Giáo sư Robert F. Turner
Tôi là một sinh viên trong số tương đối ít ỏi đã thực sự tin rằng việc chống Cộng sản xâm lược của Hoa kỳ ở Việt Nam, Lào và Cambodia là đúng.
Tôi
lần đầu đến Việt Nam trong một giai đoạn ngắn khi là phóng viên năm
1968, rồi quay về đi lính, bắt đầu chức vụ Trung úy rồi sau lên Đại úy
rồi trở lại đó hai lần làm việc tại một bộ phận của toà Đại sứ Hoa Kỳ
tại Việt Nam, là Văn phòng Nghiên cứu về Bắc Việt và Việt Cộng.
Tôi có cơ hội được đi tới nhiều địa phận tại Việt nam, khoảng 44 tỉnh thành, có chỗ chỉ đi ngang qua. Tôi cũng được qua Lào, Cambodia.
Sau khi giải ngũ tôi gia nhập Hoover Institution, tôi đã viết một cuốn sử quan trọng đầu tiên bằng tiếng Mỹ về “Cộng sản Việt Nam” .
Trong hơn hai chục năm, tôi đã có nhiều khóa giảng dạy tại viện Đại học Virginia về Chiến tranh Việt Nam.
Vì thời giờ có hạn, tôi phải nói ngắn, nhưng trước khi đề cập tới chủ
điểm của bải thuyết trình, tôi xin có thêm một lời cảnh báo, nhất là với
các khán thính giả trẻ tuổi.
Rằng đa số lập luận “sáng suốt phổ biến” của người Mỹ về Chiến tranh Việt Nam thật ra lại không đúng.
Rất đáng tiếc rằng điều ấy có nghĩa là đa số những gì được giảng dạy tại
cấp trung và đại học lại gần với thần thoại hơn là lịch sử. Tôi chi xin đơn cử hai thí dụ, hai thí dụ quan trọng:
1- Ngày nay, chúng ta được nghe rằng cuộc chiến Việt Nam là “bất khả thắng”. Chúng ta đứng sai chỗ.
Tôi xin được góp tiếng bên cạnh nhiều sử gia thuộc loại xuất sắc nhất
ngày nay khi nêu lập luận ngược rằng chúng ta không chỉ hy vọng thắng mà
thực tế đã thắng vào đầu thập niên 1970. (Và khi nói “chúng ta”, tôi không nghĩ rằng đấy là Quân lực Hoa Kỳ mà là nỗ lực chung của hai quân đội miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ cùng với người dân miền Nam).
2- Chuyện gì đã xảy ra? Khi tôi tuyên bố là có thể thắng. Tôi
xin đưa câu nói của người bạn thân Douglas Pike, ông Douglas Pike đã
quá vãng, người mà tôi hoán đổi công vụ nhiều lần trong Sứ quán Hoa Kỳ,
ông Pike nói rằng: "Tôi tin rằng chúng tôi có thể đã thắng cuộc chiến Việt Nam. Tôi tin rằng trong tương lai lịch sử sẽ nói rằng chúng ta đã thắng".
Đó là sự thật!.
Một số thí dụ sau đây sẽ chứng minh.
Có
một bài viết trong báo Foreign Affairs năm 2004 do Giáo sư John Lewis
Gaddis, "Khoa trưởng Americạn Diplomatic Historians nói rằng: Các sử gia
hiện tại công nhận rằng miền Nam Việt Nam và đồng minh đã thắng cuộc chiến quân sự. Nhưng lại thua cuộc chiến tâm lý tại Mỹ".
Tôi xin nhắc lại cho quý vị trẻ biết sau khi bị bỏ bom tơi bời, Hà Nội vội vã trở lại đàm phán tại Paris và mọi chuyện sẽ êm xuôi nếu chúng ta dùng máy bay B52 để trấn giữ hiệp định.
Nhưng quốc hội với áp lực của “Phong trào Hòa Bình” đã thông qua dự luật vào tháng năm 1973: Sẽ là bất hợp pháp nếu Tổng Thống sử dụng bất cứ đồng nào trong công quỹ cho cuộc chiến tại Việt Nam, Lào và Cambodia. Làm như vậy, Quốc hội đã chuyển thắng thành
bại. Quốc hội phản bội lời cam kết lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các nước không Cộng sản tại Đông Dương.
Lúc ấy tôi làm việc tại Thượng nghị viện, nghị sĩ Ted Kennedy tuyên bố
rằng “Việt Nam không cần giúp đỡ, họ đã có lượng vũ khí trị giá vô số
triệu đô la”. Đó là sự thật. Việt Nam có phi cơ trực thăng, xe tăng Hoa Kỳ.
Nhưng cái mà họ không biết là, Việt Nam không có đạn, không có xăng. không có phụ tùng.
Đống đồ đó trở nên vô dụng. Đây là câu chuyện tôi chưa bao giờ kể cho ai nghe. Ngay sau khi sơ tán từ Việt Nam về tới Mỹ, tôi gặp Nghị sĩ Ted Kennedy tại Thượng Nghị Viện.
Đó là lần đầu tiên tôi gặp ông ấy khi trở về Mỹ. Ông ấy đứng cách tôi khoảng 3 mét. Tôi cung tay phải lên và tự nhủ: “mình
phải cho nó biết tay, phải đấm gục hắn ta và nói cho thế giới biết rằng
chúng tôi vừa mới phản bội chính danh dự của mình và bỏ rơi những người
đáng yêu.”
Nhưng tôi đã tự cản bản thân mình vì làm vậy sẽ ảnh hưởng đến cương vị Nghị sĩ của tôi và Ted Kennedy sẽ trở thành người hùng.
Không phải là việc làm đúng đắn nhưng đôi lúc tôi nghĩ là mình đã bỏ rơi cơ hội ấy.
Sau khi Quốc Hội cắt hết viện trợ cho Việt Nam, Trung cộng gia tăng viện trợ cho Hà Nội. Phạm Văn Đồng nói rằng: “Được cho kẹo tụi nó cũng không dám quay lại”. Đó là lý do của sự thất bại tại chiến trường Việt Nam.
Quân nhân Mỹ, QLVNCH, và miền Nam Việt Nam không bị bại trận, mà thua vì cái gọi là “tự do” của Quốc hội Hoa Kỳ.
Điềm thứ 2 tôi muốn đưa lên là: Việt Nam rất quan trọng.
Họ cho rằng Chiến tranh Việt Nam
là cuộc chiến “phi lý” tiến hành không lý do chính đáng, do hiểu lầm về
vụ đụng độ không đáng kể ở Vịnh Bắc Bộ. Thật sự là ngớ ngẩn.
Tôi đã viết 450 trang trình bày trong luận án đạt giải danh dự năm 1966. Tôi
đã ghi lại vào tháng Năm 1975 đảng Lao động của Cộng sản Việt Nam đã
quyết định từ Tháng Năm năm 1959 là mở ra đường mòn Hổ Chí Minh và gửi
vào Nam nhiều trăm ngàn lính và vô số chiến cụ với mục đích lật đổ chính
phủ miền Nam Việt nam.
Đây là hành động xâm lược quốc tế và vi phạm Hiến chương Liên hiệp quốc.
Hoa Kỳ tham chiền để giúp người dân miền Nam tự vệ vì cùng một lý do như
việc chúng ta tham chiến tại Cao Ly, nhằm bảo vệ tự do của con người và
thực thi việc chống xâm lược đã được ghi trong Hiến chương Liên hiệp
quốc.
Trong cuốn sách “Cộng sản Việt Nam”
xuất bản năm 1975, Hà Nội đã nhiều lần xác nhận sự thực đó từ Tháng Năm
năm 1959 ngay ngày sinh nhật Hồ Chí Minh. 10 năm trước, chúng tôi đã
thảo luận tại Đại học Luật Virginia về vấn đề hợp pháp này.
Luật quốc tế và Hiến chương Liên hiệp quốc không thể thảo luận nối vì
Hà Nội lập luận rằng đó là nội chiến trong miền Nam VN, v.v... hãy bỏ
qua 1 số điểm vì thời gian có hạn.
Hậu quả của việc bỏ rơi VN.
Tôi có thể nói hoài về việc người Mỹ bỏ rơi Việt Nam.
Tôi là người đứng ngay trong trận khi Quốc Hội biểu quyết không giúp đỡ Angola vì sự xâm lăng của Xô Viết.
Kết quả nạn nhân bị tử vong ở đấy được ước lượng là không dưới trăm ngàn người.
Đến việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan khiến cả triệu người chết sẽ không xảy ra nếu chúng ta không rút lui.
Và
lần đầu tiên trong sáu chục năm, Moscow bảo với tay sai của họ ở Mỹ
châu La Tinh rằng tiến hành “đấu tranh võ trang” để cướp chính quyền thì
cũng được, từ đấy mới xảy ra nội chiến tại El Salvador, Nicaragua,
Honduras, Guatemala, Costa Rica và các nước khác trong vùng.
Vô số người lại thiệt mạng vì chuyện đó. Một
số lớn súng M16 tịch thu được từ quân phiến loạn El Salvador, căn cứ
theo số xê ri là súng bỏ lại tại chiến tranh VN của quân đội Mỹ. Hà Nội đã cung cấp cùng với Xô Viết qua đường Cuba rồi đưa lậu qua El Salvador.
Cho những người nói chiến tranh VN là phi lý. Họ đã sai.
Nhưng
hôm nay tôi không muốn tập trung về các vấn đề dù rất quan trọng là địa
dư chiến lược. Tôi muốn nói về hậu quả của quyết định của Hoa Kỳ đối
với con người.
“Phong trào hòa bình” - của phe phản chiến - trấn an chúng ta rằng Hoa Kỳ chỉ cần rút quân và chấm dứt chiến tranh thì mình sẽ phát huy “nhân quyền” và “ngăn nạn tàn sát”.
Tôi rất ngại nói về những gì xảy ra tại Việt Nam sau khi Hoa Kỳ triệt thoái, vì trong hội trường này và tại
khu “Little Sàigon” có nhiều người đã trực tiếp nếm mùi và biết rõ hơn
những gì mà mọi “học giả” Mỹ có thể muốn biết. Nhưng có một số sự thật
thì đã rõ ràng.
Hãy trước tiên nói về nhân quyền.
Tháng Tư năm 1975, khi sự chiến thắng của Cộng sản đã thành hiển nhiên cho mọi người, Đệ nhất Bí thư đảng Lao Động là Lê Duẩn đã tuyên bố rằng: sau khi “giải phóng” Miền Nam, chúng ta sẽ biến nhà tù thành trường học”. Tới Tháng 10 năm 1978, nhật báo Times đầy uy tín tại Luân Đôn đã báo cáo sự thật: Cộng sản Việt Nam đã biến nhà trường và cô nhi viện thành nhà tù vì họ có quá nhiều tù nhân.
Điều
11 của Hiệp định Paris ký kết năm 1973 cấm “mọi hành vi trả thù hay kỳ
thị các cá nhân hay tổ chức đã hợp tác với một phe bên này hay bên kia”,
và còn rõ ràng bảo đảm quyền tự do báo chí, tôn giáo, tự do sinh hoạt chính trị và một loạt những quyền thiêng liêng khác.
Vậy mà Tháng Năm năm 1977, tờ Quân đội Nhân dân công khai thông báo “triệt để cấm mọi hành vi chống lại chế độ và tước hết mọi quyền tự do của những kẻ không tin vào xã hội chủ nghĩa”.
Bài báo tuyên bố: “Với bọn phản cách mạng... nhân dân ta dứt khoát xoá bỏ quyền tự do ngôn luận và trừng phạt đích đáng”.
Sau đó, một dân biểu duy nhất của Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa được phép tham gia cái gọi là
“Quốc hội Thống nhất” đã tuyên bố: Chế độ CS cai trị bằng bạo lực và
khủng bố. Không có tự do di chuyển hay lập hội; không có tự do báo chí
hay tự do tôn giáo hay... cả quyền tự do có ý kiến riêng... Sự sợ hãi
tràn ngập khắp nơi”
QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ
Tháng
Chín năm 1970, Trưởng phòng Sài Gòn của tờ Christian Science Monitor là
Daniel Sutherland -ông bạn của tôi vào thời ấy- có viết một bài dài về
“quyền tự do báo chí” trong Nam. Ông viết: “Dưới bộ luật báo chí mới,
Miền Nam bây giờ có một nền báo chí thuộc loại tự do nhất Đông Nam Á...”. Tôi tin chắc rằng mình không là người duy nhất trong hội trường này có thề xác nhận điều ấy.
Riêng Sài Gòn thì đã có hơn ba chục tờ báo, và nhiều tờ trong số đó kịch liệt chống chính phủ.
Dĩ
nhiên là để thu thập dữ kiện về quyền tự do ấy, tôi thường cầm máy ảnh
lang thang khắp Sài Gòn vào những chiều Chủ Nhật được nghỉ.
Tôi thấy bày bán công khai những quyển sách như “Chiến tranh Nhân dân và Quân đội Nhân dân” của
Tướng Võ Nguyên Giáp là cuốn chỉ nam về nổi dậy của Việt Cộng, vài cuốn
của lãnh tụ cộng sản Cuba là Ché Guevarra, và cả các cuốn sách về/hay
của Mao Trạch Đông.
Sau ngày gọi là “giải phóng”, người Cộng sản chiếm đóng đã “tạm thời”
đình chỉ xuất bản mọi tờ báo hay tạp chí độc lập. Chưa đầy một tháng
sau, mọi tiệm sách báo đều bị đóng cửa và việc mua bán hay tàng trữ các
văn hoá phẩm xuất hiện “dưới chế độ cũ” đều bị cấm.
TÙ CHÍNH TRỊ
Một
trong các vấn đề nặng nề nhất mà những người chống Việt Nam thường nêu
ra, là cái gọi là “chế độ phát xít” tại miền Nam đã giam giữ hơn 200
ngàn “tù chính trị”.
Khi trở lại Đông Dương vào Tháng Năm 1974 -cũng là dịp thăm viếng Cam
Bốt và Lào- tôi chú trọng đến việc điều tra những lời cáo giác trên.
Tôi ghé thăm Linh mục Chân Tín, nổi danh lãnh tụ của “lực lượng thứ ba” nhưng có lẽ là một cán bộ của Hà Nội.
Tôi hỏi ông là tìm đâu ra con số “202 ngàn tù nhân chính trị?” Ông
ta bảo rằng mình đã hỏi các tù nhân cũ và gia đình thân nhân của họ là
họ nghĩ xem có bao nhiêu tù nhân. (Tôi nghi là họ đã cộng lại tổng số
của các câu trả lời).
Sự thật thì thời đó chỉ có khoảng 35 ngàn tù nhân trong tất cả các nhà tù của Miền Nam.
Tôi
cũng gặp một lãnh tụ khác của “lực lượng thứ ba” là bà Ngô Bá Thành,
người nói với tôi rằng định nghĩa của bà về “tù nhân chính trị” có thể
gồm cả người như Sỉrhan. Sirhan, là tay cán bộ người Palestine
đã ám sát nghị sĩ Robert Kennedy vào tháng Sáu năm 1968. Mục đích của
hắn, bà Ngô Bá Thành giải thích là, “chính trị” khi hắn ám sát một ứng
cử viên Tổng thống rất nổi tiếng của Hoa Kỳ .
Rồi còn vụ “chuồng cọp” đầy tai tiếng tại Côn Sơn, được họ mô tả như sau:
,”…
xà lim chôn dưới mặt đất với các đống sắt, đồng trên trần thay vì ở
dưới. Mà trần xây thấp đến nỗi tù nhân không thể đứng được …”
.”… những hố nhỏ được đào dưới đất và che bằng chấn song sắt.”
- “[Mấy hầm đó] quá hẹp cho những người Việt Nam dù thấp bé cũng không thể nằm duỗi thẳng và trần quá thấp nên tù nhân khó có thể đứng thẳng người”
Thật
ra, tôi có đến đảo Côn Sơn và thăm những chuồng cọp này. Tôi nghĩ rằng
chúng ta cùng đồng ý là tôi hơi cao hơn đa số người Việt Nam. Vậy mà tôi chưa thể với tới các chấn song trên trần - vốn cao tới ba thước (khoảng 10 bộ) kể từ mặt đất lên.
Ngay
cả lực sĩ Nghiêu Minh (Yao Minh) người Tầu - tay trung phong của đội
bóng rổ Rocket's ở Houston bên Texas - cũng chỉ cao tới bảy bộ và sáu
phân - hơn hai thước hai - nên anh ta cũng chẳng gặp khó khăn gì đề duỗi
dài trong căn xà lim một bề thước rưỡi một bề ba thước của cái gọi lả
“chuồng cọp”.
Ít nhất, một số cán bộ Việt cộng chống Việt Nam Cộng Hòa đã từng cáo giác chuyện “chuồng cọp” biết là họ nói láo.
Trước khi qua Việt Nam
năm 1974, tôi nói với một người trong số này rằng tôi dự tính sẽ tới
nhà tù Côn Sơn để tự mình xem tận mắt và anh ta có vẻ khó chịu – có lẽ
biết rằng tôi sẽ thấy sự thật.
Anh ta nói rằng vấn đề thật bây giờ chính là tại nhà tù Chí Hòa ở Sài Gòn.
Vì
vậy sau khi thăm Côn Sơn, tôi xin phép vào xem nhà tù Chí Hòa và chưa
đầy 48 tiếng sau đã được tới đó trong mấy tiếng đồng hồ.
Đây không là nơi mà mình thích sống nhưng cũng chẳng tệ hơn đa số các
nhà tù và bên trong tôi không thấy dấu vết gì của những sự lạm dụng phổ
biến. Tôi nói riêng với vài người Mỹ đã từng ở trong này và họ nói
rằng dù có nghe nhiều lời tố cáo nhưng tất cả đều cho biết là họ không
hề nghe thấy “tiếng gào thét trong đêm vắng” hoặc được báo cáo về nạn tra tấn hay hành hạ tù nhân.
NGĂN CHẬN TÀN SÁT khi Cộng sản nắm quyền
Bi thảm nhất của những người chống Việt Nam là lý luận của họ, rằng cắt viện trợ cho Miền Nam là Hoa Kỳ sẽ “ngăn được nạn tàn sát”.
Họ sai lầm tới chừng nào!. Ông
bạn Giáo sư R.J. Rummel của tôi (một người từng được tuyển liên tiếp
cho giải Nobel Hòa Bình) ước lượng là tổng số người bị giết sau khi miền
Nam được “giải phóng” lên tới 643 ngàn.
-
Khoảng 100 ngàn bị xừ tử qua quít ngay sau khi Cộng sản VN nắm quyền.
Qua quít vì cũng chẳng có một hình thức tạm bợ về “tiến trình hợp pháp”
hay một toà án.
- Giáo sư Rummel cho là 400 ngàn là “thuyền nhân” bị chết ngoài biển cả khi muốn thoát khỏi chê độ CSVN độc tài và đàn áp đã trùm lên quê hương.
Cao ủy Tỵ nạn của Liên hiệp quốc thì cho là một phần ba những người vượt
biên bằng thuyền đã chết ngoài biển - một số là vì tầu quá đông người
bị chìm, hoặc chết vì đói, vì khát. Nhiều người tử nạn sau khi bị hải
tặc cướp bóc và cưỡng hiếp.
Cao ủy cũng tường trình rằng có khoảng 840 ngàn người tới được Hong Kong hay các nước không Cộng sản ở Đông Nam Á. Nếu
áp dụng tỷ số “chết một phần ba” cho con số này thì ta đoán là có một
triệu 300 ngàn người vượt biên bằng thuyền và khoảng 420 ngàn người đã
chết trên đường tìm tự do.
Con số không xa với ước lượng của Giáo sư Rummel.
Giáo sư Lewia Sorley, tác giả cuốn sách có giá trị của một dấu mốc là “A Better War” -một Cuộc Chiến Khá Hơn- mà tôi ân cần giới thiệu đến quý vị, cho rằng có chừng 250 ngàn sĩ quan và binh lính của miền Nam cũ đã chết trong các “Trại Cải Tạo” do chế độ Cộng sản VN lập ra.
- Khoảng một triệu rưởi người dân miền Nam bị đày vào các khu “Kinh Tế Mới” để sống trong những điều kiện nghiệt ngã và chừng 48 ngàn đã chết tại đấy.
Tôi biết rằng rất đông người trong cộng đồng này có thể kể lại những kinh nghiệm thật về “Trại Cải Tạo” và khu “Kinh Tế Mới” và khuyên các sinh viên ở đây nên tìm ra họ, ghi nhận câu chuyện của họ để làm chứng liệu cho lịch sử.
CĂM BỐT
Và còn chuyện xứ Căm Bốt nữa.
Khi
Tổng thống Nixon gửi quân đội Hoa Kỳ sang Cam Bốt vào năm 1970 đề yểm
trợ các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa, khuôn viên các Đại học Mỹ bị đóng vì
những cuộc phản đối đầy bạo động chống lại vụ xâm lược “phi pháp”.
Thật ra, về pháp lý thì y như Việt Nam, Căm Bốt là “quốc gia thành viên của Nghị định thư” -Protocole States- đã được cam kết bảo vệ chống Cộng sản xâm lăng trong khuôn khổ Hiệp ước SEATO năm 1954.
Mười năm sau, và với tỷ lệ đầu phiếu là 99,6%, khi Quốc hội Hoa Kỳ cho
phép Tổng thống Johnson tham chiến tại Đông Dương, quy chế ấy hoàn toàn
có thể áp dụng cho Căm Bốt như cho Việt Nam và Lào.
Nghị quyết ấy của Quốc hội chỉ cần dẫn chiếu “Protocole States” của hiệp ước SEATO (South East Asia Treaty Organization). Tôi thăm viếng Căm Bốt nhiều lần trong năm 1974 và trong nhiều năm đã viết về Khờme Đỏ. Thời
ấy, việc họ là những kẻ sắt máu có dự tính tàn sát không tưởng tượng
nỗi với đồng bào Khờme của họ thật ra chẳng còn là bí mật và dĩ nhiên,
khi tôi trở lại Việt Nam vào Tháng Tư năm 1975, một trong những mục tiêu
chính của tôi là để cố gắng cứu lấy đám trẻ cô nhi tại Căm Bốt.
Tôi đến quá trễ và có lẽ những đứa trẻ tôi hy vọng cứu được chắc là đã chết.
Không hề có một cuộc khảo sát dân số tại Căm Bốt và chẳng ai biết thực sự có bao nhiêu người đã sống tại nơi ấy.
Con số ước đoán về nạn nhân có những dị biệt lớn, với một số chuyên gia thì cho lả có hơn hai triệu. Tài
liệu khảo cứu khá nhất mà tôi được đọc là của Đại học Yale, nơi mà
Chương trình của Yale về nạn Diệt chủng Căm Bốt ước tính là Pol Pot và
bọn đao phủ của hắn đã thảm sát một triệu bảy trăm ngàn người - hơn 20%
dân số toàn quốc.
Một
bài báo về “các vùng thảm sát” của Căm Bốt trên tạp chí Nattonal
Geographic Today trong số tháng Giêng năm 2004 cho chúng ta những chi
tiết này: “Nhân
viên hướng dẫn giải thích rằng đạn quá quý để dùng cho việc tàn sát.
Rìu, dao và gậy tre thật đắc dụng hơn. Còn về trẻ em thì bọn đồ tể chỉ
đơn giản dọng chúng vào thân cây”.
Ông
Douglas Pike đã quá vãng, người mà tôi hoán đỗi công vụ nhiều lần trong
Sứ quán Hoa Kỳ, có viết như sau về hậu quả nhân sinh của việc Hoa Kỳ
bội ước sự cam kết của mình là sẽ bảo vệ người dân của các nước không
cộng sản ở Đông Dương: “Dù
có ước lượng dè dặt nhất, có nhiều thường dân Đông Dương bi bạo sát
sau Chiến tranh Việt Nam hơn là tổng số nạn nhân trong thời chiến, ít ra
là hơn hai triệu... Nỗi khổ đau lên tới mức chưa từng thấy, còn thê
thảm hơn những ngày chinh chiến”.
Thật
bi đát vì tôi nghĩ rằng ông Pike có lý. Và tôi lại càng tin rằng cộng
đồng tại đây, đôi khi ngay trong hội trường, có những người có thể cung
cấp những dữ kiện trực kiến về thảm kịch nêu ra như ta muốn tìm đến họ
và ghi nhận lời chứng của họ.
Việc này thì chẳng ai có tâm trí bình thường lại thích làm, nhưng là
điều mà những ai muốn truy lùng sự thật tới cùng vẫn có nhiệm vụ thực
hiện. Chúng ta phải kể lại chuyện này -một cách chính xác và cẩn
trọng– để người khác sẽ biết rất lâu về sau, khi các nhân chứng cuối
cùng không còn tại thế nữa.
Chúng ta phải kể lại, nếu không chuyện đó sẽ lại tái diễn.
Những
ai thấy bàng hoàng về những chuyện đã xảy ra khi Cộng sản khống chế
người dân Miền Nam Việt nam và của Căm Bốt hay Lào thật ra không hiểu gì
về lịch sử hiện đại.
Nếu quý vị muốn biết rõ hơn về thảm kịch, tôi xin đề nghị tập sách do nhà Harvard University Press xuất bản có tên là “The Black Book of Communism”
- Cuốn Hắc thư về Chủ nghĩa Cộng sản” do một nhóm trí thức Âu Châu thuộc khuynh hướng trung tả biên soạn, cuốn sách kết luận là trong thế kỷ 20, chủ nghĩa cộng sản quốc tế đã gây ra cái chết cho từ 80 đến 100 triệu sinh linh.
Những ai muốn biết sâu xa hơn về Chiến tranh Việt Nam
có thể còn bị lầm lạc lớn nếu không chịu khó tìm đọc các cuốn sách do
chư vị diễn giả nơi đây hoặc bằng hữu của chúng tôi đã biên soạn.
Đây
là một vinh dự cho tôi khi được thuyết trình trước một cử toạ quan
trọng như hôm nay và trong cơ hội long trọng này. Với những người giận
dữ về sự bội phản của nước tôi 35 năm về trước, xin cho tôi được nói
rằng sự giận dữ này cũng là sự giận dữ của bản thân tôi.
Tôi
yêu quý Hoa Kỳ và tin rằng đây là một xứ tuyệt vời nhất trên địa cầu
nhưng khi đa số dân biểu, nghị sĩ của Quốc hội Hoa Kỳ phản bội nạn nhân
của Cộng sản xâm lược họ cũng phản bội 58 ngàn 200 lính Bộ binh, Hải
quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã dâng hiến mạng sống trong sự hy
sinh cao quý nhất cho chính nghĩa này.
Họ cũng phản bội sự hy sinh của hai triệu bảy trăm ngàn người Mỹ đã từng phục vụ tại Việt Nam từ năm 1959 cho đến 1975.
Chúng
ta không cải sửa được điều ác đã xảy ra nhưng chúng ta có thể nghiên
cứu nó và có thể hành động để người Mỹ chúng ta lánh xa truyện thần
thoại sai lạc mà hiểu rõ thảm kịch lớn lao của sự bội tín.
Tôi thiết tha kêu gọi giới trẻ trong cử toạ nơi đây là hãy tự nguyện
giành một chút cố gắng để học hỏi trang sử này và chia sẻ với người
khác.
Quan trọng nhất, hãy chú ý đến các cựu chiến binh và những người sống
sót trong cộng đồng, hãy ghi lại lời kể của họ khi mình còn cơ hội. Nếu mình làm được như vậy thì may ra những hy sinh lớn lao của thảm kịch bi đát này sẽ không bị uổng phí.
Xin cảm tạ quý vị và cầu xin Thượng Đế sẽ phù hộ chúng ta./.
Giáo sư Robert F. Turner
Trung tâm an ninh Luật Pháp Quốc Gia
Đại Học Luật Khoa Virginia & Học Viện Hải Quân.
|
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét