TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO VÀ SỰ PHỤC HỒI
Tác Giả : TS Jill Bolte Taylor
Dịch Giả : TS Minh Tâm
Đôi Giòng Tâm Sự
Mỗi
bộ óc con người đều có một câu chuyện và sau đây là câu chuyện của bộ
óc tôi...Hơn mười năm trước đây, tôi là giáo sư Đại học Y Khoa Harvard,
chuyên nghiên cứu và giảng dạy cho sinh viên về bộ óc của con người.
Nhưng vào ngày 10 tháng 12 năm 1996, tôi đã học được bài học về não bộ
từ chính bộ óc của mình.
Sáng hôm ấy, bản thân tôi đã trãi qua một dạng
“đứt mạch máu não” rất ít khi có,từ bán cầu Trái của não bộ. Sự xuất
huyết trầm trọng này là do một mạch máu não bất thưòng từ lúc sơ sinh đã
không được khám nghiệm và cắt bỏ, nay thình lình vỡ ra. Trong bốn tiếng
đồng hồ ngắn ngủi, với đôi mắt kinh nghiệm của một nhà nghiên cứu tế
bào não bộ học, tôi đã chứng kiến bộ óc tôi từ từ băng hoại đến độ hoàn
toàn tê liệt trong khả năng phân định các sự kiện diễn biến chung quanh.
Đến cuối sáng hôm đó, tôi đã không còn có thể đi đứng, ăn nói, đọc viết
hoặc nhớ lại những gì đã xảy ra từ trước trong đời. Nằm vo tròn như một
thai nhi trong bụng mẹ, tôi cảm giác mình sắp chết, không còn chút hỉ
vọng nào có thể sống sót để kể lại câu chuyện này cho bất kỳ ai.
Những điều cần biết về Tai biến mạch máu não là một
tài liệu khoa học được ghi lại theo thứ tự thòi gian. Và cũng theo đó,
từ vực thẳm vô hình của một đầu óc hoàn toàn rỗng lặng, tôi đã khám phá
ra sự an tĩnh của nội tâm mà những nhà khoa học não bộ như tôi không mấy
khi có dịp trãi nghiệm. Như tôi được biết, đây là tài liệu lần đầu tiên
được ghi lại từ một nhà Tế bào thần kinh học, qua kinh nghiệm
bản thân mình, sau khi đã phục hồi vì một cơn xuất huyết não trầm trọng.
Tôi rất vui mừng vì tập tài liệu này cuối cùng đã được in ra và phổ
biến khắp thế giới để mọi người có thể biết mà chạy chữa đúng lúc và
đúng cách.
Hơn tất cả mọi thứ trên đời, tôi rất biết ơn Thượng đế đã cho tôi cơ hội
sống còn và ca ngợi sư hiện hữu hôm nav. Ban đầu, tôi được khuyến khích
để vượt qua bạo bệnh và phục hồi là nhờ vào những người có lòng gửi cho
các lá thư tràn đầy tình yêu thương vô bờ bến. Rồi qua nhiều năm, tôi
vẫn kiên trì trong nỗ lực phục hồi, do vì biết bao câu hỏ gửi đến chưa
được trả lời. Như một phụ nữ trẻ đã gửi
thư hỏ tôi rằng: Tại sao bà mẹ của cô khi bị tai biến mạch máu não mà
không thể tự mình gọi điện thoại cấp cứu, nên đã Phải chết? (Người Mỹ
không có thói quen khỉ con cái đã trưỏng thành mà còn ỏ chung nhà với
cha mẹ.), hay một người đàn ông lớn tuổi khác, vẫn còn mãi đau buồn về
cái chết của bà vợ, đã hỏi:Vì sao tai biến mạch máu não đã làm bà phai
nằm mê man bất động cho đến khi qua đời?
Rồi thư của những người chăm sóc bệnh nhân tai biến não hỏ tôi về đưòng
hướng và hi vọng trong sự điều trị. Cho nên tôi đã quyết tâm hoàn tất
tập tài liệu này cho 700 ngàn người bị tai biến não hằng năm trong xã
hội ta. Chỉ cần một người đọc chương “Buổi sáng ngày bị tai biến” để
nhận diện được triệu chứng nguy cấp, rồi gọi ngay cấp cứu - gọi liền chứ
không nên trễ, để cứu một mạng người - thì
những công sức tôi đã bỏ ra để viết quyển sách này kể như đã được đền bù xứng đáng.
Quyển sách này đươc chia ra làm bốn Phần
I.
Phần một nói về cuộc đời tôi trước khi Xuất huyết não xảy ra. Bạn sẽ
biết tại sao tôi lớn lên và quyết định thành một nhà khoa học về não bộ
với tràn đầy nghị lực và lý tưỏng.
Tôi rất tích cực hoạt động trong lãnh vực này. Tôi là một giáo sư khoa
Não bộ học của Đại học Harvard và là thành viên trẻ tuổi nhất trong Ủy
ban nghiên cứu về các bệnh thần kinh. Tôi đi khắp nước diễn thuyết về
căn bệnh và cách trị liệu và kêu gọi những người bệnh khỉ qua đời thì
thân nhân họ nên hiến bộ óc cho viện đại học để nghiên cứu.
II. Nếu bạn hiếu kỳ muốn biết thế nào là bị Tai biến
mạch máu não thì Phần hai, “Buổi sáng ngày bị Tai biến”, là chương bạn
nẽn đọc. Trong phần này, tôi sẽ dẫn bạn qua một hành trình lạ thường để
bạn thấy được những suy sụp từ từ về khả năng hiểu biết - cái biết hiện
tại về sự vật chung quanh và cái biết về những điều đã học hỏi trong quá
khứ - của người bị Tai biến, dưới cái nhìn của một nhà khoa
học. Khi não của tôi bị xuất huyết càng lúc càng nhiều thì tôi biết
rằng đấy là sự mất mát và suy sụp của trí tuệ về phương diện Sinh học.
Còn về phương diện Tế bào thần kỉnh học, Phải thú nhận rằng tôi đã học
được rất nhiều về não bộ và sự vận hành của nó trong buổi sáng xuất
huyết này, nhiều như tôi đã học hỏi trong bao năm khoa bảng. Đến cuối
buổi sáng hôm ấy, ý thức của não bộ còn lại - não bộ Phải - đã đưa tôi
sang một vùng nhận thức mới: tôi đã trỏ thành một với vũ trụ. Từ đó tôi
mới hiểu
được rằng tại sao với bộ óc vật chất này, người ta có thể đạt đến sự hiểu biết về những điều “thần bí” và “siêu hình”.
III.
Nếu như bạn muốn giúp một người đã bị Tai biến não hay do một tai nạn
mà bị chấn thương ỏ não bộ, thì những chương về sự phục hồi là rất cần
thiết và hữu ích - trong đó có hơn 50 lời gợi ý về những điều nên và
không nên làm cho ngưòi bệnh. Tôi hi vọng bạn sẽ chia sẻ kiến thức này
cho mọi người chung quanh khỉ họ cần đến.
IV. Phần cuối, quyển sách cho thấy cơn Xuất huyết
này đã dạy tôi những điều mới lạ về bộ óc, bạn sẽ thấy rằng quyển sách
này không hoàn toàn viết về Tai biến mạch máu não. Nói cho chính xác
hơn, Tai biến não chỉ là một chấn thương khiến cho những hiểu biết mới
về não bộ xuất hiện.
Quyển sách này cho thấy những nét đẹp và khả năng
phục hồi của não bộ con người, do khả năng nội tại của nó không ngừng
thay đổi và luôn thích ứng để tồn tại. Sau rốt cuốn sách cho thấy hành
trình của nhận thức thuộc bán cầu Phải của não bộ khỉ nó dẫn tôi vào
cảnh giới An lành của vùng Tâm thức sâu thẳm. Tôi đã phục hồi Ý thức
luận lý của bán cầu não Trái để trình bày và giúp cho người đọc
đạt đến Cảnh gioi An lành của vùng Tâm thức thâm sâu mà không cần Phải
trải qua một cơn xuất huyết não như tôi. Hy vọng độc giả sẽ hài lòng
trong cuộc du hành trí thức này.
CHƯƠNG 1
ĐỜI SỐNG CỦA TÁC GIẢ TRUÓC KHI TAI BIẾN NÃO
Tôi
là nhà nghiên cứu tế bào não bộ, đã được huấn luyện, thực tập và đã
xuất bản nhiều công trình nghiên cứu. Tôi sinh trưỏng ỏ thành phố Terre
Haute thuộc tiểu bang Indiana. Một người anh của tôi, chỉ lớn hơn tôi 18
tháng tuổi, mắc bệnh Tâm thần Phân liệt. Anh được chính thức chẩn đoán
là mắc bệnh này ỏ tuổi 31, nhưng thực ra anh đã có triệu chúng của bệnh
từ nhiều năm trước. Từ thời thơ ấu, anh đã tỏ ra khác hơn tôi về cách
nhìn thực tại và cách đối xử với mọi người. Do vậy, tôi rất có hứng thú
tìm hiểu về bộ óc con người từ lúc còn bé. Tôi đã thường tự hỏi, vì sao
mà hai anh em cùng quan sát một sự việc vừa mới xảy ra, tại
có thể đi dến hai lời giải thích khác nhau. Sự khác biệt về nhận thức,
về cách tiếp thu và phân tích dữ kiện giữa hai anh em tôi, đã thúc đẩy
tôi trỏ thành một nhà khoa học về não bộ.
Tôi bắt đầu 4 năm đại học từ cuối thập niên 1970 ỏ
đại học Indiana, thành phố Bloomington. Do sự giao tiếp với người anh
của tôi mà tôi rất muốn biết thế nào là một con người “bình thường” trên
bình diện trí óc. Lúc bấy giò, Khoa tế bào não bộ học hãy còn phôi thai
và chưa được giảng dạy ỏ đại học như một phân khoa riêng biệt. Nhưng
nhờ môn Cơ thể học và Sinh học mà tôi được biết ít nhiều về bộ óc con
người.
Công việc đầu tiên tôi nhận được sau 4 năm tốt
nghiệp không ngờ là một ân phước lớn trong đời học hỏi. Tôi được tuyển
làm Cán sự ỏ phòng thí nghiệm của Viện đại học, mà thời gian được phân
chia làm hai phần: một là nghiên cứu về giải phẩu Nhân thể học và hai là
giải phẩu Tế bào thần kỉnh. Trong suốt hai năm, tôi say mê trong lãnh
vực y học này dưới sự hướng dẫn của giáo sư Tiến sĩ Robert C. Murphy, và
tôi thích mổ xẻ cơ thể con ngưòi để tìm hiểu và học hỏi. Bỏ qua việc
lấy bằng Thạc sĩ, sáu năm kế tiếp tôi đã ghi danh học chương trình Tiến
sĩ trong phân khoa Sinh học. Năm đầu tôi học phần lớn các lớp của Y
khoa, và công trình nghiên cứu của tôi lại chuyên về Giải phẩu Tế bào
Thàn kinh não
dưới sự hướng dẫn của giáo sư Tiến sĩ William J. Anderson. Tôi tốt
nghiệp Tiến sĩ năm 1991, và cảm thấy đủ tự tin để giảng dạy các môn Giải
phẩu Nhân thể, Giải phẩu Tế bào não và Sinh học cho sinh viên ỏ Đại học
Y Khoa.
Trỏ lại thời điểm 1988, khi tôi đang làm công việc
cán sự ỏ phòng thí nghiệm nghiên cứu về não bộ, thì anh tôi chính thức
được giới y học xác định mắc Phải chứng bệnh Tâm thần Phân liệt. Về
phương diện Sinh học thì anh em tôi là hai hiện hữu gần giống nhau nhất
trên thế gian này. Nên tôi muốn tìm hiểu tại sao tôi đã có thể đem ước
mơ gắn liền với thực tế và biến chúng thành hiện thực, còn bộ óc của anh
tôi thay vì làm việc đó thì lại chỉ phát sinh ra hoang tưỏng? Vì vậy,
tôi rất hăm hỏ theo đuổi việc nghiên cứu bệnh Tâm thần Phân liệt này.
Tiếp theo lễ tốt nghiệp Tiến sĩ ỏ Đại học Indiana, tôi được mời làm việc
trong chương trình nghiên cứu hậu đại học của trường Đại học Y Khoa
Harvard, phân khoa Thần kinh.
Tôi đã nghiên cứu trong 2 năm, dưới sự hướng dẫn của giáo sư Tiến sĩ
Roger Tootell, trên bộ phận vỏ não liên quan đến thị giác. Tôi rất hứng
thú trong công cuộc nghiên cứu này vì đa số những người mắc bệnh tâm
thần phân liệt thường cho thấy họ có cái nhìn rất bất thường khi quan
sát những vật chuyễn động.
Sau đó, tôi đã xin chuyễn qua nghiên cứu ỏ phân khoa Tâm thần. Mục đích
của tôi là được nghiên cứu dưới sự chỉ dẫn của giáo sư Tiến sĩ Francine
M. Benes trong bệnh viện McLean. Tiến sĩ Benes là chuyên gia nổi tiếng
về việc giải phẩu não bộ những người bệnh tâm thần phân liệt sau khi
chết, để tìm hiểu và giải thích tại sao họ đã bệnh như vậy. Tôi tin
tưỏng công trình nghiên cứu này sẽ giúp tôi chữa trị được những người đã
mắc chứng bệnh rối loạn não bộ như ông anh của tôi.
Một tuần trước khi sang nhận công việc nghiên cứu
mới ỏ bệnh viện McLean,tôi được mời dự buổi điều trần hằng năm - năm ấy
là 1993 - của “Hội bạn người bệnh Tâm thần toàn quốc” ỏ Miami, Florida.
Lúc đó, Hội có khoảng 40 ngàn hội viên có người nhà mắc bệnh tâm thần.
Hiện nay, 2009, con số đó đã tăng lên đến khoảng 220 ngàn. Chuyến đi này
làm thay đổi hẳn đời tôi. Ở cuộc điều trần, tôi đã hiểu được nỗi đau
của 40 ngàn gia đinh có thân nhân bị bệnh, cũng như gia đình tôi, mà
chưa tìm ra được nguyên nhân và cách cứu chữa. Hội họp ỏ đây là để báo
động cho chính quyền và những người có trách nhiệm trong giới y học Phải
quan tâm giải quyết, vì đó là sự đòi hỏi của người dân về Công Bằng Xã
Hội.
Khi trỏ về lại bệnh viện McLean để bắt tay vào việc nghiên cứu bệnh, tôi
rất hăm hỏ và đầy nhiệt tình. Không những tôi muốn cứu anh tôi, mà tôi
còn muốn cứu cả mấy mươi ngàn người qua cuộc điều trần ỏ Miami. Với
nhiệt tình tuổi trẻ, với sự thông cảm nỗi đau của gia đình có người bệnh
và với kiến thức của một nhà khoa học về bệnh tâm thần, năm sau - 1994 -
tôi được đề cử vào ủy ban điều hành của Hội. Thật là một vinh dự và
cũng là trách nhiệm rất lớn lao với một người trẻ tuổi như tôi - mới có
35 tuổi, trong khi tuổi trung bình trong ủy ban là 67. Hằng năm tôi đều
tham dự các cuộc họp tổ chức khắp toàn quốc để tường trình những tiến bộ
trong việc nghiên cứu của chúng tôi.
Bấy giờ tôi lại được cho biết rằng phòng thí nghiệm ỏ
bệnh viện McLean thật sự cần thêm não bộ của người bệnh đã chết để
nghiên cứu. Một năm phòng thí nghiệm chỉ nhận được có vài ba bộ não của
người chết gửi tặng thì không đủ vào đâu. Khi tôi đi tham dự các phiên
họp, tôi đã kêu gọi sự đóng góp, thì số não bộ hiến tặng đã tăng lên
được 35. Nhưng hằng năm Ngân hàng não Phải có trên 100
bộ não thì mới đủ cho công cuộc nghiên cứu. Qua sự nghiên cứu, chúng tôi
đã tìm thấy có ba hệ thống hóa chất khác nhau làm công việc tiếp nối sự
“truyền tin” trong mỗi bộ óc. Nhờ những hóa chất này, như dopamine là
một, mà các tế bào thần kinh có thể chuyển tin tức cho nhau. Nếu chúng
tôi nhận biết được các hóa chất này, sự vận hành vi tế giữa các mạch tế
bào não, biết được liều lượng hóa chất cần thiết của não bộ từng người
bệnh, chúng tôi có thể điều trị những chứng bệnh này bằng những loại
thuốc với liều lượng hiệu quả hơn.
Công trình nghiên cứu của tôi đã được đăng trên báo y
học “BỉoTechniques Journal” đầu Xuân 1995; và đến năm 1996, tôi được
giải thưỏng của Đại học Y Khoa Harvard, phân khoa Tâm thần về kết quả
nghiên cứu này. Tôi thật lạc quan và yêu đời. Nhưng rồi một sự kiện
không thể ngờ xảy ra. Tôi đang ỏ giữa độ tuổi ba mươi. Con đường sự
nghiệp đang đi lên. Thì bỗng nhiên trong chớp mắt, màu hồng tươi thắm
của cuộc đời và những viễn cảnh đẹp đẽ của tương lai đã tan thành mây
khói. Tôi thức dậy buổi sáng ngày 10 tháng 12 năm 1996 để khám phá ra
rằng não bộ của chính tôi cũng đã mang bệnh. Tôi đang bị Xuất huyết não!
Trong vòng 4 tiếng đồng hồ ngắn ngủi, tôi theo dõi và thấy tâm trí tôi
từ từ hũy hoại trong khả năng phân
tích sự vật xung quanh qua các giác quan của tôi. Một hình thức xuất
huyết não hiếm hoi xảy ra đã làm cho cơ thể tôi hoàn toàn tê liệt, từ
khả năng đi đứng, nói năng, đọc viết, hoặc hồi tưỏng lại mọi việc trong
đời.
Tới đây, tôi nghĩ rằng độc giả muốn biết ngay những gì đã xảy ra cho tôi
trong buổi sáng xuất huyết não ấy. Nhưng hãy khoan. Để quý vị có thể
hiểu được những gì đã xảy ra trong não bộ khi nó bị xuất huyết, tôi xin
trình bày trong chương 2 và 3 sau dây vài điều cơ bản về khoa não bộ
học.
CHƯƠNG 2
MỘT MÔN KHOA HỌC ĐƠN GIẢN
Thông
thường, để cho hai người chúng ta có thể trao đổi với nhau về một vấn
đề gì, trước hết chúng ta Phai có một số ý niệm chung về thực trạng của
vấn đề đó. Hơn nữa, hệ thống thần kinh của chúng ta cũng Phai tương
đương trong khả năng nhận xét và hiểu biết các dữ kiện từ ngoại cảnh,
phân tích và kết nạp dữ liệu đó vào bộ óc, rồi cũng Phải tương đồng
trong cách biến hiểu biết đó ra thành ý nghĩ,
lời nói, hay việc làm. Những cảnh “ông nói gà, bà hiểu vịt” không Phải là không thường xảy ra.
Việc
ra đời của Sự Sống là một biến cố đáng kể nhất. Từ sự xuất hiện một đơn
bào sinh vật, một giai đoạn mới về cấu trúc sinh thể ỏ lĩnh vực tế bào
đã xuất hiện. Những nguyên tử và phân tử trong tế bào kết tập nhau thành
DNA và RNA có thứ lớp và không thể nhầm lẫn. Các tế bào này quần tụ với
nhau và phát triển qua thời gian để sản sinh ra bạn và tôi và tất cả
mọi loài. Ở mức độ cấu trúc DNA, chúng ta
được cấu tạo tương tợ như loài chim, loài bò sát, loài lưỡng thê, loài
động vật có vú, và ngay cả loài thực vật. Nhưng đứng về mặt sinh học, cơ
thể chúng ta mặc dù đã được cấu tạo rất phức tạp, vẫn chưa Phải là hoàn
hảo và cố định, mà là còn đang trên đà phát triển.
Chẳng hạn như não bộ đã và đang thay đổi không ngừng. Não bộ của tổ tiên
ta từ bốn ngàn năm trước không giống như não bộ của con người ngày nay.
Chỉ riêng sự phát triển về ngôn ngữ đã làm thay đổi từ hình thể đến cấu
trúc hệ thống tế bào não bộ. Hầu hết những nhóm tế bào khác nhau của cơ
thể đều sinh ra và chết đi trong vài tuần hoặc vài tháng, rồi được thay
thế bằng những tế bào mới, các tế bào não lại không như thế, kể từ khi
chúng được sinh ra. Có nghĩa là các tế bào não của bạn ngày nay cũng
“già đi” theo số tuổi của bạn. Sự sống không bao giò chết của tế bào não
cắt nghĩa phần nào cái cảm gỉác của ban: dù đã 50 hav 70 tuổi, bạn vẫn
ngỡ mình đang là 15 hay 20!
Số lượng tế bào thần kinh trong bộ óc con người
không thay đổi, nhưng sự “tiếp xúc” giữa các tế bào thì thay đổi, tùy
theo sự học hỏi và kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân. Hệ thống tế bào
thần kinh của con người thật năng động và tuyệt vời, với con số tế bào
ước khoảng một ngàn tỉ. Để có ý niệm một ngàn tỉ tế bào óc là bao nhiêu,
thì hãy nhớ rằng dân số toàn thế giới hiện nay là 6 tỉ. Nhân con số 6
tỉ dân này lên 166 lần, thì bạn có được con số một ngàn tỉ tế bào đang
chen chúc trong cái sọ bé nhỏ của mỗi con người chúng ta, với trọng
lượng trung bình của não bộ không hơn 1,5 kg. Dĩ nhiên con người chúng
ta không Phải chỉ có não bộ. Còn có thân thể nữa. Trung bình, cơ thể một
người trưỏng thành gồm chứa
khoảng 50 ngàn tỉ tế bào. Có nghĩa là số tế bào trong một cơ thể gấp
8.333 làn tổng dân số trên toàn thế giới. Thật là kỳ diệu: những tế bào
xương, tế bào thịt, tế bào tạng phủ..., làm sao chúng
có thể điều phối và hoạt động nhịp nhàng với nhau để tạo thành một cơ
thể hoàn toàn khỏe mạnh và không bao giò bệnh tật? Cho nên nếu bạn có
mang bệnh, đừng lấy làm lạ! Sự tiến hóa về phương diện sinh học thường
bắt đầu từ thô sơ lên đến phức tạp. Để bảo đảm sự tiến tạo các sinh vật
được hữu hiệu, Tạo hóa luôn theo một khuôn mẫu nhất định. Như con ong
hút mật, con chim làm tổ, quả tim bơm máu, tuyến mồ hôi điều hòa thân
nhiệt...; mỗi mỗi được tạo tác theo những “mã số“ riêng không hề bị xáo
trộn. Do đó, qua hàng triệu triệu năm, mọi loài chỉ tiến hóa và phát
triển trên “căn bản” của mình để tiến đến mức độ phức tạp hơn. Chẳng hạn
như con người và loài dã nhân. Con người có đến 99,4% DNA cấu tạo tương
tự như dã nhân. Nhưng như vậy không có nghĩa dã nhân là thủy tổ của
loài người; chúng chỉ có trí thông minh xấp xỉ như con ngưòi mà thôi.
Điều đó chứng minh sự kỳ diệu của bàn tay tạo hóa: chỉ thay đổi một chút
xíu các mã số DNA mà đã tạo ra các loài sinh vật khác nhau. Còn giữa
loài người với nhau, bạn và tôi có cùng loại DNA, nhưng chỉ khác nhau có
0,01% (1/100 của 1%) trên cách cấu trúc. Vỉ vậy, mắt mũi, màu da, cao
thấp, mập ốm, dáng vẻ... không giống nhau.
Và con người khác với những loài có vú khác là ỏ bộ
não: con người có lớp vỏ não dợn sóng và uốn khúc một cách phức tạp. Mặc
dù não bộ loài có vú đều có vỏ não bao bọc bên ngoài, nhưng vỏ não con
người lại dày hơn gấp đôi và vì vậy các chức năng sinh hoạt cũng gấp
đôi. Hơn nữa, vỏ não con người còn chia não bộ ra làm 2 bán càu riêng
biệt mà chức năng sinh hoạt mỗi bán cầu lại bổ túc cho nhau.
Nhờ bổ túc cho nhau mà mỗi người chúng ta có một nhận thức nhất định và
độc nhất - không ai giống ai - về thế giới bên ngoài. Lớp vỏ não trên
cùng mới được “thêm vào” cho não bộ con người gần đây thôi (vài ngàn
năm) đã làm cho con ngưòi khác hẳn các loài có vú khác, Nhờ những mạch
thần kinh ỏ đây mà con người có được tri thức về những vật chất “cụ thể“
(nhà cửa, vật dụng) và những ý niệm “trừu tượng” (ngôn ngữ, nghệ
thuật...). Còn những lớp sâu hơn của vỏ não thì chức năng sinh hoạt giữa
người và vật đều giống nhau.
Bán cầu não bộ cũng cần mạch máu mang dưỡng khí lên
nuôi sống. Các mạch máu này được phân nhiệm vụ riêng biệt, như mạch máu
thuộc phần cử động tứ chi, phần tạo tác ngôn ngữ, phần hiểu biết ngôn
ngữ, phần thuộc thị giác, phần phân biệt vật thể. Mạch máu nào bị hư
hỏng thì phần liên hệ đó của thân thể không còn hoạt động được. Và cũng
như các bộ phận khác của cơ thể là thường hay bị bệnh, các mạch má ỏ
bán cầu não bộ cũng hay bị ‘tai biến". Những tai biến này chia làm 2
loại thường làm chết người hoặc biến con bệnh thành phế nhân.
Tai biến thông thường nhất, lên đến 83% trường hợp, là “nghẽn” mạch máu.
Tai biến hiếm hoi, chỉ có khoảng 17%, nhưng nặng nề nhất, là “vỡ“ mạch máu.
Nghẽn
mạch máu là khỉ mỡ cholesterol đóng theo thành mạch máu làm trỏ ngại
máu không thể lưu thông trên vỏ não. Không dưỡng chất, tế bào thần kinh ỏ
vùng này Phải tê liệt. Thường thì tế bào thần kinh tê liệt sẽ không
được thay thế. Các sinh hoạt của thân thể liên hệ tới vùng thần kinh này
sẽ bị đình chỉ vĩnh viễn, trừ phi có những tế bào thần kinh khác học hỏ
vai trò của những thần kỉnh đã tê liệt
qua một thời gian, gọi là phục hồi chức năng. Bỏi vì mỗi người có sự nối
kết các đường dây thần kinh não bộ một cách khác nhau, nên khả năng
phục hồi cũng khác nhau.
Vỡ mạch máu là
khi mạch máu não có chỗ cấu tạo bất thường - thành mạch máu quá mỏng -
bị vỡ ra, lớp vỏ não bị ngập lụt trong máu và tế bào não ỏ vùng đó không
còn hoạt động được; vì máu là độc tố của tế bào thần kỉnh, không thể
được tiếp xúc trực tiếp. Đôi khi vỡ mạch máu là do áp suất huyết quá
cao, các vi huyết quản nốỉ liền động mạch và tĩnh mạch chịu đựng không
nổi áp lực. Đây là những tai biến chết người.
Những Dấu Hiệu của Tai Bién Mạch Máu Não:
· Tự nhiên nói không ra tiếng.
· Tay chân bị tê hay bắp thịt bị cứng.
· Tự nhiên quên hết mọi sự một cách bất thường.
· Tự nhiên đi đứng mất thăng bằng.
· Bị nhức đầu dữ dội khác với bình thường.
· Bỗng nhiên mắt mờ, không còn thấy gì hết.
Tai biến Mạch máu Não là vấn đề Sống Chết. Hãy đưa đi cấp cứu lập tức.
CHƯƠNG 3
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HAI BÁN CẦU NÃO
Từ
hơn 200 năm nay, các nhà khoa học đã nghiên cứu về sự khác biệt giữa
hai bán cầu não bộ con người. Người đầu tiên là DuPuis. Vào năm 1780,
DuPuis đã tuyên bố là con người có bộ óc đôi, vì có hai bán cầu. Gần một
thế kỷ sau, Arthur L. Wigan đã chứng kiến cuộc giảo nghiệm một người đã
chết mà não bộ chỉ có một bán cầu. Người này lúc sống cũng đi, đúng,
nói năng, và có ý thức như một người
bình thường. Vì vậy Wigan rất hào hứng đưa ra thuyết “Con người có nhị
trùng tâm”. Thuyết này gây nhiều hứng khỏi cho các nhà khoa học Hoa Kỳ.
Cho tới thập niên 1970, tiến sĩ Roger W. Sperry nhờ giải phẫu cắt rời
hai bán cầu não để chữa bệnh “kinh phong”, đã khám phá ra vài điều mới
mẻ. Trong bài diễn văn lãnh giải Nobel Y học năm 1981, tiến sĩ Sperry
nhận định: “Khi hai bán cầu não bộ bị cắt
rời, đương sự sẽ hành xử khác nhau như hai con người khác nhau, tùy theo bán cầu não Trái hay Phải được sử dụng”.
Những
nghiên cứu và quan sát tiếp theo các bệnh nhân bị tách não làm đôi (để
trị bịnh kỉnh phong) cho các nhà khoa học kết luận rằng: Khi 2 bán cầu
não còn dính với nhau thì hoạt động “bổ túc” cho nhau; còn khi bị mổ
tách rời thì sẽ hoạt động như 2 bộ não “độc lập”, riêng biệt. (Tiến sĩ
Jekyll).
Nhờ hai bán cầu não Trái và Phải hoạt động bổ túc
cho nhau nên chúng ta mới có những nhận xét, hiểu biết về nhân sinh và
vũ trụ một cách rất độc đáo mà các loài sinh vật khác không thể có được.
Sự bổ túc này rất hài hòa đến nỗi chúng ta không thể phân biệt khi nào
chúng ta sử dụng bán cầu não Trái và khi nào là bán cầu não Phải. Tuy
nhiên, ỏ một mức độ nào đó, chúng ta có thể biết.
Nhưng trước hết, điều quan trọng là Phải biết phân
biệt người thuận tay Phải hay tay Trái với người thiên về bán cầu não
Phải hay Trái. Bán cầu não Phải điều khiển nửa phần thân thể bên tav
Trái, và bán cầu não Trái điều khiển nửa phần thân thể bên tay Phải. Còn
người thuận sử dụng bán cầu não Phải hay Trái thì lại khác. Muốn biết
một người thiên về sử dụng bán cầu Phải hay Trái thì hãy quan sát cách
họ “nói năng” (sử dụng ngôn ngữ) và cách họ “nghe” và “hiểu“ lời nói
(tiếp nhận và giải mã ngôn ngữ) của người khác. Nói chung, gần như 85%
dân số thuận tay Phải và thiên về sử dụng bán cầu não Trái. Và khoảng
60% người thuận tay Trái cũng thiên về sử dụng bán cầu não Trái. Như vậy
số người thuận sử
dụng bán cầu não Phải không nhiều.
Khi các dữ kiện (ánh sáng, âm thanh, mùi, vị, cảm
giác, ý tưỏng) hằng ngày không ngớt tràn ngập não bộ con người qua các
giác quan, thì bán cầu não Phải tiếp nhận các dữ kiện này bằng hình ảnh
như hình chụp của máy ảnh, được rửa ra và được dán chồng lên nhau. Thí
dụ: Mắt “thấy“ cô gái này đẹp thì trong não bộ Phải có nguyên hình cô
gái với toàn cảnh, thí dụ cô gái ấy ỏ một tiệc cưới, ỏ quán kem, ỏ nhà
một người bạn... Tai “nghe” tiếng giảng đạo của một linh mục thì có hình
ảnh của vị linh mục đó tại nhà thờ...“Nỗi buồn” hay sự “thất vọng” cũng
được não Phải lưu giữ bằng hình ảnh trong một bối cảnh nào đó. Những
hình ảnh này được lưu giữ cho dù sự kiện đã xảy ra cách nhiều năm, khi
hồi
tưỏng lại ta cũng như đang “thấy” trước mắt, nhất là khi hình ảnh đó
ngày xưa đã gây quá nhiều ấn tượng.
Với não bộ Phải, sự ghi nhận không có thời gian. Chỉ
là “hình ảnh” được ghi lại “bây giò“ và “nơi đây” với đầy đủ cảm giác
rất sống động. Não bộ Phải không bị gò ép Phải “suy tưỏng” theo một
nguyên tắc hay khuôn khổ lề luật nào, và đó là não bộ của các nghệ sĩ,
tu sĩ, nhà đạo đức, các nhà khoa học lo cho tương lai nhân loại, chuyên
nghĩ đến những việc mà người “bình thường” không hề nghĩ đến.
Não bộ Phải, phần trước trán, cũng làm cho chúng ta nghĩ đến tình nhân
loại, nghĩa đồng bào, cùng sống trong một dãi đất, trên một tỉnh cầu,
biết thương yêu nhau, giúp đỡ, nhường nhịn, sống chung hay chết chung
với nhau.
Não bộ Trái thì ngược lại trong việc ghi nhận các dữ
kiện. Tiếp nhận những sự kiện từ não bộ Phải như là hình ảnh của một
tổng thể, não bộ Trái đem ra phân tích, phê phán và sắp xếp theo hình
dáng, màu sắc, âm thanh, mùi vị, thời gian (quá khứ, hiện tại, vị lai),
tình cảm (thương ghét, vui buồn), khối lượng (nặng nhẹ, lớn nhỏ)... Nói
chung là não bộ Phải nhìn mọi sự dưới dạng toàn cảnh và tổng thể; còn
não bộ Trái thì dùng ngôn ngữ để mô tả từng chi tiết, theo thứ tự thời
gian, theo phân biệt tình cảm. Thí dụ: Não bộ Phải khi gặp một người thì
ghi nhận ngay hình ảnh người ấy gặp trong một khung cảnh nào đó. Não
Trái sẽ ghi chi tiết: nam nữ, chủng tộc, cách ăn mặc, nói năng, học vấn,
cá tính... (Ỏ điểm này, ta
gọi là óc nhận xét). Hay nhìn một đóa hoa. Não bộ Phải chỉ ghi nhận:
đóa hoa và bất cứ hoa gì thì cũng thấy đẹp. Còn não Trái sẽ ghi hoa gì,
màu gì, mùi gì, cánh hoa, đài hoa, cuống hoa, xấu, đẹp như thế nào.
Nhờ thu nhận hình ảnh ngưòi, vật, cảnh nên não bộ
Phải nhìn đâu cũng đẹp, dễ thương, độc đáo, biết tôn trọng vật hay người
đã nhìn thấy, và thấy cá nhân mình chỉ là một phần trong toàn phần,
không có sự kỳ thị, phân biệt hơn kém, thương ghét. Trái lại, với chức
năng phân biệt, phê phán theo giá trị, xếp loại theo hạng mục, não bộ
Trái tạo ra nhiều dễ dàng trong đời sống, nhưng cũng từ đó làm cho đời
sống thêm phức tạp hơn lên. Thí dụ: mục đích của thức ăn là để no bụng.
Nhưng có ngưòi đói thấy thức ăn, thì ăn. Có người đói lại không ăn, vì
thức ăn bị chê là không ngon, hay bày biện không hợp... lễ. (Còn con vật
hễ đói, thấy đồ ăn thì...ăn, không cần ngon dỏ hay lễ nghĩa gì cả).
Thêm nữa, não bộ Trái có khả năng ngôn ngữ nên biết
diễn tả mọi sự mọi vật thật chi tiết, rõ nét, dễ hiểu, làm cho sự hiểu
biết của loài người được tích lũy và lưu truyền càng ngày thêm phong
phú, khiến cho con người càng ngày một thông minh, tiến bộ qua quá trình
tiếp thu kiến thức hàng ngàn năm. Với những kiến thức được phân loại
theo hạng mục, con người cũng tiên đoán được những gì sắp xảy ra, tránh
được phần nào tai họa (thòi tiết, giông bão, động đất, sóng thần...).
Nhưng cũng chính với những khả năng đặc biệt của não bộ Trái, con người,
và chỉ có loài người mà thôi, đã tạo ra biết bao khốn khổ cho chính
mình và người chung quanh. Nhờ khả năng ngôn ngữ, con người biết tự đặt
câu hỏi "TÔI LÀ...AI?” Bản
Ngã từ đó sinh ra. Cái Tôi, cái Ngã càng được trau chuốt, quan trọng
hóa, thì khốn khổ tự thân của con người cũng dồn dập.Khi bán cầu não
Trái bị thương tật, người bệnh sẽ mất khả năng nói và hiểu lờinói của kẻ
khác. Nhưng nhờ bán cầu não Phải, họ sẽ cảm nhận được là người đối diện
đang nói thật hay nói dối qua sự nhận xét cách nói, giọng nói, vẻ mặt,
và điệu bộ. Bán cầu não Phải vì vậy có khả năng bổ túc cho bán cầu não
Trái về moi lĩnh vực sinh hoạt trong đời sống hằng ngày, khi não Trái bị
tai biến hay thương tật.
Loại tai biến mà tôi trải nghiệm là sự Xuất huyết trầm trọng bên bán cầu
não Trái. Sau khi đã được mổ sọ để lấy khối máu khô ra, tôi đã Phải mất
8 năm mới hoàn toàn hồi phục thể lực và trí lực. Các chương tiếp theo
sẽ kể tiếp cho bạn biết những gì đã xảy ra.
Tôi cũng nhiệt tình khuyến khích các bạn hãy tìm đọc
thêm những tài liệu về khả năng của bộ óc, về sự sinh hoạt của hai bán
cầu trong một con người bình thường, để bạn có thể giúp những người bị
Tai biến mạch máu não phục hồi một cách hữu hiệu, và giúp cho chính bạn
sống cuộc đời mình tốt đẹp hơn.
CHƯƠNG 4
BUỔI SÁNG NGÀY BỊ TAI BIẾN
Lúc
ấy là 7 giờ sáng ngày 10 tháng 12 năm 1996. Tôi thức dậy theo tiếng báo
thức của đồng hồ reo bên giường. Với tay bấm tắt tiếng reo, hình như
tôi vẫn còn chập chờn trong trạng thái nửa thức nửa ngủ. Nhưng tinh thần
tôi đã sảng khóaí, sẵn sàng cho một ngày bình thường. Tôi biết tôi Phải
thức dậy đi làm việc. Đang trỏ mình lăn ra khỏi giường, bỗng tôi cảm
thấy đau nhói bên phía trong đầu sau mắt Trái, một cơn đau chưa từng có.
Chẳng mấy khi bệnh hoạn, tôi lấy làm lạ về một cơn đau khỉ mới vừa thức
giấc. Tôi đưa tay Trái lên kéo đóng tấm mành che bớt ánh sáng mặt tròi
chói chang đã làm mắt tôỉ khó chịu, và đưa tay Phải
lên che con mắt đau lại. Tôi cảm thấy bối rối tự hỏi tại sao mới sáng
mà lại
đau thế này? Con mắt Trái cứ tiếp tục đau giật tê buốt từng cơn, tê buốt
như cắn Phải cục nước đá. Tôi rời giường, khập khểnh leo lên chiếc máy
tập thể dục như một người lính bị thương, hy vọng sự vận động cơ thể,
máu huyết lưu thông sẽ làm giảm cơn đau. Sau vài động tác, tôi thấy cơ
thể như rã rời, tay chân như không còn là của tôi nữa, mặc dù tôi vẫn
tỉnh táo. Hay đúng hơn, cơ thể như không còn theo mệnh lệnh của bộ óc
tôi.
Tôi như một người khác đang quan sát cử động của
chính mình. Tôi đưa hai tay nắm lấy tay nắm của máy tập thể dục, mà vụng
về như hai tay của người tiền sử. Đầu vẫn tiếp tục đau điếng từng cơn.
Tôi có cảm giác lạ kỳ: Ý thức tôi đã tản mạn đâu mất và thân thể tôi như
đang lơ lửng giữa thực tại và một cõi mông lung nào. Nhận thấy sự vận
động của thể dục không giúp ích gì cho cơn đau, tôi rời máy
và hướng vào nhà tắm. Tôi để ý thấy tôi bước đi không còn tự nhiên, mà
cà thọt như một tên hề. Và không thể bước đi một cách thăng bằng, tôi
Phải cố gắng hết sức mới không Phải té. Để bước chân vào bồn tắm, tôi
Phải vịn vào vách, và cố gắng lắm thì hai chân mới đứng vững được cho
khỏi ngã. Tôi lấy làm ngạc nhiên là sao hôm nay tôi không thể điều khiển
được cái khối 50 ngàn tỉ tế bào theo ý muốn
và tự hỏi không biết bộ óc kỳ diệu của tôi sao hôm nay lại bất thường?
Tôi
biết rằng sỏ đĩ con người có thể đi đứng một cách thăng bằng và nghe
được, thỏ được là nhờ phần não bộ nối dài với tủy sống. Như vậy là tôi
có thể bị rối rắm với các tế bào não bộ ỏ phần này, và có thể nguy hiểm
chết người. Trong khi tôi cố tìm ra lòi giải đáp bằng kiến thức của một
nhà khoa học não bộ, tôi bỗng nhiên nhận ra mình đang ỏ vào một tình
trạng thật là kỳ lạ: Thông thường não bộ Trái hay “nói” cho tôi biết
những gì đang xảy ra, nhưng bây giờ thì im lặng, hoặc nói vài điều không
mạch lạc, không liên hệ, không nghĩa lý gì với nhau. Hơn nữa, thính
giác của tôi thường rất nhạy bén, nhưng bây giờ tôi không
còn nghe được cả tiếng ồn ào thường lệ của xe cộ bên ngoài. Hoang mang,
tôi lục lọi ký ức xem tình trạng này có bao giờ xảy ra chưa. Hiện tượng
giống như bị nhức đầu dữ dội. Tôi càng cố tập trung ý tưỏng, thì trí óc
và sự suy nghĩ của tôi càng như tan biến vào nơi đâu. Bộ phận não
Amygdala có bổn phận thông báo về những tai họa, những điều đáng sợ,
Phải có phản ứng thế nào
cho thích hợp, đã không thấy hoạt động vào lúc này. Và thay vào sự lo
lắng về “chuyện gì đã xảy ra trong bộ óc tôi”, tôi bỗng nhiên cảm thấy
“bình an” thật lạ. Cả đời mấy mươi năm, lúc nào tôi cũng nghe não bộ
Trái của tôi “báo cáo” từng chi tiết về đủ thứ chuyện: Nào là chuyện
nghiên cứu, chuyện dạy học, kế hoạch này, chương trình kia Phải hoàn tất
kịp thời. Thì nay, những việc làm bận rộn đó đã biến đâu mất. Tôi chỉ
còn một cảm giác thanh tịnh, hạnh phúc và cực kỳ an lạc. Và vì Trung tâm
Ngôn ngữ ỏ bán cầu não Trái đã bị tê liệt, tôi không còn liên lạc được
với mọi ký ức trong đời. Tôỉ không còn biết “tôi là ai”. Tôi như hòa
làm một với vũ trụ, và cảm giác đó làm tôi thích thú vô cùng. Tới đây
thì gần
như tôi không còn ý niệm về không gian ba chiều vật chất ỏ quanh tôi.
Tôi đứng trong bồn tắm, lung tựa vào vách, nhung không còn khả năng phân
biệt thân thể và tay chân tôi có giới hạn tới đâu. Tôi có cảm giác toàn
thân tôi là một khối chất lỏng hòa tan với mọi vật thể chung quanh.
Khối lỏng của cơ thể tôi trỏ nên nặng nề, và năng lượng trong người
dường như tan biến mất. Tôi nghĩ: “Ủa, mình thật là lạ. Mình là một sinh
vật kỳ lạ vô cùng. Mình là môt túi nước lớn bao bọc bên ngoài bằng một
lớp màng nhầy. Mình là đời sống! Với hình thức này mình là một “ý thức
sống trong bọc nước” và đó là mình! Mình là hàng ngàn tỉ tế bào có chung
một tri thức. Mình ỏ đây, bây giò và hăm hỏ sống đời! Coi kìa, thật là
một khái niệm kỳ
diệu và không thể hiểu thấu được! Mình là một tế bào đời sống, ủa, mà
không Phải, mình là một phân bào đòi sống, có cả sách hướng dẫn cách
phát triển rõ rệt, và là phân bào có trí hỉểu biết!” Với sự thay đổi
tình trạng của hiện hữu, tâm trí tôi không còn vướng bận với hàng ngàn
chi tiết mà bộ óc hướng dẫn tôi trong đời sống hàng ngày, cả những suy
nghĩ mà bán càu óc Trái “nói” với tôi mỗi ngày cũng hoàn toàn im lặng.
Và với yên lặng này, tôi không còn ký ức về quá khứ, cũng không suy nghĩ
đến tương lai.
Tôi lại nghĩ rằng bán cầu não tráỉ đang bị thương hóa ra rất dễ chịu.
Tôi hăm hỏ quay ra chú tâm tới hàng ngàn tỉ tế bào thông minh đang hoạt
động hài hòa để giữ cho cơ thể tôi được sống. Và trong khi máu càng lúc
càng chảy nhiều hơn trong đàu tôi, ý thức về ngoại cảnh của tôi nhạt
nhòa dàn. Tôi chỉ còn cảm giác hạnh phúc và sung sướng rằng các tế bào
li ti trong cơ thể vẫn còn hoạt động liên tục
không ngừng nghỉ để cho tấm thân vật chất của tôi được tồn tại. Đây là
lần đầu tiên trong đời, tôi thật sự cảm thấy mình là “một” với sự sống.
Và tôi vui mà thấy đời sống là một tập hợp những tê' bào thông minh
quanh một phân bào thiên tài tuyệt vòi. Tôi cảm giác mình như là khối
hơi trong vũ trụ, dù cơn đau từng chập trong đầu vẫn còn rõ nét nhưng
không Phải là không chịu nổi. Cơn đau lan xuống tới ngực và chạy ngược
lên tận cổ, kéo tôi về với thực tại. Tôi nhận ra ngay mình đang lâm tình
trạng cực kỳ nguy hiểm. Nhất định Phải biết cái gì đã xảy ra, tôi cố
lục soát phần hiểu biết còn lại trong ý thức để tự chẩn bệnh mình: “Cái
gì đang xảy ra trong cơ thể? Bộ óc đã như thế nào rồi?”. Mặc dù ý thức
tôi bị
đứt quãng và mơ hồ, tôi cũng cố gắng giữ thăng bằng cơ thể. Bước ra khỏ
bồn tắm, tôi như người say rượu. Thân nghiêng ngửa, chân nặng nề, bước
chậm chạp. Câu hỏi trong đầu: ‘Tôi đang muốn làm gì bây giờ? Thay đồ.
Thay đồ để đi làm”. Tôi vất vả lựa quần áo. Lúc đó đã 8:15 sáng, và tôi
sẩn sàng
lái xe ra đi. Tôi nghĩ: “Được rồi, tôi đi làm đây. Tôi đi làm đây. Mà
tôi có biết làm sao đến sở làm không? Tôi có thể lái được xe không?”.
Trong khỉ tôi đang nghĩ đến con đường Phải lái xe từ nhà đến bệnh viện
McLean nơi tôi làm việc, tôi tự nhiên mất thăng bằng
vì cánh tay Phải bị xụi thình lình một bên. Lúc đó, tôi mới hiểu ra:
“Trời ơi! Tôi bị xuất huyết não! Tôi bị xuất huyết não!” Phút tiếp theo
đó, một ý tưỏng thoáng chớp lên trong đầu: “Ô! Cái xuất huyết não này
mới dễ thương làm sao!”. Tôi như bị rơi từ vùng ảo giác hạnh phúc, an
lạc trỏ về thực trạng nguy hiểm của não bộ. Dù vậy, tôi vẫn luôn nghĩ:
“ồ kìa, có bao nhiêu nhà khoa học được dịp may mắn quan sát sự vận hành
và suy thoái của chính bộ óc mình từ trong ra ngoài?” Tôi đã để cả đòi
tìm hiểu: Làm sao mà bộ óc con người tạo ra được sự hiểu biết cho chúng
ta về những thực tại chung quanh? Và bây giờ, tôi được dịp trải nghiệm
sự vận hành của Não
bộ từ chính bộ óc của mình qua cơn Xuát huyết não.
Khi cánh tay Phải trỏ thành bại xụi, tôi có cảm
tưỏng như sức sống của nó nổ tung ra. Nó nằm im xuôỉ xuống một bên vai
mà tưỏng như đã bị chặt đút đâu mất. Về não bộ học, tôi biết rằng phần
vỏ não về động tác tay chân đã bị ảnh hưỏng, và tôi may mắn là cánh tay
chỉ chết trong vài phút rồi hơi cử động lại được, với sự đau tê dữ dội.
Tôi như người bị thương. Cánh tay Phải như mất hết sức lực, tựa như khúc
cây. Tôi tự hỏi không biết có bao giờ cánh tay sẽ trỏ lại bình thường.
Ngó qua thấy cái giường ngủ ấm áp, nhất là vào buổi sáng mùa Đông lạnh
lẽo ỏ vùng này, tôi muốn nằm. “ổi, tôi mệt quá rồi. Tôi đau quá rồi. Tôi
muốn nghỉ ngơi. Tôi muốn nằm và ngủ một chút”. Nhưng tự trong thâm tâm
tôi,
một giọng nói như ra lệnh: “Không được nằm! Nếu ngươi nằm, ngươi sẽ
chết!”. Kinh ngạc vì tiếng đe dọa, tôi thử phán định tình hình bấy giò.
Nghịch lý thay, mặc dù tôi thực tế đang ỏ trong tình trạng khẩn cấp thúc
giục tôi Phải gọi ngay cấp cứu đưa vào bệnh viện, một phần khác trong
tôi vẫn cảm thấy thú vị vì đang sống trong cảm giác An vui và Thanh
tịnh. Tôi bước ra khỏi ngạch cửa phòng ngủ, ngang qua tấm gương. Nhìn
vào đôi mắt tôi phản chiếu trong đó, tôi ngừng lại một chút để tìm vài
chỉ dẫn hiển lộ trong
ánh mắt của mình. Trong cái sáng suốt còn sót lại của một não bộ đã bị
thương, tôi chợt hiểu ra là, qua thiết kế sinh học tuyệt vời của tạo
hóa, cơ thể con người là một món quà quí giá và rất mong manh. Đối với
tôi, cái thân thể này vận hành như một cánh cửa lớn qua đó năng lượng
của cái ‘lôi” được chiếu rọi vào một khoảng trống gọi là không gian ba
chiều.
Khối lượng tế bào của thân thể này cung cấp cho tôi
cái gọi là “nhà” tạm thời nhưng rất hoành tráng. Và với bộ óc kỳ diệu,
có khả năng kết nạp thực sự hàng tỉ của hàng ngàn tỉ dữ kiện mỗi phút,
đã tạo cho tôi cảm tưỏng rằng có một không gian ba chiều không những là
có thực mà còn là an toàn để sống trong đó. Trong cái ảo giác đó, tôi đã
bị thôi miên vì khối lượng sinh học đã tạo ra hình dáng tôi,và kinh
ngạc với sự vận hành vừa đơn giản vừa phức tạp của nó. Tôi đã nhận ra
tôi chỉ là sự kết hợp của một hệ thống phức tạp và sống động, một tổng
thể những tế bào có khả năng tập kết dữ kiện của thế giới bên ngoài qua
những bộ phận nối kết nhau gọi là giác quan. Và khi hệ thống này vận
hành
thích hợp, nó sản sinh ra một ý thức có khả năng phân biệt ý nghĩa mọi
thực trạng chung quanh. Tôi ngạc nhiên
tự hỏ tôi đã sống trong cái thân thể này đã nhiều năm, vói hình thức một
nhà nữ bác học như vầy, mà sao đã không thực sự nhận ra rằng mình chỉ
là ngưòi khách lạ từ nơi khác đến đây thăm viếng?
Ngay
cả trong tình trạng như thế này, cái ngã ỏ bán cầu não Trái của tôi vẫn
ương ngạnh giữ niềm tin rằng, mặc dù tôi đang bị bệnh ỏ não bộ nghiêm
trong, tôi vẫn không sao! Cho nên, trong lúc lạc quan, tôi cũng tin sẽ
hoàn toàn bình phục. RỒI hơi bực bội vì bệnh làm hỏng thòi khóa biểu làm
việc sáng nay, tôi pha trò một mình: “Được rồi, tôi bị xuất huyết não!
Phải rồi, tôl đang bị xuất huyết não!
Nhưng tôi là ngưòỉ bận rộn với công việc. Bỏi vì tôi không thể làm cho
sự xuất huyết ngưng lại, tôi sẽ nghỉ một tuân. Tôi sẽ tìm hiểu xem làm
sao mà bộ óc tôi có thể tạo ra ảo giác tôi là người rất bận rộn. Sau đó,
tôi sẽ làm việc trỏ lại đúng như thời khóa biểu đã định. Bây giờ tôi
Phải làm gì? Gọi cấp cứu. Phải gọi cấp cứu ngay tức khắc”.
CHƯƠNG 4
KHÓ KHĂN KHI TỰ MINH GỌI CẤP CỨU
Tôi
không biết chính xác là tôi bị vỡ mạch máu loại nào, nhưng chỉ biết là
mạch máu đang vỡ từ bán cầu não Trái và máu đang đổ ra từng khối lượng
lớn. Khỉ máu tràn ngập qua vùng suy nghĩ những vấn đề phức tạp ỏ vỏ não
Trái, tôi bắt đầu mất khả năng nhận thức về các sự kiện này. Tôi chỉ còn
có thể nhớ được một điều là lúc bấy gio Phải làm sao đến bệnh viện càng
sớm càng tốt. Nhưng gọi cấp cứu để được đưa đến bệnh viện là cả một vấn
đề. Bỏỉ vì tôi không còn khả năng tập trung ý thức vào công việc nào
được nữa. Cái ý nghi “Phải gọi bệnh
viện cấp cứu” cứ nhảy ra nhảy vô, lúc biến lúc hiện trong đầu
tôi, khiến tôi không biết đó có Phải là “mệnh lệnh” nên làm hay không.
Hai bán cầu não làm việc chung nhau bấy lâu nay như một dàn nhạc hợp tấu
rất hài hòa, khiến tôi có thể sinh hoạt bình thường
trong thế giới này. Nhưng bây giờ, do vì sự
khác biệt phần hành giữa hai bán càu, tôi cảm thấy khả năng ngôn ngữ và
tính toán của bán càu Trái không còn nữa. Tôi không còn biết số nào là
số điện thoại để gọi và gọi thì sẽ nói gì. Thay vào đó, tôi lại có cảm
giác “an lành” len lỏi khắp người tôi, phát sinh từ bán cầu Phải.
Không còn cái biết “theo đường thẳng” (đã qua, bây
giờ, sắp tới) và sự chỉ dẫn của bán cầu não Trái, tôi như Phải vật lộn
để tìm hiểu thế giới bên ngoài. Tôi không còn phân biệt điều gì là quá
khứ, hiện tại hay vị lai, mà chỉ thấy tất cả là những sự kiện riêng lẻ,
biệt lập trong hiện tại, chẳng dính dáng gì đến nhau. Tôi cố gắng trong
tuyệt vọng để lập lại sự hiểu biết thường ngày, để nối kết những sự kiện
rời rạc thành một chuỗi tiến trình có ý nghĩa. Trong đầu lúc này tôi
chỉ còn lặp đi lặp lại ý nghĩ: ‘Tôi đang cố gắng làm gì đây? Gọi cấp
cứu! Tôi đang thảo một phương án gọi cấp cứu! Tôi đang làm gì đây? Tôi
Phải soạn cho được một kế hoạch gọi cấp cứu. Được rồi. Tôi Phải gọi cấp
cứu”. Trước buôi sáng bị xuất
huyết não này, bộ óc tôi biết phân loại, sắp xếp các dữ kiện đưa vào từ
bên ngoài như sau: Tưỏng tượng như tôi đang ngồi giữa bộ óc với những tủ
đựng “hồ sơ” xếp thành hàng dài. Khi tôi muốn tìm một ý nghĩ, ý tưỏng,
hay một điều gì trong quá khứ, tôi sẽ nhìn qua các tủ “hò sơ” xem nó nằm
ngăn nào. Khi đã tìm đúng tủ rồi, thì tôi biết tất cả “dữ kiện“ đều nằm
trong đó và mỏ ra sử dụng. Nếu nhìn lần đầu mà không thấy ngăn tủ muốn
tìm, tôi sẽ lặp lại lần nữa cho đến khỉ có mới thôi.
Nhưng buổi sáng này thì khác. Các ngăn đựng “hồ sơ”
như bị đóng chặt và bị đẩy xa ra khỏ sự kiểm soát của tầm tay tôi. Tôi
biết tất cả kiến thức của tôi nằm trong đó, nhưng không phân biệt được
chúng đang ỏ ngăn nào. Tôi không biết làm sao nối kết lại với khả năng
ngôn ngữ, kiến thức về đời sống, về những năm dài học hỏi. Tự nhiên tôi
hơi buồn vì không biết mình có thể trỏ lại bình thường đượckhông.
Không còn khả năng ngôn ngữ và sự phân định thời
gian, tôi như bị tách ròi khỏ cuộc sống và mọi sinh hoạt bình thường.
Không còn ký ức, không còn khả năng phân tích và phê phán của não thùy
Trái, tôi như người mà đầu óc bị che phủ bỏi một màn đen lớn, không biết
mình là ai và có mặt trong đời này để làm gì!
Trong khi đó, nhịp máu đập ỏ đầu vẫn tiếp tục như búa bổ.
Và bây giờ,
khi không còn liên hệ được với mọi vật quanh mình nữa, tôi có cảm tưỏng
thân xác tôi đã tan chảy ra như chất loảng và hòa vào vũ trụ mênh mông.
Khi sự xuất huyết càng lúc càng trầm trọng thì sinh
hoạt của não thùy Trái cũng ngừng bặt. Tôi không còn nhận thức gì được
về các chi tiết và sự phân loại dữ kiện bên ngoài. Bán cầu não Phải giò
không còn bị bán cầu não Trái chi phối nữa, nên đã tự do hoạt động. Như
được giải thoát khỏi những lo âu, toan tính, phân tích, phê phán hằng
ngày, bán cầu não Phải đã đưa nhận thức tôi đến một vùng trời kỳ
diệu của làn sóng ngắn “theta", và tôi cảm thấy an lạc vô cùng. Tôi
không Phải là Phật tử và cũng không biết gì về Phật pháp, nhưng tôi có
cảm tưỏng là tôi đã đạt tới cảnh giới mà người Phật giáo gọi là Niết
Bàn, nơi mà tâm ý không còn bận rộn và mơ ước một điều gì nữa. Nơi đây,
cảm giác của tôi là không còn toan tính, tranh đua, hơn thiệt; mà chỉ
thấy thật thanh tịnh, bình an, đủ đầy phước báu và hòa làm một với vạn
vật. Và hiển nhiên, một phần của con người tôi đang thích thú với cảm
giác này. Nhưng còn phần khác trong tâm thức vẫn thúc giục tôi Phải kêu
gọi cấp cứu vì cảm giác đau nhức ỏ đầu vẫn còn dữ dội. Nhờ sự thôi thúc
không ngừng này mà cuối cùng tôi đã được giải cứu.
Tại sao tôi không nhấc điện thoại lên và gọi số cấp
cứu 9-1-1 ? Vì phần não Trái liên hệ tới những con số đã bị máu tràn
ngập. Các tế bào ỏ đây đã bị ngập máu nên ý niệm về con số đã không còn
hiện hữu. Tại sao tôi không khập khểnh bước ra đường, ngoắc một người lạ
và nhờ họ gọi cấp cứu ? Ý tưỏng này không thể có được vì não thùy Trái
đã bị tê liệt. Trong tình trạng bất lực này, tôi chỉ còn một ý tưỏng mơ
hồ là Phải làm sao để gọi cấp cứu! Những gì tôi có thể làm bấy giò là
ngồi đó và đợi, ngồi kiên nhẫn với cái điện thoại bên cạnh và kiên nhẵn
trong im lặng. Tôi ngồi đó một mình cô đơn trong ngôi nhà rộng với những
ý tưỏng lạ lùng xâm chiếm tôi. Chúng thoắt hiện thoắt biến như trêu
chọc. Tôi ngồi đó đợi chờ một giây phút tâm trí trỏ lại rõ ràng hơn, để
tôi có thể nối kết hai ý nghĩ thành ý tưỏng cụ thể để có thể thực hiện
kế hoạch cấp cứu. Tôi vẫn tiếp tục im lặng và tự hỏi “Tôi đang làm gì?
Gọi cấp cứu. Gọi cấp cứu. Tôi đang cố gắng gọi cấp cứu đây!
Trong hi vọng đợi chờ phút “tâm trí rõ ràng” sẽ đến,
tôi để cái điện thoại trên bàn viết trước mặt và chăm chăm nqó vào các
con số. Ránn nhớ lại xem Phải gọi những số nào. Tôi cảm thấy não Trái
tôi trống không và trên đầu rất đau khỉ tôi chăm chú muốn tìm cách nhớ
lại. Mạch máu bên đầu gỉụt liên hồi... “Chúa ơi! Con đau đầu quá!”.
Thình lình, một số điện thoại loáng hiện lên. Đó là
số của Mẹ tôi. Tôi mừng run vì đã có thể nhớ được số của bà. Thật là
tuyệt diệu vì trí tôi đã có thể nhớ được số điện thoại, mà còn biết là
của ai nữa. Nhưng cũng thật là vô dụng trong tình trạng khẩn cấp này.
Nhà mẹ tôi cách đây mấy tiểu bang và xa hơn ngàn dặm; gọi bà vào lúc này
và nói rằng tôi bị xuất huyết não, thì chắc bà Phải ngã ra bất tỉnh.
‘Tôi Phải tìm ra một kế hoạch nào khác!”. Rồi tôi nhớ đến văn phòng tôi ỏ
trường Harvard. Phải rồi, tôi đã làm việc ỏ
phòng Nghiên cúu Não bộ của Đại học Harvard từ nhiều
năm. Những khỉ đi khắp các tiểu bang diễn thuyết và kêu gọi mọi người
hãy đóng góp bộ óc người chết cho Ngân hàng Não ỏ đây để dùng vào việc
nghiên cứu, thì tôi bảo họ cứ gọi số miễn phí 1-800-... của trường.
Nhưng buổi sáng này tôi không thể nhớ được gì rõ ràng cả! Tôi chỉ mơ hồ
biết tôi là ai và đang muốn làm gì. Một màn sương phủ kín trí óc
tôi. Tôi cố gắng nhớ số điện thoại văn phòng. “Tôi Phải gọi bạn ỏ văn phòng.
Nhưng... số mấy?”.
Nơi
làm việc, muốn liên lạc với nhau không bao giờ Phải gọi nguyên số. Chỉ
càn bấm 4 con số chót. Thành ra trong bộ nhớ của óc tôi không bao giờ có
nguyên số điện thoại của bất kỳ đồng nghiệp nào. Bỗng tôi nhận ra các
danh thiếp để trên bàn. Ò, đây là danh thiếp của trường Harvard, vì nó
có dấu hiệu đặc biệt. Cầm lên, tôi biết là danh thiếp của người bạn mà
văn phòng sát bên tôi. Nhưng tôi không đọc được số điện thoại. Các con
số bây giò, dưới mắt tôi, chỉ là những vệt đen vô nghĩa. Tên của người
bạn, giáo sư tiến sĩ Stephen Vincent, cũng vậy. Tôi không còn khả năng
nhận diện chữ nghĩa nữa.
Cuối cùng, sau gần một tiếng đồng hồ cố gắng trong
mệt mỏi và đau nhức, với những chớp lóe sáng ngắn ngủi trong đàu, tôi đã
bấm được mấy số trên điện thoại mà có hình dạng giống như số trên danh
thiếp. Cầm ống nghe lên tai, tiếng nói quen thuộc của Vincent - đồng
nghiệp ngồi sát văn phòng tôi - sao nghe như tiếng của một con dã nhân,
tôi không hiểu gì cả. Và tôi cũng lên tiếng, nhưng không ra
tiếng. Tôi cố dùng hết hơi sức từ trong buồng phổi hét lớn: “Tôi là
Jillẽ Tôi cần giúp đỡ”, Về sau, Vincent kể lại là anh ta cũng chẳng nghe
tôi nói được gì, chỉ nghe tiếng “gầm gừ‘ của dã thú; nhưng Vincent nhận
ra giọng của tôi và thấy tôi trể hơn nửa giờ rồi, biết là tôi có chuyện
nên đã vội mang xe đến đón. Thì ra tôi đã không còn khả năng ngôn ngữ
đọc, viết, nói... gì nữa, sau khi các tế bào não Trái
bị tràn ngập trong vũng máu. Nhờ vào não bộ Phải, tuy tôi không hiểu
Vincent nói gì, nhưng nghe ra “cách nói” nhẹ nhàng và quan tâm của anh,
tôi yên trí anh hiểu tôi nói gì và sẽ đến giúp. Cho nên lúc ấy tôi thấy
an tâm. Tôi đã làm hết sức mình một công tác thật “khó khăn” và tôi đả
thành công.
CHƯƠNG 5
KHI BÁN CẦU NÃO TRÁI NGỪNG HOẠT ĐỘNG
Trong
lúc ngồi chờ bạn đồng nghiệp đến chỏ đỉ bệnh viện, tôi chợt nhớ là Phải
gọi bác sĩ gia đình. Tôi ít khi đi bác sĩ vì tình trạng sức khỏe-quá
tốt và cũng vì tôi rất bận rộn. Bây giờ Phải báo cho bác sĩ của tôi biết
là tôi Phải vào “cấp cứu”. Tôi mới đi bác sĩ cách đây 6 tháng, nên danh
thiếp vẫn còn trong xấp trên bàn viết và vì cái dấu hiệu Harvard rất dễ
nhớ. Dễ nhớ, nhưng không Phải dễ tìm. Tôi quên là tôi không còn khả
năng phân biệt chữ nghĩa hoặc con số. Tôi nhìn mãi các danh thiếp nhưng
không thể chọn ra tấm nào là của bác sĩ tôi. Tất cả chữ nghĩa và con số
trên danh thiếp chỉ còn là những chấm đen dưới mắt tôi bấy giờ. Chán
nản lẫn hãi hùng, tôi nhận ra là khả năng tiếp xúc với ngoại vật của tôi
đã tồi tệ hơn tôi tưỏng. Mắt tôi không còn phân biệt được hình dáng và
màu sắc của mọi vật thể xung quanh. Ngay cả thân thể tôi, tôi cũng không
phân biệt nó là thể đặc hay thể lỏng, nên không còn dám di động từ chỗ
này sang chỗ khác. Và trí nhớ dài hạn hay ngắn hạn cũng không còn. Thật
là một công việc đáng sợ khi Phải chỉ ngồi yên đó với một đầu óc im
vắng, trống không như lặng chết, trong tay cầm một xấp danh thiếp và cố
gắng nhớ xem mình Phải làm gì! “Tôi là ai? Tôi đang làm gì đây?” là câu
hỏ không có
câu trả lời, bỏi đầu óc không còn hiểu được thực trạng của ngoại cảnh.
Và tôi cũng mất đi cảm giác Phải gấp rút tới bệnh viện. Nhưng cũng kỳ lạ
thay, phần tiền đình của não bộ Trái vẫn còn giữ được ý tưỏng là tôi
Phải đến bệnh viện. Cơn đau nhói trẻn đầu thỉnh thoảng đưa lại những
giây phút “sáng suốt” khiến tôi nối kết được với thực tại, biết Phải làm
gì và làm thế nào. Cuối cùng, tôi đã lựa ra được tấm danh thiếp của bác
sĩ riêng nhờ vào dấu hiệu trường Harvard ỉn trên góc Trái. Ở thời điểm
này, cái ý nghĩ “nói chuyện qua điện thoại” cho tôi cảm giác thật là kỳ
lạ. Sao mà khó hiểu quá vậy? Làm sao mà chỉ bấm vào mấv con số. mà môt
người ngồi ỏ đâv lai có thể nói chuyện với một người ỏ xa
trong một không gian khác biệt? Và người này nói mà người kia nghe và
hiểu?
Vi tôi sợ sẽ mất sự chú ý về công việc đang làm, tôi
đẩy xấp danh thiếp qua một bên. Não bộ tôi đang đi dần vào sự phân hóa
trầm trọng, sự hiện hữu của các con số trước mắt tôi dàn trỏ nên kỳ lạ
như chưa tùng thấy bao giờ. Tôi ngồi đó, im lặng, thần trí như tỉnh như
mê. Tôi nhìn nhũng con số lạ lùng trên danh thiếp và trên điện thoại,
rồi cố gắng bấm đều đặn từng con số ngoằn ngoèo trên danh thiếp
giống với con số ngoằn ngoèo trên điện thoại. Tôi Phải lấy ngón tay trỏ
của bàn tay Trái che lại những số vừa bấm xong, để ngón tay trỏ của bàn
tay xụi bên Phải không lẫn lộn. Tôi Phải làm như vậy vì không còn nhớ
được cái gì mới vừa làm. Cảm giác mệt mỏi vì đã làm một việc quá sức
khó, tôi còn lo âu là tôi sẽ quên mát mình đang muốn làm gì. Tôi Phải
lặp đi lặp lại trong đầu: “Đây là Jill Taylor. Tôi đang bị xuất huyết
não. Đây là Jill Taylor. Tôi đang bị xuất huyết não”. Nhưng khi điện
thoại đàu kia reo và tôi cố gắng lên tiếng, tôi chết điếng cả ngưòỉ khi
khám phá ra tôi không còn nói được. Tôi vẫn nghe được câu tôi muốn nói
vang lên trong đàu, nhưng thực tế âm thanh không phát ra ỏ miệng vì
thanh quản đã không còn làm việc.
Ngay cả tiếng ồ ồ như dã nhân mà tôi đã gọi bạn đồng nghiệp mới đây,
cũng không còn. “Chúa ơi! Con không thể nói. Con không thể nói nữa”. Sợ
đầu dây kia nghĩ rằng đây là có người gọi “phá đám” và họ sẽ gác máy,
tôi vội cố hết sức bình sinh từ buồng phổi, hét lên: “Đừng gác máy; xin
đừng gác máy”. Thì tôi chỉ nghe được: “Uhhhh, ahhh, thhhhhhh,
thhhhììzzzzăa...”.
Nhưng rồi điện thoại cũng được chuyển cho bác sĩ.
Cũng may, bác sĩ của tôi mới vào tới văn phòng. Nghe một hồi, bà cũng
đoán được tình trạng của tôi, nên đã bảo tôi đi đến bệnh viện Mount
Auburn. Nhưng tôi nghe mà không hiểu được gì. Bà Phải ôn tồn kiên nhẫn
lặp lại thật chậm mấy lần, tôi mới hiểu. Thì ra, khi nghe tiếng nói của
ngưòi khác, tôi không còn khả năng phân biệt được âm thanh và nghĩa lý
của âm thanh. Tôi có cảm giác càng lúc tôi càng không thể liên lạc được
với thế giới bên ngoài. Lần đầu tiên, tôi nhận ra mình không Phải là
không thể bệnh, là “bất tử’. Không Phải như cái máy vi tính bị “yếu” hay
“chậm” thì tắt nó đi, rồi “mỏ”trỏ
lại thì nó sẽ mạnh và nhanh hơn. Tôi nhận ra con người sống không Phải
chỉ nhờ các tế bào cơ thể khỏe mạnh, mà còn Phải có bộ óc với các tế bào
thần kinh
liên lạc với nhau một cách thích hợp và hữu hiệu.
Bây
giờ thì tôi cảm thấy cái chết đã gần kề. Mặc dầu não bộ bên Phải cho
tôi cảm giác an lành vô hạn, tôi thực sự chưa muốn chết. Tôi vẫn cố gắng
trong tuyệt vọng nắm giữ những gì còn cung cấp được cho tôi từ não thùy
Trái. Tôi biết hiện trạng đã làm tôi không còn là người bình thường. Ý
thức của tôi đã trỏ nên mơ hồ, không còn khả năng phân biệt, phân tích
và phán đoán những dữ kiện xảy ra
chung quanh. Không còn sự vận hành của não thùy Trái để nhận biết ra tôi
là một cá nhân với hệ thống sinh học đặc biệt gồm những cơ phận riêng
lẻ kết hợp, não thùy Phải đã tự do đưa tôi vào một vùng tâm thức “bình
an và vui tươi” chưa bao giò được biết.
Trong khi ngồi im lặng nghĩ đến cái chết trong an
lạc, tôi tự hỏ mình có thể trỏ nên bất lực đến mức độ nào khi bộ óc Trái
bị hư hại đến không thể cứu vãn được. Tôi thử ước đoán có bao nhiêu
mạch thần kỉnh đã bị hư hỏng, ảnh hưỏng đến phần trí tuệ cấp “cao” và
liệu có hi vọng gì thiết lập chúng lại. Tôi không muốn bao năm đã bỏ
công ra ăn học đến trình độ này, rồi bỗng dưng Phải chết ỏ cái tuổi đời
rất trẻ, hoặc bị liệt bại trí năng thành người vô dụng. Nghĩ đến đây,
tôi gục đầu vào tay và bật khóc. Rồi tôi cầu nguyện thầm thì trong tâm,
“Lạy Chúa, đừng bắt con chết; đừng để con chết!...”. Trong sự ỉm vắng vô
cùng đó, tôi nghe văng vẳng lời khuyên, “Hãy bình tĩnh; yên lặng, và
chờ đợi...”. Tôi thấy an ổn trong tâm hơn.
Ngồi trong phòng khách chò bạn đến cứu mà tôi tưỏng như vô tận. Nhưng
rồi anh bạn cũng đến. Tôi không nói được gì, chỉ dùng tay Trái đưa ra
tấm danh thiếp bác sĩ gia đinh. Anh gọi ngay bác sĩ để hiểu rõ lời chỉ
dẳn, rồi chỏ tôi gấp tới bệnh viện Mount Auburn.
Sau một hồi chậm chạp để điền giấy tò theo thủ tục,
tôi được đưa di chụp hình bộ óc. Bấy giờ tôi vẫn còn tỉnh đôi chút để
nghe được kết quả đúng như tôi đã tự chẩn đoán lúc ỏ nhà, là tôi đã bị
một loại tai biến đứt mạch máu rất ít khi xảy ra, ỏ não thùy Trái, khiến
não thùy này hiện đang bị tràn ngập trong vũng máu. Tôi được cho uống
sơ khởi một thứ thuốc cầm máu và chống sưng, rồi được bỏ lên xe cấp cứu
đưa sang bệnh viện lớn chuyên khoa gần bên. Tôi còn nhớ được người y tá
theo xe lo cho tôi rất tận tình với tấm lòng của người lương y. Anh ta
sửa lại chiếc mền đắp cho tôi ấm và che bớt ánh sáng cho tôi không bị
nhức mắt. Anh lại vỗ nhẹ vai tôi và an ủi, “Cô không sao, không sao
đâu!”. Những
cử chỉ này thật quý giá đối với bệnh nhân trong tình trạng nguy cấp.
Sau đó, hình như tôi đã mê man. Tôi đã thoát khỏ mọi lo âu, phiền muộn.
Chuyên
chết sống bây giò là chuyện của bệnh viện và các bác sĩ chuyên khoa ỏ
đó. Tôi đã làm hết mọi sự tôi có thể làm. Tôi chỉ biết rằng suốt buổi
sáng này tôi đã chứng kiến từng giai đoạn suy thoái của cơ thể và các
mạch thần kinh ỏ não bộ Trái của tôi.
Trong suốt 37 năm nay, lúc nào tôi cũng vui vẻ và
hãnh diện vì các DNA của tôi đã tinh vi sắp xếp cho tôi có một cơ thể
khỏe mạnh, lỉnh hoạt và đầy sức sống. Nhưng giờ thì hình như các mạch
năng lực của khối tế bào cơ thể đang sắp dừng hoạt động. Sáng hôm nay,
trước trưa ngày 10 tháng 12 năm 1996, các dòng điện trong cơ thể tôi như
tắt dàn. Khi cảm thấy năng lượng thoát ra từng khối lớn khỏi cơ thể,
thì ý thức của tôi cũng dần dần không còn điều động hay liên hệ gì được
với các giác quan và tứ chi. Tôi biết tôi không còn là người đạo diễn
của cái thân thể này nữa. Chung quanh tôi bây giò trỏ nên thật im lặng.
Trong cái vắng bặt của hình ảnh, âm thanh, mùi vị và cảm giác, tôi không
còn chút gì lo sợ và đau đớn nữa.
Và cũng như phần lớn mọi người sắp chết, tôi ước ao được tỉnh táo trỏ
lại để được chứng kiến mình về đâu trong sự chuyển tiếp trọng đại này.
CHƯƠNG 6
CHỈ CÒN NÃO TRÁI HOẠT ĐỘNG
Đến
bệnh viện chuyên khoa, tôi được đưa vào trung tâm cấp cứu mà nơi đó ồn
ào như một tổ ong khổng lo. Thân thể tôi đã trỏ nên nặng nề và bất động.
Nó đã mất hết tất cả nội lực, giống như cái bong bóng xì hơi và xẹp
hẳn. Nhân viên bệnh viện bu quanh tôi. Ánh đèn chói chang và âm thanh ồn
ào đã làm cho thân tôi đau đớn như bị một đám côn đồ hành hạ. Tôi như
đã gần chết mà họ cứ hỏi những câu tôi không hơi sức đâu để trả lời. Mà
ví tôi có muốn trả lời, họ cũng không thể nghe và hiểu được.
‘Điền những câu trả lời vào bản này; cầm và bóp Trái banh này; ký tên
vào đây...”. Họ bảo với tôi như vậy khi tôi đang nửa tỉnh nửa mê. Và tôi
đã nghĩ, “Thật là vô lý. Các người không thấy tôi đang gần chết rồi đây
hay sao? Hãy chậm chậm với tôi và hãy kiên nhẫn một chút. Các người làm
đau tôi quá”. Họ càng cố mạnh tay để làm cho tôi tỉnh lại thì tôi càng
ráng trốn sâu vào nội tâm để tránh sự thô bạo của họ. Tôi cảm giác như
bị họ nắn bóp, đâm, chém, và đau đớn như một con đĩa bị rắc vôi. Tôi
muốn la lên, “Hãy để tôi yên!” nhưng tiếng la không thoát được ra khỏi
cửa miệng. Rồi tôi bất tỉnh, như một con vật bị thương đã tuyệt vọng
thoát ra khỏi những bàn tay đang cấu xé nó.
Khi tôi tỉnh dậy một lúc sau bữa trưa hôm đó, tôi
rất ngạc nhiên thấy mình vẫn còn sống. (Tôi cảm thấy vô cùng biết ơn các
bác sĩ và y tá đã hết sức cứu tôi sống lại, mặc dù không ai biết làm
sao tôi có thể hồi phục và hồi phục tới mức độ nào.) Tôi đang mặc áo của
nhà thương và nằm ỏ phòng riêng. Vì không còn chút hơi sức nào, tôi nằm
như một đống sắt vụn nặng nề không thể nhúc nhích. Tôi không
cảm nhận được thân thể tôi dài ngắn tới đâu. Vì không còn ý niệm về
không gian ba chiều, tôi tưỏng như tôi bao trùm cả vũ trụ. Nhịp máu trên
đầu vẫn còn làm tôi đau như búa bổ. Mỗi hơi thỏ hít vào như cực hình ỏ
be sườn. Còn ánh đèn chói vào mắt thì như lửa đốt trong bộ óc. Không
thể kêu với ai, vì không nói được, để tắt bớt ánh sáng, tôi trỏ mình một
cách khó khăn úp mặt vào tấm trải giường. Tôi không nghe được gì ngoài
nhíp tim đều đặn. Những nhịp tim này mạnh và lớn đến nỗi làm bộ xương
rung động theo và nhức nhối các thớ thịt. Tôi muốn oà khóc như một đứa
bé sơ sinh thình lình Phải tiếp xúc với một môi trường hỗn tạp. Không
còn khả năng nhận biết mình là
ai, quá khứ đã làm gì và hiện tại ra sao, tôi như đứa trẻ trong cơ thể
một người lớn. Chỉ vì não thùy Trái của tôi không còn hoạt động!
Rồi có hai chuyên viên bước vào phòng. Họ xì xào
những gì thì tôi không thể hiểu. Nhưng nhìn cách họ nói với các điệu bộ
thì tôi biết tình hình của tôi thật nghiêm trọng. Vói những tấm ảnh chụp
não bộ của tôi có cái lổ hổng trắng khổng lồ ỏ giữa não, không cần Phải
là một tiến sĩ chuyên môn về giải phẩu não bộ cũng biết rằng lổ hổng
kia không nên có ỏ vị trí đó. Bộ óc Trái của tôi như vậy là đã bị máu
tràn ngập và nguyên cả não bộ sưng lên vì đã bị thương. Trong ỉm lặng,
tôi cầu nguyện: “Tôi không nên ỏ lại đây lâu hơn nữa! Tôi buông bỏ tất
cả! Sức sống của tôi không còn và sự sống của tôi cũng đã ra đi. Thật là
không Phải khi tôi còn quyến luyến ỏ lại đây. Lạy Chúa toàn năng, con
bây giò đã là
Một cùng với vũ trụ. Con đã hòa đồng với dòng sông Vĩnh cữu tới mức độ
không thể trỏ lại đòi sống này được nữa. Vậy mà con hãy còn bị ràng buộc
ỏ đây. Bộ óc mong manh của cái thùng chứa sinh học này đã hư hỏng và
không còn thích hợp cho một cá thể thông minh nữa! Con không còn thích
hợp ỏ lạỉ đây!”.
Không còn bị ràng buộc tình cảm vói bất cứ người nào
và vật gì xung quanh, tiềm thức của tôi đã tự do trôi theo dòng sông An
lạc. “Thả tôi ra. Để tôi đi. Tôi buông bỏ tất cả!”. Tôi muốn chạy trốn
khỏ cái thân xác đau đón và rối loạn vận hành này. Trong một thóang, tôi
cảm thấy hết sức tuyệt vọng rằng mình đã còn sống sót. Toàn thân tôi
bây giờ lạnh ngắt, nặng nề và đau đớn vô cùng. Những mệnh lệnh
từ bộ óc đến thân thể đã không còn hữu hiệu đến nỗi tôi không còn nhận
ra hình thể vật chất của tôi. Tôi có cảm giác tôi là một sinh vật bằng
điện mà có một bộ phận bị chạm mạch nên bốc khói và tan chảy. Tôi trỏ
thành vật phế thải, bị bỏ qua một bên. Nhưng tôi vẵn còn ý thức. Ý thức
này khác với cái ý thức tôi biết trước kla. Bỏi vì cái ý thức trước kia
giúp tôi biết được thế giới bên ngoài. Những chi tiết này được sắp xếp
và cất giữ trong các mạch điện của não bộ. Bây giờ các mạch điện đó
ngừng hoạt động, tôi trỏ nên bất động và vụng v'ê với cái ý thức mới.
Làm sao tôi có thể là tiến sĩ Jill Taylor khi tôi không biết cô ta là
ai, đã làm gì, kiến thức ra sao và ưa thích những gì trong cuộc sống
này?
Tôi còn nhớ ngày đầu tiên bị xuất huyết não với nỗi
hãi hùng cay đắng nhưng ngọt ngào. Khi não thùy Trái không còn hoạt động
bình thường được nữa, tôi mất đi ý thức về giới hạn của thân thể vật
chất. Tôi cảm thấy mình như vị thân trong cổ tích, bị nhốt ngàn năm
trong lọ nhỏ, vừa thoát ra khỏi lọ và lớn trùm trong không gian. Năng
lượng tỉnh thàn thoát ra khỏi thân xác, ò ạt như con cá voi khổng lồ
đang lướt nhanh trên mặt đại dương với sức sống mãnh liệt. Khi cơ thể
vật chất không còn giới hạn, tôi cảm thấy một niềm an vui trùm khắp mà
tôi chưa từng thấy trong đòi. Và với tâm thức đang cuồn cuộn trong dòng
chảy an lành và thanh tịnh đó, tôi thấy rõ ràng là không làm sao tôi có
thể bắt ép cái khối năng lượng lớn
lao này quay trỏ lại vào tấm thân nhỏ bé của tôi. Được vào cảnh giới
Cực Lạc là một sự trốn chạy tuyệt vời của tôi khi não Trái bị tàn phá.
Tôi như đang hiện hữu ỏ một vùng trời thật xa lạ - xa lạ hẳn vói những
thông tin mà tôi được biết lâu nay. Một điều rất rõ ràng là trong thế
giới này, cái
“Tôi” không còn nữa! Cái “Tôi” mà tôi được dạy dỗ Phải giữ gìn và trau
chuốt từ bé đến lớn, đã không còn sống sót sau tai họa xuất huyết. Tôi
cũng biết là tiến sĩ Jill Taylor đã chết vào buổi sáng xuất huyết não
này rồi. Vậy ai còn sống sót?
Không còn cái Trung tâm ngôn ngữ ỏ bán cầu Trái bảo “Tôi là tiến sĩ
Taylor, là nhà nghiên cứu tế bào não bộ; tôi ỏ địa chỉ này và có thể
liên lạc bằng số điện thoại này...”, tôi thấy mình không có bổn phận
đóng vai cô ta nữa. Điều này cũng thật kỳ lạ về mặt cảm giác; nhưng bỏi
vì không còn mạch thần kinh nào nói cho tôi biết cô ấy tính tình thế
nào, ưa gì, ghét gì, cái Ngã của cô ra sao, có hay chỉ trích, phê bình
người khác không? Tôi thật không có chút ý niệm gì về cô ấy cả! Lại
thêm, trên thực tế, với những thiệt hại lớn lao về mặt sinh học - một
nửa bộ óc đã không còn hoạt động- tôi càng không nên bắt chước giữ vai
trò cô ta. Cô tiến sĩ Jill Taylor thực sự không còn hiện hữu. Tôi đã
không biết gì về cuộc đòi
cô,những liên hệ bạn bè, việc làm, thành công, thất bại của cô thì làm
sao tôi đóng vai cô được?
Mặc dù tôi buồn rầu về cái chết của não thùy Trái và
về cô gái đó, hiện tại tôi cảm thấy được giải thoát và rất nhẹ lòng.
Được biết cô tiến sĩ Taylor đã lớn lên trong nhiều phiền muộn, sân hận
và cả một đời mang theo những mối hỉ nộ mà chắc cô phải tốn kém rất
nhiều năng lượng để nuôi dưỡng chúng! Cô đã nhiệt tình trong công việc,
với lý tưỏng và rất năng động. Nhưng dù cô có dễ thương hay đáng kính,
trong cái hình hài hiện tại của tôi, tôi không thể tiếp tục cuộc sống
như cô.
Tôi đã không còn nhớ đến người anh bệnh hoạn, đến
cha mẹ tôi đã ly dị từ lâu và những công việc làm đã mang lại cho tôi
rất nhiều ưu tư và áp lực. Tóm lại là tôi không còn chút trí nhó nào về
quá khứ. Tôi cảm thấy vừa giải thoát, vừa an lạc.
Trong suốt cuộc đời 37 năm qua, hình như lúc nào tôi cũng nhiệt tình lo
làm đủ mọi thứ việc, mà thứ nào cũng phải hoàn tất theo hạn kỳ. Trong
ngày đặc biệt hôm nay, lần đầu tiên tôi học được ý nghĩa của bài học về
sự sống: Chỉ là đơn giản... sống!
Khi não thùy Trái không còn làm việc và trung tâm
ngôn ngữ đã đóng, đồng hồ sinh học trong tôi cũng ngừng. Thời gian không
còn được phân chia ra từng giờ phút ngắn ngủi nữa. Thòi gian với tôi
bây giờ là thời gian “mỏ“, không có kỳ hạn; nên tôi không còn phải gấp
gáp cho việc gì cả. Tương tự như dạo chơi trên bãi biển hay chỉ thơ thẩn
ngoài vườn hoa, tôi bây giờ đổi từ ý thức phải làm đúng giờ theo thời
biểu đã định của não thùy Trái, thành ý thức chỉ “là” sống, “là” hiện
hữu của não thùy Phải. Tôi siêu việt chính mình từ cảm thấy nhỏ nhoi và
biệt lập sang vĩ đại và hòa đồng với vũ trụ. Tôi không còn suy nghĩ bằng
ngôn ngữ, lo lắng về quá khứ hay tương lai; mà chỉ còn khả năng hiểu
biết bằng hình ảnh trong
hiện tại, ỏ đây và bây giờ. Và cái hiện tại, ỏ đây và bây giò... luôn
luôn đẹp vô cùng!
Khi tôi không còn thấy mình là một vật thể cứng rắn,
có hình dáng cô' định, một đơn vị sinh học riêng biệt với các hữu thể
chung quanh, thì tất cả ý niệm về cái “Tôi” cũng hoàn toàn biến mất. Về
phương diện sinh học, ỏ trình độ hiểu biết sơ đẳng nhất, con người chỉ
là một hiện hữu có dạng chất lỏng. Thật vậy, tôi là một chất lỏng! Mọi
thứ chung quanh chúng ta, giữa chúng ta, trong chúng ta, về chúng ta,
hay chính bản thân ta đi nữa...đều chỉ là những nguyên tử và phân tử của
những chát lỏng đang rung động trong không gian. Vậy thì cái “Tôi”, cái
“Ngã” của chúng ta nằm ỏ chỗ nào? Mặc dù trung tâm ngôn ngữ ỏ não thùy
Trái thích định nghĩa “ngã” là TỒI, một cá nhân riêng biệt, một khối đặc
và cụ thể, nhưng
người có học nào cũng biết chúng ta đều được hình thành như nhau bằng
hàng ngàn tỉ li tỉ tế bào với nước trong đó và tất cả chúng ta đang “là”
trong sự rung động không ngừng với tần số cực kỳ nhanh.
Não bộ Trái của tôi đã được huấn luyện từ bao nhiêu
năm để sản sinh ra một nhận thức rằng tôi là một cá thể cứng rắn, độc
nhất và khác biệt với mọi người. Bây giờ, bỏ đi sự kiểm soát của các
mạch thần kinh ỏ não bộ Trái, não bộ Phải được tự do sinh hoạt theo cách
nhìn của chân lý vĩnh cữu. Tôi nhận ra mình không phải là một sinh vật
nhỏ bé, riêng biệt và cô độc. Tôi không phải hiện hữu độc lập mà là
“liên lập” với mọi người. Tâm hồn tôi mỏ lớn ra cùng vũ trụ và bay lượn
vui tươi trong khắp biển tròi tự do. Đối với nhiều người, cái ý tưỏng cá
nhân chúng ta chỉ là hợp chất lỏng, bỏ vào bình chứa hình gì sẽ ra dạng
đó và tâm hồn chúng ta rộng lớn như vũ trụ... làm cho cảm thấy không
được
“yên ổn”. Chỉ vì ý thức từ não bộ Trái và giáo dục sai lầm đã tạo ra.
Nhưng rõ ràng khoa học đã chứng minh rằng mỗi con người chúng ta là do
tỉ tỉ nguyên tử vật chát hợp lại và nhẹ nhàng rung động. Chúng ta được
kết hợp
bằng hàng tỉ túi nhỏ đầy chất lỏng trong một thế giới chất lỏng và ỏ đó tất cả đều hiện hữu trong sự
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét