lào Việt . Lúc này không quân Hoa kỳ có yểm trợ nhưng không đâu vào đâu cả, nhìn xuống căn cứ 30 bụi bay mù mịt, đám bụi ngà ngà che lấp hẳn căn cứ 30 , pháo của địch ngưng thì 10 phút sau bộ binh địch khởi sự tấn công, trên máy bay trông xuống như một đàn kiến bu quang căn cứ, các pháo đội của ta hoạt động rất hữu hiệu; tôi im lặng dành cho các TSV và SQ/LL làm việc, những loạt đạn nổ cao của ta hiệu quả vô cùng, chỉ sau chừng 10 loạt đạn CVT của mỗi pháo đội thì đàn kiến không còn nữa, nhưng cứ hết đàn kiến này đến đợt đàn kiến khác chúng chỉ làm mồi cho đạn pháo và các chiến sĩ phòng thủ căn cứ  30 . Sau nhiều đợt xung phong bằng Bộ Binh thất bại, chúng khởi sự tấn công bằng Thiết Giáp; Chúng tôi đếm được 15 chiến xa PT76 tiến vào căn cứ bằng hai ngả đông-bắc-bắc và đông-nam, các ngả khác dốc nên chúng chỉ có thể tấn công bàng bộ binh mà thôi, tôi phải hướng dẫn hai pháo đội của ta xử dụng đạn no, để chống chiến xa rất hữu hiệu, pháo đội C44PB 155ly không có đạn chống chiến xa, nên phải dùng đạn nổ mạnh để chống chiến xa, tôi quan sát thấy những viên đạn pháo 155 ly của ta cứ bay lên trời rồi mới nổ, tôi hiểu ngay là pháo đội đã vặn đầu nổ về (delay)  nổ chậm, vì thế cho nên khi đạn trúng chiến xa bị chạm nẩy bay lên trời mới nổ không làm hư hại chiến xa địch, (lúc đó thiết giáp địch còn ngoài tầm M72 của ta) vì địa thế chỉ có PĐC44PB 155ly là trực xạ được, còn PĐC3ND 105 ly không trực xạ được, (tôi bay xuống thấp hơn và hướng dẫn Pháo Đội Trưởng C44 trực xạ tiêu diệt chiến xa địch, bằng cách vặn đầu nổ trả lại vị thế (squick) nổ nhanh, nhờ vậy chiến xa địch đều bị tiêu diệt trước khi lại gần, tại Hạ Lào hay  trong bất cứ cuộc hành quân nào chỉ danh của tôi đều là 11 "Mười Một", trong cuốn tử thủ đồi 30 tác giả Trương duy Hy có nhắc đến đoạn này) . Khi địch quân xử dụng Pháo Binh và bộ binh phối hợp với nhau vào ngày hôm sau thì bộ binh của chúng lại bị thiệt hại bằng chính pháo binh của chúng .Trận này có dịp tôi sẽ nói tường tận sau . Chúng ta thấy nếu chúng biết phối hợp nhịp nhàng thiết giáp+bộ binh+pháo binh thì căn cứ 30 không thể chống cự đai dẳng hơn  tuần lễ, rồi sau đó đơn vị đồn trú phải tự ý rút lui khỏi căn cứ, khi tiếp tế đạn dược và tản thương vô cùng khó khăn, nói cho đúng là trực thăng không còn hoạt động tiếp tế hay tản thương được nữa, vì pháo và phòng không của địch quá dồi dào .    
            Cũng như ngày tất cả các đơn vi của ta rút ra khỏi Hạ Lào, các đơn vị địch mạnh ai nấy đánh, các đơn vị pháo binh của chúng dùng các hỏa tập không quan sát, pháo vu vơ đôi lúc trở thành yểm trợ cho quân ta trên đường rút quân, nếu địch quân phối hợp nhịp nhàng thì trong chiến trận cũng như lúc rút quân ra khỏi Hạ Lào tai hại cho ta không thể lường được .
            KẾT LUẬN
            Chúng ta vào Hạ Lào vì nhiệm vụ phá hủy kho tàng, tiêu diệt tiềm năng tiếp vận của địch; Chúng ta ra khỏi Hạ Lào vì nhiệm vụ vủa chúng ta đã hoàn tất. Việc thắng bại, hay sống chết là chuyện thường tình không có gì vinh hèn trong đó,  Một trận chiến đã tàn nhưng dư âm của nó vẫn còn vương vất đâu đây, oan hồn tử sĩ không trận nào không có, không có nghĩa chết là hết chúng ta muốn nói sao cũng được, người sống ngậm tăm cho tao nhân mặc sức làm thơ điên loạn, đó là điều không một ai chấp nhận phũ phàng như vậy được, xin hãy trả sự thật lại cho sự thật, người viết không mong gì hơn nói lên một sự thật, không phải muốn che lấp sự hèn yếu của mình, của đơn vị mình, của toàn quân toàn dân, vì trận chiến của chúng ta không có vinh nhục, mà người viết muốn bước lên diễn đàn thông tin nói cho tất cả mọi người hay rằng, đúng một tăm phần trăm chúng tôi bị thua trận giặc này, vì chúng tôi bị tứ bề thọ địch.
            Ngày rút quân ra khỏi Hạ Lào hai đài VOA và BBC đã thông báo trước cho địch quân, khỏi cần hai đài phản bội loan tin thì địch quân cũng phải biết như vậy, chúng đã lấy được toàn bộ lệnh hành quân, phóng đồ hành quân của ta, khi trực thăng của vị sĩ quan Tham mưu BTL/Hành Quân bị bắn rơi, trước khi cuộc hành quân này bắt đầu, không lẽ chúng ta còn ở lại khi nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn tất .
            Hành quân tấn công địch tương đối dễ hơn, hành quân rút lui, trong lúc khó khăn đó mà thành công được, điều chắc chắn là tinh thần kỷ luật phải cao, các Sĩ Quan chỉ huy trực tiếp phải tinh khôn và gan dạ, hơn nữa dịch quân phải hoàn toàn mất tinh thần, hoặc địch quân phải tổn thất quá nặng nề, nếu không đoàn quân rút lui sẽ bị tiêu diệt hoặc ít ra tinh thần cũng sa sút trầm trọng muốn tham chiến lại được cũng phải một thời gian sau, khi đã được tái huấn luyện kỹ càng.
            Xin các Đấng Linh Thiêng của dân tộc Việt, xin Hồn Thiêng sông núi, xin linh hồn của các chiến sĩ vô danh, xin vong hồn của bạn bè, xin Trời Phật, xin Ơn Trên hãy phù hộ cho đàn con yêu của đất nước được vững mạnh tinh thần, xin các vị chuyên viết phóng sự chiến trường bằng tài liệu hãy nương tay, để ngày rất gần Hoa Dù lại nở trên quê hương ta . , .

                                                                                                       Mũ Đỏ Bùi Đức Lạc                                                                       

HÀNH QUÂN VƯỢT TUYẾN 
            BIÊN GIỚI VIỆT-MIÊN- LÀO 
Huỳnh Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh     
 Sáng sớm,trời còn mờ trong hơi sương núi,tỉnh Pleiku-Quân Đoàn II bị khua động và tỉnh thức trong tiếng máy bay trực thăng đáp xuống sân bay dã chiến quân đoàn.Các Sĩ Quan cấp tướng- tá các ban ngành tham gia hành quân đều có mặt đầy đủ tại phòng hành quân,ban 3 quân đoàn II để nhận lệnh xuất phát hành quân.Và cũng nhận lời được lời huấn thị quân sự cho sĩ quan các cấp nhận lãnh trách nhiệm trách nhiệm hành quân là dám nhận lãnh trách nhiệm và dinh dự tổ quốc trao cho...Những quyết định cấp chỉ huy trên chiến trường,mặt trận là quyền hành tuyệt đối của tổ quốc trao cho,nên cần phải có trí và có tài thao lược cùng kinh nghiệm chiến trường,để xử trí và quyết đoán chiến thuật trên các mặt trận hầu bảo vệ mạng sống các chiến hữu dưới quyền mình và cho vợ con của họ.Một quyết định sai lầm là chết cả một đoàn quân do mình chỉ huy trong tích tắt vài phút vài giây cho cả cái chết do sai lầm quyết định cấp chỉ huy đưa ra...Hậu quả là ngay tức thì...Không phải chờ đợi lâu lắc...! như "Nhân quả luân hồi của nhà phật cho kiếp lai sanh".Vì " Súng đạn vô tình...nhưng lòng người nên nhân đạo"....Tướng Hiếu nói xong,ai về vị trí nấy!Riêng ông oai vệ tiến sa sân bay trong tiếng nổ máy trực thăng đợi sẵn.Ông nhảy phóc lên trực thăng  theo thao tác quân trường ,băng cách chống hai tay trên sàn trực thăng và quăng mình gọn ghẽ lên ghế ngồi bên cạch xạ thủ trực thăng., vì ông vốn nhỏ con,nhưng nhanh nhẹn làm Pilot Mỹ thán phục và kính trọng ông Hiếu,một tướng lãnh QL.VNCH.Hình ảnh ông tướng Hiếu, tôi rất cảm phục và là ảnh tượng suốt đời binh nhiệp của tôi.

 Đoàn quân tập họp tại đồn điền trà Catexca gồm các trung đoàn 47,trung đoàn 40,trung đoàn của sư đoàn 22 BB,cộng thêm 2 trung đoàn của sư đoàn 23 BB  và tăng phái thêm 3 tiểu đoàn BĐQ của thành Pleime,có thêm sự tham gia của liên đoàn Biệt Kích 81 Dù. 2 chi đoàn thiết giáp, có pháo binh Pleiku yểm trợ và Đặt căn cứ Hàm Rồng-Nơi tôi thường trú đóng quân, làm trung tâm hành quân.vì nơi đay là ngọn núi cao 1.680 mét-so mực nước biển- dể liên lạc thông tin sang tận Campuchia 125 km điều động hành quân cho máy truyền tin PRC 25 hoạt động hữu hiệu lệnh lạc diều phối quân. Và lấy cửa khẩu Đức Cơ làm điểm xuất phát hành quân vượt tuyếnsang Cam phuchia.
   Cuộc hành quân này nhằm ngăn chặn đoàn quân Cộng Sản Miền Bắc vượt dãy Trường Sơn vào Nam tiếp tế cho VC nằm vùng cùa trung ương cụcR miền nam, thuộc biên giới và tỉnh TâyNninh và loan tỏa sang Cao Mêm và Lào,dọc vùng biên giới Việt Miên Lào.Quân Cộng Sản Bằc Việt gồm 5 sư đoàn chính qui,trang bị vũ khí hiên đại gồm xe tăng,đại pháo hỏa tiễn phòng không cao xạ...bạc núi,băng rừng tiến về phương nam,đê cung cấp,trang bị số vũ khí này cho VC miền nam và bọn Khờme Đỏ thân Trung Cộng và du kích Phathet-Lào...Mặt trân này không có không quân và TQLC Hoa Kỳ tham gia...Vì Quốc hội Mỹ không cho phép mở rộng chiến tranh sang Campuchia và Lào.Vì thế đặt cho QL.VNCH vào tình thế nguy hiểm không có B.52 yểm trợ trước quân số quá đông- Biển người-Cộng Sản Miền bắc.Với vủ khí tối tân hiện đại hóa của Nga Tàu.
   Xe tăng thiết giáp của VNCH không phải là đối thủ của tăng T, 54 hay PT. 76 của  Nga-Tàu...nhưng nhờ sự lãnh đạo tài ba, lổi lạc thông minh, sáng suốt của viên Tướng  Nguyễn Văn Hiếu đã tiên liệu được nhu cầu cho mặt trận,cần phải được trang bị cho binh sĩ VNCH tối đa hỏa tiẽn vác vai M.72 chống tăng địch và phá hủy lô cốt và diệt chốt chống càng của cộng quân. Mà thật vậy!Một trái hỏa hỏa tiễn vác vai  nổ ra chỉ làm cho PT 76 cộng quân xoay ngang mòng mòng...phải bắn tiếp 2 phát nữa nó mới chịu bốc cháy mằm im trước khi nó chạy tới cán chết binh sĩ ta...Nhờ các Hỏa tiễn chống tăng M 72 là hỏa lực chính chính yếu, cứu nguy cho Ql.VNCH,trước các khẩu đại pháo hạng nặng,phòng không cao xạ hầu như im hơi,bặt tiếng vì ta không cần có máy bay không yểm để cho chúng nhả đạn bắn rơi!?.
   Các chiến sĩ, quân ta phá hủy các ổ đại pháo,phòng không của địch,bắt gặp những xác chết công quân còn bị xiềng xích vào ổ đại pháo,mặc đồ bộ đội cụ Hồ,nhưng xác là lính Trung Quốc cải trang,do những lính Ba Tàu Chợ Lớn bị bắt lính-VNCH- nhận diện ra đông loại của chúng {Chớ xác chết không bao giờ biết nói và tự nhận mình}.Họ,buộc phải chết và không dám để bị bắt cho khai thác tù binh.Trận này, quân ta đánh tan rả đoàn quân cộng sản ra thành nhiều mãnh,phá hoại con đường tiếp tế, vận chuyển cho du kích Khờ me Đỏ,và giải tỏa áp lực cho chinh quyền Lon Nol thân Mỹ bị bao vây gây sức ép bởi Trung Cộng.Các chiến lợi phẫm tịch thu được gồm những tiền giấy Campuchia giả mạo do Tung Cộng in ra  với mục đích phá hoại nền kinh tế Campuchia do chính quyền Lon Nol thân Mỹ lãnh đạo,.còn mới cáo cạnh,thơm mùi mục in chứa trong các thùng giấy carton có chữ China sản xuất bị bom đạn của quân ta bắn vở và bay tung tóe như đàn bướm lượn trên cánh rừng lá thắp rớt xuống ao hồ khe suối.binh sĩ ta thấy tiếc,dựng cho một ngực tiền Trung Quốc,đem phát lại cho bà con Khờ Me đói nghèo trên dọc đường rút quân về mạng theo nhiều kỷ niệm hành quân Vượt tuyến -Campuchia.

Trong trận đánh vượt tuyến biên giới sang Campuchia,của Việt Nam Cộng Hòa đã bẻ gảy được âm mưu  thâm độc của Cộng Sản Quốc tế Nga Tàu muốn biến Việt- Miên -Lào thành Cộng Sản Đông Dương là nhờ vào Thiên tài Lịch Sử Viêt Nam Nguyễn Văn Hiếu cầm quân sang giúp Lon Nol là đồng minh chiến hữu Campuchia.Không những ông giỏi về chiến lược quân sự,mà còn giỏi về chính trị kinh tế cúu nguy cho chính quyền Lon Nol chậm sụp đổ và kéo theo sự sụp đổ VN cuối tháng Tư-30-4-1975.
   Thiên Tài lịch sử Việt Nam Nguyễn Văn Hiếu rất hiến có trong các tướng lãnh QL.VNCH,nhờ lòng trung kiên chính trực, một lòng  chình nghĩa yêu nước của người Việt Quốc Gia.Nhưng trời chưa thương dân tộc Việt Nam vào gói trọn dân tộc này trong số phận đau đớn bằng 2 câu thơ của Nguyễn Du:
"Trời bắt phong trần phải phong trần.
Cho thanh cao mới được phần thanh cao..."
  Và bất kể chi tài hỡi cố nhân Ơi...!!!

Một chút tâm tư về cuộc chiến

"Hành Quân Vượt Tuyến" tôi viết ra để nói lên sự mang ơn những chiến
hữu hy sinh và bảo vệ mạng sống của tôi khi bi thương trên chiến
trường trong trận"Hỏa Cộng" của giặc cộng đốt cháy một ngọn đồi đầy "
Cỏ tranh khô" có vị trí chiến thuật đống quân trên cao và dể che
dấu,ẩn núp,và có lợi thế dể quan sát địch tình...trong đám cỏ khô
nhưng không ngờ nó di hại đến thế,khi đụng trận thì lửa đạn đốt cháy
đám cỏ khô này!!!Tôi nhớ không lầm bị thương vào cuối mùa tháng 2-1970
có gió mùa khô rất nóng-Gió Lào- thổi về cỏ cây héo úa dể dàng làm mồi
lửa cho chiến thuật "Hỏa Công" mà cả ta và cộng quân điều thiệt
hại...
Tôi muốn đưa ra một chứng liệu của Cộng quân Bắc Việt nói về chiến
dịch "Vượt Tuyến Hành quân" này của QL.VNCH dọc dài theo biên giới
Việt- Miên-Lào vào những năm 70-71,tảo thanh giặc cộng để Việt Nam Hóa
Chiến Tranh cho Người Mỹ " Phản bội" rút quân.

"Tháng 1-1970, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 18
(khóa III) nhận định: tình hình sẽ diễn biến phức tạp ở Campuchia,
đường hành lang vận chuyển chi viện cho Nam Bộ và một phần Khu 5 có
thể bị cắt đứt, gây khó khăn cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Hội
nghị cũng đề ra nhiệm vụ quốc tế là tăng cường chi viện cho cách mạng
Lào, góp phần cùng quân và dân Lào đánh bại chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt tăng cường” của đế quốc Mỹ ở Lào. Đặc biệt, sau khi quân Mỹ
và quân đội Sài Gòn mở cuộc tiến công xâm lược Campuchia, Bộ Chính
trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết nêu rõ: “Mỹ và tay
sai sẽ tiếp tục việc chuyển hướng chiến lược trên chiến trường miền
Nam nước ta, từng bước rút một lực lượng lớn quân Mỹ, đồng thời để một
bộ phận quân Mỹ, nhất là không quân và hậu cần làm chỗ dựa để thực
hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”(2). Trên cơ sở đánh giá chính xác âm
mưu, quy luật hoạt động của địch trong năm 1969 và đầu năm 1970 trên
chiến trường, Bộ Chính trị nhận định: địch sẽ tiếp tục những hành động
phiêu lưu quân sự mới trong thời gian tiếp theo, đồng thời dự đoán
chính xác phương hướng tiến công chiến lược của chúng trong mùa khô
1970-1971 sẽ là tuyến vận tải chiến lược của ta ở Trung Lào, Hạ Lào và
Đông Bắc Campuchia, thực hiện biện pháp được gọi là “cuộc chiến tranh
bóp nghẹt” nhằm ngăn chặn tận gốc con đường chi viện của ta cho chiến
trường miền Nam. Về đối tượng tác chiến, Bộ Chính trị cũng cho rằng,
trong khuôn khổ chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” thì trong các
cuộc hành quân có tính chất phản công chiến lược của địch, lực lượng
nòng cốt chủ yếu là quân đội Sài Gòn có sự chi viện mạnh về hỏa lực,
phương tiện cơ động và một bộ phận quân Mỹ bảo đảm phía sau..."{.hết
trích đoạn}
Xin bạn tham khảo nguồn dẫn,và cám ơn bạn quan tâm đến một Một Đạo
Quân Chiến Sĩ VNCH vẫn còn bị lãng quên vai trò lịch sử Tự Do dân chủ
Miền nam VNCH.
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2011/13849/Chien-thang-Duong-9-Nam-Lao-1971-thang-loi-cua-tu.aspx

                                                                             Huỳnh Mai St.8872
                                                           {Tưởng Nhớ  Cố Trung Tướng Nguyễn Văn Hiếu} 


Trận chiến khe sanh
 1-2-3-4-5-6





Khe Sanh, Bảo Tàng TQLC và 2 cựu sỹ quan ưu tú Mỹ Việt

Đại tá hồi hưu Dick Camp, người từng tham gia trận đánh ác liệt kéo dài nhiều tháng trời tại căn cứ Khe Sanh, hôm 12 tháng Giêng vừa rồi đã trực tiếp dẫn giải cuốn phim tài liệu Unsung Heroes: The Battle of Khe Sanh về trận chiến này tại viện Bảo tàng Thủy quân Lục chiến ở thị trấn Triangle, phía bắc bang Virginia, cách thủ đô Washington trên 30 dặm. Trong Câu Chuyện Nước Mỹ hôm nay, Lan Phương sẽ tường thuật buổi trò chuyện với ông về cuộc họp mặt tại viện Bảo Tàng chiếu cuốn phim tài liệu Unsung Heroes nói đến trận Khe Sanh đồng thời tìm hiểu thêm một số chi tiết qua cuộc điện đàm với cựu Trung tá Biệt Động Quân Hoàng Phổ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975, một người từng chiến đấu tại Khe Sanh ngày đó, hiện cư ngụ tại thị trấn Athens, bang Texas.
Bản đồ phía bắc tỉnh Quảng Trị
Hình ảnh/Video
Nghe
  • Khe Sanh, Bảo Tàng Thủy Quân Lục Chiến

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét