DỰ ÁN BÓNG MA TRÊN BẦU TRỜI
Trong những năm 1970, quân đội Mỹ muốn thay thế các máy bay B-52 già
cỗi bằng những chiếc máy bay ném bom mới hiện đại hơn. Điều quan trọng
là Mỹ muốn những chiếc máy bay có thể mang bom hạt nhân đến bất kỳ đâu
trên thế giới chỉ trong một giờ và quan trọng là nó phải ‘vô hình’ trước
radar và mọi hệ thống săn tìm của quân thù.
Phải mất hơn 10 năm với số vốn đầu tư lên đến hàng chục tỷ USD, nhà thầu
Northrop Grumman đã nghiên cứu và chế tạo thành công chiếc máy bay ném
bom tàng hình B-2. Một chiếc máy bay ném bom chưa từng biết đến trước
đây, với khả năng vô hiệu hóa radar, đạt vận tốc siêu âm và có thể mang
hàng tấn thuốc nổ và bom rải thảm lên kẻ thù.
Dự án siêu máy bay ném bom
Xuất phát từ một dự án bí mật có tên Máy bay ném bom công nghệ cao
(Advanced Technology Bomber - ATB) vào năm 1979. Tại thời điểm này, cuộc
chiến tranh lạnh vẫn đang diễn ra, ứng cử viên tổng thống Mỹ lúc đó là
Ronald Reagan đã tuyên bố sẽ khôi phục lại sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ.
Vào ngày 22 tháng 8 năm 1980, một nhân viên thuộc nội các của tổng thống
Jimmy Carter đã công bố với báo giới rằng Bộ quốc phòng Mỹ đang phát
triển nhiều mẫu máy bay mới, trong đó có cả ATB.
Sau khi xem xét thiết kế mẫu của nhiều công ty, chỉ có 2 đơn vị lọt vào
vòng chung kết, đó là Northrop/Boeing và Lockheed/Rockwell. 2 công ty
này sẽ cạnh tranh với nhau để chọn ra 1 thiết kế duy nhất cho dự án ATB.
Vì là dự án bí mật nên trong suốt quá trình diễn ra, tất cả những người
có liên quan đều sử dụng cụm từ " Aurora " khi nói đến ATB. Vào ngày
20/10/1981, thiết kế của Northrop/Boeing thắng cuộc và được chọn.
Thiết kế của Northrop sau đấy được đặt mã B-2 kèm theo tên gọi "Spirit".
Vào giữa những năm 1980, thiết kế của B-2 Spirit có thay đổi do mục
tiêu của dự án được thay đổi từ máy bay ném bom tầm cao sang tầm thấp.
Việc thay đổi thiết kế đã khiến ngày cất cánh đầu tiên của B-2 bị dời
lại 2 năm, kéo theo đó là khoảng 1 tỷ USD chi phí phát sinh. Đến năm
1989, đã có khoảng 23 tỷ USD được chi cho dự án phát triển B-2 một cách
bí mật. Vào những lúc cao điểm, đã có đến gần 13.000 tham gia vào dự án.
B-2 Spirit ra mắt công chúng lần đầu tiên vào ngày 22/11/1988 tại nhà
máy 42 thuộc Không quân Mỹ, đặt tại Palmdale , California , nơi nó được
lắp ráp. Buổi giới thiệu đầu tiên được canh gác cực kỳ cẩn thận và những
khách mời không được phép tham quan phía đuôi của B-2. Tuy nhiên, do
không đặt ra quy định cấm bay trên không phận khu vực diễn ra buổi ra
mắt nên một số phóng viên đã chụp được những bộ phận bí mật của máy bay
từ trên cao. Chuyến bay chính thức đầu tiên của B-2 Spirit được thực
hiện vào ngày 17/7/1989 cũng ngay tại sân bay này.
Ban đầu, chính phủ Mỹ lên kế hoạch sẽ sản xuất 132 máy bay tàng hình B-2
Spirit. Sau đó, con số này được giảm xuống còn 75. Đến năm 1992, dưới
áp lực về tài chính và quốc hội, tổng thống Bush (Bush cha) tuyên bố sẽ
chỉ có 20 chiếc B-2 được xuất xưởng (sau này tăng lên thành 21 chiếc nhờ
vào việc tân trang lại một chiếc thử nghiệm). Một điểm khá thú vị về
phi đội B-2 Spirit là mỗi chiếc đều có một tên gọi chính thức, được đặt
theo tên các tiểu bang và thành phố của Mỹ, ví dụ như "Spirit of Texas"
hay "Spirit of Hawaii".
Cấu tạo và hoạt động
B-2 là chiếc máy bay đắt nhất trong lịch sử từ trước đến nay, với chi
phí sản xuất 2 tỷ USD mỗi chiếc. Do chi phí sản xuất và duy trì hoạt
động quá lớn, Mỹ đã phải hạn chế số lượng hiện tại ở mức 20 chiếc.
B-2 có hình dáng khí động học khá đặc biệt, không chỉ giúp nó đặt được
vận tốc lớn mà còn góp phần hấp thụ sóng radar của kẻ thủ. Nó có sải
cánh dài tới 52m, chiều dài thân máy bay là 21m, trọng lượng không tải
71 tấn và có thể mang theo hơn 70 tấn các loại vũ khí, bom đạn.
Sử dụng 4 động cơ turbin General Electric F118-GE-100 với lực đẩy 77kN
mỗi động cơ. B-2 có khả năng đạt tốc độ tối đa ở mức cận âm (1000 km/h),
tầm bay 10.000 km và nếu được tiếp nhiên liệu nó có thể bay gần 20.000
km, đến bất cứ mục tiêu nào trên thế giới. B-2 có khả năng tiếp nhiên
liệu ngay trên không .
Các hoạt động của chiếc máy bay được hỗ trợ khá nhiều bởi máy tính,
Northrop Grumman đã trang bị hệ thống fly-by-wire, các hệ thống máy tính
có thể tự động nhận thông tin từ các cảm biến, sau đó tính toàn tình
huống và xử lý giúp máy bay luôn trong trạng thái ổn định. Do đó một phi
hành đoàn của B-2 chỉ gồm 2 người, một phi công và một chỉ huy phi vụ.
Bóng ma vô hình
B-2 là mẫu máy bay ném bom có khả năng tàng hình, giúp nó tiếp cận mục
tiêu mà kẻ thù không hay biết, có khả năng thực hiện nhiệm vụ mà các phi
đội máy bay chiến đấu khác không thể làm được. Để làm được điều này, nó
cần được thiết kế để khó nhận ra, giảm tiếng ồn, không để bị phát hiện
bởi radar hay cảm biến hồng ngoại, đồng thời phải ngăn các sóng điện từ
phát ra từ các thiết bị trên máy bay.
Do đó mà B-2 có hình dạng dẹp giống một con cá đuối và có màu đen, giúp
nó hòa vào nền trời đêm, hầu hết các nhiệm vụ của B-2 được thực hiện vào
ban đêm. Các động cơ của B-2 nằm sâu trong thân máy bay giúp giảm thiểu
tiếng ồn. Thiết kế khí động học của nó cũng giúp các động cơ không phải
hoạt động ở mức tối đa.
B-2 cũng phải xóa dấu vết nhiệt của mình, thường tỏa ra từ các động cơ.
Các cảm biến hồng ngoại và tên lửa tầm nhiệt có thể dễ dàng ‘đánh hơi’
những vùng có nhiệt độ cao. Toàn bộ khí thải ra được đi qua một khoang
làm lạnh trước khi xả ra ngoài, do đó nó làm giảm lượng nhiệt phát ra từ
các động cơ.
Để có thể vô hình trước radar địch, cấu tạo lớp vỏ của B-2 được thiết kế
đặc biệt bởi chất liệu composite có khả năng hấp thụ sóng điện từ. Các
bộ phận bằng kim loại có khả năng phản hồi sóng radar như động cơ, bom
đạn .. đều được đặt hoàn toàn ở bên trong. Hình dạng của chiếc B-2 cũng
góp phần vô hiệu hóa sóng radar. Toàn bộ phần phía trước và mặt dưới của
chiếc máy bay được thiết kế với các bề mặt cong, giống như một chiếc
gương cầu, nó làm lệch hướng các sóng vô tuyến và khiến nó không trở lại
được nguồn phát.
Vũ khí
Ban đầu, mục đích chính của B-2 là mang bom hạt nhân vào Liên Xô trong
trường hợp có chiến tranh. Với sự sụp đổ của Liên Xô và các hiệp ước mới
về sử dụng vũ khí hạt nhân, B-2 trở thành một máy bay ném bom đa chức
năng.
Nó có 2 khoang chứa bom với các máy phóng quay, khi người chỉ huy xác
định được mục tiêu, tín hiệu máy tính sẽ mở khoang chứa bom và điều
khiển máy phóng quay đến một quả bom xác định được sử dụng cho nhiệm vụ.
Sau khi được thả, một hệ thống dẫn đường sẽ giúp quả bom tìm đến đúng
vị trí của mục tiêu. Loại bom dẫn đường này còn được gọi là JDAM.
Ngoài ra nó còn được trang bị các loại tên lửa hành trình,
các loại bom Mark 82, Mark 84, bom GATOR, CBU-97. Đặc biệt, bắt đầu từ
năm 2009, B-2 được trang bị thêm loại vũ khí có sức công phá khủng khiếp
nhất, MOP (The Massive Ordnance Penetrator) là một quả bom với trọng
lượng 14 tấn, dùng để phá hủy những boongke kiên cố nhất nắm dưới lòng
đất, còn được mệnh danh là "Mẹ của tất cả các loại bom" -“The Mother of
All Bombs” (MOAB). (hình trên góc phải)
Nhiệm vụ chính của B-2 là thả bom, bên cạnh đó tự tin với khả
năng không thể bị phát hiện, B-2 không được trang bị bất kỳ lại vũ khí
không đối không nào. Thậm trí nó cũng không có các hệ thống phòng thủ
như pháo sáng đánh lạc hướng tên lửa. Tuy vậy, trong lịch sử chưa từng
có chiếc B-2 nào bị bắn hạ.
Các cuộc chiến và tương lai
B-2 bắt đầu tham chiến trong Chiến tranh Kosovo năm 1999. Chiếc B-2
là máy bay đầu tiên sử dụng Vũ khí tấn công JDAM trong chiến tranh. Từ
đó, chiếc máy bay này đã hoạt động tại Afghanistan trong "Chiến dịch Tự
do vĩnh viễn" và tại Iraq trong "Chiến dịch Tự do Iraq".
Sau khi ném bom các mục tiêu tại Afghanistan, chiếc máy bay hạ cánh
tại Diego Garcia, tái nạp nhiên liệu và thay thế đội bay cho lần xuất
kích tiếp theo. Trong chiến dịch tại Iraq nó còn phải bay xa hơn bởi B-2
đóng tại căn cứ Diego Garcia.
Những phi vụ sau này ở Iraq diễn ra từ Căn cứ không quân Whiteman ở
Missouri . Điều này khiến nhiều phi vụ kéo dài hơn 30 giờ và một phi vụ
đã kéo dài hơn 50 giờ. Chiếc B-2 có tính năng tự động cao, không như
những máy bay chiến đấu một người lái, một thành viên đội bay có thể
ngủ, sử dụng toilet hay chuẩn bị bữa ăn nóng trong khi người kia điều
khiển máy bay.
B-2 cũng đã được Mỹ dùng trong cuộc chiến Lybia cùng Liên quân NATO
ủng hộ lực lượng nổi dậy Lybia năm 2011. Mới đây nhất, ngày 28/3, Mỹ đã
điều 2 máy bay ném bom tàng hình chiến lược B-2 Spirit tham gia vào
cuộc tập trận chung với Hàn Quốc. Hai chiếc B-2 Spirit đã bay thẳng từ
căn cứ không quân Whiteman tại bang Missouri qua quãng đường hơn 10.460
km đến quốc gia Đông Nam Á này.
Văn phòng kiểm kê chính cho biết "đây là dự án phát triển máy bay
ném bom có chi phí hoạt động cao nhất, tính trên mỗi chiếc máy bay xuất
xưởng". Mỗi chiếc B-2 cần 119 giờ bảo dưỡng (so với mức 53 giờ của "pháo
đài bay" B-52) và tốn 3,4 triệu USD/tháng tiền chi phí bảo dưỡng. Sở dĩ
B-2 có mức phí cũng như thời gian bảo dưỡng cao là do yêu cầu cần có
nhà chứa đủ rộng cho chiếc máy bay có sải cánh đến 52,4 m này. Không
những thế, nhà chứa phải đảm bảo các yêu cầu về nhiệt độ để bảo vệ lớp
vỏ "tàng hình" của B-2. Theo báo cáo của GAO, Government Accountability
Office, tổng chi phí cho mỗi chiếc B-2 tại thời điểm năm 1997 là 929
triệu USD. Đến năm 2004, Mỹ đã chi tổng cộng 44,75 tỷ USD (trị giá quy
đổi năm 1997) cho dự án B-2. Chi phí này bao gồm
phát triển, sản xuất, cơ sở vật chất và linh kiện dự trữ.
Mặc dù vậy, Chính phủ Mỹ vẫn không tiếc tiền đổ vào việc nghiên cứu
các công nghệ mới trên B-2. Mới đây, một hợp đồng trị giá 500 triệu USD
đã được Chính phủ Mỹ duyệt để phát triển hệ thống cơ sở mạng, các thiết
bị điện tử và hệ thống radar trên B-2.
B-2 Spirits và F-22 Raptor bay đội hình trên không phận Guam
Hãng Northrop Grumman của Mỹ tuyên bố vừa thử nghiệm thành công hệ
thống thông tin vệ tinh chống nhiễu mới (satcom) cho máy bay ném bom
tàng hình B-2 Sripit để có được khả năng chống lại các hệ thống gây
nhiễu và tác chiến điện tử của đối phương.
Theo hãng tin quốc phòng Anh (Jane), việc trình diễn khả năng chống
nhiễu vệ tinh cho máy bay ném bom B-2 đi kèm với chiến lược "chống tiếp
cận/khu vực cấm" (A2/AD) trước các mối đe dọa ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương.
Hệ thống thông tin tần số cao giống như mạng vệ tinh AEHF thường
được xem là "an toàn" hơn do được ứng dụng những công nghệ vi mạch thế
hệ mới, các thành phần nhu liệu (software) tinh vi, cương liệu
(hardware) nhỏ gọn hơn, cũng như những chùm tia phát xạ tín hiệu hẹp
hơn.
Hãng Northrop Grumman đã tiến hành một thử nghiệm hệ thống thông tin vệ tinh AEHF trên một máy bay ném bom B-2 vào ngày18/4/2013 vừa
qua. Trước đó, hãng này cũng đã đánh giá khả năng truyền phát và nhận
tín hiệu của hệ thống radar AESA ở những góc quét khác nhau trong phòng
thí nghiệm, trước khi được lặp đặt và thử nghiệm hoạt động trên máy bay
ném bom B-2.
Hệ thống radar AESA được hy vọng sẽ giúp B-2 nhận các thông tin
chiến trường với tốc độ truyền dữ liệu nhanh hơn đáng kể so với những hệ
thống liên lạc vệ tinh quân sự hiện tại được được sử dụng trong quân
đội Mỹ.
Với hệ thống thông tin vệ tinh chống nhiễu mới, dự kiến trong tương
lai, sự nguy hiểm của loại máy bay ném bom tàng hình duy nhất đang hoạt
động trên thế giới hiện nay sẽ trở nên ngày càng nguy hiểm hơn. Khả
năng tàng hình cùng các hệ thống phụ như AEHF sẽ giúp B-2 có thể dễ dàng
xâm nhập vào khu vực phòng thủ của quốc gia đối địch như Trung Quốc,
thả bom phá hủy và nhanh chóng trở về căn cứ.
Hệ thống satcom sẽ cho phép máy bay ném bom tàng hình B-2 có thể
hoạt động kết nối với mạng lưới vệ tinh tần số siêu cao tối tân (AEHF)
của Không quân Mỹ (USAF). Mục đích của AEHF là để thay thế hàng loạt cho
những vệ tinh quân sự Milstar mà Quân đội Mỹ đã triển khai từ những năm
1990 trên toàn cầu, bảo đảm khả năng chống bức xạ và gây nhiễu cho hệ
thống thông tin quân sự của Quân đội Mỹ.
Genk.vn (HowStuffWorks)& News247.com(Jane)
Nguồn; __https://mail.google.com/mail/u/0/?shva=1#inbox/1409f2aec52b03b8.
DỰ ÁN BÓNG MA TRÊN BẦU TRỜI
Phải mất hơn 10 năm với số vốn đầu tư lên đến hàng chục tỷ USD, nhà thầu Northrop Grumman đã nghiên cứu và chế tạo thành công chiếc máy bay ném bom tàng hình B-2. Một chiếc máy bay ném bom chưa từng biết đến trước đây, với khả năng vô hiệu hóa radar, đạt vận tốc siêu âm và có thể mang hàng tấn thuốc nổ và bom rải thảm lên kẻ thù.
Dự án siêu máy bay ném bom
Xuất phát từ một dự án bí mật có tên Máy bay ném bom công nghệ cao (Advanced Technology Bomber - ATB) vào năm 1979. Tại thời điểm này, cuộc chiến tranh lạnh vẫn đang diễn ra, ứng cử viên tổng thống Mỹ lúc đó là Ronald Reagan đã tuyên bố sẽ khôi phục lại sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ. Vào ngày 22 tháng 8 năm 1980, một nhân viên thuộc nội các của tổng thống Jimmy Carter đã công bố với báo giới rằng Bộ quốc phòng Mỹ đang phát triển nhiều mẫu máy bay mới, trong đó có cả ATB.
Sau khi xem xét thiết kế mẫu của nhiều công ty, chỉ có 2 đơn vị lọt vào vòng chung kết, đó là Northrop/Boeing và Lockheed/Rockwell. 2 công ty này sẽ cạnh tranh với nhau để chọn ra 1 thiết kế duy nhất cho dự án ATB. Vì là dự án bí mật nên trong suốt quá trình diễn ra, tất cả những người có liên quan đều sử dụng cụm từ " Aurora " khi nói đến ATB. Vào ngày 20/10/1981, thiết kế của Northrop/Boeing thắng cuộc và được chọn.
Thiết kế của Northrop sau đấy được đặt mã B-2 kèm theo tên gọi "Spirit". Vào giữa những năm 1980, thiết kế của B-2 Spirit có thay đổi do mục tiêu của dự án được thay đổi từ máy bay ném bom tầm cao sang tầm thấp. Việc thay đổi thiết kế đã khiến ngày cất cánh đầu tiên của B-2 bị dời lại 2 năm, kéo theo đó là khoảng 1 tỷ USD chi phí phát sinh. Đến năm 1989, đã có khoảng 23 tỷ USD được chi cho dự án phát triển B-2 một cách bí mật. Vào những lúc cao điểm, đã có đến gần 13.000 tham gia vào dự án.
B-2 Spirit ra mắt công chúng lần đầu tiên vào ngày 22/11/1988 tại nhà máy 42 thuộc Không quân Mỹ, đặt tại Palmdale , California , nơi nó được lắp ráp. Buổi giới thiệu đầu tiên được canh gác cực kỳ cẩn thận và những khách mời không được phép tham quan phía đuôi của B-2. Tuy nhiên, do không đặt ra quy định cấm bay trên không phận khu vực diễn ra buổi ra mắt nên một số phóng viên đã chụp được những bộ phận bí mật của máy bay từ trên cao. Chuyến bay chính thức đầu tiên của B-2 Spirit được thực hiện vào ngày 17/7/1989 cũng ngay tại sân bay này.
Ban đầu, chính phủ Mỹ lên kế hoạch sẽ sản xuất 132 máy bay tàng hình B-2 Spirit. Sau đó, con số này được giảm xuống còn 75. Đến năm 1992, dưới áp lực về tài chính và quốc hội, tổng thống Bush (Bush cha) tuyên bố sẽ chỉ có 20 chiếc B-2 được xuất xưởng (sau này tăng lên thành 21 chiếc nhờ vào việc tân trang lại một chiếc thử nghiệm). Một điểm khá thú vị về phi đội B-2 Spirit là mỗi chiếc đều có một tên gọi chính thức, được đặt theo tên các tiểu bang và thành phố của Mỹ, ví dụ như "Spirit of Texas" hay "Spirit of Hawaii".
Cấu tạo và hoạt động
B-2 là chiếc máy bay đắt nhất trong lịch sử từ trước đến nay, với chi phí sản xuất 2 tỷ USD mỗi chiếc. Do chi phí sản xuất và duy trì hoạt động quá lớn, Mỹ đã phải hạn chế số lượng hiện tại ở mức 20 chiếc.
B-2 có hình dáng khí động học khá đặc biệt, không chỉ giúp nó đặt được vận tốc lớn mà còn góp phần hấp thụ sóng radar của kẻ thủ. Nó có sải cánh dài tới 52m, chiều dài thân máy bay là 21m, trọng lượng không tải 71 tấn và có thể mang theo hơn 70 tấn các loại vũ khí, bom đạn.
Sử dụng 4 động cơ turbin General Electric F118-GE-100 với lực đẩy 77kN mỗi động cơ. B-2 có khả năng đạt tốc độ tối đa ở mức cận âm (1000 km/h), tầm bay 10.000 km và nếu được tiếp nhiên liệu nó có thể bay gần 20.000 km, đến bất cứ mục tiêu nào trên thế giới. B-2 có khả năng tiếp nhiên liệu ngay trên không .
Các hoạt động của chiếc máy bay được hỗ trợ khá nhiều bởi máy tính, Northrop Grumman đã trang bị hệ thống fly-by-wire, các hệ thống máy tính có thể tự động nhận thông tin từ các cảm biến, sau đó tính toàn tình huống và xử lý giúp máy bay luôn trong trạng thái ổn định. Do đó một phi hành đoàn của B-2 chỉ gồm 2 người, một phi công và một chỉ huy phi vụ.
Bóng ma vô hình
B-2 là mẫu máy bay ném bom có khả năng tàng hình, giúp nó tiếp cận mục tiêu mà kẻ thù không hay biết, có khả năng thực hiện nhiệm vụ mà các phi đội máy bay chiến đấu khác không thể làm được. Để làm được điều này, nó cần được thiết kế để khó nhận ra, giảm tiếng ồn, không để bị phát hiện bởi radar hay cảm biến hồng ngoại, đồng thời phải ngăn các sóng điện từ phát ra từ các thiết bị trên máy bay.
Do đó mà B-2 có hình dạng dẹp giống một con cá đuối và có màu đen, giúp nó hòa vào nền trời đêm, hầu hết các nhiệm vụ của B-2 được thực hiện vào ban đêm. Các động cơ của B-2 nằm sâu trong thân máy bay giúp giảm thiểu tiếng ồn. Thiết kế khí động học của nó cũng giúp các động cơ không phải hoạt động ở mức tối đa.
B-2 cũng phải xóa dấu vết nhiệt của mình, thường tỏa ra từ các động cơ. Các cảm biến hồng ngoại và tên lửa tầm nhiệt có thể dễ dàng ‘đánh hơi’ những vùng có nhiệt độ cao. Toàn bộ khí thải ra được đi qua một khoang làm lạnh trước khi xả ra ngoài, do đó nó làm giảm lượng nhiệt phát ra từ các động cơ.
Để có thể vô hình trước radar địch, cấu tạo lớp vỏ của B-2 được thiết kế đặc biệt bởi chất liệu composite có khả năng hấp thụ sóng điện từ. Các bộ phận bằng kim loại có khả năng phản hồi sóng radar như động cơ, bom đạn .. đều được đặt hoàn toàn ở bên trong. Hình dạng của chiếc B-2 cũng góp phần vô hiệu hóa sóng radar. Toàn bộ phần phía trước và mặt dưới của chiếc máy bay được thiết kế với các bề mặt cong, giống như một chiếc gương cầu, nó làm lệch hướng các sóng vô tuyến và khiến nó không trở lại được nguồn phát.
Vũ khí
Ban đầu, mục đích chính của B-2 là mang bom hạt nhân vào Liên Xô trong trường hợp có chiến tranh. Với sự sụp đổ của Liên Xô và các hiệp ước mới về sử dụng vũ khí hạt nhân, B-2 trở thành một máy bay ném bom đa chức năng.
Nó có 2 khoang chứa bom với các máy phóng quay, khi người chỉ huy xác định được mục tiêu, tín hiệu máy tính sẽ mở khoang chứa bom và điều khiển máy phóng quay đến một quả bom xác định được sử dụng cho nhiệm vụ. Sau khi được thả, một hệ thống dẫn đường sẽ giúp quả bom tìm đến đúng vị trí của mục tiêu. Loại bom dẫn đường này còn được gọi là JDAM.
Ngoài ra nó còn được trang bị các loại tên lửa hành trình,
các loại bom Mark 82, Mark 84, bom GATOR, CBU-97. Đặc biệt, bắt đầu từ
năm 2009, B-2 được trang bị thêm loại vũ khí có sức công phá khủng khiếp
nhất, MOP (The Massive Ordnance Penetrator) là một quả bom với trọng
lượng 14 tấn, dùng để phá hủy những boongke kiên cố nhất nắm dưới lòng
đất, còn được mệnh danh là "Mẹ của tất cả các loại bom" -“The Mother of
All Bombs” (MOAB). (hình trên góc phải)
Nhiệm vụ chính của B-2 là thả bom, bên cạnh đó tự tin với khả
năng không thể bị phát hiện, B-2 không được trang bị bất kỳ lại vũ khí
không đối không nào. Thậm trí nó cũng không có các hệ thống phòng thủ
như pháo sáng đánh lạc hướng tên lửa. Tuy vậy, trong lịch sử chưa từng
có chiếc B-2 nào bị bắn hạ.
Các cuộc chiến và tương lai
B-2 bắt đầu tham chiến trong Chiến tranh Kosovo năm 1999. Chiếc B-2
là máy bay đầu tiên sử dụng Vũ khí tấn công JDAM trong chiến tranh. Từ
đó, chiếc máy bay này đã hoạt động tại Afghanistan trong "Chiến dịch Tự
do vĩnh viễn" và tại Iraq trong "Chiến dịch Tự do Iraq".
Sau khi ném bom các mục tiêu tại Afghanistan, chiếc máy bay hạ cánh
tại Diego Garcia, tái nạp nhiên liệu và thay thế đội bay cho lần xuất
kích tiếp theo. Trong chiến dịch tại Iraq nó còn phải bay xa hơn bởi B-2
đóng tại căn cứ Diego Garcia.
Những phi vụ sau này ở Iraq diễn ra từ Căn cứ không quân Whiteman ở
Missouri . Điều này khiến nhiều phi vụ kéo dài hơn 30 giờ và một phi vụ
đã kéo dài hơn 50 giờ. Chiếc B-2 có tính năng tự động cao, không như
những máy bay chiến đấu một người lái, một thành viên đội bay có thể
ngủ, sử dụng toilet hay chuẩn bị bữa ăn nóng trong khi người kia điều
khiển máy bay.
B-2 cũng đã được Mỹ dùng trong cuộc chiến Lybia cùng Liên quân NATO
ủng hộ lực lượng nổi dậy Lybia năm 2011. Mới đây nhất, ngày 28/3, Mỹ đã
điều 2 máy bay ném bom tàng hình chiến lược B-2 Spirit tham gia vào
cuộc tập trận chung với Hàn Quốc. Hai chiếc B-2 Spirit đã bay thẳng từ
căn cứ không quân Whiteman tại bang Missouri qua quãng đường hơn 10.460
km đến quốc gia Đông Nam Á này.
Văn phòng kiểm kê chính cho biết "đây là dự án phát triển máy bay
ném bom có chi phí hoạt động cao nhất, tính trên mỗi chiếc máy bay xuất
xưởng". Mỗi chiếc B-2 cần 119 giờ bảo dưỡng (so với mức 53 giờ của "pháo
đài bay" B-52) và tốn 3,4 triệu USD/tháng tiền chi phí bảo dưỡng. Sở dĩ
B-2 có mức phí cũng như thời gian bảo dưỡng cao là do yêu cầu cần có
nhà chứa đủ rộng cho chiếc máy bay có sải cánh đến 52,4 m này. Không
những thế, nhà chứa phải đảm bảo các yêu cầu về nhiệt độ để bảo vệ lớp
vỏ "tàng hình" của B-2. Theo báo cáo của GAO, Government Accountability
Office, tổng chi phí cho mỗi chiếc B-2 tại thời điểm năm 1997 là 929
triệu USD. Đến năm 2004, Mỹ đã chi tổng cộng 44,75 tỷ USD (trị giá quy
đổi năm 1997) cho dự án B-2. Chi phí này bao gồm
phát triển, sản xuất, cơ sở vật chất và linh kiện dự trữ.
Mặc dù vậy, Chính phủ Mỹ vẫn không tiếc tiền đổ vào việc nghiên cứu
các công nghệ mới trên B-2. Mới đây, một hợp đồng trị giá 500 triệu USD
đã được Chính phủ Mỹ duyệt để phát triển hệ thống cơ sở mạng, các thiết
bị điện tử và hệ thống radar trên B-2.
B-2 Spirits và F-22 Raptor bay đội hình trên không phận Guam
Hãng Northrop Grumman của Mỹ tuyên bố vừa thử nghiệm thành công hệ
thống thông tin vệ tinh chống nhiễu mới (satcom) cho máy bay ném bom
tàng hình B-2 Sripit để có được khả năng chống lại các hệ thống gây
nhiễu và tác chiến điện tử của đối phương.
Theo hãng tin quốc phòng Anh (Jane), việc trình diễn khả năng chống
nhiễu vệ tinh cho máy bay ném bom B-2 đi kèm với chiến lược "chống tiếp
cận/khu vực cấm" (A2/AD) trước các mối đe dọa ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương.
Hệ thống thông tin tần số cao giống như mạng vệ tinh AEHF thường
được xem là "an toàn" hơn do được ứng dụng những công nghệ vi mạch thế
hệ mới, các thành phần nhu liệu (software) tinh vi, cương liệu
(hardware) nhỏ gọn hơn, cũng như những chùm tia phát xạ tín hiệu hẹp
hơn.
Hãng Northrop Grumman đã tiến hành một thử nghiệm hệ thống thông tin vệ tinh AEHF trên một máy bay ném bom B-2 vào ngày18/4/2013 vừa
qua. Trước đó, hãng này cũng đã đánh giá khả năng truyền phát và nhận
tín hiệu của hệ thống radar AESA ở những góc quét khác nhau trong phòng
thí nghiệm, trước khi được lặp đặt và thử nghiệm hoạt động trên máy bay
ném bom B-2.
Hệ thống radar AESA được hy vọng sẽ giúp B-2 nhận các thông tin
chiến trường với tốc độ truyền dữ liệu nhanh hơn đáng kể so với những hệ
thống liên lạc vệ tinh quân sự hiện tại được được sử dụng trong quân
đội Mỹ.
Với hệ thống thông tin vệ tinh chống nhiễu mới, dự kiến trong tương
lai, sự nguy hiểm của loại máy bay ném bom tàng hình duy nhất đang hoạt
động trên thế giới hiện nay sẽ trở nên ngày càng nguy hiểm hơn. Khả
năng tàng hình cùng các hệ thống phụ như AEHF sẽ giúp B-2 có thể dễ dàng
xâm nhập vào khu vực phòng thủ của quốc gia đối địch như Trung Quốc,
thả bom phá hủy và nhanh chóng trở về căn cứ.
Hệ thống satcom sẽ cho phép máy bay ném bom tàng hình B-2 có thể
hoạt động kết nối với mạng lưới vệ tinh tần số siêu cao tối tân (AEHF)
của Không quân Mỹ (USAF). Mục đích của AEHF là để thay thế hàng loạt cho
những vệ tinh quân sự Milstar mà Quân đội Mỹ đã triển khai từ những năm
1990 trên toàn cầu, bảo đảm khả năng chống bức xạ và gây nhiễu cho hệ
thống thông tin quân sự của Quân đội Mỹ.
Genk.vn (HowStuffWorks)& News247.com(Jane)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét