Mot bai nghien cuu cong phu va dang duoc doc!
Xin cam on ong Thanh Pham da chuyen cho doc!BD.Thân chuyển
TẤN CÔNG TOÀN CẦU THẦN TỐC CỦA MỸ
Tấn công thần tốc toàn cầu” bằng vũ khí phi hạt nhân của Mỹ , sẽ tiêu
diệt mục tiêu ở bất cứ điểm nào trên phạm vi toàn cầu, trong thời gian
1 giờ.
Do những thâm hụt và khủng hoảng ngân sách, Mỹ có thể sẽ cắt giảm các khoản chi tiêu dành cho quốc phòng. Nhưng
sẽ rất sai lầm nếu cho rằng, từ những cắt giảm đó, sức mạnh quân sự Mỹ
sẽ yếu đi. Quân đội Mỹ đang cố gắng giảm thiếu các chi phí thông thường,
nhưng lại tăng cường các khoản đầu tư ngân sách kỷ thuật mới.
Trên
thực tế, Mỹ đã chi một khoản ngân sách rất lớn nhằm phát triển chương
trình “Đòn tấn tấn công thần tốc toàn cầu” (Prompt Global Strike - PGS).
Đây là hệ thống tấn công bằng vũ khí phi hạt nhân, tiêu diệt mục tiêu
ở bất cứ điểm nào trên phạm vi toàn cầu trong thời gian giới hạn 1 giờ.
Đây là chương trình có tên gọi DARPA Falcon Project (Falcon HTV-2). Số
lượng các loại vũ khí này trong kho vũ khí chiến lược Mỹ ngày càng tăng.
Theo
đánh giá của các chuyên gia Bộ Quốc phòng Nga, đến giữa thập kỷ trong
trang bịsẵn sàng chiến đấu của Washington sẽ có từ 1.500 – 1.800 hỏa
tiển hành trình tốc độ siêu thanh sử dụng phương tiện mang trên không và
trên biển, nhằm mục đích giáng những đòn tấn công chính xác tiêu diệt
các mục tiêu quan trọng trong loạt phóng đạn đầu tiên. Đến năm 2020 số
lượng này có thể tăng đến 2500 – 3000 đơn vị.
Đầu đạn siêu thanh dự án DARPA Falcon Project. |
Mỹ
nỗ lực phối hợp hệ thống “đòn tấn công thần tốc toàn cầu” với hệ thống
phòng thủ vũ trụ và hệ thống phòng thủ hỏa tiển để thành một siêu hệ
thống. Dưới lá chắn của hệ thống tấn công và phòng thủ toàn cầu, vũ khí
tấn công chiến lược của các cường quốc, bao gồm cả vũ khí hạt nhân sẽ
trở thành vô dụng. Các đòn tấn công của Mỹ với thời gian rất ngắn, sẽ
đánh trúng các mục tiêu – phương tiện mang chiến lược, số lượng không
đáng kể các hỏa tiển được phóng lên sẽ bị bắn hạ
bởi hệ thống phòng thủ tầm xa.
Với
hệ thống tấn công – phòng ngự này, Mỹ dự tính sẽ làm lệch cán cân
chiến lược toàn cầu và khu vực về phía Mỹ, đẩy khả năng phản kích hoặc
tấn công của của các nước khác trở thành nhỏ nhất hoặc bằng không trong
các tình huống đặc biệt nghiêm trọng và dồn nén không gian chiến lược
của đối phương ở mức nhỏ nhất, bao quanh biên giới các nước không thân
thiện.
Đòn tấn công thần tốc của các đầu đạn siêu thanh nhằm vào các mục tiêu chiến lược như hầm phóng hỏa tiển đạn đạo. |
Điều
này đẩy các nước sở hữu vũ khí tấn công chiến lược vào tình huống khó
khăn: Hoặc họ mất hoàn toàn khả năng phản kích đối phương bằng vũ khí
chiến lược, hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân ồ ạt tấn công trước để tránh bị
hủy diệt.
Một
câu hỏi được đặt ra: Ai sẽ là đối thủ chính trong chiến lược siêu phòng
ngự này, trong danh sách đen của Mỹ sẽ có các nước như: Iran, Bắc Triều Tiên, Nga, Trung cộng .
Với Iran, vấn đề hoàn toàn chưa rõ ràng, Bắc Triều Tiên trên thực tế
tiềm lực tấn công bằng vũ khí hạt nhân khá nhỏ do công nghệ phát triển
chưa đủ mạnh. Do vậy, hai cường quốc được Mỹ chú trọng là Nga và Trung
cộng.
Sơ đồ thử nghiệm Falcon HTV trên Thái Bình Dương. |
Liên
bang Nga với lực lượng vũ trang có hệ thống hỏa lực phòng không mạnh
nhất thế giới và đã từng được thử thách, từ giai đoạn của chiến tranh
lạnh đã xây dựng hệ thống phòng không và phòng thủ vũ trụ thành các
tuyến phòng thủ rất mạnh, được trang bị các hệ thống hỏa tiển như S –
400, S-400M, các tổ hợp phòng thủ hỏa tiển tầm trung và tầm gần “Tor” và
“Amur” thuộc hệ thống phòng không thành phố Moscow A- 135. Hệ thống
phòng thủ đa tầm, rộng khắp và dày đặc này có thể bẻ gãy mọi đòn tấn
công từ trên không ngay từ
ngoài
biên giới nước Nga.
Nếu Mỹ muốn tấn công nước Nga bằng các hỏa tiển siêu thanh, thì toàn bộ châu Âu sẽ nằm trong vòng nguy hiểm.
Đây là điều Mỹ hoàn toàn không mong muốn. Ngược lại, Nga có thể
phản công rất nhanh bằng các hệ thống hỏa tiển đạn đạo tầm trung và tầm
xa phóng từ tàu ngầm trực tiếp vào nước Mỹ. Với đòn tấn công tầm trung
và các hỏa tiển đạn đạo ngày nay, phòng thủ hỏa tiển Mỹ hoàn toàn vô
dụng.
Như
vậy, nếu xét trên khía cạnh chiến lước tấn công và phòng ngự theo
phương án thống trị 3 không gian chiến lược – vũ trụ, trên không và trên
biển, tính toán đến những khả năng và sự trỗi dậy của Trung cộng , cùng
với những tuyên bố và chính sách đối ngoại quốc phòng. Có thể thấy rõ,
theo các chuyên gia, hypersonic vehice như X-41 đang nhằm vào Trung cộng .
Cùng
với sự ngạc nhiên của các chuyên viên quân sự thế giới trong lĩnh vực
phòng thủ, các tướng lĩnh và nhà khoa học Trung cộng quan tâm nhiều đến
hệ thống phòng thủ hỏa tiển và bỏ qua mối nguy cơ bị tấn công tầm xa
bằng những đòn tấn công đầu đạn siêu thanh. Một số chuyên gia nhận
xét, Trung cộng đang đứng trước những lựa chọn khó khăn. Từ một hướng,
khoa học quốc phòng không có khả năng xây dựng một hệ thống phòng thủ
hiệu quả. Từ góc độ khác, nếu như Trung cộng
đầu tư
xây dựng hệ thống, các nước khác sẽ phát giác ra hạn chế đồng thời làm lộ bí mật các hầm phóng ngầm của hỏa tiển đạn đạo.
Sự
phát triển mạnh mẽ các đầu đạn tấn công của Trung cộng Đông Phong
DF–21 định hướng tấn công hkmh, cũng như số lượng các hỏa tiển mang đầu
đạn hạt nhân cũng như đầu đạn thông thường của Trung cộng khá lớn.
Riêng 2 lữ đoàn DF – 21 được sử dụng để đẩy lùi hkmh của Mỹ ra khỏi
tuyến phòng thủ biển khơi thứ 1 của Trung cộng . Điều này đã đặt cho Mỹ
nguy cơ khó lòng bảo vệ các căn cứ của mình trên Okinawa cũng như đảo
Guam, các đồng minh của Mỹ ở khu vực biển Hoa Đông và Biển Đông sẽ bị
sức
ép nặng nề từ hải quân Trung cộng mà Mỹ không thể có hkmh để giải
quyết khủng hoảng nếu xảy ra.
Từ
những căn cứ tính toán về khả năng tấn công tầm rất xa tiêu diệt các
trận địa hỏa tiển bằng vũ khí phi hạt nhân siêu thanh (loại vũ khí phá
hủy bằng động năng như X-41 hoặc Falcon HTV) Mỹ có thể tấn công các
trận địa của PLA ngay khi mới xữ dụng đội hình tác chiến, đồng thời có
thể công kích mọi điểm trên lãnh thổ Trung cộng với thời gian ngắn hơn
rất nhiều lần hỏa tiển Trung cộng tiếp xúc mục tiêu.
Tấn công bằng nhiều phương tiện mang PGS với tầm bay nhiều nghìn km tấn công các hệ thống hỏa tiển đạn đạo. |
Với
tốc độ bay siêu thanh từ thượng tầng khí quyền, vật thể bay được cấu
tạo để bay theo cách lướt trên không , với góc dốc xuống không lớn gây
khó khăn cho các loại hỏa tiển phòng không tầm cao, tầm trung và hoàn
toàn không thể bị bắn hạ ở tầm gần.
Đầu
đạn động năng chắc chắn được chế tạo từ vật liệu siêu bền sẽ tăng khả
năng chịu đựng các đầu đạn phòng không. Ngoại trừ cách phá hủy bằng
động năng thì khả năng tiêu diệt đầu đạn rất khó. Cũng chưa có loại hỏa
tiển nào của Trung cộng có khả năng đánh chặn, ngoại trừ trường hợp
Trung cộng mua của Nga S – 400, điều mà họ đang thương thuyết.
Sơ đồ đường bay tấn công của Falcon HTV-2. |
Cho
đến khi Trung cộng có thể có được một hệ thống phòng không tầm xa và
dày đặc như của Nga, thì Mỹ vẫn âm thầm phát triển PGS, sẽ không ngạc
nhiên nếu các đầu đạn PGS có tốc độ bay từ 5 – 6 M cho đến gần 20 M thì
cũng không có hệ thống hỏa tiển nào đánh chặn được, ngoại trừ S-500 hoặc
các hỏa tiển thế hệ sau cao hơn nữa có tầm phòng không đến hàng nghìn
km. Đó có thể là chuyện của Trung – Mỹ đến năm 2020 trong vòng xoáy chạy
đua vũ trang mới trên Thái Bình Dương.
Trong khi
đàm phán vấn đề giảm thiểu vũ khí tấn công chiến lược, Nga đã phát biểu
chống lại khả năng Mỹ sử dụng các phương tiện mang vũ khí hạt nhân để
lắp đặt các đầu đạn phi hạt nhân, điều đó đã giúp Mỹ giảm một khoản ngân
sách khổng lồ cho phòng thủ hỏa tiển, đồng thời thúc đẩy chương trình
phát triển hệ thống vũ khí “Đòn tấn công thần tốc toàn cầu” siêu thanh -
supersonic.
Có
thể trong tương lại , có nhiều khả năng trong các cuộc đàm phán về giảm
vũ khí hạt nhân, Nga vẫn tiếp tục duy trì quan điểm của mình. Nhưng Nga
cũng không thể dừng hoặc hãm chậm tốc độ nghiên cứu và phát triển vũ
khí siêu thanh. Trong việc này có vấn đề Nga đang yêu cầu Mỹ hãm chậm
tốc độ hoặc hủy kế hoạch triển khai hệ thống phòng thủ hỏa tiển ở châu
Âu, đồng thời nỗ lực tìm kiếm sự ủng hộ của các cường quốc hạt nhân
khác. Vì vậy, Nga không có điểm nào có lợi thế để ngăn chặn hoặc phản
đối kế hoạch phát
triển vũ
khi siêu thanh của Mỹ.
Nhưng
trên thực tế, những nước trang bị vũ khí thông thường sẽ rơi vào tình
thế yếu hơn so với Mỹ, để tránh bị tổn thương, họ thường hướng đến
phương pháp đấu tranh phi đối xứng. Sự ổn định chiến lược của thế giới
một phần rất lớn phụ thuộc vào sự ổn định ở châu Âu và Đông Bắc Á.
Thế giới cần hiểu điều đó và làm cho các siêu cường, thường hay tuyên
bố “vì một thế giới không còn vũ khí hạt nhân” hiểu được vấn đề này với
hy vọng họ không phát triển các loại vũ khí theo công ước quốc tế, nhưng
lại có thể thay thế được vũ khí hạt nhân. Điều đó sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến an ninh thế giới.
Những
người thật sự yêu hòa bình hy vọng rằng, hệ thống phương tiện căn bản
để có thể phóng những đầu đạn siêu thanh phi hạt nhân cũng như hệ thống
phòng thủ hỏa tiển sẽ là những vấn đề được đề cập đến trong các chương
trình nghị sự nhằm cắt giảm các loại vũ khí tiến công chiến lược. Đây
cũng là một cơ hội gìn giữ hòa bình và ổn định.
Trịnh Thái Bằng
Chuyên gia Úc mổ Su-35 của Nga
theo Đất Việt | 16/08/2013 10:30Su-35-chiến đấu cơ đa năng tiên tiến với khả năng siêu cơ động, trang bị vũ khí tối tân, được tờ Air Power Australia đánh giá là "đỉnh cao công nghệ".
Su-35 được sản xuất bởi công ty hàng không nổi tiếng Sukhoi của Nga.
Máy bay có sải cánh 15,24 m.
Máy bay được trang bị 2 động cơ phản lực tiên tiến AL-41F1 với hệ thống điều khiển lực đẩy vector đa chiều.
Mỗi động cơ có lực đẩy trên 15 tấn.
Su-35 có thể bay ở tốc độ 2.400 km mỗi giờ.
Tầm hoạt động tới 3.200 km
Su-35 là loại chiến đấu cơ một người ngồi.
Su-35 được thiết kế để thực hiện tất cả các nhiệm vụ không - đối - không, không - đối - đất/biển.
Trong năm 2004, cuộc tập trận không quân giữa Ấn Độ và Mỹ, loại
chiến đấu cơ tiền thân của Su-35 là Su-30MKI đã vượt mặt máy bay F-15
của Mỹ.
Sự kiện đó được xem là một chiến thắng lớn của ngành công nghiệp hàng không Nga.
Không có ‘cửa’ cho F-35 khi cận chiến với Su-35
Tuân Việt | 28/06/2013 09:00
Là máy bay chiến đấu có khả năng tàng hình tốt nhất của Mỹ nhưng F-35 vẫn là con mồi dễ dàng cho Su-35.
Nhiều người tin rằng đây là tuyên bố hoàn toàn đúng, indrus.in ngày 26 tháng 6 cho biết.
Trong tháng 7 năm 2008, một trận chiến
giả định trên không đã được thực hiện, mô phỏng chiến đấu cơ siêu cơ
động thế hệ 4 ++ Su-35 của Nga chống lại một phi đội hỗn hợp bao gồm
các máy bay chiến đấu của Mỹ là F-22, F/A-18 Super Hornet và F-35. Kết
quả là phi đội chiến đấu cơ của Mỹ đã bị đánh cho te tua, hệt như "một
đứa trẻ bị ăn đòn roi" vậy.
Cuộc chiến mô phỏng được thực hiện tại
căn cứ không quân Hickam của Mỹ ở Hawaii, trước sự chứng kiến của ít
nhất bốn thành viên thuộc lực lượng không quân và tình báo quân sự
Australia. Nghị sĩ quốc hội Australia Dennis Jensen với những hiểu biết
của mình cho rằng, F-35 đã bị Su-35 “đánh bại một cách không thương
tiếc".
Sukhoi Su-35 là một máy bay chiến đấu
của 4 + + nhưng còn được trang bị các công nghệ tiên tiến áp dụng cho
máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5 như khả năng tàng hình. Khả năng để bắn
hạ máy bay tàng hình được quyết định chủ yếu bởi khả năng cơ động.
Hệ thống khí động học của Su-35 cho phép
nó có thể thực hiện tất cả các thao tác bay phức tạp, trong đó có thuật
bay rắn hổ mang Pugachev và thuật bay quay tròn mà chưa từng có loại
máy bay nào làm được (thuật bay này gọi là Pancake – tức là máy bay có
thể cua 360 độ trên không mà không mất tốc độ).
Thuật bay rắn hổ mang của Su-35.
Các nhà quân sự phương Tây không coi
trọng khả năng cơ động của máy bay, mà theo họ trong thực tế khả năng
tàng hình mới là số một. Người đứng đầu chương trình F-35 của công ty
Northrop Grumman Pete Bartos cho rằng tàng hình là một yêu cầu cơ bản
cho sự phát triển của F-35, do đó nó không cần có khả năng cơ động cao.
Su-35 tại triển lãm Paris Air Show 2013.
Tuy nhiên, Daily Mail dẫn một nguồn tin quân sự tin cậy từ ngành công nghiệp quốc phòng cho biết rằng "tàng hình là rất hữu ích, nhưng nó không phải là áo tàng hình của Harry Potter".
Thật vậy, Không quân Hoa Kỳ luôn chú trọng đến tàng hình, trong khi lý
thuyết chiến đấu trên không thì liên tục được phát triển. "Trong
những năm 1940-1950 yêu cầu của máy bay chiến đấu đầu tiên đó là độ cao,
sau đó là tốc độ, rồi mới đến tính cơ động và hỏa lực. Còn đối với các
máy bay chiến đấu thế hệ thứ ba và thứ tư thì ưu tiên tốc độ hơn, sau đó
mới là cơ động, và cuối cùng là siêu cơ động. Nó giống như con dao
trong túi của người lính”, Anh hùng phi công Nga Sergey Bogdan cho biết trong một cuộc phỏng vấn với
Aviation Week.
Chuyên gia hàng không Bill Sweetman nói
rằng máy bay chiến đấu bay với quỹ đạo bay không thể đoán trước sẽ làm
“hỏng” thuật bay của tên lửa đối phương, đồng thời nó có thể phóng tên
lửa tầm ngắn với độc chính xác cực cao để tiêu diệt mục tiêu.
Máy bay tàng hình F-35.
F-35 thì hoàn toàn phụ thuộc vào khả
năng tàng hình và không thích hợp khi tham gia các cuộc chiến tầm gần và
do đó nó dễ bị tiêu diệt khi cận chiến với Su-35. Máy bay chiến đấu Nga
sở hữu một kho vũ khí chết người, với tầm bắn xa và tất nhiên là có khả
năng cơ động tuyệt vời, thậm chí trở thành thương hiệu của gia đình
Su-27.
Sergei Bogdan nhớ lại rằng vào năm 1989,
Su-27 đã thực hiện thành công thuật bay "rắn hổ mang": thay đổi vận tốc
một cách nhanh chóng có thể thoát khỏi sự đeo bám của radar Doppler
điều khiển hỏa lực của máy bay chiến đấu đối phương. “Tính cơ động thậm chí còn hiệu quả hơn ở Su-35, bởi vì khi đó phi công có thể điều khiển máy bay theo bất kỳ hướng nào" - Sergei Bogdan nói.
Bill Sweetman nói rằng lợi thế chiến
thuật của "Rắn hổ mang" đó chính là việc máy bay bay với quỹ đạo khó
lường và có thể thay đổi tốc độ một cánh đột ngột, mà không bị mất khả
năng kiểm soát khiến cho tên lửa đối phương rất khó khăn trong việc tiêu
diệt máy bay.
Để tiêu diệt được Su-35, F-35 cần phải
đến gần hơn, do đó nó tự đặt mình vào nguy cơ bị phát hiện (hệ thống
radar mạnh mẽ của Su-35 hoàn toàn có thể thực hiện việc này, hơn nữa máy
bay có kho vũ khí gồm các tên lửa không chiến tầm xa họ Vympel với tầm
bắn 400 km - là một kỷ lục thế giới).
Các chuyên gia cũng nói rằng các chiến thuật không chiến của không quân Mỹ được rút xuống còn ba nguyên tắc - "tìm kiếm, bắn và tiêu diệt".
Với sự ra đời của Su-35, chiến thuật này nhiều khả năng là phải được
sửa đổi. F-35 có thể phát hiện ra Su-35 đầu tiên, nhưng để sử dụng tên
lửa nó phải di chuyển lại gần, và tại thời điểm đó cả hai sẽ nhìn thấy
nhau. "Trong trường hợp này, lợi thế tàng hình sẽ giảm đáng kể," Sweetman nói.
Trong cận chiến, Su-35 có khả năng huyền
diệu là bay tốc độ thấp và đồng thời tăng tốc độ lên đến siêu âm, biến
thành một chàng thợ săn. Tốc độ tối đa của máy bay là 2,5 M, tầm hoạt
động 3.600 km có thể mang 12 tên lửa tầm trung Vympel (chẳng hạn như các
biến thể sửa đổi khác nhau của R-77). Máy bay chiến đấu F-35 mang được
ít tên lửa hơn và phạm vi hoạt động chỉ đạt 2.222 km còn tốc độ tối đa
của nó là 1,6 M.
Trong thực tế, F-35 không có những “tính
năng kỳ lạ” mà phần lớn lực lượng không quân của thế giới đang rất cần.
Ngược lại, Su-35S cung cấp hiệu suất ngang bằng với máy bay chiến đấu
thế hệ thứ năm, thậm chí nó còn đáng sợ hơn đối với các lực lượng phương
Tây bởi vì thực tế rằng F-35 đã mắc rất nhiều khiếm khuyết khi chưa đi
vào hoạt động và vào năm 2020 sẽ có sự xuất hiện của máy bay chiến đấu
tàng hình thế hệ năm Sukhoi PAK FA.
Tiêm kích F-35 và Su-35: Cao thủ nào xứng đáng 'ngôi vương'?
Tuấn Phong | 15/07/2013 13:55
Trong một cuộc không chiến, ngoài nghệ thuật bay, khoa
học kỹ thuật và sự am hiểu thực tế của phi công thì khả năng tác chiến
của những chiếc tiêm kích, sự tối ưu của hệ thống vũ trang, sự nhạy bén
của hệ thống cảm biến phụ trợ, radar đều góp phần vào tỷ lệ đánh đổi
chiến thắng LER (Loss Exchange Ratio). Tỷ lệ này được đánh giá trên khả
năng tiêu diệt đối phương/khả năng bị hạ gục.
F-35 và Su-35: Mèo nào cắn mỉu nào?
Trong một cuộc không chiến thực sự thì công việc của một chiếc tiêm
kích là tiếp cận đối thủ, khóa mục tiêu trong tầm kiểm soát, tấn công
nó thật nhanh và cuối cùng là thoát khỏi khu vực đó trước khi các đối
thủ khác tấn công.
Trong trường hợp tấn công thất bại thì chúng cần phải nhanh chóng
thay đổi kế hoạch tác chiến và lẩn trốn đối phương thật tốt để chờ đợi
cơ hội tấn công khác. Quy trình này đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn và khả
năng tác chiến tốt để xử lý mọi sự cố hoặc chống trả khi bị tấn công bất
ngờ.
Chuỗi các quá trình này được gọi là “Kill Chain” bao gồm các tiến
trình sau: phát hiện mục tiêu-định vị mục tiêu-ngắm bắn và khóa mục
tiêu-nhấn nút khai hỏa tên lửa-tiêu diệt mục tiêu.
Trong bài này, chúng ta sẽ so sánh một số đặc điểm cấu tạo của
Su-35 và F-35 để xem máy bay nào sẽ chiếm ưu thế hơn trong cuộc không
chiến trên không. Các phiên bản so sánh trong bài là phiên bản cất cánh
thông thường Su-35S và F-35A.
Theo nhận định ban đầu thì Su-35 có phần nhỉnh hơn F-35
Hệ thống điện tử: với bất kỳ chiếc tiêm kích nào thì
bán kính tác chiến, cự ly tác chiến phụ thuộc rất nhiều vào động cơ phản
lực, hệ thống kiểm soát lực đẩy, hệ thống tác chiến đa chức năng
JTIS/MIDs, hệ thống liên lạc qua sóng radio. Tuy nhiên, chúng lại phát
đi các tín hiệu hồng ngoại hay tín hiệu nhiệt truyền đi khắp trong không
gian nên có thể bị các cảm biến của đối phương bắt được, tạo điều kiện
cho hệ thống tác chiến của nó vẽ được bản đồ tác chiến để đưa ra phương
án tấn công.
Vì vậy, cả 2 chiếc Su-35 và F-35 đều có một hệ thống kiểm soát rất
tốt công việc này là hệ thống EMCON, kiểm soát tất cả những phát xạ
nhiệt và hồng ngoại, làm giảm đi các tín hiệu phát đi không mong muốn và
giấu kín được chúng trước các cảm biến và radar đối phương.
Radar quét mảng pha chủ động X-band: bất kể chiếc
tiêm kích nào hiện nay cũng được trang bị công nghệ radar X-band trong
công tác định vị và phát hiện đối thủ. Cả 2 chiếc siêu tiêm kích Su-35
và F-35 cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, radar X-band của F-35 lại có tầm
quét phía trước rất hẹp, góc và phương quét của nó chỉ bằng ½ so với
Su-35. Điểm yếu chí tử này của F-35 là do nó được trang bị công nghệ
tàng hình nên các thiết bị radar X-band và các hệ thống cảm biển đều
được giấu kín bên trong nhằm đảm bảo công nghệ tàng hình phát huy tốt
nhất. Tuy nhiên, điều này lại khiến F-35 không nắm được thế chủ động
trước đối thủ.
APG-81 X-band của F-35 có tầm hoạt động thấp và góc quét hẹp hơn Irbis E X-band của Su-35S
Trong khi đó, Su-35 sử dụng hệ thống radar tích hợp đa nhiệm với
góc quét rộng, bao phủ cả một phần sườn của máy bay, cự ly quét cũng cao
hơn rất nhiều so với F-35.
Radar quét mảng pha chủ động AESA L-band: F-35 được
trang bị công nghệ tàng hình bị động nên tất cả các hệ thống radar phụ
trợ, thậm chí là vũ khí đều được giấu vào bên trong thân. Nhưng L-band
là hệ thống radar thám sát và giám sát cự ly trung và chỉ có một vị trí
tốt nhất cho nó là ở rìa cánh. F-35 không có L-band, nhưng không hẳn là
nó yếu hơn so với Su-35 với L-band. Thông thường thì L-band chỉ hoạt
động trong các tình huống tác chiến tầm gần dưới 20nm để thuận lợi hơn
cho hệ thống tác chiến khuất tầm nhìn.
Hệ thống giám sát và theo dõi nguồn phát hồng ngoại và chuyển động nhiệt: Tương
tự như T-50 và F-22, F-35 và Su-35 cũng được trang bị hệ thống giám sát
và theo dõi nguồn phát đi hồng ngoại. Đây là một trong số những công
nghệ tốt nhất để vạch mặt được các loại tiêm kích sử dụng công nghệ tàng
hình bị động. Khi hoạt động thì các hệ thống liên tục phát xạ nhiệt
hoặc hồng ngoại, dù được kiểm soát tốt bởi hệ thống giám sát EMCON thì 1
phần nhỏ trong chúng vẫn bị phán tán đi trong không gian. Su-35 sử dụng
hệ thống OLS-35 tích hợp công nghệ giám sát chuyển động nhiệt và các
tín hiệu hồng ngoại, tuy không hiện đại như hệ thống OLS-55 của T-50.
F-35 sử dụng Hệ thống AN/AAQ-37 DAS, đây là một hệ thống quang điện
được tích hợp và sử dụng riêng cho hình dạng đặc biệt của F-35, khi
hoạt động sẽ tạo ra một khối cầu với cự ly giám sát các chuyển động
nhiệt và nguồn phát hồng ngoại trong cự ly. Đây là một trong số những hệ
thống cảm biến thê hệ mới nhất DAS trong các cuộc thử nghiệm gần đây,
có khả năng phát hiện và giám sát được các tên lửa đạn đạo ở cự ly xấp
xỉ 705.714nm. Xét về khả năng đa nhiệm, hiển nhiên DAS hơn hẳn so với
OLS-35, tuy nhiên nếu xét về khả năng tác chiến thì có rất nhiều điều
quyết định. Thế nên ở tiêu chí này, cả 2 gần như tương đương nhau và còn
phụ thuộc nhiều vào các điều kiện tác chiến và khả năng của phi công.
Tốc độ: Tốc độ là một trong những yếu tố đặc biệt
quan trọng, với một tốc độ cao thì khả năng xoay chuyển và né tránh súng
và tên lửa của đối phương sẽ tốt hơn nhiều.
Su-35 có tốc độ cao nhất là Mach 2.25 trên lý thuyết nhờ động cơ
đẩy Saturn. Tuy nhiên, trên thực tế, do lực kéo và lực cản trong môi
trường tác chiến thông thường nên tốc độ tối ta của nó chỉ đạt Mach 2.0.
Trong khi đó, F-35 có tốc độ tối đa là Mach 1.65, thấp hơn so với
Su-35.
Tầm hoạt động của tên lửa: không xét về các loại tên
lửa điều khiển qua cơ chế thông thường như loại tìm kiếm nhiệt, chúng ta
chỉ xét về loại tên lửa tác chiến khuất tầm nhìn. Trong tiêu chí này
thì RVV-SD của Su-35 và AIM-120D của F-35 là 2 đôi thủ đáng gờm của
nhau.
Một số chuyên gia nhận định rằng RVV-SD vượt trội hơn AIM-120 ở tốc
độ. RVV-SD có tốc độ tối đa là Mach 4.5, trong khi tốc độ tối đa của
AIM-120 là Mach 4, tuy nhiên, sự hơn thua giữa 2 loại tên lửa này vẫn
gây rất nhiều tranh cãi. Các nhà phân tích của Mỹ cho rằng RVV-SD thua
kém dòng tên lửa AIM-120 ở hệ thống điện tử do trình độ phát triển công
nghệ điện tử của người Nga đã có một thời gian dài bị trì hoãn.
F-35A phóng tên lửa
Trên thực tế, F-35 vẫn chưa đi vào hoạt động nhưng lại bộc lộ điểm
yếu trước Su-35. Ngay cả các phi công Mỹ cũng thừa nhận rằng F-35 có khả
năng chiến đấu toàn diện hơn F-22 nhờ công nghệ hiện đại nhưng nó cũng
có những điểm hạn chế nhất định. Có rất nhiều nghi ngờ liệu khả năng
tàng hình thật sự của F-35 có được như 'quảng cáo' hay không. Bên cạnh
đó, những giới hạn nhất định về thiết kế (nhằm phục vụ khả năng tàng
hình) có thể sẽ hạn chế khả năng tác chiến của F-35.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng F-35 được thừa hưởng khả năng tuyệt vời của
F-22 nên vẫn chưa thể khẳng định Su-35 sẽ hoàn toàn áp đảo F-35 trong
một cuộc không chiến. F-35 vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện mình. Mỹ
đã chi một khoản chi phí không hề nhỏ cho dự án này và người Mỹ thì nổi
tiếng là thực dụng nên khó có thể có chuyện họ bỏ ra một đống tiền để
phát triển một chiếc tiêm kích thế hệ 5 mà không có điểm gì vượt trội so
với tiêm kích thế hệ 4 của đối thủ.
F-22 và T-50: Mèo nào cắn mỉu nào?
Lt Cdr. Mikhail Sergeyevich | 01/07/2013 09:59Tính đến thời điểm hiện tại, F-22 Raptor là máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5 nhanh nhất của Hoa Kỳ, với thiết kế sử dụng công nghệ tàng hình bị động, bay với tốc độ rất cao và khả năng cơ động đáng nể của mình. Cho đến nay, nó vẫn được Lockheed cải tiến và nâng cấp liên tục nhằm hạ gục PAK FA T-50 trong một cuộc không chiến.
Ai sẽ là người chiến thắng?
Chúng ta hãy làm một bài kiểm tra dựa trên lý thuyết nhằm đánh giá
chính xác khả năng hoạt động cũng như các lợi thế trong không chiến của
T-50 với F-22 Raptor.
Nhiều người cho rằng T-50 phát triển sau, với công nghệ tiên tiến
hơn nên sẽ dễ dàng hạ gục được F-22, tuy nhiên, với 16 năm hoạt động,
F-22 không phải là một đối thủ dễ chơi.
F-22 có tốc độ nhỉnh hơn T-50
Về bản chất, cuộc đối đầu của 2 máy bay tiêm kích cần xét đến nhiều
yếu tố và góc độ bao gồm: công nghệ tàng hình, độ cơ động, các cảm biến
hiện đại với mức tối ưu hóa cao và cuối cùng là hệ thống tên lửa không
đối không.
Công nghệ tàng hình
F-22 và T-50 đều là những máy bay tiêm kích tấn công hạng nặng với công nghệ tàng hình.
Công nghệ tàng hình của F-22 là công nghệ tàng hình truyền thống,
sử dụng các góc và các bộ phận rải đều trên máy bay nhằm phát xạ đi đến
hơn 85% sóng xung điện từ tiếp xúc với các bộ phận của nó.
Do những góc bố trí cố định trên máy bay nên những vùng nhạy cảm ở
mũi máy bay có một tiết diện thường với diện tích rất nhỏ chỉ 0.0001 m2.
Đây là vị trí bố trí radar quét phương ngang phía trước RCS nhưng chính
nó cũng làm cho hệ thống ngắm bắn và xác định mục tiêu trở nên khó khăn
do những phát xạ sóng của vị trí này khiến cho chỉ có 97% sóng từ hệ
thống radar của F-22 tỏa ra đều và không bị cản trở, 3% còn lại bị vị
trí này làm sai lệch và tỏa đi những hướng khác nhau.
T-50 cũng không kém cạnh người đồng cấp. Tuy không nhanh bằng F-22 nhưng T-50 có khả năng cơ động cao
Trong khi đó, PAK FA T-50 sử dụng công nghệ tàng hình chủ động
Plasma Shield, hút và làm các sóng xung điện từ phản xạ đi theo những
phương không được định trước, một phần lại bị giảm bớt năng lượng và
không có khả năng phản hồi trở lại. Hệ thống radar giám sát vật thể bay
chuyển động của T-50 không bị ảnh hưởng như vị trí tiết diện 0.0001 của
F-22.
Tuy nhiên, cũng có một số chuyên gia nhận định khả năng tàng hình
của T-50 vẫn còn thua kém F-22, trong đó, khoảng cách bộc lộ của T-50
gấp đôi F-22.
Cơ cấu làm việc của radar thám sát và dẫn đường trên F-22.
Hệ thống tên lửa
F-22 được trang bị hệ thống tên lửa AIM-12D với radar dẫn đường và
có thể tấn công mục tiêu rất chính xác. Trong khi đó, T-50 được trang bị
Vympel R-77M và R-74, sử dụng đầu dẫn kết hợp từ nhiều loại cảm biến,
gồm cảm biến nhiệt, cảm biến từ trường và hệ thống điều khiển tập trung
hóa từ bộ xử lý hồng ngoại.
Một số chuyên gia nhận định rằng Vympel R-77 vượt trội hơn AIM-120 ở
tầm bắn và độ cơ động, tuy nhiên, sự hơn thua giữa 2 loại tên lửa này
vẫn gây rất nhiều tranh cãi. Các nhà phân tích phương Tây và của Mỹ cho
rằng R-77 thua kém dòng tên lửa AIM-120 ở hệ thống điện tử do trình độ
phát triển công nghệ điện tử của người Nga đã có một thời gian dài bị
trì hoãn.
Tên lửa Vympel R-77M trang bị cho T-50.
Tên lửa AIM-120D của F-22 có một điểm trừ là sử dụng đầu dẫn bằng
radar, thay vì đầu dẫn tầm nhiệt. Về mặt lý thuyết, với lớp Plasma bao
bọc quanh T-50, khả năng F-22 sử dụng sóng xung điện từ để xác định được
mục tiêu là khá thấp. Mặc dù phi công có thể thấy được T-50 bằng mắt
thường thì cũng khó có thể tóm được nó với AIM-120D. Trong quá trình
nghiên cứu công nghệ Plasma, người ta ước tính rằng tỷ lệ bắn trúng mục
tiêu của AIM-120D trước T-50 chỉ là 8% và đây cũng là 8% rủi ro của hệ
thống Plasma Shield.
Tuy nhiên, đó chỉ là trên cơ sở lý thuyết. Kết quả của một cuộc không chiến vẫn còn được quyết định bởi nhiều yếu tố khác.
Cấu tạo tên lửa AIM-120D trên F-22.
Hệ thống cảm biến
Trong cuộc chiến, khi F-22 phóng tên lửa tiêu diệt đối thủ, nó phải
chấp nhận rủi ro là bộc lộ mình nếu bắn trượt. Với các tiêm kích thế hệ
4, việc xác định được F-22 là vô cùng khó khăn.
Thế nhưng, do đã xác định ngay từ đầu đối thủ cạnh tranh với T-50
là F-22 nên người Nga cũng đã tích cực nghiên cứu để có thể khắc phục
điểm yếu này.
Ngoài hệ thống giám sát cảm biến chuyển động nhiệt OLS-35M từng
được trang bị cho Su-35, T-50 còn được trang bị Công nghệ Lượng tử tách
sóng quang phổ hình ảnh QWIP.
QWIP là công nghệ dựa trên công nghệ tìm kiếm và dò tìm hồng ngoại
hay còn được biết đến với cái tên IRST đã được sử dụng từ lâu. Các cảm
biến cực nhạy này cho phép phát hiện những vật thể phát ra tia hồng
ngoại dù là nhỏ nhất.
Hệ thống QWIP trên T-50
Các hình ảnh lượng tử sẽ được phân tích qua môt hệ thống trí tuệ
nhân tạo và đưa ra được các hình ảnh có độ đậm nhạt khác nhau trên một
mục tiêu nhất định. Mặc cho lớp bảo vệ của nó là từ bất kỳ loại vật liệu
nào thì các tia hồng ngoại vẫn không thể nào che giấu được và cho dù là
nhỏ nhất thì hệ thống này vẫn có thể dò ra. Điều duy nhất khiến hệ
thống này gặp trở ngại là khi nhiệt độ xuống quá thấp, khoảng dưới 0 độ.
Nếu như vậy thì cả động cơ máy bay cũng không thể hoạt động.
Trước đây, công nghệ này đã được sử dụng với mục đích thương mại
hóa trong các loại tên lửa đối không sử dụng đầu dẫn lượng tử ánh sáng
để tấn công mục tiêu, và Đức chính là quốc gia phát minh ra nó. QWIP
trên thực tế có thể phát hiện ra đến 2, 3 thậm chí là cùng lúc 6 nguồn
phát tín hiệu hồng ngoại và ưu tiên từ cao đến thấp, sau đó nó sẽ đánh
dấu và ghi nhớ lại từng mục tiêu phát hồng ngoại. Đây là một trong những
công nghệ mà cho tới nay, mới chỉ được trang bị trên một số ít các tên
lửa sử dụng trên các máy bay Panavia Tornado của Đức.
Bài viết sử dụng đơn vị đo cự ly chuẩn trong không quân là đơn
vị Nautical Miles – nm tương đương với Knot. 1nm = 1.8421km. Lưu ý đây
là đơn vị đo chuẩn sử dụng trên không chứ không phải là đơn vị Knot sử
dụng trên biển như chúng ta thường biết.
Nguồn phát tia hồng ngoại chủ yếu trên F-22 chủ yếu là từ động cơ
và các cảm biến cánh và mũi máy bay. F-22 là loại tiêm kích tàng hình
nên dùng sóng xung điện từ để phát hiện ra nó thì quả là một nhiệm vụ
bất khả thi. Vì thế, T-50 sử dụng cảm biến OLS-50 tích hợp QWIP để phát
hiện ra các nguồn phát hồng ngoại, và hệ thống này là hệ thống cảm biến
chính thay cho radar. Radar chỉ đóng vai trò phụ mà thôi, khi radar
không còn thì các radar cảnh báo sớm trên F-22 là AN/ALR-94 sẽ không thể
phát hiện T-50 vì không còn bất kỳ nguồn phát xung điện từ nào từ đối
thủ nữa. Công nghệ QWIP cho phép tóm gọn được các mục tiêu từ cự ly 70nm
và bắt đầu ghi nhớ để nạp dữ liệu cho tên lửa.
Thế nhưng, mọi hệ thống đều có điểm lợi và điểm hại của nó. QWIP
khi được tích hợp trực tiếp với OLS-50 thì đồng nghĩa trong cự ly gần,
nó sẽ chẳng khác nào tự gài bẫy chính mình cả, nó sẽ phải chuyển sang
chế độ sử dụng radar để thám sát không gian.
T-50 sử dụng hệ thống OLS-50 tích hợp QWIP
Suy cho cùng, nếu xét về mặt hoàn thiện công nghệ thì máy bay chiến
đấu kiểu mới muốn hoàn thiện phải có thời gian đủ dài. F-22 bay thử lần
đầu tiên sớm hơn T-50 một khoảng thời gian rất dài. Mỹ đã bỏ ra chuỗi
thời gian này để phát hiện và giải quyết những vấn đề phát sinh.
Cả 2 loại máy bay đều đã từng xảy ra sự cố như F-22 buộc phải dừng
bay do thiết bị khí oxy trục trặc, còn T-50, trong lần bay thử biểu diễn
năm 2011 đã buộc phải dừng bay do động cơ phun lửa, khiến Nga lúng
túng.
Cả 2 siêu tiêm kích không mấy kém cạnh nhau về các thông số kỹ thuật
Nếu có một cuộc không chiến thực sự xảy ra, vẫn khó có thể xác định
được giữa F-22 và T-50, đâu sẽ là người chiến thắng. T-50 mặc dù có thể
vượt trội F-22 về một số tính năng nhưng F-22 vẫn luôn được cải tiến để
đối phó với các mối đe dọa mới.
Nguồn: https://mail.google.com/mail/u/0/?shva=1#inbox/140cdc297ea911c1
_
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét