Thứ Năm, 11 tháng 10, 2012

SỐNG ĐỂ CHIẾN TRANH- CHẾT CHO HÒA BÌNH {19}Tiêu đề bài đăng



SỐNG ĐỂ CHIẾN TRANH- CHẾT CHO HÒA BÌNH{19}

Tiếp theo...

Giải oan cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Cho dù 30 năm, hay 100 năm đã qua, nếu chúng ta còn may mắn giữ được hơi thở, cũng không thể nào quên được  những kỷ niệm thương đau, uất hận của ngày nào, năm nào cho quê hương thân yêu cuả chúng ta. Xin gưỉ đến quý vị một bài viết của một người Mỹ , Ông Harry Noyes, người có cái nhìn...thiện cảm về... ” Đoàn quân bại trận chúng mình”.Coi như một an ủi dù...quá muộn. Để thương cho nhưng người bạn, những chiến hữu đã không được may mắn đọc bài này.
 Trong suốt quá trình chiến đấu để bảo vệ đất nước mình, Nam Việt Nam đã thiệt mất một phần tư triệu binh sĩ trên chiến trường.  Họ vóc dáng nhỏ con, nói chuyện líu lo như chim hót, ưa thêm nước mắm vào mọi món ăn, và thường hay nắm tay nhau. Không lạ gì lính Mỹ khi qua viễn chinh ở vùng Đông Nam Á - hầu hết đều là trai trẻ, học thức bình thường, được rập khuôn trong một xã hội quá cao ngạo và quá ít hiểu biết về những nền văn hóa khác – khó lòng cảm thông được với những người chiến binh Miền Nam VN.

 Điều đáng tiếc hơn nữa là nhiều cựu chiến binh lúc trở về lại đi gia nhập vào hàng ngủ của những nhóm gây rối, trốn lính và hoạt đầu chính trị để bêu xấu danh dự của một đạo quân nay không còn có thể tự đứng ra bào chữa được mình. Nhục mạ một đạo quân đã mạng vong trong chiến trận do nước Mỹ bỏ rơi là một hành vi đê tiện, không xứng danh là người chiến binh Hoa Kỳ.

 Chắc một số người sẽ cho rằng đìều khẳng định của tôi là quá đáng. Vậy chứ tôi phải làm thế nào để bào chữa cho họ đây? Mọi người đều “cho” họ là một lũ bất tài, phản trắc và hèn nhát, phải như vậy không?

 Không, hoàn toàn sai. Bài viết này sẽ trưng ra một vài chứng cớ hùng hồn để đánh đổ cái huyền thoại thô bỉ này, đồng thời cũng sẽ khảo sát xem do đâu phát sinh ra huyền thoại ấy.

 Dĩ nhiên phải công nhận là quân lực Nam Việt không toàn hão. Người chiến binh của họ phải chiến đấu với những kẻ lãnh đạo tồi, những quân nhân hèn nhát, chịu đựng những cuộc khủng hoảng, những biến cố tai ương, bất lợi. Quân lực Mỹ ở Đông Nam Á cũng không hơn gì đâu.

 Trên một số phạm vi như cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và lãnh đạo, quân lực Nam Việt thua bên phía Mỹ. Nhưng có ai trông mong gì khác hơn từ một quốc gia đang phát triển, mới vừa thoát khỏi ách thuộc địa lại phải lao đầu vào một cuộc chiến sinh tử với một quân thù hùng mạnh được cả một khối Cộng Sản hỗ trợ?

 Thực tế mà nói, những nhược điểm của Nam Quân cũng hệt như của quân Mỹ thời chiến tranh Độc Lập của Hoa Kỳ (American War of Independence) , dù rằng nước Mỹ hồi cuối thế kỷ thứ 18 có nhiều điểm thuận lợi như: cái qui mô của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng (Revolutionary War) nhỏ hơn và dễ chi phối hơn; quá trình thuộc địa Hoa Kỳ đã giúp hình thành được những chính quyền tự phát địa phương, cho phép đất nước này hun đúc nên những vị lãnh tụ tài ba thật sự; quân Anh không quá ngoan cố như quân BV; và quân đồng minh Pháp thời bấy giờ đã không bỏ rơi nước Mỹ non trẻ như kiểu người Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam. 

 Nhưng dù sao chăng nữa, cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và ngay cả lãnh đạo đi chăng nữa vẫn chưa phải là những phẩm chất để dựa vào đó mà phỉ báng quân lực Nam Việt.

  Có hai câu hỏi đánh động đến đề tài tranh cải. Phải chăng người chiến binh Nam Việt thiếu chí khí, lòng quả cảm, sự can trường và lòng ái quốc mà người Mỹ đã nêu ra trong lời miệt thị và gán lên đầu họ mọi trọng tội vì đã đánh mất cái giá tự do của vùng Đông Nam Á? Quân Mỹ có khá gì hơn đồng minh của mình để dám khinh khi họ như vậy? Trả lời cho cả hai câu hỏi, tôi xin trân trọng khẳng định là “Không!”
            
Chứng cớ quá rõ ràng. Trận Tổng Công Kích Tết 68 coi như sẽ đập tan được ý chí chiến đấu của Nam Việt. Thay vì bỏ cuộc, quân NV đã kháng cự mãnh liệt và hữu hiệu: không một đơn vị nào tan rã hay tháo chạy. Ngay cả cảnh sát cũng chiến đấu, họ đương đầu với quân chính qui đối phương trang bị bằng vũ khí hùng hậu với chỉ bằng những khẩu súng Colts. Dựa theo báo cáo, sau trận này số người xin đăng lính cao đến nỗi chính quyền của quốc gia này phải đình hoản bớt việc thu nhận thêm tân binh.    
    
Trong cuộc Tổng Tấn Công năm 72, quân trú phòng NV bị vây hãm tại An Lộc đã giữ vững được vị trí của mình trước một lực lượng ghê gớm của quân thù cả về người lẫn hỏa lực kinh hồn của đại pháo và hỏa tiễn. Sau trận này tôi được tiếp xúc với một cố vấn Mỹ để nghe tường thuật lại mẫu chuyện một tiêu đội lính NV trong vùng được cử công tác thanh toán ba chiến xa, đã hành động như thế nào. Họ chu toàn nhiệm vụ hạ được một chiếc, rồi quyết định tìm cách bắt sống hai chiếc còn lại. Theo tôi nhớ thì họ chộp được một chiếc còn một chiếc bỏ chạy, thế là mấy người lính chạy bộ rượt theo đến cuối đường. Việc thi hành thượng lệnh của mấy người lính này có thể không đúng tác phong quân kỷ, nhưng lối hành xử cho thấy tinh thần chiến đấu cao và thế chủ động mà mọi binh sĩ NV đều có. Dĩ nhiên điều tôi kể chưa đủ để bào chữa được cho lời tố giác tội hèn nhát.
            
            Để minh chứng hơn, hãy nhìn vào Nam Việt Nam ở thời điểm cuối cùng vào năm 1975 khi đất nước này đang trong tình trạng tuyệt vọng khi biết rõ Mỹ không ra tay cứu giúp nữa (cả nhiên liệu lẫn đạn dược). Thế mà một đơn vị NV tầm cở một sư đoàn đã cầm chân được bốn sư đoàn BV trong suốt hai tuần giao tranh ác liệt tại Xuân Lộc. Chỉ riêng một trận này thôi sự anh dũng còn nổi bật hơn bất kỳ một chiến công nào có thể tìm thấy trong chiến sử Hoa Kỳ. Quân NV sau đó đành phải lui binh vì không quân của họ không còn bom để yểm trợ chiến đấu.
            
            Có lần tôi xem được một phim tài liệu truyền hình do một phóng viên người Úc quay tường thuật về cuộc chiến. Khác với các phóng viên HK, anh ta dành hết thời gian bên cạnh các binh sĩ NV. Anh ta ghi rõ tinh thần chiến đấu của Nam quân bằng những thước phim của mình. Anh còn kể rằng anh từng ghé qua một làng do địch kiểm soát và nghe nói lại rằng lính CS còn sợ lính NV hơn cả lính Mỹ. Lý do chính là lính Mỹ bao giờ cũng ồn ào, nên khi nào lính Mỹ đến là họ biết ngay. Chỉ vậy thôi thì có gì họ phải kinh sợ nếu quân NV không là những chiến binh nguy hiểm.
            
            Tuy vậy, chứng cớ quan trọng nhất chứng tỏ ý chí chiến đấu của quân nhân Miền Nam đến từ hai sự kiện hiển nhiên, những sự kiện vốn thường hay bị lãng quên hoặc che dấu để che đậy sự thất bại của người Mỹ ở Việt Nam.
            
            Sự kiện thứ nhất: Chiến tranh VN đã khởi sự đâu đó bảy năm trước khi lực lượng chính của Hoa Kỳ đổ đến và sau đó lại tiếp tục thêm chừng năm năm sau khi quân Mỹ rút ra. Trong khoảng đó phải có ai đó đang chiến đấu mà kẻ đó là người Miền Nam chứ còn ai khác hơn.
            
            Sự kiện thứ hai: Quân đội NV thiệt mất một phần tư triệu binh sĩ trên chiến trường. Theo tỉ lệ dân số thì tương đương hai triệu lính Mỹ chết (một con số gấp đôi tỗn thất của Mỹ trong tất cả các chiến tranh gộp lại). Cho rằng người ta không chịu chiến đấu thì sao họ lại chết nhiều như vậy.
            
            Vậy thì do đâu mà NV phải chịu mang tai tiếng xấu?
            
            Dĩ nhiên có lúc họ tỏ ra bất tài và hoảng loạn. Lính Mỹ cũng vậy thôi. Tôi biết một câu chuyện qua một đơn vị trưởng pháo binh HK rằng khi hay tin đại đội bộ binh bảo vệ mình bị địch đánh tan tành, các pháo thủ đâm hốt hoảng bắn loạn xạ khiến đám quân yểm trợ này hoảng loạn chạy có cờ giữa hai lằn đạn.
            
            Một biến cố đơn thuần đó không thể đem ra mà gán cho cả quân lực HK là hèn nhát thì thỉnh thoảng có sự tan hàng của người đồng minh của nước Mỹ cũng không có nghĩa là tất cả chiến binh Miền Nam là hèn. Thế mà có kẻ lại suy nghĩ như vậy, qua cách nói bởi một số cựu chiến binh, bởi những chính trị gia muốn bào chữa cho một chính quyền Mỹ đã để cho Nam VN bị suy vong.
            
            Sự thật được minh bạch hơn qua mẫu đối thoại sau đây phát xuất từ hai thế kỷ trước, khi một phụ nữ Anh hỏi viên công tước xứ Wellington rằng lính Anh có bao giờ bỏ chạy trên chiến trường không.
            
            Viên công tước đáp, “Ngoài chiến trường người lính nào cũng có bỏ chạy cả, thưa bà.”
            
            Một nghiên cứu qua loa trong quân sử cũng xác minh được điều này. Những trận đánh thời Nội Chiến (Civil War) cho thấy sự can trường lẫn sợ hãi liên tục khi lên khi xuống, cả những đơn vị phe Confederate lẫn Union thoạt đầu xông pha rất hăng hái, sau đó co cụm lại rồi bỏ chạy trước hỏa lực kinh hồn trước khi tập hợp lại tiếp tục chiến đấu. Chưa có đạo quân nào tự cho mình có nhiều hành động hy sinh anh hùng bằng hai đạo quân này, tuy nhiên họ cũng có lúc chạy tán loạn nơi một chiến trường quá đẫm máu.
            
            Văn sĩ S. L. A. Marshall mô tả sự hoảng hốt bỏ chạy của một đơn vị bộ binh HK thời Đệ Nhị Thế Chiến khi quân cảm tử Nhật vừa tấn công vừa hò hét. Đơn vị thứ hai nằm lại quyết chiến và nhanh chóng tiêu diệt hết đám quân Nhật (chừng 10 tên) và vở lẽ ra là đa số bọn chúng không có võ khí.
            
            Nếu sự việc tương tự xảy đến với một đơn vị Nam Việt, những tên tự xưng là học giả uyên thâm lập tức ra rả lập đi lập lại rằng ấy là chứng cớ rành rành về hành động khiếp nhược của quân đội Miền Nam.
            
            Tại sao vậy? Chúng ta ắt đã ngầm có câu trả lời rồi. Mọi sự còn tùy là cái quân đội đó thuộc chủng tộc gì, nói thứ ngôn ngữ nào. Sự thật đốn mạt là cái quân đội Nam Việt phải chịu mang tai tiếng xấu bắt nguồn từ lòng kỳ thị chủng tộc lẫn tinh thần sô-vanh nước lớn của người Mỹ.
            
            Tôi xin tự minh chứng về khuynh hướng bóp méo sự thật vốn tràn lan rộng khắp. Lúc vừa mới đặt chân đến Nam VN vào tháng Sáu năm 1969, lập tức tôi được chứng kiến những trường hợp bày tỏ thái độ ngu dốt và khinh miệt của một số người Mỹ dành cho người dân cũng như quân đội quốc gia này.
            
            Các binh sĩ Mỹ trắng cũng như đen, luôn cả những người trong các dịch vụ thuộc dân sự như truyền thông báo chí thẩy đều như nhau. Thái độ căm ghét này dành cho xứ sở cùng dân tộc VN kinh khiếp thay lại có một sức mạnh truyền nhiễm kinh hồn.
            
            Một viên đại úy Mỹ tôi được biết có trình độ tốt nghiệp đại học về ngành điện ảnh từ một trường có tiếng tăm (coi như họ được đào tạo để có cái nhìn chuyên môn hơn người thường). Có lần anh ta sau công tác tạm thời ở Thái Lan trở lại VN đã hết lời ca ngợi dân Thái.
            
            “Dân Thái người ta họ cho con đi học đàng hoàng,” anh ta nói, “khác với tụi nhỏ con của người Việt ở đây”. Khi tôi chỉ cho anh ta thấy không đâu xa mà ngay kế bên căn cứ còn có một trường học thì anh ta ngạc nhiên nhưng không hề tỏ ra ân hận về nhận xét của mình. Hằng trăm trẻ nhỏ trong đồng phục quần xanh áo trắng cắp sách đến trường mỗi ngày mà bất cứ ai có mắt đều nhìn thấy. Vậy mà tên làm phim này lại không.
            
            Chua chát thay, dân VN vốn quí trọng sự học còn hơn dân Mỹ, họ đã nâng trình độ người đi học từ 20 lên đến 80 phần trăm dù chiến tranh đang dày xéo chung quanh (dù ngay cả các giáo viên vẫn thường xuyên bị sát hại bởi đối phương). Vậy mà vẫn còn bị tên làm phim này gán cho cái tội là một xứ sở không trường không lớp.
            
            Vì phải viễn chinh nơi một xứ sở xa lạ, xa gia đình, người Mỹ này đã tự hun đúc cho mình một lòng thù ghét đất nước VN, hắn muốn tin rằng người Việt là đáng khinh. Do vậy, điều quan trọng đối với hắn là phải tin tưởng rằng người Việt không có trường học dành cho con cái họ; và chính cảm xúc đó làm mù đi thị giác của hắn.
            
            Hãy nghĩ tưởng đến cảm tưởng của khối quân Mỹ ít học thức hơn khi phải trực diện với nền văn hóa xa lạ trong một môi trường đầy căng thẳng! Có lẽ ta không nên đổ lỗi cho các binh sĩ ấy về thái độ kém cõi của mình. Trời đất còn biết là giới chỉ huy HK chỉ nổ lực qua loa để giáo dục cho binh sĩ mình về đất nước VN và tính chất của cuộc chiến.
            
            Tuy vậy, đó không phải là lý do để bào chữa cho các cựu chiến binh giả vờ cho là mình hiểu về những gì mình thấy ở VN. Ta phải tri ân các cựu chiến binh chiến tranh VN về đức tính quả cảm, sự hy sinh và lòng trung thành đối với tổ quốc. Nhưng tính quả cảm và sự hy sinh không đi đôi với sự hiểu biết. Chiến đấu ở VN không làm cho người lính thành những chuyên gia về đất nước hay cuộc chiến đó, cũng như có con không phải làm cho người mẹ trở thành một chuyên gia về khoa phôi thai (embryology).
            
            Những gì người lính Mỹ làm ở VN không dạy cho họ chi hơn về nền văn hóa, xã hội, chính trị, vân vân và vân vân của Nam Việt. Một ít người Mỹ có học lỏm bõm được vài tiếng Việt; ngay cả có một vài đọc được sách báo VN; và chẳng bao nhiêu người đọc sách vở viết về xứ sở Việt Nam bằng Anh ngữ.
            
            Ngoại trừ các cố vấn, ít người Mỹ nào làm việc gần gũi với những người Việt, có chăng họ có chung đụng với những người làm thư ký, giặt giũ, và nữ hầu bàn do quân đội HK mướn.
            
            Điều quan trọng hơn cả là ít quân nhân HK nào từng chứng kiến sự chiến đấu của binh sĩ NV. Ít ai có bao giờ xét đến thái độ khác biệt hiện hữu trong tâm tư những chiến binh nơi chiến trường ấy, quân Mỹ sang chiến đấu một năm rồi về, họ yên tâm là gia đình họ đều đang bình yên ở nơi chính quốc; trong khi người lính Miền Nam thì khác, hằng ngày họ phải lo lắng cho sự an nguy của gia đình mình, họ thừa hiểu rằng chỉ có cái chết hay chỉ có bị thương ở mức độ tàn phế họ mới ra khỏi được đời sống quân ngủ. Đương nhiên người Việt ắt phải dùng một thước đo riêng để quyết định cái gì là quan trọng hơn để chiến đấu.
            
            Giới nhà báo không khá gì hơn. Thử xét xem về một cuộc tường thuật truyền hình thiên vị mà tôi đã được xem trong đó người phóng viên tố giác không quân NV mặc dù đã Việt Nam Hóa chiến tranh, đã không chịu bay, để cho KQ HK phải lãnh những sứ mạng nguy hiểm chống lại BV.
            
            Nói cho đúng thì chính HK không chịu để cho NV bay ra Miền Bắc (ngoại trừ một vài phi vụ trong thời gian mở màng của các cuộc dội bom). Giới lãnh đạo HK muốn kiểm soát việc ném bom vì có thế HK mới có thế dùng nó như một công cụ để mặc cả trong bàn thương thảo.
            
            Bởi không muốn NV xen vào việc ném bom, HK cố ý chuyển giao cho NV những trang bị không thích hợp cho các phi vụ đánh phá Miền Bắc. Nam Việt không có phi cơ chiến đấu, vũ khí, máy bay tiếp tế xăng trên không, hoặc cả những thiết bị điện tử cấn thiết cho những phi vụ ấy. Chính người Mỹ đã quyết định làm như vậy.
            
            Người phóng viên nêu thắc mắc kể trên hoặc đã quá khờ khạo hoặc đã chọn sự tảng lờ để thực thi hành động báng bổ người đồng minh của HK. Căn cứ vào những lời lẻ vu khống cùng giọng điệu om sòm, tôi đi tới kết luận là sự thiếu kiến thức của anh ta hoàn toàn do cố ý.
            
            Một dẫn dụ khác về tính thiên vị của giới truyền thông là vào thời điểm Khe Sanh bị bao vây. Nếu ta hỏi một ngàn người Mỹ có đơn vị tham chiến ở Khe Sanh, hầu hết ai nghe nhắc đến trận ấy hẳn đều biết TQLC Mỹ chiến đấu ở đó. Nhưng nếu có hơn một người trong số một ngàn người đó biết có một tiểu đoàn BĐQ NV cũng đã san sẻ sự cam khổ ấy thì quả là điều đáng ngạc nhiên. Trong khi ấy còn có những đơn vị NV khác cũng dự phần vào những cuộc hành quân yểm trợ bên ngoài căn cứ đang bị vây hãm này. Báo chí Mỹ coi đồng minh của HK như không đáng để tường thuật đến trừ khi họ phạm điều gì ô nhục, vì thế những chiến sĩ chiến đấu can trường kia trở nên những người hùng vô hình tại Khe Sanh.
            
            Sự thiên vị này, lính Mỹ lẫn giới truyền thông HK đã đồng ca rõ rệt khi tường thuật về cuộc hành quân bất ngờ vào lãnh thổ Lào năm 1972.
            
            Thử xem lại một tài liệu truyền hình được đưa ra một thập niên trước đây. Tài liệu này bao gồm cuộc phỏng vấn một số binh sĩ Mỹ trong khi chiến trận tại Lào đang diễn ra. Những quân nhân HK này, đứng bình yên bên lãnh thổ NV, có những lời nhận xét cay độc, kỳ thị dành cho các binh sĩ NV đang chiến đấu ở bên kia biên giới. Người phóng viên truyền hình này bày tỏ rằng lính Mỹ hiểu rõ tình hình hơn các tướng lãnh của họ.
            
            Cuộc tấn công lên đất Lào dĩ nhiên là nguồn gốc của bức hình nỗi tiếng cho thấy hình ảnh một người lính NV đang đeo trên càng một phi cơ trực thăng để tìm cách vượt thoát. Hình ảnh này được liên tục tung ra trước công chúng Mỹ như là “chứng cớ” cho thấy người Miền Nam là đáng khinh tởm.
            
            Quả thực đây là một thủ thuật xưa như trái đất để xuyên tạc sự thật bằng sức mạnh của hình ảnh. Những gì xảy ra bấy giờ đúng ra là như vầy: Quân NV gặp phải lực lượng đông đảo của đối phương trong khi quân Mỹ không yểm trợ được như đã hứa vì hỏa lực phòng không của địch quá mạnh. Có nhiều báo cáo cho biết phi hành đoàn trực thăng phải đạp những két đạn đại bác xuống đầu các đơn vị NV từ độ cao 5000 bộ trở lên chỉ với hy vọng quân NV sẽ nhận được. Các phi cơ này quả tình là không dám xuống thấp hơn.
            
            Trong phạm vi vấn đề này, thử xem nhận xét của một sĩ quan HK, Đại Tá Robert Molinelli, người đã mục kích tận mắt, được đăng tải trong Armed Forces Journal (Tập San Quân Đội) số ngày 19 tháng Tư, 1971 như sau: “Một tiểu đoàn NV gồm 420 người bị bao vây bởi một trung đoàn đối phương đông đến từ 2500 đến 3300 quân trong suốt ba ngày ròng. Phía HK không thể nào tăng viện cho đơn vị này. Họ phải chiến đấu đến gần cạn kiệt hết đạn dược mới bắt đầu phá vòng vây với vũ khí và đạn dược thu được của địch quân. Đơn vị này còn mang theo những đồng đội bị thương cũng như đã chết. Hình ảnh phi cơ trinh sát chụp được cho thấy rải rác chung quanh đơn vị này là xác của 637 quân địch.
            
            Đơn vị này chỉ còn 253 người trong tình trạng khả thi chiến đấu khi họ chạy đến được một đơn vị NV khác. Một số ít trong số 17 kẻ hoảng sợ đã bám càng trực thăng để thoát thân. Số còn lại, tất cả đều không.
            
            Giờ đây, chắc có người cho rằng đeo càng trực thăng để thoát cho nhanh, dù rằng dễ làm mồi cho hỏa lực phòng không mà phi cơ lại bay cao và nhanh. Nhưng ngoài chuyện ấy ra, một trường hợp cá biệt, việc lui binh trong khi đang giao chiến ác liệt (một chiến thuật khó khăn nhất trong binh pháp) lại bị phóng đại thành một lời buộc tội cho cả một quân đội, một quốc gia và tệ hơn nữa cả một dân tộc?
            
            Câu trả lời rằng đó là do chính lòng kỳ thị chủng tộc. Vì lẽ những người bám càng trực thăng là người ngoại chủng. Thử hỏi kẻ đó là người Mỹ hay người Anh thì sao, cam đoan không sai rằng ta sẽ cảm thông cho là người đó đang phải chịu hoàn cảnh nghiệt ngã.
            
            Minh chứng cho điều này có thể thấy người Mỹ đã phản ứng như thế nào đối với lính Anh trước cuộc triệt thoái của họ hồi thời gian đầu Thế Chiến Thứ Hai.
            
            Nơi đây cũng có những hình ảnh tủi hổ xảy đến cho lính Anh ở Dunkirk cũng như tại một số nơi khác. Ở Dunkirk một hạ sĩ quan để tái lập trật tự phải chĩa súng đại liên vào đồng ngủ của mình đang hốt hoảng trèo lên tàu. Trên một tàu khác, các binh sĩ dùng báng súng dộng liên hồi vào người một sĩ quan để ngăn không cho ông này leo lên tàu qua ngỏ tháp súng. Tại đảo Crete, một lữ đoàn quân Tân Tây Lan đã tạo một vòng đai an toàn với lưỡi lê chĩa ra ngoài ngăn không cho các quân Anh đang hoảng loạn tràn ngập lên được tàu mình.
            
            Tuy thế, hình ảnh nước Anh đơn độc chống lại Hitler năm 1940 lại là một hình ảnh hào hùng. Điều này được minh chứng bởi sự kiện hoàn toàn hiển nhiên, ngay cả những biến cố đơn lẻ như vừa nêu bật ở trên vẫn không làm lu mờ được cái hình ảnh toàn cảnh về đức tính can trường và xả thân cứu nước của dân tộc này.
            
            Quả thật quân Nam Việt đã tỏ ra xuất sắc vào những ngày cuối cùng của Miền Nam qua sự bảo vệ Xuân Lộc vô cùng anh dũng.
            
            Tuy rằng có nhiều lý do như vậy. Thẳng hoặc có nhiều lý do để tin rằng, nếu có sự ủng hộ trung thành của phía người Mỹ ắt Nam Quân sẽ chứng tỏ cho thế giới thấy thêm nhiều Xuân Lộc khác nữa, và có lẽ họ cũng đã cứu được đất nước họ không bị mất.
            
            Vấn đề được nêu ra không phải là khả năng chiến đấu của quân Nam Việt như thế nào nhưng mà xét xem người Mỹ sẽ hành xử ra sao nếu tình huống tương tự xảy đến với họ.
            
            Sự thật là quân Mỹ nếu bị HK bỏ rơi như chính NV đã phải chịu, có lẽ họ cũng sẽ không khá chi hơn.
            
            Hãy nhớ rằng: năm 1974 Hoa Kỳ đã cắt viện trợ cho Nam Việt một cách thê thảm một vài tháng trước khi đối phương mở cuộc tấn công sau cùng. Kết quả của sự cắt viện trợ là chỉ một ít nhiên liệu và đạn dược gửi sang cho Miền Nam. Các phương tiện để vận chuyển cả trên không lẫn trên bộ đều phải bị bỏ xó vì không có cơ phận thay thế. Quân lính NV đi hành quân không có bình điện để liên lạc vô tuyến, y tá trên chiến trường không có đủ y dược cụ căn bản. Trong những ngày tháng sau cùng của cuộc chiến, quân Nam Việt phải chiến đấu thắc lưng buộc bụng, họ được phép bắn ba viên mỗi ngày, khẩu phần này áp dụng cho cả súng trường lẫn đại bác.
            
            Tình trạng tồi tệ đến nỗi ngay chính Văn Tiến Dũng, người chiếm được Miền Nam cũng chấp nhận sự thật là khả năng lưu động và hỏa lực của đối thủ của mình chỉ còn phân nửa trước đây. Vậy thì ngoài sự thiếu thốn vật chất này ra, sự chiến đấu kiểu nhà nghèo này cũng tác động lớn lên tinh thần chiến đấu của người lính NV.
            
            Quân BV với trang bị đầy ắp, với những chiến xa tối tân, với những xe cơ giới chở quân hiện đại, họ đã đánh thẳng vào Miền Nam suy sụp này bằng cuộc tấn công phủ đầu.
            
            Phải, quân NV đã gát lại, đã vứt bỏ chiến cụ (không vứt cũng coi như vứt vì có cơ phận đâu mà thay), cả đạn dược cũng bị bỏ lại (số lượng mà họ đã chắt chiu dành dụm được, mang theo đến phút cuối cho tới lúc biết là đã quá muộn màng rồi không có cơ hội để bắn hay mang theo được nữa, họ thừa biết họ sẽ không bao giờ có thêm để mà bắn). Vậy thì lỗi nơi ai? Họ hay người Mỹ?
            
            Phải, quân NV đã triệt thoái khỏi các tỉnh phía bắc một cách vụng về và khá muộn màng, đưa đến tình trạng hỗn loạn và suy sụp. Nhưng làm thế nào chính quyền Miền Nam có thể bỏ mặc dân chúng sớm hơn được, trước khi áp lực địch quá lớn buộc họ phải làm thế?
            
            Đã có lúc Nam VN hy vọng B-52 trở lại để giúp họ chặn bớt làn sóng xâm lăng của Cộng Sản. Khi biết rằng điều ấy sẽ không xảy đến, tinh thần chiến đấu của họ bị suy sụp cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
            
            Không còn nhuệ khí chiến đấu, nhiều binh sĩ quay ra đào ngũ - làm thế không phải vì họ hèn nhát hay không có tinh thần hy sinh để bào vệ đất nước mình, nhưng vì họ không muốn xả thân cho một sự nghiệp biết chắc là đang trên đà phá sản trong khi gia đình họ đang khẩn thiết cần đến mình.
            
            Quân Mỹ liệu sẽ làm gì khá hơn được chăng nếu cũng lâm vào tình huống như Nam VN hồi 1975? Liệu quân Mỹ có chiến đấu ngon lành với quân xa, truyền tin đều hỏng, hệ thống quân y què quặc, thiếu thốn nhiên liệu và đạn dược, và không yểm thì nhỏ giọt hoặc hầu như không có. Với một tình trạng bết bát như thế mà phải đối đầu với một kẻ địch có quyết tâm cao, hùng mạnh, trang bị tối tân, sung mãn. Tôi e là không thắng nổi.
            
            Liệu NV có thắng được trận 1975 nếu chính phủ Mỹ vẫn giữ vững sự cam kết, và tiếp tục chi viện cho NV không kém với chi viện mà khối CS dành cho Miền Bắc?
            
            Câu trả lời là không biết được. Ít ra họ có một cơ hội để đọ sức, cái cơ may mà người Mỹ phản trắc đã tước mất của họ. Hiển nhiên là họ có thể chiến đấu hữu hiệu hơn. Cho dù họ có bại trận họ cũng ngã gục một cách hào hùng trong một trận đánh lưu danh muôn thuở cho hậu duệ, để tiếp tục chiến đấu dưới hình thức du kích chiến rập khuôn theo kiểu Afghanistan.
            
            Cho dù NV có đại bại, sự ủng hộ hết mình của Hoa Kỳ ít ra cũng khiến họ có thể nhún vai mà nói rằng dù sao họ cũng đã giúp đỡ hết mình rồi. Đằng này người Mỹ chưa có hết mình giúp đỡ. Những kẻ nào muốn trốn tránh sự thật ấy bằng cách quay ra báng bổ NV và quân đội ấy là không phải lẽ.
            
            Trước một tội ác tày trời bỏ mặc cho nhân dân Miền Nam rơi vào tay CS, người Mỹ sau này quay ra đi làm “điều tốt” kể ra đã quá muộn màng. Nhưng nếu biết nhìn lại và công nhận mình đã sai lầm khi sĩ nhục lương tâm của người Miền Nam ấy thì chưa có muộn đâu. Cũng chưa muộn màng gì nếu ta biết khởi đầu vinh danh đúng mức những thành tích họ đã đạt được cùng những hành động hào hùng họ đã tạo nên để bảo vệ cho lý tưởng tự do./.
Theo nguồn,
 http://hon-viet.co.uk/GiaiOanChoQuanLucVietNamCongHoa.htm

DI TẢN CHIẾN THUẬT-TÂY NGUYÊN 1975

     Quân dân di tản chiến thuật dọc theo quốc lộ 14- Buông Mê Thuộc và liên tỉnh lộ 7- Cũng Sơn Tuy Hòa

  Qua những tư liệu " Cuộc Triệt Thoái Quân,1975"- Phạm Huấn.Dù đã 36 năm trôi qua,nhưng những hình ảnh kiên cường chiến đấu,vừa rút quân vừa bảo vệ làn sóng người dân di tản theo đoàn quân.Đã nói lên cái chết bi tráng hào hùng của người chiến sĩ VNCH.Đó là sự hy sinh cống hiến,bảo vệ Tự Do Miền Nam của bạn bè chiến hữu Sư Đoàn 22BB lần cuối cùng trong cuộc Triệt Thoái Quân ra khỏi vùng Tây Nguên của Quân Đoàn II theo quốc lộ 14 về liên tỉnh lộ 7 ra cửa biển Phú Yên-Tuy Hòa.
Những Cái chết bi thảm và hào hùng đó của bạn chiến hữu tôi đã rơi rớt và nằm lại ven rừng làm phân bón lá trong cuộc "Di Tản Quân Về" được ghi đậm nét trong những ngày tù cải tạo.

.1 Di Tản Quân Về!
 
      Thủy Quân Lục Chiến di tản chiến thuật


Thơ,     
           Di Tản Quân Về!

Di tản quân về trong cơn chiến loạn,
Loạn cả dân tình loạn cả Tự-Do,
Ai đem chinh chiến cho dân Nam khổ!
Thiên đàn Xã Nghĩa khuất tất Tự-Do,

 ...........          ***
Đường núi chập chùng rừng xe nghẹt kín,
Gánh gồng,bồng bế mịch khói đoàn quân
Rừng lá trơ cành trong cơn đói lạnh,
Suối cạn nguồn trong cơn khát điêu linh,
Bao xác người rơi rớt đường di tản,
Trốn bỏ quê hương lủ giặc cộng về!
Rừng cây đá núi chôn bao mầm sống
Lệ máu tràn đầy tiếng khóc thãm thương,
Sỏi đá còn buồn hởi người vô tánh!?
Cây còn khóc lá giữa trời bảo giông!
                     ***
Khiếp đời lính chiến an dân cứu nước,
Nửa gánh sơn hà lịm chết Tự-Do!
Không còn dân chủ người dân chạy trốn,
Tay súng nầy gẩy gánh nợ nước non,
Cung đướng di tản thây người chặt núi,
Xác dân lành vung vắt khắp lối đi,
Người lính chiến đem thân chống đạn,
Súng đâu còn đạn bắn hởi người ơi!
Vận nước trơ cờ phản dân đón giặc
Hoan hô “Giải Phóng “Cộng Hồ rừng Xanh,
                        ***
Lệnh hàng giặc Cộng thôi đành gẩy súng!
Súng bể cong nòng áo trận vất tung,
Bờ rào chiến lũy gục đầu khó`c ngất,
Máu xương này là cái giá Tự-Do,
Chiến sĩ anh hùng lưu dang tự sát,
Thiên thần gảy cánh Tự-Do vào tù,
Lời song núi Tư-Do không Cộng sản,
Quốc Việt muôn đời là của dân Nam,
Chớ lầm yêu nước là yêu Xã Nghĩa,
Tự Do này cả thế giới cùng theo,
                     ***
Thưở Tự-Do ba mươi lăm năm cũ!
Tháng Tư về trong nổi nhớ miền đau,
Vận nước chưa thông,dân tình chưa tỉnh,
Men say chiến thắng xích xiềng tay dân,

   Huỳnh Mai St.8872
   Dạ Lệ Huỳnh
[Di tản chiến thuật] 
 SƯ ĐOÀN 22 BB/ QL.VNCH
   Quân Sự Lục Quân Việt Nam Cộng Hòa - Trở Lại Những Ngọn Đồi Vô Danh - Phạm Huấn (Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên, 1975)11 giờ sáng ngày 31/03/1975, tại Bộ Tư Lệnh Hành Quân Mặt Trận Bình Định, vị Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh nhận được lệnh «điều động» Sư Đoàn về phòng thủ Quy Nhơn.11 giờ 01 phút, trên hệ thống truyền tin chỉ huy giữa Sư đoàn với Trung đoàn; và sau đó, Trung đoàn- Tiểu đoàn, các Trung đoàn trưởng, Tiểu đoàn trưởng đều nghẹn ngào khi nghe tin này. Cả 3 Trung đoàn 41, 42, 47 lúc đó đều đang giao tranh với địch. Trung đoàn 41 và 42 Bộ Binh tại các mặt trận Quốc lộ 19, cách Quy Nhơn hơn 30 cây số, và Trung đoàn 47 ở phía Bắc Bình Định.Có những quân nhân nhà nghề đã chiến đấu trong đại đơn vị này suốt 2 thập niên, ngay từ khi Sư đoàn mới thành lập. Đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, biến đổi, vinh quang, bi hùng trong suốt 20 năm dòng dã. «Những người lính già của chiến trường», tưởng không bao giờ gục ngã. Nhưng, với cái lệnh rút khỏi vùng hành quân hôm nay, họ biết ngay, đây là giai đoạn chót cuối đời binh nghiệp!!Sư đoàn đã từng bị đánh tan tành, và tưởng rằng bị xóa tên, trong Mùa Hè 72. Họ đã rút lui, đã tan hàng, chạy bộ suốt cả chục cây số đường rừng, núi để về tới «điểm tập trung».Nhưng họ không sờn lòng, nản chí. Họ vẫn giữ vững tinh thần, tin tưởng rằng sẽ có ngày Sư Đoàn hồi sinh, trở lại phong độ.Một cuộc «rút lui» khác nữa mà họ cũng không bao giờ quên. Đó là cuộc chuyển quân thần tốc của một Trung đoàn – Trung đoàn 42 Bộ Binh – từ Tây Nguyên trở về Bình Định tái chiếm đèo Nhông – đây cũng là một chiến thắng kỳ diệu nhất của Trung đoàn 42 trong năm 1974. Trung đoàn 42 Bộ Binh đang hành quân tại vùng Pleime, Tây Nam Pleiku, trong một buổi chiều, được lệnh về giải tỏa áp lực của địch tại mặt trận Bình Định. Cuộc chuyển quân tưởng rằng phải được thực hiện trong vòng 2 hay 3 ngày. Nhưng, ngay đêm ấy, toàn bộ Trung đoàn đã về tới Bắc Phù Cát. Và từ đó, dùng bàn đạp, đánh thẳng vào hậu phương địch, khiến Bắc quân trở tay không kịp. Những trận đánh đẫm máu dòng dã suốt 3 ngày sau. Trung đoàn 42 đã tiêu diệt gần 1 Trung đoàn CSBV của Sư đoàn 3 Sao Vàng, dựng nên «Chiến Thắng Đèo Nhông».Trước khi mặt trận Ban Mê Thuột bùng nổ, lần nữa, Trung đoàn 42 Bộ Binh lại biến 2 ngọn đồi vô danh từ Tây Tây Nam quận Hoài Nhơn, Bình Định thành những «di tích» của chiến sử, nói lên tinh thần chiến đấu chống Cộng phi thường của người quân nhân QLVNCH.Hai ngọn đồi vô danh, đó là những ngọn đồi chiến lược, được mang số 82 và 174, nằm trên huyết lộ vận chuyển của Cộng quân, trên trục Quảng Ngãi – Bình Định – cũng tại hai cao điểm chiến lược này, bọn nhà báo bất lương ngoại quốc, sau gần 20 năm xuyên tạc về chiến tranh Việt Nam, đã ngả nón kính phục về tinh thần dũng cảm của QLVNCH. Một phái đoàn Quốc hội Hoa Kỳ cũng được gởi tới đó quan sát chiến trường, và khi trở về nước, đã lên tiếng binh vực, ủng hộ Việt Nam. Nhưng, mọi chuyện đã quá muộn!22 giờ đêm, Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh cuối cùng của Quân đoàn 2 và chiến trường Cao Nguyên, bay trên đầu những cánh quân Sư đoàn 22 Bộ Binh. Với phương tiện và Hải pháo yểm trợ của Hải Quân vùng 2. Ông hy vọng sẽ cứu được 50% lực lượng của Sư đoàn. Tuy nhiên, điều mong ước của Ông không bao giờ đến!Giờ phút này, trước đó, và sau đó suốt 22 tiếng đồng hồ, các Trung đoàn 41, 42, 47, trên chặng đường rút quân và cũng là một trận tuyến dài hơn 30 cây số; từng đơn vị bị phục kích, bị đánh tan tác, bị «chặt đứt» ra từng khúc nhỏ.Đây là một cuộc trả thù tàn ác, man rợ nhất trong trận chiến sau cùng của chiến tranh Việt Nam. Trên 30 cây số đường máu, chiến đấu không yểm trợ, không tiếp tế, không tản thương. «Hậu phương» rã ngũ, bỏ súng.Trước mặt, sau lưng, đều là địch.«Đối thủ» tuy vẫn là Sư đoàn 3 Sao Vàng, và những Tiểu đoàn đặc công CSBV. Nhưng Bắc quân ở thế thượng phong, có pháo, chiến xa yểm trợ, và một «hậu phương lớn nổi dậy». Những người cộng sản đã không cần biết đến quy luật của chiến tranh. Chúng thẳng tay tàn sát «kẻ thù» trong đơn vị, mà trước đây đã gây cho chúng những tổn thất lớn lao, những thất bại đau đớn.Trên 30 cây số đường máu, các chiến sĩ Sư Đoàn 22 Bộ Binh đã chiến đấu trong tình trạng tuyệt vọng, nhưng dũng cảm, anh hùng.Họ đã bắn đến viên đạn cuối cùng rồi, gục xuống, có những hành động thật hào hùng, thật phi thường.Một cấp chỉ huy Trung đoàn 47 đã quỳ xuống, ôm lấy người lính bị thương, rồi bật khóc. Người lính chỉ còn thoi thóp, nhưng ngón tay vẫn để trên cò súng. Hình ảnh này làm Ông đau đớn. Ông đứng dậy bỏ đi. Nhưng rồi trở lại. Và thật bình tĩnh. Ông rút súng…kết liễu đời đứa em thân yêu, sau đó, bắn vào đầu mình.Có một «Người Anh Lớn» khác, đợi cho các chiến hữu của mình lên tầu hết, rồi lững thững bỏ đi. Trời bừng sáng, nhưng Anh không đi về hướng mặt trời. Anh trở lại con đường cũ. Trở lại phía có «Những Ngọn Đồi Vô Danh». Nơi đó, anh sẽ gặp «Dũng sĩ» Mai Hồng Bướm – người Binh Nhất Trung Đội Trưởng anh hùng Sư Đoàn 22 Bộ Binh – «người Trung Đội Trưởng thứ…sáu» của Trung Đội, đã chỉ huy đơn vị đánh bật kẻ thù khỏi đỉnh Du Tự, Hoài Ân trước khi gục ngã. Và, gặp lại rất nhiều những anh hùng vô danh khác của Sư Đoàn, những người đã lấy máu mình tô thắm cho mầu cờ đơn vị, trong những năm sau cùng!!!
…Có một hy sinh của người anh hùng – một đại anh hùng – sáng ngày 1/4/1975, cũng bị rơi vào quên lãng. Và cũng là một thiệt thòi lớn lao cho đất nước! Đó là trường hợp Đại tá Nguyễn Hữu Thông, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, Sư đoàn 22 Bộ Binh.Tôi có thể quả quyết rằng, trong 20 năm sau cùng của chiến tranh Việt Nam, không một tướng lãnh nào khi chỉ huy cấp trung đoàn và lữ đoàn, đã tạo dựng những chiến công to lớn như người anh hùng Nguyễn Hữu Thông. Những Tướng CSBV chỉ huy Sư đoàn 320 Điện Biên Phủ, Sư đoàn 3 Sao Vàng trong những năm 73, 74, 75, cho đến bây giờ và mãi mãi sẽ phải cúi mặt khi nhớ đến thảm bại nhục nhả. Những thảm bại bởi Trung đoàn 42 Bộ Binh, do Đại tá Nguyễn Hữu Thông chỉ huy, tại Pleime, đèo Nhông, và «Những Ngọn Đồi Vô Danh» (Cao điểm chiến lược 82 và 174) tại Tây Tây Nam Hoài Nhơn, Bình Định.«Nhân vật và hình ảnh» Nguyễn Hữu Thông, sau khi đưa «những chiến hữu anh em còn lại» về vùng an toàn; đã một mình lững thững…trở lại con đường cũ, về phía «Những Ngọn đồi vô danh»…thật phi thường, thật hào hùng.Ngày 1/4/1975, nếu người anh hùng Nguyễn Hữu Thông là Thiếu tướng Nguyễn Hữu Thông, chắc chắn cái chết của Ông sẽ tạo thành một trận cuồng phong. «Trận cuồng phong» từ vùng đất linh thiêng của Quang Trung Đại Đế, sẽ làm quân thù khiếp sợ. Và gây được sự tin tưởng, phấn khởi cho toàn Quân, toàn Dân trong những ngày cuối cùng!Hai năm trước đây, tôi có dịp hầu chuyện với một vị tiền bối cùng thời với Hồ chí Minh. Tôi có thưa với Cụ về tài ba, anh hùng, của những Sĩ quan các khóa 16, 17, 18…Đà Lạt. Họ được huấn luyện 4 năm cả về Quân Sự lẫn Văn Hóa, như tại các trường Võ Bị của Mỹ, Anh, Pháp. Trong trận chiến sau cùng, các Sĩ quan này giữ những chức vụ Trung đoàn trưởng, Lữ đoàn trưởng đa số đều tự tử chết; hoặc ở lại chiến đấu với chiến hữu của mình cho đến phút cuối cùng. Như các Trung tá Nguyễn Xuân Phúc, Thủy Quân Lục Chiến, ngoài vùng I; Nguyễn Hữu Thông, Lê Cầu, tại mặt trận Bình Định; Bùi Quyền, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù…Nếu Hiệp Định Paris 27/1/1973 được ký kết trễ hơn khoảng 2 năm nữa, miền Nam không bao giờ mất vào tay cộng sản. Bởi vì, đất nước và quân đội sẽ được lãnh đạo và chỉ huy bởi những Tướng Lãnh anh hùng, có khả năng cả về quân sự lẫn văn hóa, với đầy đủ Trí, Đức, Dũng.Vị tiền bối thở dài nói:- Đó là một chuyện đáng tiếc, và cũng là vận nước đã hết!! Khi cố Tổng thống Ngô Đình Diệm nhìn thấy cái «chu kỳ quân nhân cầm quyền» tại Việt Nam, tại những quốc gia chậm tiến, có chiến tranh, và trong «tay» của Mỹ. Ông đã bổ nhiệm một người có gần…đầy đủ những đức tính đó về «dạy» Trường Võ Bị Đà Lạt. Nhưng, Ông Diệm đã «để trể» mất 1 năm, nên «người đó» chỉ đào tạo được những «De Gaulle, Eisenhower …cấp Đại Tá» cho Việt Nam!!Nghe lời vị tiền bối, tôi đã nhớ lại một, vài sự việc đã xẩy ra cách đây hơn 20 năm. Năm 1965, Tướng Moshe Dayan của Do Thái, với tư cách một chuyên gia quân sự, và sang «hành nghề» phóng viên chiến tranh tại Việt Nam. Trong một cuộc gặp gỡ thân mật với nhóm phóng viên quân đội, Ông cho biết tinh thần chiến đấu dũng cảm của những chiến sĩ QLVNCH rất đáng ca ngợi. Những Sĩ quan cấp Đại đội trưởng, Tiểu đoàn trưởng đều là những anh hùng. «Chắc chắn họ sẽ là những nhà Lãnh Đạo, những Tướng Lãnh tài ba của Việt Nam trong tương lai!»Một sự việc khác, liên quan đến một Cấp Chỉ Huy, và cũng là người có công rất lớn trong việc đào tạo cán bộ trẻ trong Quân Đội, kể từ đầu thập niên 1960, đồng thời, nói lên tin thần «cao ngạo anh hùng» của người Sĩ Quan này, đó là trường hợp Đại tá Trần Ngọc Huyến, Cựu Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt. Thời Tướng Nguyễn Khánh là Quốc Trưởng, Ông đã cải lệnh Tướng Khánh, bỏ chức Thứ Trưởng Thông Tin, bỏ lên Tướng, bỏ Sài Gòn, bỏ người yêu (!), mang lon Đại tá đi hành quân cùng với 1 Tiểu đoàn Bộ Binh, Sư đoàn 22 tại Dakto, Kontum.Trong gần 30 năm Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam được thành lập, Đại Tá Trần Ngọc Huyến cũng là Sĩ quan Trừ Bị duy nhất (tốt nghiệp Trường Sĩ Quan Thủ Đức), được đề cử chỉ huy Trường này.Và với tài ba, kiến thức sâu rộng, Ông đã cho áp dụng đúng theo những phương châm «Tự Thắng Để Chỉ Huy», «Chỉ Huy và Lãnh Đạo» để huấn luyện, đào tạo những Sĩ quan ưu tú, và anh hùng của QLVNCH trong gần 2 thập niên sau cùng của chiến tranh Việt Nam.Phạm Huấn (Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên, 1975)*/*/*Sư Đoàn 22 Bộ Binh"Tháng 3 năm 1975, Trung đoàn 42 thuộc Sư Đoàn 22 đã trấn thủ nơi đây, cho đến khi được lệnh rút về cảng Quy Nhơn. Gần 1 tháng quần thảo với hai Sư Đoàn Cộng sản, Trung Đoàn 42 vẫn giữ nguyên được quân số cho đến khi được lệnh rút lui chiến thuật về cảng Quy Nhơn, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22 đã đưa hơn 10 ngàn quân gồm Trung đoàn 42 và các đơn vị khác theo con đường vòng qua Ghềnh Ráng đi theo con đường nay có tên là Nguyễn Huệ.

Người ta ước tính số linh bị tử trận chỉ trong 2 ngày rút quân này cao gấp 2 lần toàn thể số lính tử trận sau hơn 1 tháng trấn giữ mặt trận An Khê - Phú Phong. Dân Quy Nhơn không dám ăn cá suốt mấy tháng trời vì xác anh em binh sĩ bơi ra tàu bị chết chìm đến 10 ngày sau vẫn còn tấp vào bờ biển. Đoạn đường rút quân đươc gọi là eo "Nín Thở'. Con đường từ Phú Phong về Quy Nhơn mà tôi đang đi hôm nay, ngày rút quân được gọi là "con đường buồn thiu". Về Quê Hương Nguyễn Huệ, Đất Võ Tây Sơn - Nguyễn Ngân 
 Qua nhận xét tác giả
Qua những tư liệu " Cuộc Triệt Thoái Quân,1975"- Phạm
Huấn.Dù đã 36 năm trôi qua,nhưng những hình ảnh kiên cường chiến đấu,vừa
rút quân vừa bảo vệ làn sóng người dân di tản theo đoàn quân.Đã nói lên
cái chết bi tráng hào hùng của người chiến sĩ VNCH.Đó là sự hy sinh
cống hiến,bảo vệ Tự Do Miền Nam của bạn bè chiến hữu Sư Đoàn 22BB lần cuối cùng trong cuộc Triệt Thoái Quân ra khỏi vùng Tây
Nguên của Quân Đoàn II theo quốc lộ 14 về liên tỉnh lộ 7 ra cửa biển
Phú Yên-Tuy Hòa.
Những Cái chết bi thảm và hào hùng đó của bạn
chiến hữu tôi đã rơi rớt và nằm lại ven rừng làm phân bón lá trong
cuộc "Di Tản Quân Về" được ghi đậm nét trong những ngày tù cải tạo.

  

Bài Viết
Người về từ cõi chết trên liên tỉnh lộ 7
Bởi Ngô Trúc Khánh

                              NGÔ TRÚC KHÁNH : NGƯỜI VỀ TỪ CÕI CHẾT
                                   TRÊN TỈNH LỘ 7 PHÚ BỔN - TUY HÒA
                                         –––––––––––––––––––––––––––––––––––––-


            Ngô Trúc Khánh sinh tại Chợ Lầu, Hòa Ða, Bình Thuận. Cựu học sinh Trung Học Phan Bội Châu, Phan Thiết 1958-1965. Trước khi vào lính, là công chức Bộ Thông Tin-Chiêu Hồi (Sài Gòn). Tốt nghiệp Khóa 7/1968 tại Trường Bộ Binh Thủ Ðức.

- Từ 1969 tới 1971, Ðại Ðội Phó/ÐÐ 238 ÐPQ thuộc Chi Khu Hòa Ða(Bình Thuận).
- 1972 Biệt phái ngoại ngạch Cảnh Sát Quốc Gia : Trung Uý Trưởng Cuộc Hòa An và Lại An (Thiện Giáo-BT).
- 1973 Trưởng Cuộc Cảnh Sát, Thị Xã Hậu Bổn (Phú Bổn) ố Sĩ quan Hành Chánh , Phụ Tá Biện Lý Tòa Hòa Giải Pleiku.
- 1974 tới tháng 2/1975 : Phụ Tá Trưởng phòng Hành Quân/BCH/CSQG/Phú Bổn.

            Ngày 10-3-1975 thủ phủ của cao nguyên Trung Phần là thành phố Ban Mê Thuộc thất thủ. Pleiku tổng hành dinh của Bộ Tư Lệnh Quân Khu /Quân Ðoàn II Chiến Thuật coi như bị cô lập và vây hảm vì hai quốc lộ chính 14 và 19 đã bị cộng sản Băc Việt cắt đứt và bịt kín nhiều đoạn. Mặc dù ở đây có rất nhiều đơn vi chiến đấu thiện chiến nhất là Biệt Ðộng Quân nhưng giờ chót cũng được lệnh di tản chiến thuật về duyên hải, nói là để bảo tồn lực lượng cố thủ các tỉnh còn lại của quân đoàn.

            Ngày 17-3-1975, bắt đầu cuộc triệt thoái của Quân Ðoàn II tại Pleiku, chặng đầu tới Phú Bổn tình hình tốt đẹp, mọi liên lạc, từ đoàn xe về Nha Trang, qua hệ thống siêu tầng số, liên tục và rõ ràng. Liên Ðoàn 6 Công Binh và những Ðơn Vị BÐQ mở đường, nhiều Liên Ðoàn BÐQ khác + Lử Ðoàn 2 Thiết Giáp đoạn hậu. Cảnh tượng xô bồ chưa từng có khi đoàn xe bắt đầu chuyển bánh . Nguyên do là hầu như ai kể cả cây cột đèn ở đây cũng đều muốn chạy khỏi vùng đất chết sắp xãy ra. Vì vậy nên mọi kế hoạch của cuộc hành quân di tản gần như đảo lộn với sự có mặt của hàng vạn đồng bào chạy loạn bằng đủ thứ phương tiện từ xe gắn máy, xe thồ, xe ngựa, xe kéo tới xe ô tô các loại. Cứ thế dân theo lính nối đuôi nhau không làm sao mà đếm nổi số lượng kéo dài hằng hằng cây số.

            Hởi ôi chiến tranh là chết chóc đau khổ thế nhưng cộng sản VN vì chủ nghĩa đế quốc và lợi lộc nên lúc nào cũng gây ra chiến tranh. Ðồng bào vô tội qua thời gian của cuộc chiến quá sợ cộng sản phi nhân bạo tàn nên biết đi là chết nhưng vẫn cứ chạy theo QLVNCH để xa lánh quỷ dử Việt Cộng. Những trang lịch sử cận đại của nước nhà ngày nay đã ghi rõ ràng từng đoạn đường thảm tuyệt của người dân chiến nạn từ Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972 và tàn khốc dã man có một không hai, đó là cuộc thảm sát của cộng sản Bắc Việt nhắm vào dân thường trên liên tỉnh lộ 7. Ðó là mồ chôn nhiền chục ngàn xác đồng bào và trẻ thơ vô tội, xóa sổ cả một đoàn quân cùng chiến cụ của cao nguyên lừng danh, từng làm cho giặc xiêu hồn bạt vía, kéo theo sự sụp đổ của đất nước vào cuối tháng 4-1975.

            Lúc 18 giờ 15 ‘ cùng ngày, đoàn xe tới Phú Bổn, ban đêm lính Thượng nổi loạn, đốt nhà, cướp của, đồng lúc VC pháo kích dồn dập vào Thị Xã Cheo Reo, khiến cho thành phố nhỏ bé của miền núi, như đắm chìm trong biển lửa và hổn loạn. Vì vậy mọi đơn vị của Tiểu Khu, cũng tự động di tản theo Quân Ðoàn. Phòng Hành Chánh của Cảnh Sát Phú Bổn lúc đó, gồm ba sĩ quan (1 Ðại Úy + 2 Trung Úy ) với gia đình tôi (vợ + ba con nhỏ), tổng cộng 7 người, chất trên 1 xe Jeep. Riêng tôi đi bằng chiếc xe Honda Dame, chạy trước dẫn đường về được Chi Khu Phú Túc, sau hai ngày đêm may mắn, thoát khỏi đạn pháo của Cộng Sản và các nút chặn của Thượng Cộng
+ Thượng Fulro, trên Tỉnh Lộ 7.

            Lúc này, một số du kích VC đã dùng súng cối, pháo vào đoàn xe với mục đích làm trì trệ cuộc di chuyển, chờ quân chính qui của Sư Ðoàn 320, từ Ban Me Thuột, kéo tới với nhiều đại bác 122 ly của SD23BB bỏ lại. Bấy giờ , Tư lệnh QÐ2 là Tướng Phạm Văn Phú, đang bay trên C-47, ra lệnh cho Tướng Trần văn Cẩm, điều động LÐ7BÐQ và Lữ Ðoàn 2 Thiêt Giáp, phối hợp bảo vệ đoàn xe. Các đơn vị trưởng có trách nhiệm trong cuộc di tản trên, ngoài Tướng Phú (Tư Lệnh), Tướng Cẩm (Tư Lệnh Phó), còn có Ðại Tá Lý (TMT/QÐ2), Tướng Tất (CHT/BDQ/V2), Ðại Tá Ðồng (CHT/TG) và Các Liên Ðoàn Trưởng BÐQ. Rút sau cùng là LÐ4 và 25 BÐQ, vì kẹt ở Thanh An (Pleiku).

            Trong lúc mọi việc tưởng đâu tốt đẹp, thì xui xẻo lại tơi, khi Không Quân bỏ bom lầm, làm cháy 2 Thiết Vận Xa M113, khiến một số Binh sĩ TG và BDQ thương vong. Chết chóc, khổ đau.. bắt đầu từ giây phút đó.

            Hổn loạn bắt đầu từ 15 giờ ngày 18-3-1975. Theo nhận xét chung của mọi người, nếu người chỉ huy lúc đó là Cố Ðại Tướng Ðổ Cao Trí, tướng Trương Quang Ân hay Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn. thì họ sẽ nhảy ngay vào Mặt Trận, để trực tiếp chỉ huy , nên chăc chắn sẽ không có cảnh ‘ mạnh ai náy làm, coi mệnh lệnh của thượng cấp, kể cả chỉ thị của TT Thiệu, Bộ TTM/QLVNCH như cỏ rác ‘.Nhưng tướng Phú đã không bao giờ làm vậy thay vì bay trực thăng xuống thẳng Phú Bổn, để trực tiếp chỉ huy đoàn quân di tản, lúc đó như rắn không đầu vì chẳng ai phục ai, mà chỉ ngồi chờ tại Bộ Tư Lệnh QÐ2 ở Nha Trang, để chực đón phái đoàn cao cấp từ Sài Gòn của Thủ tướng Khiêm tới ban lệnh miệng. Trong khi đó tin tức dồn dập từ mặt trận báo về, Trung Ðoàn 9/SÐ968 của Cộng Sản Bắc Việt + nhiều Tiểu đoàn Du kích Thượng Cộng, đã lập xong một phòng tuyến dài trên tỉnh lộ, để chờ chận đánh đoàn xe, trong đó có rất nhiều đồng bào tháp tùng chạy loạn lánh nạn.

            Lúc 1 giờ 15 sáng ngày 19-3-1975, Tướng Tất báo cáo từ dưới đất về Nha Trang : Quận Phú Túc bị pháo nặng và tràn ngập nhưng LÐ7 BÐQ và Thiết Giáp đã tới giải vây. Trận chiến thật ác liệt, cuối cùng LÐ7 BÐQ cũng đã tái chiếm lại được quận, mặc dù chung quanh VC vẫn còn bám trụ, đóng chốt, pháo kích pha nátÔ đoàn xe. Cùng lúc, hai Tiểu đoàn K9, K13 của VC Phú Yên, đã đóng chốt từ Hiếu Xương lên tới quận Sơn Hòa. Tuy đoạn đường này, chỉ dài 25 cây số nhưng lại là đoạn đường máu lệ, chẳng khác nào chốn quỷ môn quan, đã tàn sát không biết bao nhiêu mạng lính và dân, trong đoàn người di tản phải vượt qua, trước khi tới được Tuy Hòa.

            Tại Phú Túc, tôi và các bạn đi chung với vợ con trên chiếc xe Jeep, đã bị thất lạc, trong chốn loạn quân, cho tơi ngày thứ 4 (21-3), mới gặp lại bên bờ này sông Ba. Từ đó, mọi người chia tay vì chiếc xe Jeep phải bỏ lại. Riêng gia đình tôi, còn phải chịu thêm 8 ngày nữa, trong địa ngục trần gian, để vượt qua đoạn đường tử thần này, dưới đất có hàng trăm ngàn quả mìn gài sẳn, của cả VC và Ðại Hàn từ bao năm trước. Còn trên đầu thì đầy trời Rocket và bom lửa của Không Quân + hàng trăm chốt của giặc, luôn nả đạn pháo vào đoàn người, bất kể quân, dân, người lớn hay trẻ con, khi chạy ngang tầm súng.

            Ðoàn xe ứ đọng kéo dài và ngừng hẳn vì giòng sông Ba chắn ngang trước mặt. Ðâu đâu cũng vang dậy tiếng khóc của đồng bào di tản từ trẻ sơ sinh thiếu sửa cho tới những nạn nhân đang quằn quại vì bom đạn và sự cướp bóc diễn ra. Tội nghiệp nhất là các đơn vị QLVNCH vừa phải mở đường, chiến đấu và thêm trọng trách đùm bọc đồng bào đang cùng với lính trong cơn chiến nạn.

            Ai cướp của dân, ai giết dân để mà cướp của thì ngày lịchsử cũng đã ghi lại rõ ràng qua miệng đời của chính những nhân chứng còn sống sót. Tuy vậy lịch sử cũng không thể nào bỏ sót công trạng thật là vĩ đại của những người lính Công Binh Chiến Ðấu của QLVNCH. Không có họ can đãm đầu đội bom dạn, mệt nhọc hy sinh tánh mạng , hiên ngang trầm mình dưới giòng nước lủ sông Ba để hoàn thành cho được một cây cầu nổi bằng vỹ sắt nối hai bờ sông, giúp đoàn xe tiếp tục về Tuy Hòa, tránh một cuộc thảm sát khi bộ đội Bắc Việt đang trên đường truy đuổi sắp bắt kịp.

            Hởi ôi đời là vậy đó vì ngày trước hay bây giờ vẫn còn một số người đâu có bao giờ nghĩ tới sự hy sinh vô bờ bến của những người lính VNCH. Họ chiến đấu vì ai mà phải hy sinh xác thân nơi sa trường, lại phải chịu đói khát cực khổ như đơn vị Công Binh đang thi hành nhiệm vụ tại Sông Ba. Toán này lo đón nhận những chiếc vỷ được thả xuống từ trực thăng trong khi toán khác tiếp ngay để ráp lại thành một chiếc cầu dã chiến. Phía dưới nước chảy thật xiết, mặc kệ hai chiếc xe ủi vẫn liên tục làm việc ủi đất và đá lấp kín một khoảng sông và thả vỷ sắt trên đó.

            Có một cảnh tượng mà tới bây giờ chắc những người có mặt bên bờ sông Ba sẽ không bao giờ quên được. Ðó là chuyện đàn bò gần 200 con của đồng bào quận Cũng Sơn được dẫn theo với chủ tị nạn. Nhưng khi chúng vừa lội qua tới bờ bên kia thì bị đơn vị Việt Cộng đang chốt sã súng đủ loại kể cả lựu đạn giết không chừa một con. Tội nghiệp thịt xương của những con vật vô tội văng tứ phía còn nước sông thì nhuộm đỏ máu bò. Một vài con may mắn dù bị thương vẫn cố lết lên bờ và lũi vào rừng núi biệt dạng.

            Cảnh tượng trên làm cho mọi người thêm khiếp đãm, thêm vào đó là sự chen lấn leo bừa lên trực thăng gây nên cảnh chết tan xương nát thịt khiến cho ai nhìn thấy cũng phải đau lòng.

            Suốt thời gian này, ai cũng vậy chẳng riêng gì gia đình tôi, đói thì lượm đọt rau và củ sắn dại trong rừng để an, còn khát thì uống nước vũng bùn, lợn cợn đầy máu, mỡ của xác người. Riêng đạn bom, mìn bẩy thì đành giao cho số mệnh . Cuối cùng nhờ Trời Phật và Tổ Tiên hộ trì, Tôi cùng Vợ và ba con nhỏ, sau 12 ngày đêm đói khát, lặn lội trong địa ngục bom đạn máu lửa, cũng về được Tuy Hòa ngày 25-3-1975 rồi Khánh Hòa.

            Tại Nha Trang, Ðài truyền hình liên tiếp tường thuật lại cuộc di tản của QÐ2 trên Liên Tỉnh Lộ 7, mở đầu là Những Thiết Vận Xa M113 của Lử Ðoàn 2 Thiết Giáp, kế tới là hình ảnh của một sĩ quan trẻ tuổi, râu tóc dựng ngược, mặt mày hốc hác, quần áo rách nát tả tơi, chỉ còn nguyên vẹn 1 đôi giầy lính, tấm bản đồ hành quân và khảu P.38 ngắn nòng. Dân chúng tại Nha Trang đã túa ra hai bên đường, để đón mừng, tiếp tế cho đoàn người về từ cỏi chết, mà người dẫn đầu, chính là Trung Úy Ngô Trúc Khánh, chỉ có chiếc xe Honda Dame, đã mang được vợ và ba con về từ địa ngục có thật.

            Sau ngày CSQT cưởng chiếm được toàn Miền Nam VN, như hằng triệu quân công cán cảnh của VNCH, Trung Uý Khánh lần lượt trải qua nhiều địa ngục trần gian, từ Kà Tót, Tổng Trại 8 Sông Mao, Lương Sơn, Tà Dôn, Long Hoa tới trại A.30 Tuy Hòa, Tổng cộng hơn 7 năm tù khổ sai. Ðược tị nạn chính trị tại Hoa Kỳ ngày 26-4-1992, qua diện HO 11, cùng vợ với 2 con. Cuối cùng ngày 28-3-2006, sau 14 năm chờ đợi, đứa con trai lớn mới tới Mỹ để đoàn tụ cả gia đình. Ðời trai kiếp lính thời loạn là vậy đó, bi thảm, cùng tận.. thế nhưng tới nay có được mấy người cảm thông thương tiếc ?

            Tóm lại cuộc di tản của QD2 coi như hoàn toàn thất bại, không phải vì người lính không chịu chiến đấu hay không đủ vũ khí đạn dược, để chống chọi với kẻ thù, mà do một hệ thống chỉ huy tồi tệ, từ Bộ TTM/QLVNCH cho tới BTL/QÐ2, toàn những kẻ sợ chết, ganh tị, vô kỷ luật, chỉ biết chia phe kết đảng, mới đưa đến cái thảm họa mất nước vào tay đảng CSQT, đẩy dân lính vào con đường chết. Cũng may trong đoàn di tản, còn có được những Liên Ðoàn BÐQ thiện chiến, Các đơn vị Thiết Giáp, Công Binh, những đơn vị Lôi Hổ, Biệt Kích.. chịu hy sinh, nên mới đem được hơn 2000 xe đủ loại và mấy chục ngàn người từ các tỉnh Cao nguyên Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn về được Phú Yên.

           Kết quả 70% chiến xa M48,41 bị hũy diệt, 100% Pháo binh tan hàng. Có hơn mấy chục ngàn đồng bào, đa số là trẻ thơ, đàn bà bị thảm sát, 20.000 chiến sĩ thuộc QD2, gồm BÐQ, Lử Ðoàn 2 Thiết Kỹ, Liên Ðoàn 6 Công Binh Chiến Ðấu. Pháo Binh, Lực lương Thám Sát, Biệt Kích, Lôi Hổ.. tán mạng.. Ðau đớn như vậy, thế nhưng suốt 13 ngày đoàn quân di tản, cho tới lúc số sống sót về được Tuy Hòa, Nha Trang. Trong lúc đó, các tướng lãnh Cao Văn Viên (TTMT), Lê Nguyên Khang và Ðồng văn Khuyên được coi là ba tướng lãnh có quyền uy cao nhất lúc đó, cũng không hề rời Sài Gòn, đi máy bay ra Tuy Hòa hay Nha Trang.. thăm viếng, ủy lạo các nạn nhân mới từ địa ngục về. Ðó là sự thật của lịch sử.

            Trong nổi buôn ly xứ dường như trong tôi luôn ‘ Còn Một Chút Gì Ðể Nhớ ‘ như nhà thơ Vũ Hữu Ðịnh đã nhớ về Pleiku thời binh lửa năm nào :

‘ phố núi cao phố núi đầy sương
phố núi cây xanh trới thấp thật buồn
anh khách lạ đi lên đi xuống
may mà có em đời còn dễ thương .’


California tháng 8-2008
NGÔ TRÚC KHÁNH
Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân
Phạm Tín An Ninh

Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư ở Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng giá, nhưng lại rất đẹp vào những ngày hè và lãng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy lòng mình trăn trở. Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong “Rừng Na-Uy”, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mãnh lực quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm cho tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời.
Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung Học, cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo tôi sau những buổi tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng sinh viên sĩ quan Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh. Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp từ thời còn ở trường Võ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạn, cũng chẳng có điều gì trắc trở. Ông xã tôi là lính biệt động quân. Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giày saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa mới trải qua khói lửa Mậu Thân.
Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi tôi phải sống một mình. Chỉ những khi nào tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.
Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa con trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là Cao Nguyên, Lê Cao Nguyên. Anh về phép thăm con khi cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to, sóng mũi cao, và đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một “lỗ tai nhỏ” như ba nó.
Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh trong quân y viện. Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc. Cuối năm 1973, trong một lần VC pháo kích vào trại gia binh làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở. Năm sau, khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và yêu nhau.
Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân. Pleiku đúng là một thành phố lính. Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ để chờ chồng trở về sau những cuộc hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong quân y viện. Với họ thì đúng là “may còn có anh đời còn dễ thương”. Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa phụ!
Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc, một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, chồng tôi hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang theo những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.
Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi không một tiếng giã từ. Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chũng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi và bạn bè nói là một số đơn vị Biệt Động Quân được chỉ định đi sau, ngăn chận địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di tản! Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành quân triệt thoái.
Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào lúc trời sắp tối. Vừa dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp nơi. Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. Địch đã bao vây. Các đơn vị biệt động quân chống trả kiên cường, nhưng địch quá đông, và bên ta thì vừa quân vừa dân chen chúc nhau hỗn độn. Trong lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất hạnh: Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn. Đoàn xe vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đền gần Phú Túc thì lại bị địch tấn công từ khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và rất nhiều người chết hoặc bị thương. Cả đoàn xe không nhúc nhích được. Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về Củng Sơn. Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ con. Tôi dắt theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương. Chúng tôi lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con sông nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt quá, tôi ngủ vùi một giấc, thức dậy thì trời vừa sáng. Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng cái võng nilong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp. Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương, mình đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự sống. Hình như họ không còn mang theo bất cứ thứ gì. Nhìn nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng. Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn bè trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự phát hiện của địch. Vừa rời đoàn người vài phút thì đạn pháo thi nhau rót xuống. Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi cũng đã có một số người chết. Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường sống. Gia đình tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi không nghe tiếng súng. Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn dùng để mong cứu được vợ con mình. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan rã. Đồng đội kẻ chết người bị thương. Có thể một số đã bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng được số mệnh bi thảm của những người lính biệt động một thời oanh liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức tưởi! Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ ông tướng tư lệnh Quân Đoàn: “Đạp lên mà đi!” Trong cả đời binh nghiệp, chắc những người lính không còn nhận cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa!
Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi. Thầy trò chưa kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ. Địch quân phía trước mặt. Trở lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông vào trận mạc. Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt. Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi tiếp. Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật rợn người. Tôi hình dung đến cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Tội nghiệp cho những người lính trung thành. Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ, nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm. Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được. Chồng tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên môi, trên tóc. Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu thương, nhưng có lẽ anh đang tội nghiệp cho một người con gái đã trót chọn chồng là lính chiến. Và không ngờ đó lại là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi. Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch. Cũng là lần cuối cùng tôi chứng kiến những người lính biệt động can trường. Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch mà đánh, tiếng thét “Biệt Động Quân Sát” vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ, tôi đoán lực lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đã vậy anh còn phải dìu theo một người lính bị thương khác.Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút ấy. Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả những khi lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có đủ che chắn hình hài bé nhỏ của con tôi. Hình ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi đã đọc.
Tiếp tục di chuyển chừng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn, chúng tôi lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo tât cả chúng tôi nằm rạp xuống. Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường mòn, chạy về hướng rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn. Khi đến bìa rừng, tôi bàng hoàng nhìn thấy mấy người lính biệt động quân nằm chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng. Sau này tôi được biết những người lính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc. Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nữa thì chúng tôi bị một đám khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí. Tất cả chúng tôi bị lùa vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước họng súng sẳn sàng nhả đạn của kẻ thù. Tôi cố ý tìm xem, nhưng không thấy chồng tôi trong số người bị bắt. Lòng tôi lo âu vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im, chỉ còn tiếng quát tháo với cái giọng rất khó nghe của đám người thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa).
Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn. Chị giúp việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc.
Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng vừa lọt vào tay giặc. Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa. Tôi không đủ can đảm mang tin buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang mất tích. Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà săn sóc. Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này. Nằm nhà hơn một tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi xin được trở lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của chồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7..
Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương người con vương vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ lấp vội bên đường. Cả một vùng xông mùi tử khí. Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến đó, trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản, mới được cho vào trại. Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ một sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi được gặp anh đại đội phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm người Thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm. Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số ngôi mộ vô danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng.
Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích tôn của ông bà. Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.
Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao Nguyên. Tôi đã dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyên vào thân cây.Và lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vương vãi do bom đạn hôm nào, tạo thành một thứ âm thanh não nùng, xé ruột.
Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương và một đứa em trai của tôi được đi cùng với gia đình chồng. Tôi cũng xin được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đã về quê trên vùng Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.
Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng cháu về lại Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình. Chúng tôi đến đây đúng vào giữa mùa Xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai.
Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành Quốc Lộ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi. Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương, còn có cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không còn gì dấu vết của chiến tranh. Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn “cải biên” thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng nghèo nàn được mang tên “thị xã”. Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây mù, lòng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban quân nhạc trổi khúc quân hành. Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.
Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin xăm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xăm tôi bốc trúng lại là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:
Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây
Rõ ràng hoa rụng hương bay
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi
Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường hơp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô hạn. Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia cầm với giá rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi. Khi còn sống anh thích ăn gà luộc. Bà còn cho biết thêm dân chúng ở vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M’dhur. Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới hơn 20 cây số.
Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói gì. Chợ phiên nhóm rất sớm.
Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về nguồn gốc của người Thượng, chúng tôi đến một quày gà. Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng. Người chủ là một anh đàn ông Thượng vừa đen vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi.. Khi anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo có hình dáng đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi, bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh ở Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng binh chủng Biệt Động Quân mà chồng tôi luôn mang trên vai áo. Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta. Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sóng mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc màu nâu sậm như màu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày trước. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại. Nhưng tôi kịp nhớ ra trên vành tai của Cao Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người Thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt trào ra. Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra rồi nói một tràng tiếng Thượng. Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì. Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi bảo cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước. Tôi kéo chị ra xa, nói vào tai chị:
- Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?
Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình:
- Thằng Nguyên? Chẳng lẽ là thằng cu Nguyên?
Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:
- Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?
Anh người Thượng lắc đầu:
- Tao là thằng Ksor Tlang,
Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và đưa cho anh một nắm tiền. Sau khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nữa, rồi buột miệng:
- Mày bắt cái con gà nhiều tiền quá!
Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người tai mắt ở đây, nhưng là một người tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút, hai gã công an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa kịp nói gì, bà chủ kéo tay hai gã công an ra chợ. Vừa đi bà vừa giải thích. Đến nơi, gã công an nói một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng hai người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại. Chúng tôi đi theo phía sau trở về phòng trọ.
Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại các điều trao đổi giữa tôi với anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.
- Em có cha mẹ không? Tên ông bà là gì?
- Tôi có cha mẹ . Cha tôi tên Ksor H’lum, mẹ tôi tên H’Nu.
- Có anh em không?
- Không.
- Anh có nhớ ngày sinh không?
- Không
(Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ tìm khai sinh sau)
- Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không?
- Không! Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.
- Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?

(Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)
- Không! Chắc là bị cành cây đâm trúng.
Tôi thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi:
- Cha mẹ anh đang ở đâu?
- Buôn Ban Ma Dek.
(Gã công an nhìn tôi, bảo Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)
- Anh ở chung với cha mẹ anh?
- Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.
- Đã có vợ con rồi à! Tôi buột miệng.
Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu. Nhưng bảo là chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi hộ chúng tôi bảy cái xe ôm.
Cha mẹ của anh bán gà đã khá già, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của gã công an người Thượng. Vợ và hai con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn.
Ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự thực:
- Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lếch vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.
- Rồi xác người lính ấy ở đâu? Tôi hỏi.
Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:
- Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.
Chúng tôi theo hai người công an dìu ông già đi về phía khu rừng.
Tôi khóc ngất khi nhìn thấy nấm mồ thấp lè tè nằm dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng quỳ xuống ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi. Nó đang đứng bất động, hai tay nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.
Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông già mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksor Tlang và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà già, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp tiền bạc cho ông bà sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông già một mực chối từ, bảo là họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi là nhà của họ. Họ không thể sống xa rừng cũng như loài cá không thể sống mà không có nước.
Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi. Ban đầu tôi dự định xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng trong nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng và chắc không biết gì về anh. Và có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao nhiêu đồng đội, một thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảng phất ở quanh đây. Tôi mướn thợ xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp chung với tôi cùng hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo.
Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó đã vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một số quần áo mới. Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. Bằng đúng số tiền mà tôi đã trả công cho hai gã công an!
Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà sàn mới. Buổi chiều, tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước mộ ba nó. Nó quỳ bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình.Tôi nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày chỉ vừa lên bốn tuổi.
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh Lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa, mà tất cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau, trùng điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió. Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng khóc của cây?
Phạm Tín An Ninh
(phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ)
14/01/2010 

Lên trang viet-studies ngày 19-1-10

Tổng thống Thiệu triệt thoái quân đoàn hai .


Gần đây trong một cuộc tiếp xúc riêng với cựu Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2, Đại tá cho tôi biết đã có rất nhiều người hỏi ông:

“Có phải TT Thiệu rút bỏ Quân đoàn 2 tại Pleiku giữa tháng 3-1975, giả vờ thua chạy để tháu cáy Mỹ, khiến cho Mỹ sót ruột phải nhẩy vào?”

Cách đây khoảng nửa năm, trong một lần tiếp xúc khác Đại tá có nói ông nghi ngờ TT Thiệu rút bỏ Cao nguyên để tháu cáy Mỹ nhưng thất bại và ông có gợi ý tôi viết về chủ đề này.

Đại Tá Lê Khắc Lý nói ông đã tốt nghiệp Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng khóa 4 năm 1972 và đã đi học ở Mỹ nhiều lần, lớp học cao nhất là “Trường Ðại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Lục Quân Hoa Kỳ” tại Fort Leavenworth, Kansas (US Army Command and General Staff College). Chính tại trường Chỉ Huy và Tham Mưu Command and General Staff College này, ông đã học nguyên tắc chiến thuật (tactical) căn bản ngoài chiến trường là luôn luôn chiếm giữ “high ground” (vùng cao) để chế ngự các vùng đất chung quanh. Nhưng khi giảng, “thầy” cũng có nói nguyên tắc này cũng áp dụng cho “chiến lược” (strategy) nữa. Trong trường hợp Quân đoàn 2 của ta hồi 1975, ông nghĩ là đúng với nguyên tắc này. Ông cho rằng quyết định bỏ cao nguyên của ông Thiệu là sai lầm. Rôi từ vùng đất thấp là vùng duyên hải sẽ đánh ngược lên để gọi là “tái chiếm Ban Mê Thuột” là chuyện quá khó nếu không nói là “không tưởng.
Tóm lại TT Thiệu đã sai lầm về chiến thuật chiến lược khi ban lệnh lui binh xuống đồng bằng duyên hải để từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột.

Trên thực tế nhiều người cũng đã nghi ngờ ông Thiệu tháu cáy Mỹ cho rút bỏ Cao nguyên. Khoảng năm 1975,1976 khi chúng tôi ở trong trại tù CS, có một anh bạn tù tin rằng ông Thiệu giả vờ thua chạy đưa tới sụp đổ, thua luôn cuộc chiến.

Sơ lược tái phối trí

Trước hết tôi xin sơ lược về cuộc triệt thoái lịch sử này, dựa theo tài liệu, lời kể của ký giả Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương, các vị Tướng lãnh Cao Văn Viên, Hoàng Lạc, có tham khảo thêm tài liệu phía Cộng Sản. Như chúng ta đều biết, cuộc lui binh này đã bị thất bại nặng, nó là khúc quành quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh VN giai đọan cuối. Người ta kết án TT Thiệu đã làm sụp đổ cả hai Quân khu 1 và 2, kế đó sụp đổ miền nam.

Sau ngày Ký Hiệp định Paris 27-1-1973, Quốc hội cắt giảm quân viện mỗi năm khoảng 50% khiến cho miền nam VN lâm vào tình trạng thiếu thốn trầm trọng về hỏa lực, tiếp liệu đạn dược.

Ngày 11-3-1975, Tổng thống Thiệu bàn luận tình hình với Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang. Ông Thiệu cho biết với khả năng hiện có Quân đội VNCH không thể bảo vệ tất cả lãnh thổ, nên phải tái phối trí lực lượng để bảo vệ những vùng đông dân trù phú, quan trọng nhất là Vùng 3 và Vùng 4. Ông Thiệu không lạc quan về Vùng 1 và Vùng 2. Tại vùng 2, Ban Mê Thuột quan trọng sẽ phải chiếm lại, miền duyên hải Vùng 2 giữ được phần nào hay phần nấy.

Ngày 12-3-1975 ngân khoản 300 triệu quân viện bổ túc đã bị Quốc hội Mỹ bác bỏ, ngoài ra họ cũng không chuẩn chi cho năm tới, nghĩa là từ náy sẽ không cho một xu viện trợ nào. Tin sét đánh đã khiến TT Thiệu bị mất tinh thần khiến ông quả quyết tái phối trí.

Ngày 13-3-1975 mất Ban Mê Thuột, hôm sau ông Thiệu bay ra Cam Ranh mở phiên họp cao cấp quân sự, có mặt các Tướng Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Cao Văn Viên, Phạm Văn Phú, Tư lệnh vùng 2 . Phạm Huấn ghi lại theo lời kể của Tướng Phú: Tổng thống Thiệu cho biết Quốc hội Mỹ cắt quân viện, hủy bỏ những cam kết yểm trợ không lực, lãnh thổ phòng thủ quá rộng nên ta phải tái phối trí lực lượng. Ông cho biết Tướng Phú Tư lệnh Quân đoàn 2 phải rút quân bỏ Pleiku-Kontum về duyên hải, Nha Trang sau đó sẽ hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Tại Quân khu 2, VNCH chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh (22, 23) và 7 liên đoàn Biệt động quân trong khi BV có 5 sư đoàn bộ binh và 4 trung đoàn độc lập ( theo tài liệu CS)

Tướng Phú xin ở lại tử thủ nhưng Tổng thống Thiệu bác bỏ, ông còn cho biết Tướng Phú phải dấu không được cho địa phương, các Tỉnh trưởng Quận trưởng biết, họ phải ở lại chiến đấu. Các vị Tướng lãnh không có ai phản đối trừ Tướng Phú xin ở lại tử thủ. Về buổi họp này Tướng BV Văn Tiến Dũng ghi lời khai của Chuẩn tướng Phạm duy Tất cũng gần giống như vậy, ông Cao Văn Viên cũng ghi lại chi tiết buổi họp cũng gần giống như lời Phạm Huấn.

Trong buổi thảo luận ông Cao Văn Viên cho biết đường quốc lộ 21 về Nha Trang không thể sử dụng được vì đường 14 từ Pleiku tới Ban Mê Thuột đã bị BV cắt, đường 19 nối Pleiku với Qui nhơn Cộng quân đóng chốt nhiều nơi, đèo An Khê bị cắt ở hai phía đông tây, ngoài đường số 7 xuống Tuy Hòa không còn đường nào khác. Đường số 7 tuy tạo được yếu tố bất ngờ nhưng là con đường bỏ hoang cầu cống hư hỏng.
Kế hoạch được hợp thức hoá và giữ bí mật cho tới giờ phút chót. Kế hoạch của Tướng Phú là Liên đoàn 20 công binh chiến đấu đi trước mở đường , thiết giáp đi theo các đoàn xe để bảo vệ, hai liên đoàn Biệt động quân và thiết giáp đi bọc hậu đoàn quân di tản.

Ngày 16-3-1975 đoàn xe bắt đầu rời Pleiku gồm các đơn vị quân cụ, đạn dược, pháo binh, khoảng 200 xe. Tướng Phú và bộ tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc cuộc di tản, mỗi ngày một đoàn xe khoảng 200 hay 250 chiếc, ngày đầu êm xuôi vì bất ngờ.

Ngày hôm sau 17-3-1975 các đơn vị pháo binh còn lại, công binh, quân y, tổng cộng chừng 250 xe. Khi ấy dân chúng, gia đình binh sĩ chạy ùa theo, làm náo loạn gây trở ngại cho cuộc triệt thoái.

Ngày 18-3 Bộ chỉ huy và ban tham mưu Quân đoàn về tới Hậu Bổn, Phú Bổn, các đoàn xe từ ba ngày trước kẹt lại đây, đoạn đường từ Hậu Bổn về Tuy Hoà chưa giao thông được vì công binh chưa làm xong cầu qua sông Ae Pha. Tối ấy Việt Cộng đuổi theo pháo kích dữ dội gây thiệt hại hầu hết chiến xa và trọng pháo tại đây. Sư đoàn 320 BV đóng tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột được lệnh đuổi theo đoàn xe triệt thoái từ 16-3 đến 18-3-1975 vào Phú Bổn rồi tiếp tục đánh phá tới Củng Sơn. Ngày 19-3 một số lính địa phương quân người Thượng cướp giựt và bỏ hàng ngũ trốn đi gây thêm hỗn loạn. Các liên đoàn Biệt động quân, thiết giáp, bộ binh bị thiệt hại nặng, BV cũng xử dụng các chiến xa đại bác của ta bị bỏ lại để tấn công đoàn triệt thoái.

Đoàn quân rời Hậu Bổn ngày 20-3 nhưng chỉ đi được 20 km thì phải đi chậm lại vì Phú Túc phía trước bị VC chiếm, đoàn quân di tản vừa chống trả vừa tiến. Không quân đến yểm trợ nhưng ném bom nhầm vào đoàn quân gây tử thương gần một tiểu đoàn BĐQ, thiệt hại này lại càng gây thêm rối loạn. Tại Phú túc hỗn loạn diễn ra dữ dội. BV đóng chốt, một tiểu đoàn Địa phương quân và Biệt động quân được giao nhiệm vụ nhổ chốt. Khi đến Củng Sơn cách Tuy Hoà 65 km đoàn di tản phải băng qua sông Ba. Trực thăng CH-47 chở từng đoạn cầu lên sông Ba để ráp, ngày 22-3 cầu ráp xong đoàn di tản qua sông theo hương lộ 436 về Tuy Hoà, vì xe cộ quá đông cầu bị sập chết nhiều người phải sửa chữa thêm lần nữa.

Chặng đường cuối cùng từ đây về Tuy Hoà rất cam go vì có nhiều chốt VC, trời mưa lạnh, VC pháo kích đoàn di tản để cầm chân ta. Tiểu khu Tuy Hoà không còn quân để tiếp viện nên đoàn quân di tản phải tự lo lấy, các binh sĩ tiểu đoàn 34, Liên đoàn 7 BĐQ lều mạng lên tấn công các cứ điểm CS cùng với chiến xa M-113 tiêu diệt chốt địch. Ngày 27-3 sau khi thanh toán chốt cuối cùng đoàn di tản về tới Tuy Hoà buổi tối tổng cộng 300 xe (trong số 1,200 xe) mở đường máu về được Tuy Hoà,
Đường rút quân tỉnh lộ 7 lại gần vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 BV tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột, họ được lệnh đuổi theo ngày 16-3, chỉ hai ngày là đã đuổi kịp. Ngày 18-3 Cộng quân pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn di tản. Lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú bổn bị thiệt hại nặng tới 70%.

Các kho quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí trị giá 253 triệu Mỹ Kim lọt vào tay CS. Sự thiệt hại về tinh thần còn to tát hơn nhiều.
Theo Nguyễn Đức Phương trong số 60,000 chủ lực quân chỉ có 20,000 tới được Tuy Hoà, 5 Liên đoàn BĐQ 7,000 người chỉ còn 900 người. Lữ đoàn 2 Thiết Kỵ với trên 100 xe tăng nay chỉ còn 13 chiếc M-113.

Ông Cao Văn Viên nói ít nhất 75% lực lượng, khả năng tác chiến của Quân đoàn 2 gồm Sư đoàn 23 BB, BĐQ, Thiết giáp, Pháo binh, Công binh… bị hủy hoại trong vòng có 10 ngày. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột không thể thực hiện được vì không còn quân.

Tái phối trí lực lượng có mục đích co cụm lại vì không đủ lực lượng trải rộng toàn lãnh thổ.

Những nguyên do thất bại chính của cuộc di tản có thể gồm:

-Di tản quá gấp rút, cả một quân đoàn quá đông đảo, đường xá bị tràn ngập xe cộ và người chạy loạn.

-Đường số 7 bị bỏ hoang, cầu cống hư hỏng khiến cho cuộc di tản bị ngừng trệ.

-Dân chúng di tản làm náo loạn mất tinh thần quân đội

-Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh vì quá gấp rút

Thực ra cuộc di tản thất bại nặng nề vì xui xẻo, đường di tản lại gần với vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 CSBV tại Buôn Hô. Tối 16-3 Văn Tiến Dũng đã điều động, đốc thúc đạo quân này đuổi theo, hai hôm sau họ bắt kịp đoàn di tản tại Phú Bổn và đã pháo kích gây thiệt hại nặng cho ta về thiết giáp, pháo binh. Sự thất bại chứng tỏ ta không có tin tình báo chính xác về vị trí các đơn vị Cộng quân.

Ngoài ra theo lời kể của một một nhân dân tự vệ cùng gia đình từ Kontum di tản trên đường số 7, anh thanh niên này cho biết Pleiku di tản trước nên phần nhiều dân quân đã chạy thoát khỏi cuộc truy kích của Cộng quân. Người dân Kontum ở phía bắc, cách Pleiku 40 cây số khi biết Pleiku di tản thì cũng ùa chạy theo, vì chạy sau họ bị VC đuổi kịp pháo kích dữ dội. Khi ấy đoàn xe dân quân dồn đống dưới một vùng đất trũng. Đạn pháo khiến bụi bay mù mịt, không ai thấy ai chỉ thấy tiếng đạn nổ ấm ầm ghê rợn, người chết vì pháo kích, người bị xe cán nằm la liệt. Theo lời nhân chứng này dân chết rất nhiều, lính chết ít vì họ lanh lợi hơn, biết tránh đạn, nạn nhân đa số là dân Kontum . Ký giả chiến trường Phạm Huấn mô tả đây là một hành lang máu.

Giả thuyết

Ngoài những nghi ngờ của Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 kể trên tôi xin góp ý thêm về giả thuyết này.

Như chúng ta đã thấy, ông Thiệu lệnh cho cả một đại đơn vị (60 ngàn người) hành quân từ Pleiku xuống Tuy Hòa phía đông , rồi từ Tuy Hòa xuống Nha Trang phía nam, rồi lại từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột ở phía tây. Chặng đường hành quân hình chữ U rất dài và tốn kém nhiên liệu trong khi ta đang kiệt quệ về tiếp liệu. Kế hoạch không logic lại viển vông cho thấy ông Thiệu có mục đích tháu cáy, giả vờ thua chạy hơn là mục đích quân sự. Việc tái chiếm Ban Mê Thuột theo kế hoạch của ông rất gay go và khó thực hiện trong khi ta đang thiếu thốn về mọi mặt.

Ngoài ra tôi nghĩ ông Thiệu rất chủ quan, ông vẫn tin người Mỹ không thể bỏ Đông Dương. Hạ tuần tháng 10-1972 Tiến sĩ Kissinger sang Sài Gòn thuyết trình cho ông Thiệu biết BV đã nhượng bộ những đòi hỏi chính mà họ đã dai dẳng đòi từ mấy năm qua: Không đòi lật đổ Thiệu, không có Liên Hiệp, Hội đồng hòa giải chỉ hữu danh vô thực… nhưng có điều họ không chịu rút về Bắc. Kissinger tưởng là ộng Thiệu sẽ đồng ý ký bản Dự thảo đã soạn chung với phía BV ngày 9-10-1972, dự định ký 25-10, trước bầu cử Mỹ (7-11-1972). Ông Thiệu chống đối bản dự thảo và chỉ trích Kissinger.Nixon khuyên Kissinger không nên ép Thiệu vì Nixon không muốn Hiệp định được ký trước bầu cử, qua thăm dò Nixon biết chắc sẽ tái đăc cử nhiệm kỳ hai.

Tháng sau 11-1972 và cả tháng 12 ông Thiệu mở chiến dịch trên báo chí đài phát thanh lên án Kissinger và cả Nixon ép VNCH ký bản Hiệp định bất bình đẳng, mục đích để vận động cánh tả, diều hâu bên Mỹ áp lực hành pháp không được ép VNCH . Theo TT Nixon (No More Vietnams trang 152), nếu đòi điều kiện BV rút quân sẽ không có Hiệp định, Hà Nội sẽ không chịu ký. Đó là một điều nguy hiểm, nếu VNCH gây trở ngại hòa bình thì Quốc hội thù nghịch sẽ ra tay giải quyết, họ sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ miền Nam, thực hiện rút hết quân để đánh đổi lấy tù binh Mỹ.

Người Mỹ coi việc lấy 580 người tù binh là quan trọng vào hàng đầu, dĩ nhiên đứng trên cả sự sống còn của Đông Dương, TT Nixon, Kissinger, Tướng Haig.. và các nhà học giả nghiên cứu về chiến tranh VN đều nói thế.

Cuối tháng 11, ông Thiệu quảng bá tin TT Nixon gửi hậu thư cho Thiệu bắt phải ký Hiệp định Paris mục đích vận động phe diều hâu bên Mỹ ủng hộ miền Nam VN.

“Sài Gòn như nghĩ rằng chuyện tối hậu thư sẽ khiến cánh hữu áp lực tòa Bạch Ốc không bỏ rơi một đồng minh đang bị CS bao vây đe dọa. Nhưng thực ra đó là sự đánh giá sai lầm lớn, câu chuyện không được chú ý tới”

(Saigon apparently assumed that an “ultimatum” story would encourage America’s right wing to apply pressure on the White House not to abandon a beleaguered ally threatened by Communism. It turned out to be a gross and embarrassing overestimation. The Story caused barely a ripple – Marvin Kalb, Bernard Kalb, Kissinger- p. 405).

Từ TT Nixon tới Kissinger, Tướng Haig tới Đại Sứ Bunker đều nhắc nhở cho ông Thiệu biết đừng hy vọng gì vào sự ủng hộ tại chính trường Mỹ, nay diều hâu đã đổi lông đổi cánh biến thành bồ cu hết, Quốc hội thù nghịch chỉ tìm cách xiết cổ Đông Dương. Tại nước Mỹ nay số người còn ủng hộ chiến tranh Đông Dương chỉ còn đếm trên đầu ngón tay trước hết TT Nixon, Kissinger, Tướng Haig và một số phụ tá của Tổng thống và của Kissinger. Người dân và Quốc hội đã quá chán ngấy cuộc chiến sa lầy đến tận cổ. Mặc dù hành pháp Mỹ nhắc nhở TT Thiệu nhưng ông vẫn không tin, ông vẫn chủ quan cho rằng Mỹ không dám bỏ miền Nam, nơi đây vẫn là tiền đồn chống Cộng.

Vì quá chủ quan nên tháng 3-1975 ông đã sai lầm tháu cáy giả vờ thua chạy để Mỹ xót ruột nhẩy vào.

Trên đây chỉ là những giả thuyết về việc Tổng thống Thiệu tháu cáy người bạn đồng minh.

Kết Luận

Tuy nhiên không có nghĩa là TT Thiệu tháu cáy sai lầm làm sụp đổ Quân đoàn 2 đưa tới sụp đổ miền Nam. Thực ra sự sai lầm của ông chỉ làm cho miền Nam sụp đổ nhanh hơn dự kiến. Nếu TT Thiệu không thực hiện tái phối trí và để Tướng Phú tử thủ tại Pleiku, chính ông Tướng này đã nói nếu được tiếp viện có thể giữ được một tháng nhưng đó chỉ là hy vọng chủ quan trong khi đạn dược tiếp liệu miền Nam đang lâm vào tình trạng kiệt quệ. Sự sụp đổ cả hai Quân đoàn 1, 2 và cả miền Nam tháng 4-1975, một phần vì sự sai lầm của TT Thiệu và nhất là do hỏa lực yếu kém của ta trước áp lực mạnh, đông đảo của đối phương. Người ta thường nói vì ông Thiệu sai lầm triệt thoái Cao nguyên mà mất nước hoặc nói vì ông Dương Văn Minh đầu hàng CS mà mất miền Nam, vấn đề không đơn giản như thế.

Xin nói sơ về thực trạng bi đát này do hậu quả của việc Hoa kỳ cắt giảm quân viện năm 1974, 75.

-Trước hết trang 92 Cuốn Những Ngày Cuối của VNCH, ông Cao Văn Viên cho biết trong tháng 2-1975 tồn kho đạn dược của tất cả các loại súng lớn, súng nhỏ chỉ còn đủ xài 30 ngày.

-Trước đó hai tháng sau khi Cộng quân chiếm Phước Long ngày 7-1-1975, vài tuần sau vào ngày 24 và 25-1-1975, TT Thiệu gửi thư cầu cứu TT Ford về tình trạng nguy khốn của VNCH. Bức thư này được Tiến sĩ Kissinger nói tới trong Years of Renewal trang 490 như sau.

“Ông Thiệu diễn tả cuộc tấn công này của địch rất qui mô hùng hậu bằng hỏa lực mạnh và thiết giáp. Trái lại quân đội miền nam VN đã phải đếm từng viên đạn pháo để tiết kiệm để còn đạn sử dụng”

(He described the intensity of the North Vietnamese attacks, backed by the “massive application of fire power and armor”. By contrast, the South Vietnamese troops “had to count every single shell they fired in order to make the ammunition last)”.

-Theo Kissinger tháng 1-1975 báo Học tập cùa CS viết về tình trạng khó khăn của VNCH.

“Hỏa lực và sự di động của quân Ngụy giảm mạnh trong quí ba 1974, hỏa lực pháo binh hàng tháng của quân Ngụy giảm ba phần tư (3/4) so với 1973. Số phi vụ chiến thuật hàng ngày của Ngụy giảm chỉ còn một phần năm (1/5) so với năm 1972. Số máy bay Ngụy so với thời ký chiến tranh trước đây giảm 70%, trực thăng giảm 80%…Kho bom đạn Ngụy giảm mạnh và gặp nhiều khó khăn về tiếp liệu, bảo trì, sửa chữa các loại máy bay, xe tăng, tầu thuyền, vũ khí nặng…
Years of Renewal trang 480

Nhận xét của CS về sự thiếu thốn của quân đội miền Nam cũng gần với các dữ kiện trong cuốn NNCVNCH kể trên của ông Cao Văn Viên trang 86. 87. Từ trang 89 tới trang 94 tác giả đề cập vấn đề đạn dược tiếp liệu, từ tháng 8-1974 tới tháng 2-1975 quân đội ta chỉ xử dụng 19,808 tấn đạn hàng tháng chỉ bằng 27% so với 73,356 tấn dùng hàng tháng trong thời gian trước đó, nghĩa là hỏa lực đã giảm 70%!
Trong khi ấy Hà Nội được CS quốc tế viện trợ dồi dào.

Giai đoạn 1969-1972 họ được Nga, Trung Cộng và các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ 684,666 tấn vũ khí. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.(Bản tin của BBC.com ngày 5-10-2006).

Theo Kissinger, Hà nội đã xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn
(Years of Renewal trang 481).

Quân khu 2 diện tích rộng nhất toàn quốc gồm 12 tỉnh chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh và 7 Liên đoàn biệt động quân bảo vệ là nơi yếu nhất so với các Quân khu khác nên CS đã chọn để tấn công trước. Sư đoàn 23 chịu trách nhiệm cao nguyên, Sư đoàn 22 bảo vệ vùng duyên hải.

Lực lượng BV tại đây gồm 5 Sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 Trung đoàn độc lập (25, 271, 95A, 95B), Trung đoàn đặc công (14, 27), chưa kể các lực lương yểm trợ. Tổng cộng khoảng 6 Sư đoàn bộ binh.

(Theo Dương Đình Lập, Trần Minh Cao, Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, trang 90, 91.)

Như vậy dù ông Thiệu không rút bỏ Cao nguyên và giao cho Tướng Phú tử thủ thì cũng chỉ giữ được một thời gian nào đó, có lẽ không quá một tháng vì như đã nói trên miền Nam đã bị kiệt quệ đạn dược tiếp liệu trước áp lực mạnh và hỏa lực áp đảo của địch.

Tướng Phú nói một câu rất anh hùng, ông xin TT cho ông ở lại giữ đất chiến đấu và chết tại đó, nhưng dù ông có chết tại trận địa cũng không cứu được Quân khu, không cứu được miền Nam mà chỉ kéo dài sự dẫy chết thêm hơn một chút.

Trường hợp Tướng Phú đẩy lui được cuộc tấn công của địch tại Pleiku, Kontum…, sau đó ta lâm vào tình trạng hết đạn VNCH cũng sẽ phải xin viện trợ khấn cấp. Thực tế cho thấy hạ tuần tháng 4-1975, Quốc hội Mỹ đã bác bỏ tất cả các khoản viện trợ cho chiến tranh VN. Đảng Dân chủ đã thắng lớn trong cuộc bầu cử Hạ viện tháng 11-1974, họ chiếm 66.9% Hạ viện, gồm nhiều người mới chủ trương chống chiến tranh tới cùng và bác bỏ tất cả mọi ngân khoản quân viện cho Đông Dương. Trên thực tế tại chính trường Mỹ năm 1975 số người ủng hộ chiến tranh VN chỉ còn vài người: Tướng Weyand, Kissinger và TT Ford. Ngay tại nội bộ Hành pháp, các cố vấn, phụ tá của Tổng thống cũng đã căn ngăn ông đừng can thiệp vào cuộc chiến sa lầy. Quốc hội thù nghịch như ta đã biết thái độ của họ rõ ràng là “Sống chết mặc bay”.

Cựu Đại Tướng Cao văn Viên cho biết

“Nghĩ lại việc đã qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác giả tin miền nam có nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là nguyên nhân trực tiếp của kế hoạch tái phố trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội của chúng ta không tan rã nhanh như vậy. Chúng ta có thể mất đi một phần của sư đoàn 23 BB nhưng tất cả những đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn. Dù lấy được ban Mê Thuột Cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở vùng II. Vùng II vẫn còn Sư đoàn 22BB, cộng thêm với một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh và hai sư đoàn không quân. Vùng II có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến hết mùa khô. Không có kế hoạch tái phối trí, tác giả không nghĩ Cộng Sản có thể thành công, đánh nhanh và chiếm được nhiều đất như họ đã làm ở vùng I. Tình hình quân sự nhân lực của VNCH vẫn gặp những khó khăn dai dẳng như trước khi có quyết định tái phối trí: thiếu thốn về quận viện; không còn nhân lực để lập thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng ít ra quân đội VNCH sẽ không tan rã nhanh chóng như khi quyết định tái phối trí được thực hiện”.
Những Ngày Cuối của VNCH, trang 134

Theo ông Cao Văn Viên sau khi mất Ban Mê Thuột ngày 13-3-1975 lực lượng VNCH tại Quân khu 2 còn tương đối đầy đủ, nếu TT Thiệu không cho rút khỏi Pleiku, Kontum miền Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn. Sự thực thì chẳng có cơ hội nào cả vì cuộc bầu cử Hạ viện Mỹ thượng tuần tháng 11-1974 đã là bản án tử hình cho cả Đông Dương. Đảng Dân chủ phản chiến đã chiếm đại đa số tại Hạ viện 66.9%, họ nắm giữ túi tiền, họ nắm giữ sinh mạng của cả Đông Dương. Hạ viện đã hai lần trả lời miền Nam xin viện trợ bổ túc tháng 3-1975 và viện trợ khẩn cấp tháng 4-1975 một cách thẳng thừng “Sống chết mặc bay”.

Tôi xin ngược dòng thời gian một chút để vấn đề được sáng tỏ hơn. TT Nixon thắng cử nhiệm kỳ hai tháng 11-1972 với 60% số phiếu bầu, hơn đối thủ McGovern 18 triệu phiếu phổ thông, 530 phiếu cử tri đoàn. Người ta ủng hộ ông vì ông sắp mang lại hòa bình, nhưng họ chống lại ông vì ông còn tiếp tục ủng hộ cuộc chiến VN. Từ sau Hiệp định Paris đảng đối lập và phản chiến tiếp tục chống Nixon. Sự thực ngay từ sau trận Mậu thân khi số người ủng hộ cuộc chiến tụt thang nhanh chóng, số chống chiến tranh lên cao, khi ấy số phận Đông Dương đã bắt đầu ngắc ngoải. Sang năm 1969 khi Nixon lên nhậm chức Tổng thống phong trào phản chiến càng dữ dội hơn trước. Từ 1969, 70..biểu tình tiến tới giai đoạn bạo động, đổ máu, sinh viên bắn cảnh sát, bắn súng đốt nhà, đập cửa kính, ném bom lớp học (No more Vietnams, trang 126-127). Họ chán ngấy cuộc chiến tranh Đông Dương.

Đứng trước sự chống đối ngày càng mạnh của phong trào phản chiến, họ đòi phải ra khỏi cuộc chiến Đông Dương ngay. TT Nixon và Kissinger, người phụ tá cố tìm lối thoát, mở cuộc tấn công qua biên giới Mên, Lào…rút quân về nước để xoa dịu sự chống đối. Nhưng thực ra tình trạng ngày càng bi đát, mọi cố gắng của Nixon và Kissinger cũng chỉ là giải pháp tạm thời, vá víu, nói khác đi chỉ giúp cho Đông Dương và miền Nam sống thêm ngày nào hay ngày nấy.

Sự ngoan cố của Hà nội đã khiến hòa đàm Paris kéo dài tới bốn năm. Mặc dù Nixon đã dội 20 ngàn tấn bom lên Hà Nội, Hải phòng cuối năm 1972 nhưng ông vẫn phải nhượng bộ BV để cho họ được ở lại miền Nam vì bị Quốc hội thúc ép phải ký. Lập pháp luôn hăm dọa ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ VNCH để đánh đổi lấy tù binh Mỹ. Trước khi ký Hiệp định, các Trưởng ban tại Quốc hội hứa hẹn tiếp tục viện trợ nhưng ký xong, họ trở mặt cắt giảm viện trợ dần dần và trói tay hành pháp. Tháng 6-1973 Quốc hội ra luật cắt bỏ mọi ngân khoản cho việc oanh tạc cũng như mọi hoạt động quân sự khác tại Đông Dương, có hiệu lực từ 15-8-1973. Họ còn đi xa hơn thế, ngày 7-11-1973 ra luật War Power Act hạn chế quyền Tổng thống, trước khi gửi quân ra ngoại quốc tham chiến, TT phải hỏi Quốc hội.

Trói tay hành pháp bằng các luật mới như trên chưa đủ, người ta sợ Nixon sẽ làm liều, làm ẩu cho ném bom B-52 khi BV vi phạm Hiệp định. Quốc hội thù nghịch và phong trào chống đối tìm cách loại bỏ Nixon vì ông vẫn là trở ngại hòa bình. Mặc dù đã ký Hiệp định ngưng bắn nhưng họ thừa biết Nixon và Kissinger vẫn tiếp tục chiến tranh dưới hình thức cưỡng bách thi hành Hiệp định (to enforce the agreement), trừng trị mọi vi phạm của CS bằng B-52, hai người đã lên kế hoạch nghiền nát BV. Khi Nixon đã mang lại hòa bình, họ chống đối hành pháp mạnh hơn trước, hết chống chiến tranh họ quay ra vụ Watergate từ tháng 4-1973, cho tới ngày 8-8-1974 Nixon phải từ chức. Vài tháng sau, 7-11-1974, họ hả hê kéo nhau vào Hạ Viện, Dân chủ phản chiến từ 242 ghế (55.6%) năm 1972 tăng lên 291ghế (66.9%) năm 1974, Cộng hòa giảm từ 192 ghế (44.2%) năm 1972 xuống còn 144 ghế (33.1%) năm 1974.

Nay những người Dân chủ mới, kiên quyết chống chiến tranh Đông Dương đã vào Hạ Viện, số phận của ba nước Việt Miên Lào đã được quyết định rồi. Họ chống bất cứ khoản viện trợ nào cho cuộc chiến sa lầy. Tháng 3-1975, và tháng 4-1975, hai khoản viện trợ Bổ túc 300 triệu và viện trợ Khẩn cấp 722 triệu của VNCH đã bị bác bỏ không thương tiếc.

Trở lại vấn đề đang bàn trên đây, dù TT Thiệu cho rút khỏi Cao nguyên hay không cũng không tránh khỏi sự sụp đổ sau cùng, không bao giờ miền Nam VN còn hy vọng được Hoa Kỳ cấp viện trợ để tiếp tục chống xâm lăng. Ngay cả TT Nixon cũng không thể quay ngược bánh xe lịch sử, người Mỹ đã quá ghê tởm cuộc chiến tranh bẩn thỉu của Hà Nội.

Tác giả Walter Isaacson trong Kissinger, A Biography trang 487có nói

“Một khi người Mỹ đã tìm được con đường ra khỏi Việt Nam, cả Quốc hội lẫn người dân đều đã không muốn can thiệp trở lại, dù có hay không vụ Watergate. . .
. . . Bất kể có hay không có vụ Watergate, người Mỹ không còn muốn dính dáng gì với Việt Nam”

(Once America had found a way to disengage from Vietnam, neither the Congress nor public would have permitted a reengagement, with or without Watergate. . .
. . . Irrespective of Watergate, Americans wanted nothing more to do with Vietnam).

© Trọng Đạt
Triệt Thoái Cao Nguyên 1975
Cuộc Hành Quân Phá Sản

        Một ngày trước khi tướng Phú tuyên bố Ban Mê Thuột thất thủ, hôm 12-3 -1975 Hạ Viện Mỹ biểu quyết cắt 300 triệu Mỹ kim quân viện bổ túc cho Việt Nam Cộng Hòa do Tổng Thống Ford đệ trình Quốc Hội, Ðại sứ Mỹ Martin cũng thông báo cho Tổng thống Thiệu biết quân viện năm tới từ tháng 6 sẽ không được chuẩn chi, như thế Quân đội Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn đủ đạn dược để đánh trận trong vòng 3, hoặc 4 tháng.

        Tại Pleiku Liên đoàn 4 Biệt động quân chưa thể giải tỏa được quốc lộ 19, Sư  đoàn 22 BB tại gần Qui nhơn chiến đấu dữ dội với Sư đoàn 3 Sao Vàng CSBV, phi trường Cù Hanh bị pháo kích, 3 phi cơ A-37 bị phá hủy.

        Sư đoàn 10 sau khi chiếm Ban Mê Thuột tiến về tuyến Phước An, tại đây ta chỉ còn 700 người và 4 khẩu 105 ly.

         Viết phần này chúng tôi  dựa vào những sách hồi ký, biên khảo, ký sự… của Tướng Cao Văn Viên, Nguyễn Ðức Phương, Phạm Huấn, Tướng Hoàng Lạc.. cũng tham khảo thêm một số bài của các nhân chứng  và cả  tài liệu phía CSBV.

        Hôm 11-3 Tổng thống Thiệu họp Hội đồng Tướng lãnh gồm các Tướng Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Ðặng Văn Quang để trình bầy kế hoạch  mà ông gọi là “Tái phối trí lực lượng”, với tình hình vũ khí đạn dược như hiện nay ta không thể giữ cả 4 Quân khu, mà chỉ đủ lực lượng giữ Quân khu 3, Quân khu 4 và một phần duyên hải Vùng 2, Quân khu 1 chỉ giữ Huế và Ðà Nẵng, sẽ rút bỏ Cao nguyên về giữ đồng bằng, bỏ những vùng xương xẩu để về giữ những vùng mầu mỡ. Hội đồng Tướng lãnh  đồng ý, không ai phản đối.

         Mất Ban Mê Thuột, Tổng Thống Thiệu càng biết rõ địch mạnh hơn hồi 1968, địch mạnh hơn thời Mùa hè đỏ lửa 1972. Nay CSBV xé bỏ Hiệp Ðịnh Paris, Ðồng Minh ngoảnh mặt làm ngơ trước tình hình nguy khốn, ông Thiệu mất tinh thần, đưa ra  kế hoạch táo bạo trong một phiên họp tại Cam ranh ngày 14-3. Trong Hội nghị này có Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Ðại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Ðặng Văn Quang, Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Sau phiên họp Tướng Phú kể lại cho Phạm Huấn, người ký giả chiến trường này đã ghi lại trong Cuộc Trịêt Thoái Cao Nguyên 1975.             
         Ông Thiệu cho biết Quốc Hội Mỹ cắt giảm quân viện khiến ta thiếu thốn đạn dược tiếp liệu, Mỹ hủy bỏ cam kết yểm trợ bằng không lực khi Cộng Sản vi phạm Hiệp định Paris, lãnh thổ phòng thủ quá rộng lớn, ta thiếu thốn đạn dược, tiếp liệu, áp lực địch nay rất mạnh… Ông cho biết Tướng Phú phải đem hết chủ lực quân, chiến xa, pháo binh của quân đoàn về phòng thủ duyên hải, nghĩa là rút bỏ Pleiku, Kontum..
         Nghe thế tướng Phú bèn xin cho toàn bộ quân đoàn ở lại chiến đấu, ông thoáng nhìn thấy sự sụp đổ miền Nam sẽ diễn ra do kế hoạch “tái phối trí” của Tướng Thiệu.
         “- Thưa Tổng thống, cho tôi được “tử thủ” Pleiku, giữ cao nguyên.
          Tướng Thiệu cười nhạt:
          - Tử thủ? Với quân số, đạn dược hiện có, liệu anh chiến đấu được bao nhiêu ngày với Cộng Sản?
         - Thưa Tổng thống từ 40 đến 60 ngày!
         - Rồi sao nữa?
          Tướng Phú khựng lại, đưa mắt nhìn tướng Viên cầu cứu, nhưng tướng Viên quay đi chỗ khác. Tướng Phú đáp:
         - Tôi sẽ chiến đấu đến cùng, cho đến khi không còn được tiếp tếù súng đạn, lương thực nữa!
                       .    .    .     .   .
             .   .  .  .   .     .  .  .  .  . 
        … Tướng Phú vẫn liều lĩnh nói với giọng hơi lớn:
         - Thưa Tổng thống, thưa quí vị tướng lãnh,
        Nếu rút khỏi cao nguyên năm nay, thì một cuộc tấn công khác của Cộng Sản, có thể vào năm tới, sẽ mất duyên hải và mất nước. Tôi và các chiến sĩ của tôi có chết ở Cao nguyên bây giờ cũng không khác gì chết ở Sài Gòn trong năm tới!”
         (Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, trang 85)
         Tổng Thống Thiệu bác bỏ ý kiến Tướng Phú, ông nói đây là kế hoạch chung của Hội đồng tướng lãnh mà ông đã bàn thảo.
         - Tôi ra lệnh cho anh mang chủ lực quân, chiến xa, đại bác, máy bay …về phòng thủ Duyên hải, và tổ chức hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột.
           .    .  . .. . . . .  . . . .  .  .
        - Lệnh này, từ cấp tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng trở xuống không được biết.
        - Thưa Tổng thống…
        - Có nghĩa là các lực lượng Ðịa phương quân vẫn ở lại chiến đấu. Các cơ sở hành chánh 3 tỉnh.Pleiku, Kontum , Phú Bổn vẫn tiếp tục làm việc cùng với Tỉnh trưởng, Quận trưởng như thường lệ.
             .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  . 
        - Quyết định mang tất cả chủ lực quân chiến xa, pháo binh, máy bay của Quân đoàn II khỏi Pleiku, Kontum, tôi đã thảo luận với các tướng lãnh. Ðây cũng là một quyết định chung của Hội đồng Tướng lãnh, như quyết định hôm qua cho Tướng Trưởng ngoài quân đoàn I.
         Phòng họp im phăng phắc, không có một phản ứng, chống đối nào. Bỗng tướng Phú hỏi ôngThiệu một câu gần như lạc đề:
        - Thưa Tổng Thống, nếu chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binh rút đi làm sao Ðịa phương quân chống đỡ nổi khi Cộng Sản đánh? Hơn 100 ngàn dân 2 tỉnh Pleiku, Kontum và gia đình anh em binh sĩ?
        - Thì cho thằng Cộng Sản số dân đó! Với tình hình  nặng nề hiện tại, mình phải lo phòng thủ, giữ được vùng dân cư đông đúc, mầu mỡ… hơn là bị “kẹt” quá nhiều quân trên Vùng Cao nguyên…”
         (CTTCN 1975, trang 85, 86)
        Về buổi họp này, ông Cao Văn Viên thuật lại cũng gần giống như Phạm Huấn, theo ông Tổng Thống Thiệu cho biết phải chiếm lại Ban Mê Thuột, Tướng Phú xin thêm quân  tiếp viện, ông Thiệu hỏi Tướng Viên có đủ quân tiếp viện cho Tướng Phú không, Tướng Viên trả lời không còn quân trừ bị. Khi ấy ông Thiệu đứng trước bản đồ miền Nam nói Ban Mê Thuột quan trọng hơn Pleiku, Kontum nhập lại về kinh tế, dân số, nhiệm vụ Quân đoàn 2 phải tái chiếm Ban Mê Thuột, ông hỏi Tướng Phú dùng đường nào để đem quân về tái chiếm Ban Mê Thuột, Tướng Phú đề nghị theo đường số 7B.
         Văn Tiến Dũng cũng đã ghi lại lời khai của Chuẩn Tướng BÐQ Phạm Duy Tất bị CS bắt trong hồi ký của y. Tướng Tất cho biết chiều 14-3 tại, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú sau khi dự Hội nghị Cam Ranh về đã họp Bộ Tham Mưu Quân đoàn và kể lại diễn tiến buổi họp. Ông Thiệu hỏi Tướng Viên còn quân trừ bị không, Tướng Viên nói không còn, ông Thiệu hỏi Tướng Phú nếu không có quân tăng viện thì giữ được bao lâu, Tướng Phú nói có thể giữ được một tháng nếu có yểm trợ không quân, tiếp tế bằng không vận về đạn dược, vật liệu và bổ sung quân số bù lại thiệt hại vừa qua, ông sẽ ở lại Pleicu chiến đấu và chết ở đó. Ông Thiệu nói không thoả mãn được các điều kiện đó, CS thì rất mạnh nên phải rút khỏi Kontum, Pleiku đưa quân về giữ đồng bằng duyên hải. Sau đó ông Thiệu hỏi rút bằng đướng số 19 được không, Tướng Viên trả lời đường này rất nguy hiểm, ông Thiệu hỏi đường số 14 đi được không, Tướng Viên đáp đường 14 không thể đi được. Cuối cùng chỉ còn đường số 7B từ lâu không dùng tới nhưng tạo được sự bất ngờ. Tướng Phú cũng cho biết theo lệnh ông Thiệu chỉ rút các đơn vị chủ lực, bỏ Ðịa phương quân lại, không được thông báo cho các Tỉnh trưởng biết để họ ở lại tiếp tục chống giữ…
          Như vậy những lời thuật lại của Phạm Huấn, Tướng Viên, Văn Tiến Dũng.. gần giống nhau.
         Kế hoạch đã được coi như hợp thức hóa và lệnh triệt thoái được ban hành, các Tướng lãnh không ai phản đối. Khi bàn việc lựa chọn đường rút quân, Tướng Viên cho biết đường Quốc lộ 21 không thể xử dụng được vì đường 14 giữa Pleiku-Ban Mê Thuột đã bị địch cắt, Bắc Việt hiện có 3, 4 sư đoàn chính qui tại chiến trường Ban Mê Thuột, không thể từ đó xử dụng đường 21 về Nha Trang. Ðường 19 nối Pleiku- Qui Nhơn cũng khó thành công vì đèo An Khê đã bị cắt ở hai phía Ðông, Tây, Việt Cộng đóng chốt nhiều nơi, trước đây Pháp đã từng bị Việt Minh phục đánh kích tan tác trên đèo này. Ngoài đường số 7B không còn đường nào khác, Tướng Phú đề nghị chọn đường số 7B, kế hoạch được chấp thuận.
         Tổng Thống Thiệu nói kế hoạch rút quân để bảo toàn lực lượng hầu tái chiếm Ban Mê Thuột, ông dặn Phú phải giữ bí mật, không được cho các Tỉnh trưởng biết, chỉ có chủ lực của Quân đoàn rút, Ðịa phương sẽ phải ở lại chiến đấu, như vậy về cơ bản kế hoạch chỉ là sự lừa dối lẫn nhau,  kế hoạch đượm vẻ bất nhân, tàn nhẫn. Chiều 14-3 Bộ Tư lệnh Quân đoàn triệu tập các sĩ  quan cao cấp để thông báo lệnh rút bỏ Cao nguyên tuy nhiên không có giấy tờ Lệnh hành quân cấp Quân đoàn, cuộc hành quân tổ chức vội vã không được chặt chẽ. Tướng Phú lệnh cho Lữ đoàn 2 Kỵ binh rút từ đèo Mang Yang về tăng phái cho Liên đoàn 23 Biệt động quân và Công binh để sửa chữa cầu cống, giữ an ninh trên lộ trình đường số 7B. Dưới thời ông Diệm Cheo Reo được tách ra khỏi Pleiku thành lập tỉnh Phú Bổn, dân số 95 ngàn người, 70% là đồng bào Thượng.
        Tỉnh Lộ 7B từ ngã ba Mỹ Thạnh tới Tuy Hoà trước đây là đường trải đá, có  3 cầu chính: Phú Thiện 50m, Le Bac 600m, Cà Lúi 40m. Ðoạn cuối tỉnh lộ 7B trong địa phận Tuy Hoà, quận Củng Sơn không an toàn cho sự lưu thông.
         Ngày 16-3 đoàn xe quân sự  bắt đầu rời Pleiku, Tướng Phú và Bộ Tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, bỏ lại Chuẩn tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc đám di tản. Theo Tướng Hoàng Lạc cuộc lui binh gồm có 4 đoàn, mỗi đoàn 250 xe, tổng cộng có 1200 xe cộ, theo Phạm Huấn có tất cả 4,000 quân xa đủ loại, mỗi ngày một đoàn xe. Ngày 16-3 đoàn xe lên đường êm xuôi vì có yếu tố bất ngờ, thấy di tản nhanh và dễ dàng nên khi  tới Phú Bổn Tướng Phú ra lệnh ngưng lui binh và lập phòng tuyến tại Hậu Bổn. Các biến cố dồn dập sau đó vượt khả năng của giới thẩm quyền, quân nhân tại Phú bổn bị ảnh hưởng giây chuyền cũng hốt hoảng gia nhập đoàn chạy loạn.
        Ngày hôm sau 17-3 dân chúng Kontum, Pleiku chạy ùa theo làm náo loạn cuộc lui binh, tình hình đã không thuận lợi như ngày đầu mà lại gây nhiều trở ngại cho sự triệt thoái.      
        Ngày 18-3 Liên đoàn 7 Biệt động quân đang cùng thiết giáp đánh chốt Việt Cộng xui xẻo bị không quân oanh tạc lầm, gây nhiều thương vong cho quân bạn. Hỗn loạn xẩy ra, lính Thượng nổi loạn đốt doanh trại và giết nhiều người Việt khiến tình hình càng phức tạp, bọn lưu manh côn đồ, bọn nằm vùng đốt chợ, Việt Cộng pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn người di tản, tối đến địch pháo kích thị xã gây nhiều tử thương cho quân dân di tản, các chiến xa M-48, M-41 bị phá hủy 70%, lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú Bổn. Sau trận pháo kích dữ dội của Cộng quân, các xe tăng M-48, M-41,  đại bác bị hư hại hết không thể xử dụng được, 40 chiến xa và 8 khẩu 175 ly bị phá hủy. 
         Từ ngày 16-3-1975 Sư đoàn 320 Việt Cộng được lệnh hành quân cấp tốc đuổi theo đánh phá đoàn xe triệt thoái, đến 18-3 lực lượng lớn của Việt Cộng tiến vào Phú Bổn, đánh phá dữ dội đám quân triệt thoái đang ùn tại đây rồi tiếp tục đánh xuống Củng Sơn. Chúng gây kinh hoàng cho quân dân triệt thoái, các Liên đoàn Biệt động quân, thiết giáp, bộ binh của VNCH bị thiệt hại nặng. Ðịch xử dụng nhiều đại bác, xe tăng lấy được của VNCH để truy kích đánh phá đoàn quân triệt thoái, một lỗi lầm tai hại của cuộc lui binh mà không ai ngờ tới.
         Nhận được báo cáo tình hình nguy khốn Tướng Phú ra lênh bỏ Hậu Bổn để về Tuy Hòa. Cuộc chạm súng tại Hậu Bổn kéo dài tới sáng hôm sau, đoàn quân đi được 20km thì Cộng quân đã tràn vào Phú Túc, Liên đoàn 7 BÐQ chiếm lại quận Phú Túc. Khi ra khỏi Phú Túc người ta  bắn nhau để tranh lên trước, súng nổ khắp nơi giành đường đi, hỗn loạn ngày càng trầm trọng do các binh sĩ rã ngũ, đào binh gây ra. Binh lính chửi rủa Tổng thống Thiệu suốt dọc đường vì cuộc lui binh thê thảm này, dân chết lính chết, thật là một địa ngục, một hành lang máu.
        Công binh lập 2 cầu nổi, một tại Le Bac, một tại Ðồng Cam, đoàn xe đến được sông Ba thì bị cát lún, mất ba ngày để trực thăng chở vỉ sắt lót đường, dù gặp khó khăn đoàn xe đầu tiên về tới Tuy Hoà, chỉ có một chiếc xe bị kẹt giữa cầu nổi khiến cả đoàn quân tắc nghẽn. Chỉ mất hơn một giờ, CSBV từ Thuần Mẫn đổ xuống tổ chức các chốt chặn đường, một tiểu đoàn ÐPQ và một tiểu đoàn BÐQ được giao nhổ chốt. Ngày 22-3 hai tiểu đoàn BÐQ ở đoạn hậu đánh tan Trung đoàn 64 (SÐ -320 CS) gây nhiều  thiệt hại, Trung đoàn phải rút lui. Ðịch đưa thêm các lực lượng đã tham chiến tại Ban Mê thuột với chiến xa yểm trợ theo tỉnh lộ 287 đổ xuống đường số 7B. Tướng Cẩm báo cáo Tướng Phú, Tướng Phú ra lệnh tan hàng, Cẩm và Bộ tham mưu bay trực thăng về Tuy Hoà, những người còn lại chạy về hướng Ðông. Phía Tây xe tăng Việt Cộng đang tiến tới, hướng Bắc là Pleiku, hướng Nam Việt Cộng đang đóng chốt, ai len lỏi theo sông Ba thì về được Tuy Hoà. Ngày 26-3 tiểu đoàn 34 BÐQ thanh toán các chốt sau cùng tại xã Mỹ Thạnh, những người xe còn lại của cuộc lui binh đã tới được Tuy Hoà, trong số 1,200 xe cộ chỉ có 300 mở đường máu tới nơi.
          Sáu năm sau, vào giữa tháng 3-1981, Ðài phát thanh VOA đã bình luận.
       “Cuộc rút quân trên đường số 7 được coi như một cuộc thảm bại lớn nhất trong lịch sử chiến tranh tại miền Nam Nước Việt từ trước đến nay”.
          Phạm Huấn gọi đó là hành  lang máu,  con đường máu và nước mắt dài 300 km trong 9 ngày đêm, đó cũng là một cuộc hành quân phá sản. Hậu quả là tổn thất của cuộc lui binh thật khủng khiếp, theo Nguyễn Ðức Phương khoảng 60 ngàn chủ lực quân khi tới Tuy Hoà chỉ còn khoảng một phần ba 20 ngàn người, 5 Liên đoàn BÐQ khoảng 7,000 chỉ còn 900 người, Lữ đoàn 2 thiết kỵ với hơn 100 xe tăng thiết giáp chỉ còn lại 13 cái M-113.
          Ông Cao văn Viên cho biết
         “Ít nhất 75% khả năng tác chiến của quân đoàn II bao gồm sư đoàn 23 bộ binh cũng như các lực lượng Biệt động quân, thiết giáp, pháo binh, công binh và truyền tin đã bị hủy hoại chỉ trong vòng có mười ngày. Chiến dịch đánh chiếm lại Ban Mê Thuột không thể thực hiện được, đơn giản chỉ vì Quân đoàn 2 không còn lực lượng tác chiến nào cả. Quân Cộng Sản đã chiếm được Kontum, Pleiku không cần phải chiến đấu. Khuyến khích bởi chiến thắng với tầm mức không ngờ, các sư đoàn F10, 316 và 320 CSBV quyết định đánh tới. Ngay lúc bấy giờ, địch quân biết rằng lực lượng mà Quân đoàn II xử dụng để ngăn chận bước tiến quân của họ về hướng bờ biển chỉ còn là Lữ đoàn 3 Dù tại Khánh Dương”
          (Nguyễn Ðức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, trang 738)
          Bắc Việt cho biết đã tiêu diệt trên 14 ngàn chủ lực quân nguỵ, chiếm được 5,760 khẩu súng các loại trong đó có 22 đại bác 155 ly, 9 khẩu 175 ly, 48 khẩu 105 ly, chiếm và phá hủy 2000 xe cộ các loại  …
        Theo tài liệu Mỹ (The World Almanac Of The Viet Nam War.) và của Nguyễn Ðức Phương, trong số 400 ngàn dân Cao nguyên chạy loạn chỉ có 100 ngàn tới được Tuy hòa. Theo Tướng Hoàng Lạc trong số 200 ngàn dân chạy loạn chỉ có 45 ngàn tới Tuy Hoà. Các kho quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí  trị giá 253 triệu Mỹ Kim lọt vào tay Cộng quân. Sự thiệt hại về tinh thần còn to tát hơn nhiều. Theo tướng Hoàng Lạc kế hoạch không đầy đủ, kỷ luật hỗn tạp, không nghiên cứu lộ trình, cầu cống, dân chúng và gia đình binh sĩ hỗn độn làm cho quân đội mất tinh thần khiến ai cũng chỉ lo chạy tháo thân. Dân chúng nghe tin tức bi quan qua đài BBC đã ồ ạt chạy về phía Nam làm náo loạn cuộc triệt thoái khiến cho tinh thần binh sĩ xuống thấp.
         Tổng cộng 60 ngàn quân triệt thoái chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, khoảng 200 ngàn dân chỉ có 45 ngàn tơi nơi yên lành, như vậy hằng 100 ngàn quân dân hoặc bị bắt, thương, bị giết. Những người thương binh trong các bệnh viện cũng như bị thương trên đường chạy loạn chỉ có nước nằm chờ chết vì bác sĩ y tá không còn nữa, ai cũng chỉ lo chạy tháo thân, số người bị thương bị giết.. có thể lên tới hằng vạn hoặc nhiều hơn nữa.
         Ông Cao Văn Viên nói:
          “Thất bại tự tạo của quân đoàn II là một giấc mơ hãi hùng trên cả hai phương diện tâm lý và chính trị cho dân chúng cũng như cho QLVNCH. Rối loạn, lo âu, sợ hãi, lên án, tội lỗi cũng như thất vọng bắt đầu đè nặng lên tâm trí mọi người
         Nguyễn Ðức Phương (CTVNTT, trang 738, 739).
         Những tin đồn cắt đất nhường cho Cộng Sản lan nhanh khiến người ta đổ sô nhau chạy về hướng Nam, Quân khu 1 cũng rơi vào tình huống tương tự. Chúng tôi nhớ lại ngày 27-3 trên đường di tản từ Lâm Ðồng ra Phan Rang , một sĩ quan trẻ có nói.
       “Vùng Một và Vùng Hai nhường cho nó, mình chỉ còn giữ từ Vùng Ba trở xuống như Nam Kỳ Quốc ngày xưa, mình phải ráng về Quân khu Ba”     
         Không biết tin đồn ấy do đâu mà ra , cũng có thể do CS nằm vùng  tung ra để gây hoang mang náo loạn, tin cắt đất này đã ảnh hưởng vô cùng tai hại, cùng với sự tuyên truyền xuyên tạc của đài BBC Luân Ðôn, quân dân Vùng 1 và 2 cứ ùn ùn kéo nhau chạy về phương Nam khiến cho CS không phải đổ máu vẫn chiếm được nhiều lãnh thổ. Trong khi ấy tại Sài Gòn phía đối lập tăng hoạt động bất tín nhiệm chính phủ Thiệu, quân đội cũng mất tin tưởng người ta cho rằng chỉ có phép lạ may ra cứu được miền Nam. Cuộc lui binh trên tỉnh lộ 7B đã đi vào vết xe đổ của trận Cao Bắc Lạng năm 1949 và cuộc di tản Quảng Trị cuối tháng 4-1972. Cuối tháng 9-1949, Ðại Tá Charton triệt thoái 3 tiểu đoàn Pháp ra khỏi Cao bằng đến đầu tháng 10 bị Việt Minh chận đánh tan rã, Pháp mất 7,000 quân và nhiều đơn vị tinh nhuệ, 500 quân xa, trên 100 súng cối và 13 đại bác, 10 ngàn súng cá nhân và cộng đồng, đại liên trung liên, trận đánh đã rung động cả nước Pháp.
         Cuối tháng 4 năm 1972, các đơn vị phòng thủ Quảng Trị dưới sự chỉ huy của Tướng Vũ Văn Giai chiến đấu trong tuyệt vọng, vùng trách nhiệm của Sư đoàn 3 thu hẹp dần, Việt Cộng tấn công phía Tây và Nam Quảng Trị, cô lập lực lượng phòng thủ, binh sĩ ta ngày càng suy sụp tinh thần trước những trận pháo kích dữ dội của CSBV. Trước hoàn cảnh thiếu thốn tiếp liệu trong khi địch tấn công dữ dội, Tướng Giai trình bầy kế hoạch triệt thoái về Nam sông Thạch Hãn với Trung Tướng Hoàng Xuân  Lãm, Tư lệnh vùng 1. Ðược Tư lệnh chấp thuận,  ông cho  lui binh tức thì ngày 1-5-1972 Sư đoàn 3 và các lực lượng tăng phái như Thiết giáp, Biệt động quân, Thuỷ quân lục chiến.. tất cả khoảng 9 Trung đoàn ồ ạt chạy về Nam qua Quốc lộ I.  Cộng quân thừa cơ pháo theo chết như rạ trên đại lộ kinh hoàng, Quốc lộ đầy các loại xe bốc cháy, hàng mấy nghìn người bỏ xác tại đây, Lữ đoàn thiết kỵ có hơn 1,000 người tử thương, Sư đoàn 3 chết 2,700 người, mất 100 xe tăng, 140 đại bác …
          Ðại tá Phạm bá Hoa nói.
          “Những bài học chiến thuật trong trường Võ bị cũng như trường Ðại học quân sự..đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, lui binh) là nhiều nguy hiểm hơn các cuộc hành quân khác, vì đơn vị đưa lưng về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiến tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học lui binh là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được không quân quan sát và yểm trợ hoả lực nữa.
         Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân Việt Cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm  lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành  lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống, chết vì cướp giật…”
7B Road in 1975
          (Cuộc Rút Quân Trên Ðường Số 7)
         Cũng theo ông Phạm bá Hoa, một điều trớ trêu là ta tưởng Việt cộng bao vây Pleiku nhưng thực ra khi quân ta rút đi ngày 16-3-1975 thì bốn ngày sau đó , 20-3 địch mới tiến vào tỉnh lỵ sở dĩ như vậy vì ta thiếu tin tình báo. Việt Cộng còn ở cách xa Pleiku rất nhiều nhưng Tướng Phú đã quá sợ hãi, ông tưởng địch sắp vây tấn công tới nơi. Sự thực các Sư đoàn Việt cộng còn ở xa về phía Nam và Ðông Nam Pleiku và gần đoàn quân triệt thoái nên ta mới bị địch pháo kích, đánh phá gây thiệt hại cho đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong 20 năm chiến tranh.
        Theo ông Cao Văn Viên, kế hoạch rút bỏ Quân khu 2 và 1 của Nguyễn văn Thiệu là do một mình ông ấy nghĩ ra, không hỏi ý kiến ai. Kế hoạch được gọi một cách bóng bẩy văn hoa “ Tái phối trí lực lượng” nhưng thực ra chỉ là sự tháo chạy một cách hỗn độn vô tổ chức, không nghiên cứ lộ trình, vô kỷ luật… đánh lừa lẫn nhau. Ông Cao Văn Viên cho rằng đó là một kế hoạch đúng nhưng thực hiện quá trễ, đúng lý ra phải thực hiện từ 6 tháng trước. Dù kế hoạch đúng về quân sự nhưng cũng khó có thể thể chấp nhận được vì nó là một kế hoạch bất nhân. Khi ông Thiệu lệnh cho Tướng Phú khi rút Quân đoàn 2 phải dấu kín không được cho địa phương biết để lừa họ phải ở lại chiến đấu. Lệnh này đã gây tệ trạng cấp lớn bỏ quân, bỏ dân chạy trước khi cuộc tháo chạy bắt đầu diễn ra, kế hoạch cho phép bỏ rơi đồng bào ruột thịt của mình vào tay Cộng sản, chính người miền Nam đã bỏ rơi lẫn nhau trong khi ta lại lớn tiếng chỉ trích người Mỹ bỏ rơi đồng minh.
         Kế hoạch rút quân về duyên hải để rồi từ đó theo đường Quốc lộ 21 lên tái chiếm Ban Mê Thuột của ông  Thiệu nói trong phiên họp tại Cam Ranh thật không có gì vô lý hơn. Ðường rút quân từ tỉnh lộ 7B xuống Tuy Hoà, từ đó xuống Nha Trang rồi lại từ Nha Trang lên Ban Mê Thuột dài gấp 3 lần đường Quốc Lộ số 14 từ  Pleiku xuống Ban Mê Thuột, đầy gian nan nguy khốn. Lui binh để tái chiếm Ban Mê Thuột chỉ là một cách nói dối để đánh lừa các Tướng Lãnh trong phiên họp và để che dấu cái ý định rút bỏ Cao Nguyên của ông mà thôi.
        Hầu như tất cả giới quân nhân, chính khách, ký giả truyền tin… đều cho rằng kế hoạch tái phối trí, rút bỏ Quân khu 1 và 2 về bảo vệ Quân khu 3 và 4 của ông Thiệu là liều lĩnh, tai hại nó đã làm sụp đổ miền Nam nhanh chóng lại đẩy bao nhiêu quân, dân vào chỗ chết một cách oan uổng. Kế hoạch tỏ ra rất không tưởng vì không thể di tản hàng nghìn xe cộ, hằng mấy trăm nghìn quân dân chạy loạn tới nơi tới chốn qua một con đường đã bỏ hoang từ bao lâu nay, cầu cống hư hỏng, cũ kỹ chật hẹp. Ông Thiệu quá độc đoán khăng khăng cho di tản Pleiku trong khi Tướng Phú và binh lính của ông rất muốn ở lại chiến đấu tới cùng để giữ đất. Theo Tướng Cao Văn Viên kế hoạch tái phối trí do ông Thiệu tự nghĩ ra, ông không hề bàn bạc với ai. Sự vô lý và cẩu thả của kế hoạch khiến nhiều người cho rằng ông Thiệu chơi trò tháu cáy giả vờ thua chạy để Mỹ sót ruột phải nhẩy vào.
        BV không thể ngờ miền Nam lại có thể sai lầm lớn lao về chiến lược đến thế, đối với họ kế hoạch triệt thoái Cao nguyên của ông Thiệu là một tặng phẩm từ trên trời rơi xuống. Văn Tiến Dũng lấy làm ngạc nhiên khi thấy cả một Quân đoàn trang bị hiện đại lại bỏ địa bàn hoạt động để lui binh.
         Sự sai lầm của kế hoạch tái phối trí lực lượng đã khiến cho VC chiếm được cả hai tỉnh Kontum Pleiku mà không mất một viên. Lệnh cho Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi Cao nguyên, Tướng Thiệu đã mở một cuộc hành quân phá sản và dọn cỗ sẵn cho Việt Cộng xơi, chưa bao giờ kẻ địch lại sung sướng thoải mái như tháng 3-1975, trong vòng một tuần lễ cả Cao nguyên rơi vào tay Cộng sản, tai hại hơn nữa nó kéo theo sự sụp đổ của hệ thống phòng thủ Quân đoàn 2.
         Lần đầu tiên trong chiến tranh Ðông Dương cả một quân đoàn phải rút chạy,. Thất bại trên đường số 7B một phần do thất thủ Ban Mê Thuột, nếu không mất Ban Mê Thuột chắc không ai nghĩ phải bỏ Kontum Pleiku, từ sai lầm chiến thuật đi đến sai lầm chiến lược. Ngoài ra tin cắt quân Viện  của Quốc Hội Mỹ cũng làm ông Thiệu hốt hoảng muốn điên cái đầu. Các cuộc hành quân không được Bộ Tổng tham mưu điều khiển giám sát, Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho các Tư lệnh quân đoàn, Bộ Tổng tham mưu không được ra bất cứ lệnh nào cho các đơn vị, chính vì ông Thiệu dành độc quyền lãnh đạo nên mới đưa tới sụp đổ hệ thống phòng thủ nhanh như vậy.
         Triệt thoái là một lệnh bí mật, chỉ một số ít sĩ quan cao cấp của Quân đoàn được truyền đạt, sự thực đó chỉ là một sự dối trá lừa gạt lẫn nhau để bỏ nhau chạy trước. Theo Tướng Hoàng Lạc cuộc rút lui vội vã không có kế hoạch đầy đủ, không nghiên cứu lộ trình, cầu cống, dân chúng và gia đình binh sĩ hỗn độn. Nhiều  người cho rằng Tướng Tư lệnh Phú không đủ khả năng kiểm soát đôn đốc cuộc lui binh cấp Quân đoàn, sự thực không hẳn như vậy, chẳng  riêng gì tại quân khu 2 mà ngay cả Quân khu 1  kiện Tướng Ngô Quang Trưởng cũng đành bó tay không thể kiểm soát nổi tình hình rối loạn.
         Phạm Huấn cho rằng trên thực tế không có một lệnh tổng quát nào cả, cuộc lui binh không được tổ chức, giám sát, thi hành  báo cáo chính xác, các ông Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên, Phụ tá hành  quân Lê Nguyên Khang, Tham mưu trưởng liên quân Ðồng văn Khuyên .. chưa hề một lần bay ra thị sát mặt trận, họ chỉ ngồi trong phòng lạnh điều binh khiển tướng bằng điện  thoại. Cũng theo Phạm Huấn các Tướng Trần văn Cẩm, Phạm Duy Tất, Phạm văn Phú … những người chỉ huy cuộc triệt thoái bay trực thăng thật cao trên trời.. cả một Quân đoàn không có ai chịu trách nhiệm.
        Tướng Trần văn Nhựt, người hùng An Lộc năm 1972 lại  cho rằng Trung Ương đã không yểm trợ cuộc triệt thoái đến nơi đến chốn:
        “Mặc dù Cộng quân có gia tăng quân số thật nhưng chính những quyết định hạn chế đạn dược, rút quân sai lầm nói trên đã ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần toàn thể Quân, Dân, Cán Chính và làm cho sự sụp dổ miền Nam VN quá nhanh và quá nhục nhã. Ðúng ra khi lệnh rút lui Quân đoàn 2/QK2, Tổng thống Thiệu phải chỉ thị  cho Ðại Tướng Viên, các vị Tư lịnh và Chỉ huy trưởng các Quân Binh Chủng phải ra Nha Trang để tận tình giúp Tướng Phạm Văn Phú điều động và yểm trợ cuộc rút quân lớn nhứt trong lịch sử QLVNCH. Thiếu tất cả mọi hỗ trợ căn bản cần thiết, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đành làm người hùng cô đơn vì mọi sự việc rút lui ngoài khả năng và kinh nghiệm của ông
         Cuộc Chiến Dang Dở trang 272  
         Sau này ngày 21-4-1975, Sư đoàn 18 BB đã thực hiện rút quân tại Xuân Lộc có trật tự, an toàn, ít thiệt hại, người ta đã cho di tản gia đình binh sĩ  trước để lính an tâm chiến đấu. Cuộc rút quân của Sư đoàn 18 cho thấy thất bại của Quân khu 2 và 1.
        - Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh vì quá gấp rút.
        - Không kiểm soát đôn đốc cấp chỉ huy.
        - Gia đình binh sĩ, dân chúng di tản làm rối loạn hàng ngũ quân đội.
        - Không duy trì được kỷ luật
          Dân chúng tị nạn làm náo loạn cả lên, binh lính mất tinh thần nên nhiều đơn vị đã rã ngũ, tan hàng mặc dù chưa có chạm súng, người dân chạy tị nạn đã làm đảo lộn kế hoạch triệt thoái của Quân đoàn.
        Cuộc triệt thoái khiến cho Cao nguyên lọt vào tay Cộng quân chỉ trong mấy ngày, nó cũng kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ Quân khu 2 và cũng đã để lọt vào tay Việt Cộng nhiều vũ khí đạn dược, xe tăng, đại bác.
        Tỉnh Quảng Ðức nằm ở tây Nam Darlac (Ban Mê Thụôt) và phía Bắc Lâm đồng vẫn còn đứng vững sau 12 ngày cầm cự tại quận Kiến đức phía Tây thị xã Gia nghĩa. Ngày 9-3 một Sư đoàn Việt Cộng chiếm quận Ðức lập phía Tây Bắc Quảng Ðức, còn lại Quận Kiến  đức phía Tây thị xã vẫn chống trả lại cuộc  tấn công dữ dội của VC  đông gấp bội bên Phước Long đánh qua từ 9-3 cho tới 22-3. Nhờ sự chiến đấu anh dũng của hai Tiểu đoàn 81, 82 thuộc Liên đoàn 24 BÐQ và hai đại đội ÐPQ Phan Rang tăng cường quận Kiến Ðức vẫn còn đứng vững, họ  bảo vệ được thị xã yên ổn được gần hai tuần lễ.
         Ðến ngày 22-3 tình hình tiếp liệu thiếu hụt, binh sĩ  ngoài tiền tuyến quá mệt mỏi trước áp lực địch, tỉnh đã tính chuyện di tản mặc dù chưa có lệnh của Quân đoàn. Sáng 22-3  Ðại tá tỉnh trưởng Quảng Đức lấy tiền trong ngân khố đem lên trực thăng đưa về Sài gòn rồi quay trở lại, ông ghé Lâm đồng nghỉ ngơi xong lên máy bay trở về Quảng Ðức nhưng trực thăng bị hỏng không quay trở về được, đó là theo lời ông ấy nói.  Ðến chiều Trung tá tiểu khu phó bèn cho lệnh tỉnh di tản, hai Tiểu đoàn BÐQ tại Kiến đức gọi về tỉnh xin lệnh nhưng thấy các quan đã triệt thoái nên  anh em cũng lui binh trong trật tự, họ đã gài mìn trên đường về thị xã rồi rút theo đoàn quân của tỉnh.
         Về điểm này trong Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 của Phạm Huấn nói sai hoàn toàn. Trang 170: “Ðại tá Nghìn, Tỉnh trưởng Quảng Ðức liên lạc về khẩn báo: Quận Kiến đức mất. Quận Gia Nghĩa đang bị pháo nặng. Cộng quân từ An Lộc kéo về đã tiến sát Phi trường Quảng Ðức”. Trang 171: “Hầm chỉ huy và hệ thống liên lạc của Tỉnh trưởng Quảng Ðức bị pháo sập. Ðại tá Tỉnh trưởng chỉ huy lực lượng còn lại của Tiểu khu, mở đướng máu rút về hướng Lâm đồng”.
        Không biết Phạm Huấn căn cứ vào tài liệu nào nhưng chúng tôi là nhân chứng  từ đầu chí cuối tại đây đã biết rõ sự việc. Hoàn toàn không có chuyện quận Kiến đức mất, thị xã Gia Nghĩa không hề bị pháo, địch còn bị cầm chân tại Kiến đức cách thị xã khoảng 15 km. Tỉnh trưởng vẫn ở tư dinh cho đến ngày di tản, hoàn toàn không có chuyện pháo sập hầm, ông tỉnh trưởng đã đi máy bay trực thăng từ sáng hoàn toàn không có chuyện mở đường máu rút về Lâm đồng.
         Ðoàn quân triệt thoái từ Quảng Ðức sau 5 ngày băng rừng thì tới Lâm Ðồng ngày 27-3, tổng cộng khoảng sáu, bẩy nghìn người gồm Ðịa phương quân, Biệt động quân, Cảnh sát.. và một số ít dân chúng vượt sông Kinh Ðà qua được Lâm Ðồng, đa số dân chúng bị bỏ lại vì không thể đem theo hết mọi người được. Cuộc di tản tốt đẹp, hiền lành, rất kỷ luật hoàn toàn không sẩy ra lộn sộn nào đáng tiếc.
         Ngày 27-3 đoàn quân di tản từ Quảng đức tới được Lâm đồng nhưng thật không may, ngày họ tới nơi cũng là lúc Lâm Ðồng bắt đầu di tản về Phan Rang trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người. Từ hai ngày trước Sư đoàn 7 CSBV thuộc quân đoàn 4, dưới quyền điều động của Trần Văn Trà  chiếm Ðịnh  Quán, Hoài Ðức,  Giá Rai .. rồi tiến quân đánh tỉnh Lâm Ðồng. Họ tiến theo đội hình xe tăng đi đầu rồi bộ binh, pháo binh, hậu cần theo sau tiến theo đường 20 gặp đồn đánh đồn, gặp bót đánh bót. Tỉnh trưởng Lâm Ðồng bỏ trốn từ hai giờ sáng, lấy tiền trong ngân khố chạy lên Ðà Lạt bằng xe díp, sự thực không riêng gì Lâm Ðồng, Quảng Ðức mà tại cả hai Quân khu 1 và 2, nhiều đơn vị trưởng, nhiều sĩ quan cao cấp thấy tình hình bi đát đã bỏ đơn vị chạy tháo thân, tâm lý chung con người ta ai mà không sợ chết. Cuộc di tản tại Lâm Ðồng về Phan Rang được tiến hành có trật tự, không sẩy ra hỗn loạn như cảnh triệt thoái trên đường số 7B có lẽ vì không bị Cộng quân đuổi theo pháo kích.
        Trong khi ấy hai Trung đoàn Việt Cộng băng rừng từ Phước Long qua tiến  chiếm quận Di Linh, chiều tối hôm ấy, pháo binh thuộc địa phận Ðà Lạt bắn thả dàn vào Di Linh đang nằm trong tay Cộng quân. Hai hôm sau Ðà Lạt cũng di tản về Phan Rang.
        Dưới đây là những ngày cuối cùng của Quân đoàn 2, chúng tôi dựa theo tài liệu của ông Cao Văn Viên.
        Vùng Cao nguyên mất, chủ lực Quân đoàn bị thiệt hại gần hết nhưng ở duyên hải Sư đoàn 22 bộ binh vẫn giữ vững phòng tuyến ở Bình Khê trên Quốc lộ 19, ở Tam Quan Bắc Bình Ðịnh, hai Trung đoàn 41, 42 thuộc Sư đoàn 22 chống trả mãnh liệt cuộc tấn công của Sư đoàn 3 CS dưới chân đồi Bình Khê phía Tây Qui Nhơn. Hai bên giằng co nhau từng ngọn đồi, Cộng quân bị thiệt hại nhiều trong trận đánh. Trung đoàn 95B, Sư đoàn 968 BV được tăng cường tấn công hai Trung đoàn 41, 42  nhưng ta vẫn giữ được phòng tuyến cho đến 30-3.
         Ở duyên hải, BV tăng viện thêm từ Quảng Ngãi đánh Tam Quan, Bồng Sơn ngày 25-3, Trung đoàn 47 sau 3 ngày chiến đấu rút về căn cứ không quân Phù Cát lập phòng tuyến mới ở đó. Sư đoàn 320 BV sau khi đánh phá đoàn di tản trên tỉnh lộ 7B xong nhiệm vụ tiến về Tuy Hoà. Sư đoàn 10 cùng với xe tăng, đại bác từ Phước An theo đường 21 tiến về Khánh Dương ngày 27-3 để tấn công Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù. Ðặc công, thám sát VC xâm nhập Qui Nhơn đóng chốt, cắt đường giao thông, ÐPQ của ta bây giờ biến mất hết. Sư đoàn 22 được lệnh rút về Qui Nhơn.
         Ngày 30-3 Trung đoàn 41 và 42 được lệnh rút khỏi mặt trận Bình Khê, Trung đoàn trưởng  Trung đoàn 42, Trung tá Nguyễn Hữu Thống đã năn nỉ xin tư lệnh ở lại đánh, ông nói tình hình chưa đến nỗi, nếu rút đi sau này khó đem quân trở lại. Nhưng đã quá trễ, khi hai Trung đoàn vào thị xã Qui Nhơn, họ bị các chốt địch bên trong thị xã chận đánh, ÐPQ miền Nam đã di tản, Qui nhơn đã nằm trong tay Sư đoàn 3 CS. Sau 3 ngày chiến đấu cộng với hải pháo yểm trợ, Trung đoàn 41, 42 phá được phòng tuyến Việt Cộng ở Nam thành phố. Quân của hai Trung đoàn 41, 42 thuộc Sư đoàn 22 tập trung một địa điểm phía Nam cách bến tầu 6 cây số chờ di tản. Hai giờ sáng 1-4  ba tầu hải quân cập bến chở đám binh sĩ còn lại của Sư đoàn, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, Trung tá Nguyễn hữu Thông từ chối di tản và ở lại tự sát.
        Trung đoàn 47 sau hai ngày cố thủ bị đánh bật ra khỏi phi trường Phù Cát, trên đường di tản về Qui Nhơn Trung đoàn bị phục kích tại quận lỵ, Tiểu đoàn trưởng ÐPQ  tự tử, xác còn nằm trước văn phòng quận. Trung đoàn 47 mất đi hơn nửa quân số coi như bị loại khỏi vòng chiến, Ðại tá Lê Cầu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 47 cũng tự sát. Sư đoàn 22 khi được tầu chở về Vũng Tầu chỉ còn hơn 2,000 quân.
         Sáng 2-4 Cộng quân chiếm Tuy Hoà, ÐPQ rút về Nha Trang, tại đèo Cả phía Nam Phú Yên tiểu đoàn BÐQ 34 bị thất thủ sau hai ngày cầm cự. Tại Khánh Dương Sư đoàn 10 Việt Cộng và Lữ đoàn 3 Dù giao tranh dữ dội ngày 27-3, Việt Cộng được pháo binh, xe tăng yểm trợ đã phá được phòng tuyến VNCH. Tiếp viện cho Lữ đoàn Dù bị chận đánh, lính Dù giữ được Khánh Dương một tuần thì thất thủ ngày 2-4, Lữ đoàn tan rã trước áp lực quá mạnh của BV chỉ còn hơn 300 lính chạy về Nha Trang. Việt Cộng chiếm trung tâm huấn luyện Dục Mỹ, Ninh Hoà.
         Nha Trang đã trở thành vô chính phủ như nhiều thành phố khác, tù quân lao phá ngục trốn ra lấy súng của đám tàn quân bỏ chạy bắn loạn xạ, cướp bóc dữ dội như thời thượng cổ. Trưa 2-4 Trung tướng Phạm Quốc Thuần chỉ huy trưởng Trung tâm Dục Mỹ đến Bộ tư lệnh Quân  đoàn gặp Tướng Phú hai người bàn bạc với nhau  chừng 15 phút rồi cùng đi tới phi trường Nha Trang. Tướng Phú lên trực thăng bay đi tìm các đơn vị, đến chiều trở lại Nha Trang ông báo cáo cho Bộ Tổng tham mưu biết không liên lạc được với đơn vị nào. Bộ Tổng tham mưu ra lệnh cho ông phối hợp Hải, Không quân để tổ chức phòng thủ phi trường Nha Trang.
         Nửa tiếng sau Tướng Phú bay khỏi Nha Trang, ông không nói gì với Ban Tham mưu Quân đoàn hay bàn thảo kế hoạch gì cả, quá tuyệt vọng ông bèn bay về Sài Gòn nhập bệnh viện Cộng Hoà ngày 4-4. Tướng Phú không còn tinh thần để chỉ huy vả lại Quân đoàn 2 của ông cũng chẳng còn gì cả. Khi ấy Ban Tham mưu Quân đoàn 2 bèn quyết định di tản khỏi Nha Trang. Từ 27, 28-3 các đơn vị của Lâm Ðồng, Tuyên Ðức rút về Phan Rang để tháo chạy về miền Nam.
        Làn sóng tỵ nạn miền Trung từ Quân khu 1, và phía Bắc Quân khu  2 đổ về Phan Rang khiến cho cả tỉnh hốt hoảng  nhập bọn chạy về phía Nam. Ðịa phương quân, cảnh sát, công chức Phan Rang… nhiều người bỏ đơn vị để chạy loạn. Tỉnh trưởng Ðại Tá Trần Văn Tư cho phá hủy máy móc và một số cơ sở quan trọng rồi rút về Phan Thiết.
        Bộ Tổng tham mưu khi ấy bèn lấy Phan Rang và Phan Thiết, hai tỉnh cuối cùng của Quân đoàn 2 đem sáp nhập vào Quân khu 3 kể từ ngày 4-4-1975, Quân đoàn 3 cũng gửi Lữ đoàn 2 Nhẩy Dù ra tăng cường. Nha Kỹ Thuật, Phòng 7 Bộ Tổng tham mưu gửi nhiều toán thám sát vào hai vùng Ðông Bắc và Tây Bắc Phan Rang để dò thám hoạt động của Cộng quân. Bộ Tư lệnh tiền phương của Quân đoàn 3 do Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy đặt tại phi trường Phan rang, Tỉnh trưởng Phan Rang được triệu hồi để tổ chức lại hành chánh và phòng thủ tỉnh. Trật tự được vãn hồi, tại phía Tây Phan Thiết Sư đoàn 7 Việt Cộng đang gây áp lực, toán thám sát cho biết địch tập trung 2 Sư đoàn 3 và 10 tại Cam Ranh cách Phan Rang 45 km.
          Quân đoàn 3 lại cho rút Lữ đoàn Dù về lại vùng 3 để phòng thủ Quân khu, thay vào đó cho tăng cường Phan Rang một Trung đoàn của Sư đoàn  22 mới trang bị, bổ sung, một Liên đoàn Biệt động quân, một Tiểu đoàn thiết giáp. Cuộc thay đổi quân sắp hoàn tất thì ngày 4-4 Việt Cộng tấn công dữ dội, Tướng Nghi xin giữ lại một tiểu đoàn Dù. Lực lượng Ninh Thuận, Phan Rang bây giờ gồm: một tiểu đoàn Dù, một Trung đoàn bộ binh, một Liên đoàn BÐQ, 4 tiểu đoàn ÐPQ, một Chi đoàn Thiết giáp M-113, Sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm 2 khu trục hạm, Duyên đoàn 27, một Giang pháo hạm, một Hải vận hạm và một số tầu yểm trợ.
         Phan Rang phố xá vắng tanh, dân chúng đã di tản về Phan Thiết. Ngày 14-4  Sư đoàn 3 và 10 Việt Cộng tấn công tuyến phòng thủ Phan Rang theo Quốc lộ 1 và 11 đánh vào phi trường, tại đây tiểu đoàn Dù giao chiến với Cộng quân, địch chết bỏ xác 100 tên. Ngày 15-4-1975 Ông Trần Văn Ðôn, Phó Thủ tướng đặc trách Quốc phòng và Tướng Toàn thị sát mặt trận. Bị quân trú phòng đánh trả ác liệt BV cho tăng thêm Sư đoàn 325 và nhiều xe tăng, đại bác tấn công phi trường Phan Rang đến trưa thì phòng tuyến vỡ, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh mặt trận, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang tư lệnh Sư đoàn 6 không quân, Ðại tá Nguyễn Thu Lương Lữ đoàn trưởng Dù được ghi nhận mất tích. Toàn tỉnh Ninh Thuận mất ngày 16-4, hai hôm sau ngày 18-4 mất Phan Thiết, Quân khu 2 hoàn toàn thất thủ.
         Cuộc triệt thoái Cao nguyên đã khiến cho Quân đoàn 2 mất gần hết chủ lực quân, chỉ còn Sư đoàn 22 tại vùng duyên hải mặc dù chiến đấu rất anh dũng nhưng không thể chống lại 5 sư đoàn Cộng quân, cuối cùng toàn bộ Quân khu đã rơi vào tay Cộng Sản. Nhiều người đổ choTướng Phú đã làm mất Ban Mê Thuột và sụp đổ Quân đoàn 2, Phạm Huấn cho rằng ông chưa đủ khả năng nắm giữ một quân đoàn, có người cho Tướng Phú đã vận động để được làm Tư  lệnh Quân đoàn, một chức vụ không tương xứng với tài thao lược của ông… Ngoài ra theo Phạm Huấn tại Quân đoàn 2 có những tị hiềm cá nhân, kình chống nhau giữa những phụ tá của Tướng Phú, của những phe cánh trong quân đội và giữa Tướng Phú với những ông Tướng văn phòng ở Sài Gòn của Bộ Tổng Tham mưu. Quân đoàn 2 chia rẽ nội bộ, Tướng Phú không được thuộc hạ ở Quân khu 2 nể trọng và có cảm tình, ông lại không được Tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên nể nang, thù trong giặc ngoài, tất cả cũng đã làm suy yếu phần nào nội bộ của phe ta.
       “Vì sự đố kỵ, bất mãn, bất lực và vô kỷ luật của cả những sĩ quan cao cấp và có trách nhiệm nhất đưa đến sự thảm bại nặng nề trong cuộc rút quân khỏi Cao nguyên.
       Phạm Huấn (CTTCN, trang 125)
        Sự thực Tướng Phú có một phần trách nhiệm để mất Ban Mê Thụôt vào tay Cộng quân vì ông đã mắc lừa kế nghi binh của địch, nhưng sự sụp đổ Quân đoàn 2 như chúng ta đã thấy Tướng Thiệu, Tổng Tư lệnh là người chịu trách nhiệm nhiều nhất vì kế hoạch của ông đã có nhiều lỗi lầm tai hại.  Tướng Phú đã nhìn thấy cái nguy hại của triệt thoái và đã xin ở lại tử thủ, ông sẵn sàng chết tại Pleiku để giữ đất, nếu được yểm trợ về tiếp liệu ta có thể cầm cự cho tới mùa mưa, lúc ấy hai bên không thể giao chiến được nữa nhưng ông Thiệu một mực bắt phải lui binh
         Theo dư luận chung các nhà quân sự, chính khách cũng như giới truyền thông báo chí ai nấy  đều kết án ông Thiệu là người đã gây lên tấn thảm kịch đầy máu và nước mắt này, có người nghi ngờ ông Thiệu đã nhận lệïnh của Mỹ giật sập miền Trung.
         “Rõ ràng là lệnh giật sập miền Trung là do từ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, có điều câu hỏi đặt ra ở đây là Thiệu giật sập miền Trung là do nghe lệnh của Mỹ hay tự ý một mình hành động?
               .  .  .  .  .  .  .   .    .      .   .
        “Trước khi vùng Một thất thủ thì ở vùng 2, toàn bộ quân đoàn 2 đóng tại Pleiku được lệnh di tản về Tuy Hoà bằng liên tỉnh lộ số 7. Ðại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng quân đoàn 2, sau này ra Hải ngoại có lên một đài phát thanh và có kể chuyện lại rằng, khi nhận được lệnh rút quân, một tướng lãnh của Quân đoàn 2 là tướng Cẩm đã nhận xét với ông “Thôi rồi bàn cờ đã sắp xếp xong, chẳng còn gì để nói chuyện đánh đấm nữa” Một thiếu tá pháo binh  bầy tỏ sự tức giận với ông Lý “ Súng đạn còn đầy đủ, quân lính còn đông, sao lại bỏ chạy như thế này”. Chuyện kể của Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 Lê Khắc Lý cho thấy khi Quân đoàn 2 được lệnh rút từ Pleiku về Tuy Hoà thì coi như số phận của Quân đoàn 2 cũng được sắp xếp xong cho phù hợp với kế hoạch giật sập vùng 1 và vùng 2 của Sài Gòn”
          Trần Việt Ðại Hưng (Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam Năm 1975).
         Những ý kiến trên đây chỉ là giả thuyết.
          Phạm Huấn cũng cho rằng các Tướng lãnh đạo Thiệu, Khiêm, Viên đã tỏ ra không có tinh thần trách nhiệm can đảm, không dám đi tới tận mặt trận như các tướng ngoại quốc De Lattre, Navarre đã xuống Vĩnh Yên, Hoà Bình, Ðiệïn Biên Phủ hoặc như Westmoreland lên Cao Nguyên khích lệ tinh thần binh sĩ, không ông tướng nào có được hành động anh hùng mà chỉ ngồi văn phòng ra lệnh. Các ông tướng Việt Nam chỉ thích gửi con đi du học nước ngoài không có được tinh thần như De Lattre đưa con trai ra mặt trận đóng tại Ninh Bình, Ðô đốc Sharps, tư lệnh Thái Bình Dương để con trai, một thiếu tá phi công tham gia chiến  trận.
         Nhà báo, dân biểu Trần Văn Ân trong lời Bạt cho cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên Năm 1975 viết.
        “Đây là cuốn sách đầu tiên đã nói lên được cái thân phận vừa đau thương vừa hào hùng của người lính Cộng Hoà thấp cổ bé họng, đã mô tả được những uất nghẹn của của người Sĩ quan Việt Nam nhìn thấy thảm cảnh Quân đội tan hoang mà bó tay chịu chết, và cũng đã phơi bầy được cái hậu trường tàn nhẫn, hèn nhát và bất nhân của nhóm người lãnh đạo Quốc Gia và chỉ huy Quân đội.
       Ba ông tướng cao cấp khác, có mặt tại Hội Nghị Cam Ranh cùng với ông Thiệu, đã hoàn toàn im lặng, không góp bàn gì về cái quyết định giết người của ông Thiệu cả”
         (CTTCN 1975, trang 265, 266)
        Kế hoạch của ông Thiệu và tập đoàn Tướng lãnh đã bị chỉ trích gay gắt như sau:         
         “Người đọc cũng thấy rõ sự tàn nhẫn, lạnh lùng của TổngThống Thiệu khi ban hành thứ mệnh lệnh tự sát choTướng Phú, và thái độ im lặng giả dối, sống chết mặc bay của những tướng hiện diện….
                  .    .  . . .  .  .  .  . .  . .   .  .  .        
       Câu chuyện Phạm Huấn kể về cái Hội Nghị Cam Ranh còn đặt ra một khía cạnh khác của nhân tình thế thái: đó là khía cạnh đạo đức của mệnh lệnh. Trong suốt buổi họp từ ông Thiệu, ông Khiêm tới ông Viên, Ông Quang, không một ai đề cập tới số phận của hằng triệu dân, hàng trăm nghìn Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân và gia đình binh sĩ sẽ bị bỏ rơi lại, và hàng chục ngàn xác chết Quân Dân chắc chắn sẽ đầy rẫy dọc theo con đường tử lộ. Ông Thiệu phân tách tình hình rồi lạnh lùng chỉ thị rút chủ lực quân thật nhanh, thật bí mật về miền Duyên Hải… Các Ông Tướng khác giữ im lặng, thản nhiên như mọi việc đã được quyết định rồi và không còn gì để bàn cãi nữa”
         Trần Văn Ân (CTTCN 1975 trang 267)
         Những lời kết án của Trần văn Ân , Trần Việt Ðại Hưng, của Phạm Huấn… cũng như của bao nhiêu người khác nữa thể hiện nỗi uất hận của quân dân đối với tập đoàn lãnh đạo tham ô và cái Hội Nghị Cam Ranh của họ.
         “Lịch sử sẽ ghi những gì về Hội Nghị Cam ranh và về các tướng lãnh đạo của nền Ðệ Nhị Cộng Hoà? Sử liệu có lẽ sẽ cần năm ba chục năm để hoàn tất. Nhưng ngay bây giờ thì sử xanh đã truyền tụng quá nhiều. Sử xanh ghi rằng. “Hội Nghị Cam Ranh ngày 14.3.1975 và cuộc triệt thoái Cao nguyên ngày 17.3.1975 không phải là khởi đầu sụp đổ của chế độ Ðệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam. Hai biến cố này thực sự là dứt điểm vụt tắt cuối cùng của cơn hấp hối đã dai dẳng nhiều năm của chế độ dũng phu Nguyễn Văn Thiệu-Trần Thiện Khiêm trong đó một khối quân đội gồm Ða Số Tướng lãnh và quân sĩ tài giỏi, anh hùng đã bị lợi dụng, thao túng và chết uổng bởi một nhóm nhỏ Tướng lãnh cầm quyền tham ô, bất lực và thiếu đạo đức, với sự tiếp tay của một thiểu số người vô tài bất hạnh; kể cả một số khoa bảng thời cơ và bịp bợm.
         Tiền bạc của nhân dân mà họ mang ra ngoại quốc có thể giúp họ sống sung túc tới trăm tuổi là cùng. Nhưng tội lỗi của những Tướng lãnh đạo sẽ được lịch sử ghi rõ đời đời. Lương tâm đui chột của họ có thể làm ngơ, nhưng lịch sử bao giờ cũng sáng suốt và tiếng nói dân gian bao giờ cũng công bình.
        Liệu rồi đây, khi họ nằm xuống, những nấm mồ của họ có sẽ được chôn tại miền nắng ấm quê nhà hay sẽ phải nằm cô đơn giữa một miền tuyết lạnh Mỹ Châu, Âu Châu? Liệu rồi đây nhân dân có đủ khoan dung cho phép họ nằm cạnh những nấm mồ của các chiến sĩ anh hùng đã chết trên chiến địa, đã tự sát khi bại trận hay đã chết trong lao tù? Những anh hùng này đã hy sinh cho một chính nghĩa cao đẹp nhưng bị chết uổng vì một Lãnh Ðạo tồi tàn”
         Trần Văn Ân (CTTCN trang 272).
         Tướng Phú phải chịu trách nhiệm phần nào trong cuộc hành quân phá sản và làm sụp đổ Quân đoàn. Là người tự trọng ông đã can đảm tự xử lấy bản thân vì đã không chu toàn trách nhiệm. Ký giả Trần Văn Ân đã luận bàn về tư cách của người chiến sĩ anh hùng thà chết vinh còn hơn sống nhục như sau.
         “Tướng Phú đã nằm xuống. . .  . với đầy đủ khí tiết của một cấp chỉ huy đã dám tự xử mình khi trách nhiệm không hoàn tất.
        Tại sao những Tướng lãnh đạo nền Ðệ II Cộng Hoà lại không thấy được tội lỗi của mình và không dám tự xử? Phải chăng đó là sự cách biệt giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân, giữa người yêu nước thật sự và người làm chính trị vì tham vọng cá nhân? Phải chăng đó là sự cách biệt giữa Tướng tác chiến Phạm Văn Phú và các Tướng  chính trị Nguyễn Văn Thiệu Trần Thiện Khiêm?
        Ước mơ của tôi là một ngày nào quê hương được giải phóng, tôi sẽ về lại Việt Nam thăm mộ Tướng Phú và các chiến sĩ vô danh khác, thắp nén hương tưởng nhớ những anh hùng đã vị quốc vong thân, và xám hối về những tội lỗi của mình”
        (CTTCN 1975 trang 273)
        Trọng Ðạt

Thất bại lớn nhất của Kissinger PDF Print E-mail
Tác Giả: Trọng Đạt   
Thứ Tư, 10 Tháng 10 Năm 2012 18:32
Kissinger chuẩn bị ra đi rồi bảo “Tôi sẽ không trở lại miền nam VN, đây là thất bại lớn nhất trong đời ngoại giao của tôi”
Bốn mươi năm trước đây, bản Sơ thảo Hiệp định Paris thành hình vào thượng tuần tháng 10/1972, đánh dấu khúc quành quan trọng của cuộc hòa đàm.
Những ngày bế tắc.
Nixon nhậm chức Tổng thống đầu năm 1969, mấy tháng sau Henry Kissinger được giao nhiệm vụ thương thuyết với phái đoàn Cộng sản Việt Nam tại cuộc hòa đàm Paris. Việc thương thuyết thực sự do mật đàm giữa Kissinger và Lê đức Thọ, hội nghị luôn bị bế tắc vì những đòi hỏi của Bắc Việt rất quá đáng. Sau này TT Nixon cho biết (No More Vietnams trang 152) phía BV đưa ra những điều kiện tiên quyết: Đòi Mỹ rút đơn quân phương, loại bỏ chế độ Thiệu, lập chính phủ Liên hiệp tại miền nam VN, Mỹ phải cắt viện trợ quân sự kinh tế VNCH. Nếu thỏa mãn những điều kiện này coi như Nixon và Kissinger phải đầu hàng Cộng Sản không điều kiện.
Tại sao BV chỉ là một nước nhược tiểu và lạc hậu lại có thể đòi hỏi ngang ngược với một siêu cường như vậy? TT Nixon đã cho ta câu trả lời. Trang 127 cuốn sách kể trên ông cho biết hành động biểu tình, chống chiến tranh dữ dội của đám phản chiến nhất là sinh viên bạo động đã khuyến khích BV không chịu nghiêm chỉnh đàm phán. Theo ông bọn này đã vô tình nối giáo cho giặc kéo dài chiến tranh, làm lợi cho CS, đại diện Mỹ tại Paris nhiều lần bị đại diện CS chửi bới hỗn hào chỉ vì Hành pháp bị phản chiến và Quốc hội chống đối. Phía Hà Nội khai thác triệt để nội tình rối loạn của nước Mỹ, họ thừa cơ nước đục thả câu.
Theo Nixon, No more Vietnams, trang 126-127 năm 1968 phản chiến nói chung bất bạo động như biểu tình, đốt thẻ trưng binh nhưng sang năm 1969 khi Nixon lên làm TT đã tiến tới bạo động, đổ máu, sinh viên bắn cảnh sát, dùng dao uy hiếp ban giám đốc nhà trường, bắn súng đốt nhà, đập cửa kính, ném bom lớp học… Năm 1969-1970 có 1,800 cuộc chống đối biểu tình, 7,500 người bị bắt, 247 vụ đốt nhà, 462 người bị thương, trong số này 2/3 là cảnh sát, 8 người chết. Bạo lực không chỉ ở trường học mà còn lan ra toàn quốc. Từ tháng 1/1969 tới tháng 2-1970 có 40,000 vụ ném bom, âm mưu ném bom hoặc đe doạ ném bom hầu hết có liên hệ tới cuộc chiến, gây thiệt hại 21 triệu về tài sản, 43 người chết, mấy trăm người bị thương.
Tình hình đàm phán rất trì trệ suốt từ tháng 4/1969 cho tới tháng 8/1972, suốt ba năm rưỡi Hà nội vẫn đòi Mỹ đơn phương rút, lập chính phủ lên hiệp, ông Thiệu phải ra đi. Sau này mới biết những đòi hỏi kể trên là do Mặt Trận Giải Phóng tức Việt Công yêu cầu Hà nội đưa ra, những điểm này được đề cập trong cuốn No Peace, No Honor trang 176, 177, tác giả Larry Berman. Từ đầu chí cuối TT Nixon và Tiến sĩ Kissinger cùng thỏa thuận không loại bỏ TT Thiệu, trước hết vì thể diện và danh dự cũa Mỹ vả vì Nixon ủng hộ Thiệu cho rằng tại miền nam VN không ai chống Cộng bằng ông ta. Mặc dù bị Quốc hội và phản chiến áp lực sớm tìm hòa bình, Nixon Kissinger vẫn cứng rắn với phía CS và hòa đàm tiếp tục kéo dài.
Tại Paris hàng tuần Henry Kissinger thường đánh điện về tòa Bạch ốc để xin ý kiến của Nixon, đối với những quyết định quan trọng ông phải bay về Mỹ xin lệnh Tổng thống. Trong cuộc mật đàm ngày 14/8/1972 tại Paris , Kissinger bắt đầu thấy dấu hiệu BV muốn bỏ điều kiện tiên quyết đòi lật đổ chính phủ Thiệu, ông tỏ vẻ viết trong báo cáo gửi TT Nixon.
“Chúng ta tiến gần tới thỏa hiệp hơn bao giờ hết”
(We have gotten closer to a negotiated settlement than ever before )
Walter Isaacson, Kissinger A biography, p. 442
Sở dĩ Thọ dần dần phải thay đổi lập trường, nhượng bộ nhiều khoản chính nhất là bỏ đòi hỏi lật đổ chính phủ Thiệu và lập chính phủ Liên Hiệp vì Bộ chính trị BV không hy vọng gì Nixon – Kissinger loại bỏ Thiêu. Đã có lần Kissinger nói với Lê đức Thọ và Xuân Thủy tại hòa đàm Paris “Các ông đừng bao giờ hy vọng Tổng thống của chúng tôi lật đổ Thiệu”
BV chấp nhận những khó khăn do chính sách cứng rắn của Nixon nhất là trong trận Tổng tấn công mùa hè đỏ lửa 1972, Cộng quân bị thảm bại do sự yểm trợ tích cực của Nixon, họ bị thiệt hại nặng, gần 100 ngàn quân bị giết và 700 xe tăng bị bắn cháy.. do đó không thể đòi hỏi ngang ngược như trước. Ngoài ra theo Henry Kissinger nhận xét (trang 346, cuốn Kissinger của Marvin Kalb và Bernard Kalb) nhờ áp lực của Nga mà BV thay đổi lập trường, trong cuộc hội kiến giữa Kissinger với Brezhnev tại Moscow tháng 9/1972, Nga đang mất mùa trầm trọng rất cần mua lúa mì của Mỹ.
Nhưng lý do chính mà Hà nội phải nhượng bộ vì qua tin tức tranh cử, họ biết chắc Nixon sẽ tái đắc cử vào ngày 7/11/1972 vì ông vượt quá xa đối thủ McGovern qua thăm dò, nếu Nixon tái đắc cử thì ông sẽ cứng rắn hơn nên BV muốn ký sớm trước bầu cử nghĩa là ký vào tháng 10.
Phía VNCH ông Thiệu chống lại hòa đàm cho rằng Mỹ và BV không thể áp đặt Hiệp định trên miền nam VN. Tại phiên họp ngày 26, 27/9/1972 , Lê Đức Thọ đòi loại chính phủ Thiệu, lập chính phủ Lâm thời hòa giải dân tộc, Kissinger không chấp nhận.
Dần dần BV nhượng bộ, Kissinger nói ngày 8/10/1972 sẽ thỏa thuận đi tới ký kết.
Lạc quan và thất vọng.
Tại buổi họp 9/10/1972 những đề nghị của Hà Nội coi như đã nhượng bộ gần hết những khoản chính mà họ đã đòi từ mấy năm trước tới nay: Không đòi Mỹ rút đơn phương, không lập chính phủ Liên hiệp tại miền nam VN, không đòi lật đổ TT Thiệu, không đòi Mỹ cắt viện trợ quân sự kinh tế cho VNCH, tuy nhiên có một vấn đề mà Mỹ không thể nào đòi được, BV không chịu rút khỏi miền nam. Kissinger mừng rỡ, ông đã hằng mong ước cái ngày này nhất là thấy Hiệp định sẽ thành hình trước bấu cử để giúp Nixon và để lập công cho chính mình. Henry dự trù ngày 12/10/1972 sẽ về Mỹ thảo luận với Nixon, trở lại Pháp từ 15/10 tới 18/10 để bàn thảo thêm, kế đó sang Sài Gòn thảo luận với TT Thiệu nếu VNCH chấp thuận sẽ đi Hà Nội 19/10 rồi về Mỹ 21/10 sau đó tuyên bố sắp có hòa bình, có thể ký vào ngày 25, 26/10/1972, hai tuần trước bầu cử Tổng thống Mỹ.
Kissinger tin là TT Thiệu sẽ chấp thuận Sơ thảo Hiệp định do ông và Lê đức Thọ soạn ra vì BV đã nhượng bộ nhiều điểm chính: Ông Thiệu vẫn làm Tổng thống, giữ được chính quyền, không liên hiệp.. nhưng sự chủ quan của Kissinger đưa ông tới thất bại nặng nề nhất trong sự nghiệp ngoại giao của mình. Nay gặp thử thách lớn là bàn với đồng minh sao cho họ chấp nhận sơ thảo Hiệp định.
Hôm 9 và 10/10/1972 họp tiếp 16 tiếng mỗi ngày. Hai bên thỏa thuận dần dần và lên thời khóa biểu: 18/10 ngưng oanh tạc và phong tỏa Hải phòng ; 19/10 Kissinger và Lê Đức Thọ ký tắt Sơ thảo tại Hà Nội sau khi thỏa thuận với TT Thiệu tại Sài Gòn; 26/10 Bộ trưởng ngoại giao của các nước sẽ ký; 27/10 ngưng bắn tại chỗ sẽ có hiệu lực trên toàn cõi nam VN. Theo Henry Kissinger, Lê Đức Thọ muốn ký Hiệp định cuối tháng 10/1972 có lẽ ông ta nghĩ Nixon sẽ linh động hơn trước bầu cử.
Tối 9/10 Kissinger thức suốt đêm để nghĩ sự đối đáp với đề nghị của Hà Nội, sự trao đổi hai bên cho thấy cả hai cùng nhượng bộ. BV không đòi điều kiện ngưng bắn tiên quyết dựa trên vấn đề chính trị của chính phủ Thiệu. Nước Mỹ đề nghị ngưng bắn tại chỗ đổi lấy tù binh và rút hết quân.
Tối 12/10 Kissinger và phụ tá Haig về Hoa Thịnh Đốn, ông ta nói với Nixon:
“Tổng thống đã làm được 3 trên 3, Well, you’ve got 3 for3”
Ý nói đã giải quyết được ba vấn đề ngoại giao lớn: Hòa với Nga, bang giao với Trung Cộng và hòa bình cho VN. Kissinger nói với TT về ngày ký kết đã gần kề khiến Nixon nghi ngờ, Henry còn cho biết Lê đức Thọ sau cùng bảo “Sau bốn năm thương thuyết nay là lúc tái lập hòa bình” . Nixon ra vẻ không tin lắm khiến ông này tức mình lôi hồ sơ ra đưa cho TT và nói đã đòi được nhiều điểm.
Nixon mừng quá, tối ấy ông sai mở chai rượu Lafite-Rothschild để thầy trò cùng uống mừng hòa bình, ngày mà chính phủ và cả nước Mỹ trông đợi đã tới. Kissinger chuẩn bị để ký Hiệp định trước bầu cử Tổng thống Mỹ 7/11/1972, tối 16/10 ông sẽ trở lại Paris, 17/10 sẽ bàn với Xuân Thủy một số vấn đề chưa giải quyết sau sẽ đi Sài gòn, ngày 19/10 và 20/10 sẽ được TT Thiệu chấp thuận Sơ thảo Hiệp định. Kissinger khoái trá nói với Nixon kỳ này Hà Nội nghiêm chỉnh đàng hoàng lắm. Khi Henry rời Mỹ đi Pháp, Nixon nói cứ đàm phán cho tốt đẹp, không cần để ý tới bầu cử. Kissinger họp với Xuân Thủy, BV cho biết việc thả tù chính trị CS tại miền nam VN sẽ có liên quan tới việc thả tù binh Mỹ, Kissinger cứng rắn bác bỏ.
Kissinger rời Paris tới Sài Gòn buổi tối 18/10, ông hy vọng chỉ ở lại Sài gòn hai ngày là xong. Đoàn tùy tùng đi theo ông gồm Đại sứ Bunker, Tướng Abrams, cựu Tư lệnh, Đô đốc Gaylor, Tướng Weyand… Phía VNCH gồm các ông bí thư Hoàng Đức Nhã, cố vấn ngoại vụ Nguyến Phú Đức, Tổng trưởng Trần Văn Lắm, Đại sứ Trần Kim Phượng. Cuộc họp từ 9 giờ sáng kéo dài 3 giờ ngày 19/10. Theo tác giả Mervin và Bernard Kalb (Kissinger trang 361) dân Sài gòn tại các tiệm Brodard, La Pagode, Givral… bàn về hai số cuối cộng lại thành 9: 1945 Nhật đầu hàng , 1954 chấm dứt chế độ thực dân Pháp, đảo chánh ông Diệm 1963, còn nay 1972 sẽ có biến cố gì?
Kissinger đưa cho TT Thiệu bản sao sơ thảo Hiệp định và giải thích những điểm chính nhấn mạnh những điểm chính để VNCH an tâm:
1- Ông Thiệu vẫn làm TT, có quyền phủ quyết trong Hội đồng hòa giải dân tộc;
2- BV phải từ bỏ xâm lăng trong tương lai
3- Mỹ còn căn cứ tại Thái Lan và Hạm đội Bẩy tại Thái bình dương để bảo vệ miền nam VN
4- Viện trợ kinh tế quân sự tiếp tục
5- Mỹ có thể thỏa hiệp với Nga-Trung Cộng hạn chế viện trợ cho BV về quân sự.. Sau cùng thỏa ước sẽ cho Mỹ rút quân, lấy tù binh về nước, tiếp tục yểm trợ Sài gòn. Henry cho đó là một thỏa ước rất lợi cho ta nhưng ông dấu không cho TT Thiệu biết sẽ đi Hà Nội và sẽ ký ở Paris và không cho biết những vấn đề chưa giải quyết xong.
Sau khi nghe, ông Thiệu xin một bản sao, buổi họp kết quả xấu. Bí thư Hoàng Đức Nhã đòi bản tiếng Việt, Kissinger đưa bản Việt ngữ do BV gửi ông. Nhã thấy Hiệp định như đầu hàng, VNCH có cảm tưởng như bị phản bội. Bản văn nói đến ba nước Việt, Miên Lào, Việt Nam coi như một nước, Nhã nghi ngờ Hội đồng hòa giải dân tộc là chính phủ Liên hiệp trá hình, ông ta chú ý sự đóng quân của BV không rõ ràng, Khu phi quân sự (DMZ) bị xóa, ông Nhã ghi 64 điểm cần chi tiết hóa trước khi thành Hiệp định. Ông Thiệu tiếp Tiến sĩ Kissinger bề ngoài vui vẻ nhưng trong lòng tức giận vì ông ta không thật lòng, dối gạt Sài Gòn.
Theo tác giả Walter Isaacson (Kissinger A Biography trang 452), Kissinger không biết một điều là TT Thiệu đã có một tài liệu 10 trang do tình báo VNCH lấy được từ một hầm chỉ huy của một chính ủy tại Quảng Tín và đã được mang về dinh Độc lập ngay nửa đêm Henry tới VN, tức ngày 18/10. Ông Thiệu đọc và biết đó là tờ huấn thị chung về ngưng bắn, gồm một bản Sơ thảo Hiệp định do Kissinger thỏa thuận với Lê đức Thọ. Ông Thiệu tức giận cho đó là sự phản bội trong khi Kissinger chưa nói cho VNCH biết mà nó đã được phát cho cán bộ CS . TT Thiệu càng tức giận thấy họ đàm phán sau lưng mình, ông đã nhờ Kissinger trong nhiều tháng cho Sài Gòn được đám phán trực tiếp với Hà Nội hơn là bị coi như bù nhìn.
“Chúng tôi đòi được coi như thành viên. Thực ra chúng tôi cũng chẳng được hỏi ý kiến”
(We asked to be treated as partners. Instead, we had not even been consulted)
Walter Isaacson, Kissinger A Biography trang 453
Theo Larry Berman sau đó ngày 20/10 Henry Kissinger và nhóm làm việc họp tại nhà ông Trần văn Lắm đường Hồng Thập Tự Sài Gòn (theo Marvin Kalb buổi họp này vào ngày 21/10). H Đ Nhã hỏi 64 điểm cần được soi sáng, Kissinger cho là có 8 điểm quan trọng. Trong buổi này Kissinger và Hoàng Đức Nhã tranh cãi căng thẳng . Tác gỉa Larry Berman nói về phiên họp này trong No Peace No Honor trang 164, 165, 166…
Sau phiên họp, ông Nhã nói với TT Thiệu cần có kế hoạch đối phó với Kissinger, ông ta đến Sài gòn phản bội đồng minh và khuyên TT Thiệu hủy bỏ buổi họp với.
Kissinger dự trù hôm đó. Ông Thiệu nghe theo Nhã không tiếp Kissinger khiến ông này tức quá bảo:
“Tôi là đặc phái viên của TT Hoa Kỳ, các ông không thể coi tôi như trẻ con được, tôi muốn được gặp TT Thiệu tối nay”
Bí thư Nhã đáp.
“Thưa ông chúng tôi không coi ông như trẻ con, TT của chúng tôi đang họp với cấp chỉ huy quân sự..”
Kissinger tức giận vì một ký giả De Borchgrave của tờ Newsweek ở Hà nội phỏng vấn Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cho biết sẽ ký Hiệp định ngày 31/10, thỏa thuận sẽ đạt được, Mỹ rút quân , lấy tù binh về, sẽ thành lập chính phủ Liên hợp không có Thiệu. Sự thực người ký giả và nhiều người không biết là Hà Nội đã bỏ đòi hỏi chính phủ Liên hiệp trong đi đêm với Kissinger. Sáng 22/10, điện thoại từ tòa Đại sứ VNCH tại Mỹ cho ông HĐ Nhã biết báo đăng bài của ký giả De Borchgrave phỏng vấn Thủ tướng Phạm văn Đồng có nói về chính phủ Liện Hiệp ba thành phần chuyển tiếp.
Khi tiếp Tiến sĩ Kissinger và Đại sứ Bunker, TT Thiệu nói không thể chấp nhận Hiệp định này, ký kết tức là đầu hàng. Ông nói có ba điều bác bỏ chính, trước hết Hiệp định chỉ là Liên hiệp, kế đó không chấp nhận BV ở lại miền Nam, thứ ba khu phi quân sự không thể để BV qua lại, chúng tôi không ký. Ông cho biết ông không tin những buổi đi đêm với CS, chúng tôi hiểu rõ về CS, họ rất xạo.
TT Thiệu hỏi Tiến sĩ Kissinger : “Tại sao ông tin được Sơ thảo này?” Kissinger nói “Tôi tin là thảo ước tốt”
(Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger, trang 372, 373)
Kissinger đi Miên Lào ngày 21/10 (Larry Berman nói là ngày 21, Kalb nói ngày 22) rồi về VN gặp lại TT Thiệu. Buổi họp gồm Kissinger, Thiệu, Bunker, Nhã bắt đầu vào lúc 5 giờ chiều. Ông Thiệu cho Sơ thảo còn tệ hơn Hiệp định Geneve 1954 và nói “Mỹ đã thông đồng với Nga, Trung Cộng bán đứng VN, nếu các ông công nhận BV ở đây thì người dân miền Nam sẽ nghĩ chúng tôi bị Mỹ bán đứng và BV thắng trận” (No Peace No Honor trang 167)”. TT Thiệu bảo “Tiến sĩ Kissinger nói Lê Đức Thọ bật khóc , chúng tôi mới là những người xứng đáng khóc nhất là tôi, tôi biết tôi bị phản bội, chúng tôi tiếp tục chiến đấu”
Kisinger nói tôi đã thành công ở Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh, Paris nhưng thất bại ở đây.
Thiệu nói Hiệp định này bất lợi cho VNCH, nếu chúng tôi ký chỉ trong 6 tháng miền Nam sẽ bị tắm máu. Henry ám chỉ cho Thiệu biết Quốc hội sẽ cắt viện trợ, Thiệu tỏ vẻ khinh rẻ lý luận này và nói chúng tôi không chịu ký. Kissinger nói Mỹ có thể ký riêng với BV, Thiệu không nhượng bộ , chúng tôi thà chiến đấu thêm 6 tháng cho tới khi kiệt quệ tiếp liệu còn hơn ký rồi chết ngay.
Kissinger chuẩn bị ra đi rồi bảo
“Tôi sẽ không trở lại miền nam VN, đây là thất bại lớn nhất trong đời ngoại giao của tôi”
HĐ Nhã nói: “Rất tiếc chúng tôi phải chiến đấu cho đất nước của chúng tôi”
(theo Marvin Kalb and Bernard Kalb; Kissinger, trang 374).
Tối ấy tại tư dinh Đại sứ, Kissinger đánh điện cho TT Nixon nói về sự bế tắc và khuyên ông nên ký Hiệp định riêng rẽ với Hà Nội nếu Sài Gòn còn trì hoãn. Trước sự ngạc nhiên của Kissinger, Nixon bác bỏ, ông không cần ký trước bầu cử và loại trừ việc ký kết riêng ít ra trong lúc này. Nixon nói Kissinger đừng ép Thiệu, hòa nhã và trấn an Thiệu rằng Mỹ – Việt vẫn là đồng minh sát cánh bên nhau. Sở dĩ Nixon không cần ký gấp trước bầu cử Tổng thống 7/11/72 vì qua thăm dò ông vượt rất xa đối thủ McGovern, ông không muốn mang tiếng vì dùng Hiệp định để lấy phiếu. Ngoài ra Nixon không muốn ký Hiệp định mà không có Thiệu, một đồng minh. Ông không muốn vội ký với Thọ, một kẻ thù (Marvin Kalb, Kissinger, trang 422)
Henry ngạc nhiên khi Thiệu nghi ngờ ông và Tướng Haig thông đồng chống VNCH, ông cho biết là đại diện của Tổng thống Mỹ, chưa bao giờ ông bị người ta đối xử tệ như thế. Kissinger nói:
“Chúng tôi đã chiến đấu bốn năm, đã dồn hết mọi nỗ lực ngoại giao để bảo vệ cho một quốc gia, sao ông lại nói đó là chuyện cay đắng?”
(No Peace No Honor trang 168).
Hai bên bất đồng ý kiến với nhau, tình trạng rất xấu, mọi sự hy sinh và mọi nỗ lực quả tới nay gần như hỏng.
Nixon gửi thư trấn an Thiệu: Chúng tôi đã họp với Nga, Trung Cộng để nói họ áp lực Hà Nội. Tôi tin Sơ thảo Hiệp định sẽ giử tự do cho VN, chúng tôi cùng chủ trương với ông, nếu chúng tôi bán các ông thì đã có nhiều cách khác dễ hơn. Hiệp định là sự thất bại của CS, chúng tôi đã cố gắng đòi được những điều khoản tốt ngoài mong đợi.
Ông Thiệu cám ơn TT Nixon những cố gắng đã làm cho VNCH và biết TT Nixon vì lợi ích của Mỹ cũng phải vì quyền lợi của miền nam VN , ông nói: Tôi đã là đề tài cho báo chí Mỹ vu khống có hệ thống và được coi là trở ngại hòa bình. Ông không tin lời hứa của Mỹ, cho là Kissinger hùa theo BV để áp lực miền nam, ngôn ngữ trong bản Sơ thảo cho thấy họ bỏ những điều khoản cũ, theo TT Thiệu, cố vấn Kissinger đã đã bỏ hết những điểm đã thỏa thuận với đồng minh của Mỹ. Cuộc thương thuyết với đồng minh không thành, Kissinger bỏ chuyến đi Hà Nội, ông dỗ ngọt Thiệu và nói ông đang đi trên con đường tự sát. Cả Kissinger và Nixon không hiểu sao Thiệu lại hành động như thế. Ông Thiệu cãi lại bảo hiện có từ 200 tới 300 ngàn quân BV còn ở lại miền nam VN và Hội đồng hòa giải dân tộc có ba thành phần nếu chúng tôi chấp nhận văn kiện là tự sát.
Kissinger cam kết với ông Thiệu Mỹ không bao giờ bỏ rơi người bạn tốt và ông cần biết không ai coi Hội đồng hòa giải là cái gì, đó là sự thất bại của Hà Nội. Trong ý định tuyệt vọng cuối cùng của Kissinger muốn xoay chuyển Thiệu, ông ta nói trong 6 tháng nữa Quốc hội Mỹ sẽ cắt hết viện trợ, mặc dù vậy ông Thiệu vẫn từ chối ký Hiệp định.
Kissinger bảo Hoàng Đức Nhã
“Tổng thống của các ông đã chọn con đường chết cho lý tưởng nhưng ông ấy không làm gì được! Nếu cần chúng tôi ký riêng với Hà Nội, còn tôi sẽ không bao giờ đặt chân lại Sài Gòn nữa, không bao giờ. Đây là thất bại lớn nhât trong nghề ngoại giao của tôi”
(. . . If we have to, the United States can sign a seperate peace treaty with Hanoi . . . –No Peace No Honor, page 169).
HĐ Nhã nói:
“Rất tiếc nhưng xin ông nhớ cho chúng tôi phải bảo vệ đất nước.”
Ông Thiệu nhờ Tiến sĩ chuyển nỗi sợ của ông tới TT Nixon và chỉ vào bản đồ nói:
“Nước Mỹ mất một nước VNCH nhỏ bé chẳng đáng gì, chỉ là cái chấm trên bản đồ thế giới. Chúng tôi sẽ chiến đấu đến chết! Chính sách bang giao của các ông bây giờ đi với Nga, với Tầu vì thế ông theo chiến lược mới. Chúng tôi chọn lựa giữa sống và chết. Đối với chúng tôi ký Hiệp định có nghĩa là đầu hàng để chấp nhận án tử hình bởi vì sống mà không có tự do tức là chết. Thực còn tệ hơn chết!”
Sách kể trên trang 170
Kissinger cho biết truyền thông, trí thức đã làm Mỹ thất bại. Khi về Mỹ ông hứa sẽ họp báo và có cảm tưởng như có kết quả và cuộc chiến kéo dài mười năm không thể giải quyết trong một tuần. Ông cũng cho biết khó mà nhận thức rằng Quốc hội sẽ tiếp tục yểm trợ, không may chúng ta ở vị thế phải nhượng bộ, chúng ta nghĩ là chiến thắng nhưng dĩ nhiên là sai lầm. Cuối cùng ông Thiệu nói với Tiến sĩ chúng ta không có lý do để gặp lại và nhờ chuyển quan điểm của ông với TT Nixon nhưng Kissinger đề nghị tiếp tục họp để cho bên ngoài thấy không có bế tắc.
Kissinger vẫn còn hy vọng Thiệu sẽ đổi ý, Nhã và Thiệu đồng ý họp hôm sau 22/10, Kissinger cố gắng thuyết phục Thiệu nhưng thất bại, ông điện tín cho Tướng Haig ngày 22/10 nói Thiệu quá cứng rắn, ông ta đòi hỏi những cái gần như điên khùng .
Sáng ngày thứ hai 23/10 Kissinger trở lại dinh Độc Lập, ông ta trấn an TT Thiệu không hề có việc đàm phán với Hà Nội mà không cho miền nam VN biết, Tiến sĩ bảo cả hai tân và cựu Đại sứ Mỹ tại VN đều nói cho TT Thiệu biết ai ủng hộ và ai chống ông, con đường ông chọn chỉ là tự sát.
Henry đổi chiến thuật bằng cách trấn an bảo Thiệu đừng lo âu, chắc chắn Nixon sẽ tái đắc cử nhiệm kỳ hai
“Xin ông cứ ký đi, nếu họ vi phạm chúng tôi sẽ mở chiến dịch tấn công vào BV”
No Peace No Honor- trang 170.
Thế là Kissinger không còn thao túng mọi việc nữa, tự hỏi làm sao ăn nói với Hà Nội đây? Sáng thứ hai 23/10 ông tới dinh ĐộcLập chào TT Thiệu hy vọng ông này đổi ý, hai bên bàn thảo nhưng không đi tới gần nhau. Thiệu gửi thư cho Nixon qua Kissinger. Kisinger nói Hoa Kỳ muốn kết thúc chiến tranh trên căn bản tạo sự hòa hợp với đồng minh trên căn bản công bình chung cho tất cả..
Theo Marvin & Bernard Kalb cho biết hai phụ tá Haig và Negroponte của Kissinger bảo ông hãy cẩn thận đừng vội thỏa thuận với Hà Nội mà không cần biết đến Sài Gòn. Có một viên chức nói Kissinger sai lầm, đáng lẽ ông phải về Mỹ, nghỉ ngơi cho tỉnh táo, coi lại sơ thảo cẩn thận với Hoa Kỳ cũng như VNCH xong trở lại Paris nhưng ông ta nóng nẩy quá. BV biết là phía Mỹ nóng ruột, họ đưa ra sơ thảo Hiệp định là chụp lấy ngay.
Lúc ra phi trường Tân sơn Nhất về Mỹ, Kissinger tiến lại đám ký giả ra vẻ lạc quan tươi cười để tạo hy vọng cho thế giới đang khao khát hòa bình.
Ông bắt tay một nữ phóng viên tóc dài, đen và nói:
-Tôi đến đây chỉ để thăm cô
Nữ ký giả hỏi
-Chuyến đi tốt đẹp thành công chứ?
Kissinger nói:
-Vâng, tôi tới đây bao giờ cũng tốt đẹp,
Cô lại hỏi: Ông có trở lại đây không?
Kissinger chỉ cười không trả lời.
(theo Marvin Kalb and Bernard Kalb; Kissinger trang 376)
Theo tác giả Kalb ông Thiệu biết nếu Mỹ đốc thúc Sài Gòn quá cơ cấu chính quyền VNCH sẽ sụp đổ gây nguy hại cho triệt thoái của Mỹ nên đã bác bỏ đề nghị của
Kissinger. Ông muốn quân Mỹ ở lại thêm ngày nào hay ngày nấy để có thời giờ củng cố thêm sức mạnh. Ông Thiệu lên truyền hình nói chuyện suốt hai giờ với đồng bào về cuộc đàm phán gay cấn với Kissinger và cho biết những đề nghị của BV, Mỹ không chấp nhận được. Ông không bao giờ chấp nhận Liên hiệp và mấy trăm ngàn quân CSBV còn ở lại miền nam VN. Nếu Liên hiệp với CS thì chưa tới một năm sẽ có năm triệu người bị CS giết, không ai có thể bắt ta theo quyết định của họ. Phát ngôn viên BV tại Paris tố cáo TT Thiệu cản trở hòa bình.
Ngày 23/10 Kissinger về Mỹ thất vọng hoàn toàn, hôm sau 24/10 ông Thiệu lên truyền hình, đài phát thanh hiệu triệu dân miền nam 2 giờ nói Kissinger điều khiển ngoại giao Mỹ kết án VNCH gây trở ngại hòa đàm, CS chỉ muốn Mỹ rút để chiếm miền Nam, quân BV vẫn còn tại chỗ. Ông Thiệu kêu gọi người Việt Quốc gia cứu nước trước một Hiệp định giả. Tương lai 17 triệu rưỡi người VNCH bị nguy hiểm.
Ngày 26/10 Kissinger họp báo tại tòa Bạch ốc nói hòa bình trong tầm tay (Peace is at hand). Theo phụ tá Negroponte, Kissinger nói thế là muốn cho BV biết Mỹ sẽ tiếp tục đi tới thỏa thuận, ông cho biết TT Thiệu chưa quen với Hiệp định và ông muốn có thì giờ tính toán sửa chữa thêm, TT Nixon và phụ tá Kissinger cho là trì hoãn. Sau này vào ngày 21/2/1975 Kissinger tâm sự với McGovern trong một bữa ăn trưa, ông nói câu Peace is at hand không phải để làm tổn thương McGovern nhưng để dìm Thiệu và các cố vấn của ông ta xuống (No Peace No Honor, trang 174).
Theo Larry Berman ngày 28/10/1972 Đại sứ Bunker điện tín choTiến sĩ Kissinger biết một tin phiền toái. Ông Thiệu đã bắt được một huấn thị cán bộ của BV và VC từ ngày 21 tới 25 tháng 10 (theo Walter Isaacson như ở trên nói là ông Thiệu đã có tài liệu này từ 18/10.). Chiến thuật của CS như sau: “Quân đội ta vẫn còn ở lại miền nam. Ngưng bắn tại chỗ sẽ có lợi cho ta nhiều vì cho ta giữ vị thế cài răng lược hay da beo ở miến Nam VN.
Ngày 7/11/1972 Nixon tái đắc cử Tổng thống với 60.7% số phiếu phổ thông, hơn McGovern 18 triệu phiếu, Cộng hòa thắng 49 tiểu bang, Dân chủ chỉ có một tiểu bang , Nixon được 520 phiếu cử tri doàn (electorale vote) so với 17 phiếu của McGovern. Kissinger thì bị cả hai miền chửi bới đả đảo, miền Bác nói ông ta lật lọng, không giữ lời cam kết, Nga, Trung Cộng chỉ trích Mỹ phá hòa đàm, ông Thiệu tại Sài gòn tiếp tục chống đối ký kết.. Kissinger chán nản không muốn đàm phán tại Hội nghị, Nixon khuyến khích ông tiếp tục tìm hòa bình.
Sang tháng 11/1972 hòa đàm không tiến triển gì hơn, ông Thiệu vẫn phát động chống đối không chấp nhận Sơ thảo Hiệp định, đòi CS phải rút hết về Bắc. Ngày 19/11, Kissinger và Lê Đức Thọ bắt đầu đàm phán trở lại, hai bên không tiến lại gần nhau được.
Sang tháng 12 tình hình còn bi đát hơn, ngày 5, 6/12 Kissinger gứi nhiều điện tín bi quan đề nghị bỏ hòa đàm tím biện pháp mạnh, oanh tạc BV.. Nixon không chấp thuận, ông muốn tiếp tục đàm phán và nói sẽ chấm dứt nhiệm vụ Kissinger nếu bỏ Hội nghị. Cuộc hòa đàm ngày thêm bế tắc, ngày 13/12 tan vỡ, Lê đức Thọ bỏ Hội nghị không hẹn khi nào trở lại. Ngày 14/12 Kissinger về Mỹ cùng Nixon và Tướng Haig bàn luận đưa tới quyết định ném bom BV. Nixon gửi tôi hậu thư cho BV nếu không trở lại đàm phán sẽ bị oanh tạc.
BV bỏ Hội nghi hy vọng Quốc hội Mỹ họp đầu năm 1973 sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh, đó là lỗi lầm tai hại. Hà nội không trở lại Hội nghi, lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương Nixon cho oanh tạc ngoại ô Hà Nội, Hải phòng bằng B-52, chiến địch này gọi là Linerbacker II kéo dài 12 ngày từ 18/12 cho tời cuối tháng 12/1972. Bắc Việt chịu trở lại đàm phán, ngày 9/1/1973 hai bên đi tới thỏa hiệp chung đúng vào ngày sinh nhật thứ 60 của TT Nixon. Ngày 23/1/1973 Kissnger và Lê Đức Thọ ký tắt, bốn ngày sau 27/1 bộ ngoại giao Mỹ, BV, VNCH, VC ký chính thức Hiệp định ngưng bắn.

Hiệp định Paris có nhiều điều khoản nhưng chỉ có một số vấn đề chính: Mỹ rút quân, ông Thiệu vẫn làm Tổng thống, không Liên hiệp, BV còn đóng quân ở miền nam, trao trả tù binh…
Hiệp định ký ngày 27/1/1973 thực ra không khác gì Sơ thảo Hiệp định tháng 10/1972 trước đây đúng ba tháng. Đa số các nhà chính khách, các nhà học giả nghiên cứu chiến tranh VN đều nhận định trận oanh tạc to lớn không đạt kết quả mong muốn. Mặc dù Nixon đã cho thả 20 ngàn tấn bom (20,000) xuống BV, bị thiệt hại nhân mạng, 91 người thuộc phi hành đoàn mất tích, mất 27 máy bay trong đó có 15 B-52 mỗi cái trị giá 8 triệu …nhưng không đòi được gì thêm, Cộng quân vẫn còn ở miền nam VN.
Negroponte, phụ tá Kissinger nói
“Chúng ta oanh tạc BV để họ chấp nhận sự nhượng bộ của ta”
We bombed the North Vietnamese into accepting our concessions
Walter Isaacson, Kissinger A Biography, trang 483.
Các tác giả Stanley Karnow, Marvin Kalb, Bernard Kalb, Walter Isaacson, Larry Berman.. đều nhận định sau ba tháng chiến tranh và trận dội bom ồ ạt đã không làm thay đổi gì thêm bản Sơ thảo có từ tháng 10 đúng ba tháng trước, BV không chịu rút quân. Mọi nỗ lực của VNCH, sự chống đối của ông Thiệu không đạt được kết quả mong muốn hoặc kết quả cụ thể về chính trị mà chỉ có giá trị tinh thần, nó chứng tỏ miền nam VN có chủ quyền.
Sự cứng rắn của cả hai miền Nam Bắc đã làm cho Nixon vô cùng tức giận, sự ngoan cố của miền Bắc được trả giá bằng 20 ngàn tấn bom, miền Nam bị Nixon hăm dọa sẵn sàng cắt viện trợ nếu không hòa hợp với Mỹ.
Nhờ Nixon nhanh tay xử dụng sức mạnh của B-52 mà Hà nội phải trở lại bàn hội nghị nếu không có thể thảm kịch sẽ sẩy ra: Quốc hội ra luật chấm dứt chiến tranh, rút quân, cắt viện trợ VNCH… để đánh đổi lấy 580 người tù binh Mỹ. Hà nội đã chịu thua trong canh bạc này, trận oanh tạc long trời lở đất đã cứu được Đông Dương sụp đổ ít ra là trong lúc này.
Sau này Kissinger viết
“Lỗi lầm chính mà Bắc Việt đã phạm phải trong cuộc đàm phán với Nixon là họ đã dồn ông vào chân tường “
(No Peace No Honor trang 215)
Larry Berman cho rằng B-52 là lá bài chót của Nixon (The B-52s were his last roll of the dice, No Peace No Honor trang 215). Lê đức Thọ bỏ hội nghị không thèm đám phán không chỉ là sự sỉ nhục đối với Kissinger, Nixon mà cho cả nước Mỹ.
Kissinger đã chạy ngược chạy xuôi hết thủ đô nước này sang thủ đô nước khác để ký cho được Hiệp định vào cuối tháng 10, trước ngày bầu cử Tổng thống 7/11/1972 để kiếm điểm, lập công và cuối cùng đã thất bại. Sự thật Nixon không cần phải ký trước bầu cử vì qua thăm dò ông vượt quá xa McGovern, chắc ăn như bắp. Tối 22/10 khi Kissinger còn ở Sài Gòn đánh điện về Bạch ốc đề nghị Nixon ký Hiệp định riêng với Hà nội vì VNCH cứng rắn nhưng bị Tổng thống từ chối, ông không muốn ký mà không có Thiệu, một đồng minh. Ông không muốn vội ký với Thọ, một kẻ thù (Marvin Kalb, Kissinger, trang 422)
“Không phải Kissinger muốn làm gì cũng được mà ông phải theo đúng vai trò người ta giao phó”
(Whatever his personal preferences, he played his assigned role)
Marvin Kalb, Kissinger trang 422
Cuộc hòa đàm vào lúc này đã khiến VNCH và Mỹ rạn nứt, Thiệu và Kissinger Nixon chia rẽ, Nixon và Kissinger cũng gần tan vỡ, ngay cả CSBV và VC cũng chia rẽ trầm trọng.
Sau trận oanh tạc B-52 cuối năm 1972, Kissinger trả lời phỏng vấn và ý muốn cho biết quyết định oanh tạc do Tổng thống, ông không có trách nhiệm, tuy nhiên ông ủng hộ chiến dịch này. Từ đó liện hệ Nixon Kissinger đi tới chỗ căng thẳng, Nixon đã có ý định loại bỏ Kissinger, có lần ông nói chuyện với Đô đốc Elmo Zumwalt “Tôi sắp đuổi cổ thằng chó đẻ ấy” I’m going to fire the son of a bitch” (Kissinger a Biography, trang 475)
Theo Larry Berman vì Việt Cộng áp lực Hà nội đòi Mỹ nhượng bộ mà BV phải bị trận oanh tạc B-52. Nhiều người miền Bắc oán hận muôn đời các đồng chí CS anh em ở miền nam, vì CS miền Nam mà miền Bắc phải bị ăn trận đòn chí tử. (No Peace No Honor trang 175,177).
Ông Thiệu nhất quyết đòi quân đội BV phải rút khỏi miền nam nhưng cả hai ông Nixon và Kissinger chịu thua không thể theo lời yêu cầu của TT Thiệu: Hà nội chỉ nhượng bộ đến thế. Thật vậy, CS đã nướng một triệu quân chẳng lẽ họ lại về tay không, chẳng được tí gì.
Trong No More Vietnams trang 152, TT Nixon cho biết Hà nội từ chối rút quân khỏi miền nam, họ chẳng thà không ký Hiệp định còn hơn rút quân về Bắc. Nếu không ký được hiệp định, hòa đàm bế tắc sẽ trở thành thảm kịch. Trang 169-170 sách kể trên Nixon cho biết nếu ông không ký được Hiệp định thì Quốc hội sẽ bỏ phiếu chấm dứt chiến tranh, rút quân và cắt viện trợ VNCH để đổi lấy hòa bình và tù binh Mỹ.
TT Nixon nhiều lần thuyết phục TT Thiệu đừng quan tâm đến những điều khoản này nọ của Hiệp định, giấy mực của Thỏa ước không quan trọng bằng sắt thép và bom đạn của B-52, ông đã có bửu bối bảo đảm hòa bình.
Năm 1980 Kissinger gửi thư cho cựu TT Thiệu để làm hòa, ông ta nói nếu không có vụ Watergate chúng tôi có thể đã vận động Quốc hội cung cấp đủ viện trợ cho VNCH năm 1973 và 1974. Bi kịch bản Hiệp định năm 1972 là do hậu quả của nội tình nước Mỹ, nếu ta không tìm hòa bình Quốc hội đã bỏ rơi VN từ 1973 chứ không đợi tới 1975
(Had we attempted to continue the war, the Congress would have imposed in 1973 what was done later in 1975- Kissinger a Biography, trang 646)
Tiến sĩ Kissinger xin ông Thiệu đừng giận, ông Thiệu không trả lời thư, năm 1990 ông dọn vào Mỹ và nói không trách cá nhân Kissinger, ông ta không nhìn cuộc chiến trong bối cảnh Việt Nam như chúng tôi.
Sự thực Kissinger cũng chẳng là cái gì cả, ngay như Nixon trong giai đoạn ấy cũng không khác nào một vị Tổng thống bù nhìn trước sự thao túng của Quốc hội Dân chủ chứ đừng nói cương vị Phụ tá như Kissinger. Dân chủ đối lập chiếm ưu thế tại lưỡng viện Quốc hội, họ nắm 55.6% Hạ viện với 242 ghế (Cộng hòa 192), họ cũng nắm 56% Thượng viện với 56 ghế (Cộng hòa 42 ghế). Lập pháp Dân chủ được đa số người dân, phong trào phản chiến ủng hộ đã trói tay Hành pháp Cộng hòa, tha hồ mà làm mưa làm gió, họ vô hiệu hóa tất cả mọi nỗ lực của Cộng hòa về cuộc chiến VN.
Quốc hội Dân chủ đã thỏa mãn nguyện vọng người dân để rút ra khỏi cuộc chiến sa lầy vì họ sống nhờ lá phiếu của những người phản chiến.
Thuyết định mệnh lịch sử của nhà văn hào Leon Tolstoi trong Chiến Tranh Và Hòa Bình cho rằng vĩ nhân không ảnh hưởng gì tới lịch sử, họ cũng bị cuốn theo dòng lịch sử. Chính đám đông, những người thường dân nhỏ bé đã làm lên lịch sử.
Thấm thoát đã 40 năm trôi qua, lịch sử vẫn luôn luôn biến động không ngừng.
© Trọng Đạt
Tài Liệu Tham Khảo
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam -The Free press 2001
Richard Nixon: No More Vietnams , Arbor House, New York 1985
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown and company 1974
Robert Dallek: Partners In Power, Nixon and Kissinger – Harper Collins publishers 2007
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985
Stanley Karnow: Vietnam , A History, A Penguin Books 1991
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2001

KISSINGER ĐÃ ĐẤM NGỰC THÚ TỘI

Trong vòng chỉ 3 tháng nay một loạt biến động lớn lao về chánh-trị, ngoại-giao và quân-sự đã dồn dập diễn ra trong khu vực Á châu và Thái Bình Dương.

- Ngày 23-7-2010 Nữ Ngoại-trưởng Hilary Clinton nhân danh đại cường quốc Hoa Kỳ long trọng khẳng định tại Hội-nghị ASEAN ở Hà Nội: ”Hoa Kỳ xem Đông Nam A là khu vục thuộc lợí ích quốc gia của Hoa Kỳ về các phương diện anh ninh, kinh-tế, thương mại.” - Ngày 24-9-2010, Tổng thống Obama đích thân triệu tập và chủ tọa Hội-nghị thượng-đỉnh tại New York (Second ASEAN Leaders Meeting) với các người đứng đầu các nước ASEAN để chủ động kết hợp các nước ấy trong một thế chiến lược mới. Một bản Tuyên bố chung (Joint Statement) quan trọng đã được công bố, và Tổng thống đã bỗ nhiệm ngay một Đặc sứ thường trực bên cạnh ASEAN tại Trụ sở của ASEAN tại Jakarta .

- Chỉ 5 ngày sau: ngày 29-9-2010: Bộ Ngoại-giao Hoa Kỳ tổ chức một cuộc hội-thảo ngay tại Bộ Ngoại giao tại DC dưới sự điều hợp của Đại-sứ Brynn với đề tài “Kinh nghiệm Hoa Kỳ tại Đông Nam Á” (The American Experience in Southeast Asia : Historical Conference) trong đó diễn giả chính là Henry Kissinger. - Trong khi chúng tôi đang viết bài nầy thì các đại diện ngoại giao, quân-sự cao cấp của các nước thuộc ASEAN và Hoa Kỳ, Nhựt, Úc, Ấn-độ, v.v...đã bắt đầu Hội nghị các Tổng-trưởng Quốc-phòng (ADMM plus) tại Hà Nội từ ngày 12-10-2010 rồi tiếp tục với những phiên họp riêng giữa các thành viên ASEAN và các cường quốc trong vùng: Hoa Kỳ, Nhựt bản, Ấn độ, Úc, v.v...Phiên họp ngày 28-10-2010 là một phiên họp cao cấp quan trọng với sự tham dự của NT Clinton.

Giữa lúc đó thì chiến hạm Hoa Kỳ tiến sát và tập trận dọc thềm lục địa Á Châu từ Biển Nhựt Bản xuống Ấn-độ dương…có lúc vào tận cảng Tiên Sa (Đà Nẳng) của Việt Nam .

Tất cả những diễn biến đó không phải là những điều ngẫu nhiên.

Trong bài nầy chúng tôi chỉ chú trọng đến cuộc hội-thảo tại Bộ Ngoại-giao ngày 29-9-2010 để tìm hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng của các lời phát biểu của Henry Kissinger tại cuộc hội-thảo này (Đọc giả có thể tham khảo bài tường trình ngày 6-10-10 của Người Việt Online)

Các ý-kiến của Kissinger phát biểu trong cuộc hội-thảo nói trên được tóm gọn như sau: “Sự thảm bại tại Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chớ không phải do VNCH.”

Nhân dân Việt Nam và thế giới công chính đã chờ đợi câu nói đó từ 35 năm rồi, nay mới được thốt ra từ chính cửa miệng của Henry Kissinger, vào một thời điểm và tại một địa điểm có tính toán. Bởi vậy, nó có một giá trị vô cùng quan trọng. Nó trả lại danh dự cho hàng triệu chiến sĩ tự do của VNCH, từ nguời dân đen đến cấp lãnh-đạo cao nhứt. Nó giải oan cho hàng triệu linh hồn người Việt đã hi sinh cho Tự do. Nó trả lại DANH DỰ VÀ CHÍNH NGHĨA cho toàn thể Quân Dân VNCH từng bị bọn phản chiến và truyền thông bất lương bôi lọ.

Xin nhắc lại: Henry Kissinger là người chịu trách nhiệm về chánh sách ngoại giao của Hoa Kỳ từng đưa đến việc bán đứng VNCH cho Bắc Việt qua Hiệp-định Paris 1972, sự rút lui của Hoa Kỳ khỏi Đông dương 1975, và giao cho Trung Cộng làm “cai thầu khu vực” với bản Tuyên ngôn Thượng Hải (1972.)

Nixon và Kissinger bị mù mắt vì cái thị-trường khổng lồ béo bỡ của Hoa Lục, không ngần ngại phản bội lại đồng minh của mình. Cảnh tượng xót xa, bẽ bàng nhứt là Đệ 7 Hạm đội Hoa Kỳ nhẫn tâm án binh bất động, đứng nhìn hải quân TC cưỡng chiếm Hoàng Sa của đồng minh VNCH hồi tháng Giêng 1974. Ngày nay, khi Trung cộng trở mặt, sử dụng Hoàng Sa làm pháo đài khống chế Đông Nam Á và Thái Bình dương thì nước Mỹ mới mở mắt và nhận thấy hối hận về sự phản bội đồng minh VNCH của mình 35 năm trước.

Thực vậy, dân tộc Việt Nam là nạn nhân gánh chịu hậu quả thảm khóc nhứt của chánh sách Nixon-Kissinger với “Ngày 30 tháng 4 năm 1975.” Chính chánh-sách đó đã đưa gần 30 triệu nhân dân Miền Nam tự do vào cảnh điêu linh, thống khổ, nhà tan cửa nát, con mất cha, vợ mất chồng, kẻ thì bỏ xác trong ngục tù CS, người thì làm mồi cho hải tặc hoặc vùi thây dưới đáy biển. Không bút mực nào tả hết những tội ác của cộng đảng VN đối với gần 30 triệu dân Miền Nam từ 1975 đến nay.

Lời tuyên bố của Kissinger hôm nay, tuy rất ngắn, nhưng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng: “Sự thảm bại tại Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chớ không phải do VNCH.”

Bằng những lời phát biểu ngày 29-9-2010 tại ngay thủ đô nước Mỹ, lãnh đạo nước Mỹ hiện nay dường như muốn nhờ Kissinger thay mặt nước Mỹ (Bộ Ngoại giao tổ chức) nói lên lời tạ tội và sám hối của nước Mỹ đối với gần một triệu sinh linh của chế-độ VNCH đã chết oan uổng, trong đó hơn nửa triệu đồng bào vượt biên chìm dưới đáy biển, hàng trăm ngàn Dân Quân-Cán-Chính VNCH chết trong các trại tập trung lao-động khổ sai, cộng với hàng trăm ngàn vợ con họ chết trong các “vùng kinh-tế mới” vì đói rét, bệnh tật và rắn rết.

Tại hội-nghị các Bộ-trưởng Quốc-phòng ASEAN (ADMM Plus) họp sau đó tại Hà Nội ngày 12-10-2010, Bộ-trưởng Quốc-phòng Hoa Kỳ Robert Gates đại ý tuyên bố ngay trước mủi của tên BTQP Trung cộng: ”Hoa Kỳ sẽ nhận trách nhiệm bảo đảm an ninh và tự do cho tất cả các quốc-gia ĐNA, nhứt là hải lộ xuyên Biển Đông, vì khu vực nầy thuộc quyền lợi quốc-gia của Hoa Kỳ về các phương diện an ninh, kinh-tế và thương mại.” Trong khi đó thì tàu chiến Hoa Kỳ trang bị vũ khí nguyên-tử đang tập trận với hải quân Nam Hàn ngoài khơi vùng biển của Trung cộng.

Gần hai tỷ dân trong khu-vực Á châu –Thái-Bình-dương thở phào, nhẹ nhỏm! Vì, từ nay, cái “lưỡi bò” hung hăng của tên bá quyền Hán tộc bổng teo lại thành……cái lưỡi gà bé tí tẹo! Không ai còn nghe các tướng lãnh TC khoác lác vung vít về sức mạnh quân sự của CHNDTQ và tham vọng độc chiếm Biển Đông của chúng. Không ai còn nghe cái loa khoác lác của Bộ Ngoại giao TC hàng ngày bô bô lên tiếng đe dọa các quốc gia tiếp giáp với “cái lưỡi bò đói khát”, nhứt là Việt Nam, Nam Dương, Phi-luật-tân, Brunei. Ngay sau khi Bộ-truởng QP Hoa Kỳ tuyên bố như trên, phát ngôn nhân của con cọp giấy Trung cộng bèn rêu rếu thông báo trả tự do vô điều kiện cho 9 ngư dân của đảo Lý sơn/Quảng Ngải bị chúng bắt giữ gần đảo Hoàng Sa cả tháng trước đó.

Các sự kiện trên đây chứng minh là vì cả tin nơi những tính toán sai lầm của tên con buôn chính-trị Kissinger, nước Mỹ phải để gần 40 năm (1972-2010) mới học được cái chân-lý đơn giản: Người CS marxist dù Nga hay Tàu hay Việt, chúng đều phản phúc như nhau. Nhờ sự giúp đỡ trong 40 năm qua của Hoa Kỳ nước Tàu mới thoát khỏi tình-trạng đói khát, lạc hậu và bắt đàu hơi khấm khá. Nhưng chưa chi thì chúng đã quay lại định ăn tươi, nuốt sống người thi ân cho mình. Đó là bản chất của người Cộng-sản Marxist. Hai dân tộc Đức và Nhật cũng được Hoa Kỳ giúp đỡ tái thiết sau chiến tranh, nhưng họ không mang tính phản phúc đó.

Vấn đề mà chúng ta muốn bàn hôm nay là: vì cần mua bán, đổi chác với Trung cộng để trục lợi, bọn chánh khách vô liêm sĩ ở Hoa Thạnh Đốn, đã ra sức gán cho VNCH đủ thứ tội: nào là quân đội không chịu chiến đấu, nào là công chức tham nhũng, v.v…Bọn chánh khách bất lương Âu châu thì kết tội VNCH là tay sai Mỹ chỉ vì ganh ghét với Hoa Kỳ. Nếu quân dân VNCH không chịu chiến đấu thì làm sao giữ vB0ời Việt Quốc-gia càng sáng tỏ hơn bao giờ hết. Bây giờ thì không một ai còn nghi ngờ nữa: VNCH còn là còn tất cả! VNCH mất là mất tất cả! Chúng ta đòi hỏi lịch sử và nhân dân thế giới phải trả lại sự công bằng và danh dự cho Quân Dân VNCH, từ người thứ dân cho đến các cấp lãnh đạo Quốc-gia. Trong nội bộ người Việt, yêu cầu những kẻ vô ý thức hay bị CS tuyên truyền tẩy não trong 35 năm qua hãy chấm dứt những luận điệu tự phỉ nhổ mình bắng cách gọi các vị lãnh đạo Quốc-gia, các tướng lãnh của VNCH bằng thằng nọ, thằng kia. Cái cuộc “đổi đời” năm 1975 đã biến “THẰNG thành ÔNG” và đem “ÔNG xuống làm THẰNG” nay đã chấm dứt rồi, vì đó là cái thang giá trị Marxist trong đó “trí thức không bằng cục phân” (lời Mao Trạch Đông.) Thang giá trị (échelle des valeurs) của một xã hội Việt Nam văn minh đạo đức truyền thống phải được tái lập để làm nền tảng cho một nước Việt Nam hậu Cộng-sản. Chúng tôi sẽ bàn đến “hệ thống giá trị chân chính” của người Việt trong một bài khác.

Hải ngoại, ngày 28-10-2010 Lê Thành Nhân



===


- Ngày 23-7-2010 Nữ Ngoại-trưởng Hilary Clinton nhân danh đại cường quốc Hoa Kỳ long trọng khẳng định tại Hội-nghị ASEAN ở Hà Nội: ”Hoa Kỳ xem Đông Nam A là khu vục thuộc lợí ích quốc gia của Hoa Kỳ về các phương diện anh ninh, kinh-tế, thương mại.”

- Ngày 24-9-2010, Tổng thống Obama đích thân triệu tập và chủ tọa Hội-nghị thượng-đỉnh tại New York (Second ASEAN Leaders Meeting) với các người đứng đầu các nước ASEAN để chủ động kết hợp các nước ấy trong một th =E1  ng được Miền Nam đến 1975, khi mà Mỹ và Trung cộng ngã giá xong vụ buôn bán bẩn thỉu trên đầu nhân dân Việt Nam?

Ngoài ra, sau tháng 4, 1975, nhiều tướng lãnh liêm sĩ Hoa Kỳ đã viết lại hồi ký công nhận tinh thần dũng cảm và khã năng chiến đấu xuất sắc của QL/VNCH. Chúng ta không cần lặp lại ở đây. Còn nếu nói: vì tham nhũng mà chánh quyền VNCH sụp đỗ thì cứ hỏi chả lẽ nhà nước CHXHCN hiện nay ở VN ít tham nhũng hơn VNCH ngày trước? Thế tại sao nó còn nguyên đó hơn 35 năm nay? Cũng trong cùng thời gian với VNCH ai cũng biết ở các lân bang như Thái Lan, Phi Luât Tân, Nam Dương tình trạng tham nhũng trầm trọng hơn cả chục lần, nhưng có nước nào sụp đổ đâu!

Tóm lại, các chánh khách thiển cận, mù quáng của nước Mỹ lúc bấy giờ đã “hi sinh” quyền lợi của đồng minh VNCH với ảo tưởng đổi lấy một thị-trường béo bỡ của nước Tàu. Nhưng sự thật phủ phàng hôm nay là chính cái nước Tàu mà nước Mỹ vỗ béo đó đã đang quay lại ăn thịt nước Mỹ để giành ngôi vị đệ nhứt cường quốc trên thế giới. Và nước Mỹ ngày nay đã tỉnh ngộ, đang trở lại làm y chang cái công việc mà Quân Dân VNCH đã làm trước 1975, tức là chiến đấu chống đế quốc CS Trung quốc. Thế thì VNCH đã bị bức tử một cách oan uổng. Nhờ giương cao ngọn cờ chống lại bá quyền Trung cộng, bảo đảm an-ninh và tự do cho khu vực nên hiện nay Hoa Kỳ đang được nghênh đón trở lại Việt Nam như là môt “hiệp-sĩ.” Như vậy bọn CSVN không còn coi Hoa Kỳ là “đế-quốc xâm lược” nữa. Trái lại chúng coi Hoa Kỳ là vị cứu-tinh, và trả lại danh dự cho nước Mỹ.

Thế còn công lao hi sinh chiến đấu của Quân Dân Miền Nam để ngăn chận làn sóng đỏ của Nga, Tàu trong hơn 50 năm thì sao?

Vì thế, Quân Dân VNCH đòi hỏi nước Mỹ và thế giới phải trả lại danh dự cho họ vì họ đã hi sinh chiến đấu cho Tự do và An ninh của cả thế giới mà đã bị đối xử bất công bằng sự phản bội và bức tử oan uổng năm 1975.

Trên thực tế thì nhân dân Việt Nam trong nước đã làm việc nầy từ khi bọn “cách mạng” đặt chân vào Miền Nam vì, đối với mọi người dân trong nước thì cái gì của “ngụy” cũng tốt hơn “cách mạng”: bác sĩ “ngụy” cũng giỏi hơn, nhạc “ngụy” cũng hay hơn, nhân bản hơn, nếp sống “ngụy” cũng văn minh hơn, người dân “ngụy” cũng ấm no, hạnh-phúc hơn, v v...

Cuối cùng, sau khi chiếc mặt nạ của đảng CSVN kể công đánh ngoại xâm Pháp, Mỹ để giành độc lập bị rơi xuống đất, để lộ cái mặt thật của những kẻ bán nước đem tổ quốc dâng cho Tàu thì cái chính nghĩa bảo quốc của Quân Dân VHCN, của Người Việt Quốc-gia càng sáng tỏ hơn bao giờ hết. Bây giờ thì không một ai còn nghi ngờ nữa:

VNCH còn là còn tất cả!

VNCH mất là mất tất cả!

Chúng ta đòi hỏi lịch sử và nhân dân thế giới phải trả lại sự công bằng và danh dự cho Quân Dân VNCH, từ người thứ dân cho đến các cấp lãnh đạo Quốc-gia. Trong nội bộ người Việt, yêu cầu những kẻ vô ý thức hay bị CS tuyên truyền tẩy não trong 35 năm qua hãy chấm dứt những luận điệu tự phỉ nhổ mình bắng cách gọi các vị lãnh đạo Quốc-gia, các tướng lãnh của VNCH bằng thằng nọ, thằng kia. Cái cuộc “đổi đời” năm 1975 đã biến “THẰNG thành ÔNG” và đem “ÔNG xuống làm THẰNG” nay đã chấm dứt rồi, vì đó là cái thang giá trị Marxist trong đó “trí thức không bằng cục phân” (lời Mao Trạch Đông.) Thang giá trị (échelle des valeurs) của một xã hội Việt Nam văn minh đạo đức truyền thống phải được tái lập để làm nền tảng cho một nước Việt Nam hậu Cộng-sản.

Chúng tôi sẽ bàn đến “hệ thống giá trị chân chính” của người Việt trong một bài khác.

Hải ngoại, ngày 28-10-2010
Lê Thành Nhân

Những Trận Đánh Vang Lừng Chiến Sử
Wednesday, 25 April 2012 21:51


Thanh Dũng
Trong khoảng 20 năm tồn tại của quốc gia Việt Nam Cộng Hoà, chiến cuộc dai dẳng khiến hằng triệu thường dân Miền Nam thiệt mạng, bị thương tích, mất nhà cửa. Quân Lực VNCH gánh trên vai áp lực bảo vệ cả cơ đồ Miền Nam -- trước võ lực xâm lăng của Bắc Việt và sự đánh phá của các phần tử cộng sản tại chỗ.

alt

Để 20 triệu dân Miền Nam được thở bầu không khí tự do, quân đội phải trả giá với khoảng 300 ngàn binh sĩ đền nợ nước, thêm 1.2 triệu thương tích. Như trong lời thơ của một thời chinh chiến:

...Giặc đánh lớn - mùa mưa đã tới
Mùa mưa như một trận mưa liền
Châu thổ mang mang trời nước sát
Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên
Tiếp tế khó - đôi lần phải lục
Trên người bạn gục đạn mươi viên
Di tản khó - sâu dòi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên
Người chết mấy ngày chưa lấy xác
Thây sình mặt nát lạch mương tanh...


(Qua Sông-Tô Thuỳ Yên)

Qua hằng ngàn chiến trận lớn nhỏ khác nhau, người lính VNCH đã đứng vững -- cho đến giờ phút cuối cùng, giữa một Sài Gòn ngã đạn. Sau đây là đôi nét nhìn lại cuộc chiến giữ gìn bờ cõi kiêu hùng của Quân Lực VNCH mấy thập niên trước.

Huế nước mắt Mậu Thân

Cố đô Huế là chiến trường thảm khốc nhất trận Mậu Thân. Hơn 10 ngàn cán binh cộng sản chiếm giữ thành phố gần trọn Tháng Giêng 1968. Đây cũng là một trong những trận đánh hiệp đồng tác chiến lớn giữa quân đội VNCH và các đơn vị đồng minh Hoa Kỳ. Chỉ 4 ngày sau khi mất Huế, từ Mồng 5 Tết, cùng với quân bạn đồng minh, quân đội Miền Nam mở cuộc phản công (chánh yếu với các đơn vị  Dù, Thuỷ Quân Lục Chiến, và Sư đoàn 1 Bộ binh của Tướng Ngô Quang Trưởng). Cộng quân trốn vô Thành Nội, đào hầm hố địa đạo cố thủ, nên quân bạn phải đánh hỏa lực mạnh, gây nhiều thiệt hại. Thành phố Huế bị tàn hại gần 80%; Thành Nội gần như hoàn toàn sụp đổ; cửa Ngọ Môn hư hại nặng... Cuối cùng, cộng quân triệt thoái ngày 22-2-1968, chết ít nhất 2,500 bộ đội.

Phía quân đội VNCH cũng chịu hằng ngàn thương vong để chiếm lại Huế. Thêm hằng ngàn dân chúng bị thảm sát trong thời gian cộng quân "giải phóng" đất cố đô. Không chỉ thất bại quân sự, cộng quân thua luôn thế trận tâm lý chiến vì người Miền Nam lần đầu tiên nhìn thấy phương pháp "triệt để" của họ trên diện rộng.

An Lộc tử thủ

Bốn năm sau Mậu Thân, cộng quân hồi phục, mở trận Mùa Hè Đỏ Lửa. Từ đầu Tháng Ba 1972, Bắc Việt tung 14 sư đoàn vào trận địa, với khoảng 120,000 lính và 1,200 chiến xa đủ loại. Thị xã An Lộc bé xíu, thuộc tỉnh Bình Long, gần biên giới Cao Miên, diện tích chừng 4 cây số vuông, với 45 ngàn dân -- là 1 trong những mục tiêu chánh. Vì ở vị trí quan yếu, cách thủ đô Sài Gòn chỉ khoảng 100 km, An Lộc đã có thể trở nên "thủ đô" cho mặt trận cộng sản ở Miền Nam. Cộng quân tính đánh chiếm An Lộc trong một ngày, nhưng quân phòng thủ (chánh yếu là Sư đoàn 5 Bộ binh của Tướng Lê Văn Hưng và các đơn vị Biệt động quân) đã tử thủ trong khoảng 2 tháng trời. Phía cộng quân có ít nhất 3 Sư đoàn và nhiều đơn vị yểm trợ, lên tới 40,000 bộ đội, cùng  hằng trăm chiến xa. Sau 7 đợt tấn công ác liệt, cộng quân thất bại, chết ít nhất 10,000 bộ đội, hằng trăm chiến xa T-54 và đại bác bị bắn cháy. Mặt trận An Lộc hoàn toàn yên tĩnh ngày 9-6-1972.

alt

Cận chiến với chiến xa Bắc Việt bên trong Thị xã An Lộc

Trong trận này, binh sĩ VNCH chứng tỏ can đảm, đánh xáp lá cà, cận chiến với bộ đội cộng sản trên từng thước đất An Lộc. Các lực lượng giải cứu (chánh yếu Sư Đoàn 21 Bộ Binh của Tướng Hồ Trung Hậu và các đơn vị Dù, gồm cả Biệt Cách Dù 81) phải hứng chịu... cơn mưa pháo kích của cộng quân suốt 26 km từ Chơn Thành lên An Lộc. Mất hằng tuần lễ, họ vẫn tiến lên, cho đến ngày bắt tay được với quân phòng thủ. Trận An Lộc cho thấy quân đội Miền Nam tinh thần can cường, đủ sức bảo vệ quê cha đất tổ, một khi có hiệp đồng tác chiến và hoả lực yểm trợ.

Quảng Trị - tái chiếm cổ thành

Thị xã Quảng Trị, vùng địa đầu giới tuyến, là một mục tiêu tối hậu khác của cộng quân trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Đầu Tháng Năm, quyết định chiến thuật sai lầm của một vị tư lịnh khiến xảy ra cảnh thảm sát trên "Đại Lộ Kinh Hoàng" và cổ thành Quảng Trị bỏ ngỏ. Từ 28-6, tướng Ngô Quang Trưởng (tư lịnh Quân Đoàn 1) chỉ huy cuộc phản công tái chiếm cổ thành, chánh yếu với Sư đoàn Thủy quân Lục chiến của Tướng Bùi Thế Lân và vài đơn vị Dù.

alt

Để cố thủ Quảng Trị, cộng quân có ít nhất 4 sư đoàn chủ lực, thêm pháo binh tầm xa, và 2 trung đoàn chiến xa. Địch quân được tiếp tế đạn dược, lương thực, thuốc men thoải mái từ Cửa Việt. Phía quân đội VNCH có lợi thế không quân và hải pháo -- nguyên do của khoảng 80% thương vong cho cộng quân. Kết quả: Toàn bộ 1,500 bộ đội cộng sản cố thủ trong cổ thành coi như bị xoá sổ; ước lượng thương vong của địch quân lên quá 10 ngàn. Phía quân bạn, Thuỷ Quân Lục Chiến thiệt hại nặng với trên 3,500 quân nhân hy sinh, trung bình mỗi ngày có 150 binh sĩ Cọp Biển chết trận.

Đây là một trong những trận chiến ác liệt bậc nhất chiến cuộc VN -- kéo dài gần 3 tháng, với tổn thất nặng nề cho cả 2 bên. Binh sĩ VNCH tỏ ra thiện chiến, chiếm lại cổ thành, nhưng bờ Bắc sông Thạch Hãn, phần còn lại của tỉnh Quảng Trị, đành chịu mất luôn về tay Bắc Việt.

alt

Tái chiếm cổ thành Quảng Trị

Thường Đức & đồi máu 1062

Đây là nơi hẻo lánh hiểm trở, không mấy ai muốn tới, dù chỉ cách Đà Nẵng khoảng 60 cây số về hướng Tây. Nó nằm trên trục đường "Đông Trường Sơn" hệ trọng cho Bắc Việt. Ngày nào Thường Đức còn đứng vững, canh gác "Đường 14", thì cộng quân không thể thoải mái đi lại, chuyển quân về uy hiếp Sài Gòn. Phía VNCH chỉ có Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân bảo vệ. Bắc Việt gom góp đến 3 sư đoàn để đánh Thường Đức từ 29-7-1974, khiến nơi này thất thủ nhanh chóng. Tiểu Đoàn Biệt Động Quân 79 oai hùng, chiến đấu gan lì, bị xoá sổ. Từ 8-8-1974, các đơn vị của Lữ đoàn Nhảy Dù tổ chức phản công. Tuy nhiên, đối phương lập tuyến phòng thủ chắc chắn, quyết giữ bằng được Thường Đức. Giao tranh chánh yếu diễn ra trên ngọn đồi 1062 phía đông Thường Đức. Nhiều lần ngọn đồi đổi chủ, với trên 1,000 cộng quân mất mạng và nhiều ngàn bị thương. Bên quân đội VNCH, có nhiều đơn vị Dù thiệt hại quân số trên 50%. Cuối cùng, VNCH chiếm giữ đồi 1062, nhưng không lấy lại được Thường Đức.

Xét về mức độ ác liệt, trận Thường Đức có lẽ chỉ kém trận Cổ Thành Quảng Trị và trận An Lộc. Đây là  quận lỵ đầu tiên của VNCH rơi vào tay Bắc Việt sau hiệp định đình chiến Paris 1973. Các lực lượng cộng sản nổ súng để đo lường phản ứng của VNCH và đồng minh. Thất thủ êm thấm, Thường Đức trở nên con cờ domino đầu tiên trong cuộc cờ lớn của các siêu cường, với thân phận và xương máu quân dân Miền Nam bị hy sinh trong trò chơi lịch sử.

Xuân Lộc phòng tuyến chót

Vào những ngày thập tử nhất sinh cuối Tháng Ba đầu Tháng Tư 1975, VNCH lập phòng tuyến Xuân Lộc để bảo vệ cửa ngõ phía đông của Sài Gòn, chịu trách nhiệm chánh là Sư đoàn 18 của Tướng Lê Minh Đảo. Tại đây, quân đội Miền Nam có khoảng 12,000 tay súng, lâm vào cảnh phải đương đầu địch quân với 40,000 bộ đội từ 4 sư đoàn, và nhiều lực lượng yểm trợ khác. Chiến trận diễn ra từ 9-4 đến 20-4, sau cùng Sư đoàn 18 triệt thoái về hướng Sài Gòn. Trận đánh đẫm máu nhất tại Dầu Giây,  Chiến Đoàn 52 Bộ Binh đánh trong thế 1 chọi 10. Khi hầm chỉ huy bị sập, chiến đoàn trưởng lui binh chỉ còn 200 người sống sót. Sư đoàn 18 tính chung thiệt hại 30% quân số. Cũng trong trận này, không quân VNCH mang 2 trái bom Daisy Cutter, được mệnh danh là "tiểu nguyên tử" thả lên vùng tập trung của Bắc Việt tại ngã ba Dầu Giây, với lúc nhúc chiến xa, đại pháo, gây thiệt hại không nhỏ.

Xuân Lộc là trận đánh lớn cuối cùng của một đại đơn vị quân lực VNCH trong chiến tranh Việt Nam. Đây cũng là trận hiệp đồng tác chiến sau chót với đơn vị bạn của Không Quân VNCH, sử dụng phản lực cơ A-37 và F-5. Giai đoạn đầu, Xuân Lộc  giúp nâng cao tinh thần binh sĩ, đem lại chút hy vọng kháng cự cho Dinh Độc Lập. Về sau, nỗ lực của Sư đoàn 18 có thể đã giúp mua thêm chút thời gian cho dân chúng Sài Gòn di tản, chạy trốn cộng sản.

Sài Gòn ngày cuối

Quân đội VNCH, vào cuối tháng 3-1975, sau khi Quân Đoàn 1 và 2 thất thủ, chỉ còn khoảng 1/2 binh lực. Bốn tuần sau đó, thêm Quân Đoàn 3 kể như cũng tan rã. Chỉ còn Biệt Khu Thủ Đô bảo vệ đô thành Saigon với vài chục chiến xa M-41 và M-48, một số chiến đấu cơ và trực thăng, và những đơn vị lẻ tẻ. Để đối đầu khoảng 20 sư đoàn của địch quân, với hàng ngàn chiến xa, trọng pháo đang từ mọi ngả rầm rập kéo về Sài Gòn. Mặc dù không còn gì có thể cứu vãn, một số đơn vị và binh sĩ vẫn tổ chức kháng cự đến phút cuối cùng. Cầu Rạch Chiếc (trên xa lộ Sài Gòn -  Biên Hòa, cách dinh Độc Lập 7km) tổ chức phòng thủ chắc, đêm 27-4 đến sáng 30-4 còn quần thảo ra trò với đối phương. Binh sĩ Thủy quân lục chiến, một chi đội thiết giáp pháo binh, chiến hạm của hải quân Sài Gòn ở Tân Cảng, các đơn vị Liên Trường Thủ Đức... phối hợp đánh giặc trận cuối, kết quả có 52 cán binh cộng sản đã bỏ mạng ở cầu này.

Các quân nhân Liên đoàn Biệt Cách Dù 81 vẫn giữ an ninh cho Bộ Tổng Tham Mưu đến trưa ngày 30-4-1975. Nhiều xác xe tăng cộng sản cháy rải rác từ Ngã Tư Bảy Hiền sang Lăng Cha Cả. Thiết giáp cộng sản qua Hàng Xanh, bọc cầu Thị Nghè để tiến vào dinh Độc Lập, thì gặp quân Dù kháng cự, bắn cháy vài chiến xa và quân xa. Ngay sau khi vị tổng thống cuối cùng của VNCH kêu gọi binh sĩ Miền Nam buông súng, vẫn còn giao tranh ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, cách Dinh Độc Lập không xa. Bốn binh sĩ Dù quần thảo với địch quân lần chót trong khoảng 45 phút, đến hết đạn rồi tất cả cùng tự sát.

Những binh sĩ này nằm xuống trong giờ phút chung cuộc của Miền Nam tự do. Họ yên nghỉ khi tóc vẫn còn xanh, mộng đời còn chưa trọn. Họ thuộc về hằng trăm ngàn chiến sĩ khác, hữu danh và vô danh, đã vị quốc vong thân. Họ là hình ảnh những tấm gương kiêu dũng, nhưng cũng ít nhiều cô độc, trong cuộc chiến bi hùng của quân đội Miền Nam.

TD
Theo Nguồn,
http://baotreonline.com/Chuyen-muc-tre/Ky-niem-30/4/nhung-tran-danh-vang-lung-chien-su.html



Tháng Tư 1975
NGƯỜI HÙNG PHAN RANG

(Lần cập nhật hoá mới nhất: Thứ Ba, Ngày 28 tháng 8, 2012.
Latest update on: Tuesday August 28, 2012.)

Lực lượng Hải quân gồm:

- Duyên đoàn 27 (Gần nhà Lại Văn Lý)
- Tuần dương hạm (WHEC - White High Endurance Cutter, Frigate) HQ-2 - Trần Quang Khải
- Tuần dương hạm (WHEC - White High Endurance Cutter, Frigate) HQ-3 - Trần Nhật Duật
- Tuần dương hạm (WHEC - White High Endurance Cutter, Frigate) HQ-17 - Ngô Quyền
- Hộ Tống Hạm (PCE - Patrol Craft Escort) HQ-07 - Đống Đa II
- Hộ Tống Hạm (PCE - Patrol Craft Escort) (Admirable Class Minesweeper) HQ-11 - Chí Linh
- Trợ chiến hạm (LSSL - Landing Ship Support Large) HQ-228 - Đoàn Ngọc Tăng
- Trợ chiến hạm (LSSL - Landing Ship Support Large) HQ-231 - Nguyễn Đức Bóng
- Hải vận hạm (LSM - Landing Ship Medium) HQ-403 - Ninh Giang
- Hải vận hạm (LSM - Landing Ship Medium) HQ-406 - Hậu Giang
- Dương vận hạm (LST - Landing Ship Tank) HQ-503 - Vũng Tàu
- Dương vận hạm (LST - Landing Ship Tank) HQ-505 - Nha Trang
- Một số LCU và nhiều PGM

 

Hộ Tống Hạm (PCE - Patrol Craft Escort) HQ-07 - Đống Đa II
Ngày 5 tháng 4/1975, Hộ Tống Hạm HQ 07 - Đống Đa II vào sát bờ trong vịnh Phan Rang, bắn vào những vị trí trên quốc lộ 1 ngăn chận xe tăng Cộng quân.


Hải vận hạm (LSM - Landing Ship Medium) HQ-406 - Hậu Giang
Hạm Trưởng: Hải Quân Trung Tá Nguyễn Quốc Trị, Khoá 10 - Đệ Nhất NAM DƯƠNG - Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang.

Ngày 12 tháng 4 HQ 403 nhận lệnh về Sài Gòn. Từ Cát Lỡ, HQ 406 đưa hai đại đội Cảnh sát Dã chiến ra tăng cường.


Dương vận hạm (LST - Landing Ship Tank) HQ-503 - Vũng Tàu
Hạm Trưởng: Hải Quân Trung Tá Nguyễn Văn Lộc, Khoá 11 - Đệ Nhất BẢO BÌNH - Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang.

Ngày 13 tháng 4/1975, HQ 17 và HQ 503 nhận lệnh ra Vùng 2 Duyên hải. HQ 505 cũng được lệnh tiếp tế cho chiến trường Phan Rang 800 tấn đạn 105 và 155 ly. (Số đạn này sau đó được trả lại cho Thành Tuy Hạ khi Phan Rang thất thủ, HQ 505 nhận nhiệm vụ di chuyển nhân viên và gia đình Đài Mẹ Việt Nam ra Phú Quốc).

Tuần dương hạm (WHEC - White High Endurance Cutter, Frigate) HQ-17 - Ngô Quyền
Hạm Trưởng: Hải Quân Trung Tá Lê Hữu Quýnh, Khoá 8 - Đệ Nhất HỔ CÁP - Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang.

Tuần dương hạm (WHEC - White High Endurance Cutter, Frigate) HQ-17 - Ngô Quyền
Hạm Trưởng: Hải Quân Trung Tá Lê Hữu Quýnh, Khoá 8 - Đệ Nhất HỔ CÁP - Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang.



 
Tuần dương hạm (WHEC - White High Endurance Cutter, Frigate) HQ-3 - Trần Nhật Duật
Hạm Trưởng: Hải Quân Trung Tá Nguyễn Kim Triệu, Khoá 7 - Đệ Nhất THIÊN XỨNG - Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang.

 
Ngày 15 tháng 4/1975 Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt thoát ra Tuần dương hạm Trần Nhật Duật HQ 3 trong vịnh Ninh Chữ khi phòng tuyến Phan Rang tan vỡ.

Ngày 15 tháng 4/1975 từ sáng sớm, CSBV liên tục pháo từng chập vào căn cứ. Từ chiều trở đi, Tướng Nghi liên tiếp nhận được tin địch sẽ tập trung tấn công trong đêm sắp tới. Một trong những công điện gởi từ bộ chỉ huy Cộng quân tại Ba Râu, cho hay bộ binh địch cùng nhiều chiến xa sẽ tấn công vào Phan Rang lúc 5 giờ sáng dọc đường rầy xe lửa, theo quốc lộ 1 phát xuất từ Rừng Dừa ở Ba Ngòi. Biết ý định của Cộng quân, Trung tướng Nghi báo động mọi nơi đề phòng, đặc biệt là LD 31 BDQ có nhiệm vụ án ngữ ở Du Long. Một phiên họp tại phi trường Phan Rang do Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi triệu tập gồm Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang và Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh. Chưa bàn thảo được gì thì ngoài bãi đậu nhiều phi công lấy trực thăng bay đi, tạo nên tình trạng hốt hoảng, rối loạn, mọi người đành phải phân tán. Tướng Trần Văn Nhựt và Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh được trực thăng đưa ra HQ 3. Từ đài chỉ huy HQ 3, Tướng Nhựt báo cáo trung ương là Phan Rang thất thủ! 

Trong ngày 16 tháng 4/1975, HQ 505 được lệnh rời vịnh Phan Rang và HQ 406 đem hai đại đội CSDC về lại Cát Lỡ. HQ 3 đưa Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh về Sài Gòn. HQ 2 và những chiến hạm khác thả neo ngoài khơi chờ lệnh. Sau đó, HQ 503 đã vớt được khoảng 200 quân và dân thuộc quận Tuy Phong, Bình Thuận, khi nhóm này rút ra biển bằng ghe.

Tuần dương hạm (WHEC - White High Endurance Cutter, Frigate) HQ-2 - Trần Quang Khải

Kể từ ngày 18.4.1975 chiến hạm HQ 02 đến tăng viện và nhận quyền chỉ huy.   

HẢI QUÂN VIỆT NAM ANH DŨNG CHỐNG QUÂN XÂM LĂNG TRUNG CỘNG TẠI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA  

* Trích từ tài liệu "THẾ GIỚI LÊN ÁN TRUNG CỘNG XÂM LĂNG HOÀNG SA CỦA VNCH" do cục Tâm Lý Chiến- Tổng Cục CTCT- Quân Lực VNCH ấn hành vào năm 1974 (bản song ngữ Việt Anh)- Xin xem toàn bài trong phần "Các tài liệu về Hoàng Sa"
* Một số dữ kiện và số liệu ghi trong tài liệu này chưa được phối kiểm.
 
Chiều ngày 15-1-1974, một ghe đánh cá Trung Cộng chở người đến cắm cờ và dựng lều trên Đảo Cam Tuyền (Robert) thuộc Quần Đảo Hoàng Sa.  Tuần-dương-hạm Việt Nam Cộng Hòa dùng quang hiệu đuổi họ rời khỏi đảo nhưng vô hiệu.
Sáng ngày 16-1-1974, lực lượng Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (HQ/VNCH) hoạt động trong vùng Quần Đảo Hoàng Sa ghi nhận 2 chiến đĩnh Trung Cộng chạy chung quanh Đảo Duy Mộng (Drummond).
Sáng ngày 17-1-1974, chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa được lệnh đổ bộ lên Đảo Vĩnh Lạc (Money) và tìm thấy trên đảo này có 4 ngôi mộ người Trung Hoa.  Ngoài ra, HQ/VNCH cũng đã ghi nhận thêm một chiến hạm của Trung Cộng di chuyển quanh Đảo Cam Tuyền.
                  
        Khu-Trục-Hạm HQ4 của HQ/VNCH
Chiều ngày 17-1-1974, 31 đoàn viên HQ/VNCH có võ trang được đổ bộ lên đảo Cam Tuyền nhưng chỉ tìm thấy một lá cờ Trung Cộng và một bản đồ ghi bằng chữ Trung Hoa.  Trong khi đó, HQ/VNCH ghi nhận có 2 chiến hạm của Trung Cộng neo tại phía Nam Đảo Cam Tuyền nhưng sau đó 2 chiếc tàu này đã nhổ neo di chuyển đi nơi khác.
Vào chiều tối cùng ngày, 2 chiến hạm Trung Cộng xuất hiện từ hướng Đảo Quang Hòa (Duncan) di chuyển đến Đảo Cam Tuyền (Robert) và dùng quang hiệu yêu cầu các tàu của ta rời khỏi hải phận của họ (?).   Các chiến hạm Việt Nam Cộng Hòa vẫn ở tại chỗ chờ lệnh và sau đó các tàu Trung Cộng bỏ đi.
Lúc 19 giờ 40 phút cùng ngày, một phi cơ lạ bay ngang qua chiến hạm HQ 4 của HQ/VNCH rồi bay về hướng Đông Nam mất dạng.
Qua hôm sau tình hình không có gì đột biến ngoại trừ các chiến hạm Trung Cộng không ngừng khiêu khích.
                      
Tàu Trung Cộng bất chấp luật Hàng Hải Quốc Tế,
    khiêu khích ta bằng cách xấn ngang mũi chiến hạm HQ/VNCH
Tính đến ngày 19-1-1974, Trung Cộng đã có 14 chiến hạm đủ loại hiện diện trong khu vực Quần Đảo Hoàng Sa, kể cả 4 phi-tiễn-hạm loại Komar.  Ngoài ra, phi cơ lạ cũng đã được ghi nhận xuất hiện trong vùng vào lúc hừng đông và bay mất dạng về hướng Bắc.
Kể từ ngày 18-1 đến sáng 19-1, các chiến hạm Trung Cộng không ngưng khiêu khích lực lượng HQ/VNCH trong vùng Hoàng Sa bằng cách đâm thẳng vào các chiến hạm của HQ/VNCH, nhưng các tàu ta đã cố né tránh.
                                  
            Tàu Trung Cộng gây hấn bằng cách
            đâm vào hông chiến hạm HQ/VNCH
Vào lúc 8 giờ 30 phút ngày 19-1, hai toán Biệt Hải thuộc QLVNCH gồm 74 người, đổ bộ lên đảo Quang Hòa (Duncan) và bị hơn một đại đội Trung Cộng võ trang vũ khí đủ loại tấn công.  Cuộc tấn công này đã gây cho 2 binh sĩ ta bị thiệt mạng cùng 2 người khác bị thương.  Sau đó, các toán Biệt Hải được lệnh triệt thoái khỏi đảo.
Đến 10 giờ 22 phút cùng ngày, một hộ-tống-hạm Trung Cộng loại Kronstadt đã đâm ngang hông đồng thời nổ súng vào khu-trục-hạm Trần Khánh Dư của ta đang hoạt động ở ngoài Đảo Quang Hòa.  Khu-trục-hạm Trần Khánh Dư phản pháo tự vệ và bắn chìm hộ-tống-hạm Trung Cộng này, khu-trục-hạm của ta bị hư hại nhẹ.
  
 Tuần-Dương-Hạm HQ5 của HQ/VNCH             Hộ-Tống-Hạm loại Kronstadt của Trung Cộng
Vào xế trưa, lực lượng hai bên đoạn chiến.  Các chiến hạm của ta tập trung về khu vực các hải đảo phía Tây của Quần Đảo Hoàng Sa và 30 đoàn viên hải quân được đổ bộ lên 2 đảo Cam Tuyền (Robert), Vĩnh Lạc (Money).  Trong khi đó tại hải đảo Hoàng Sa (Pattle) đã có một trung đội Địa Phương Quân thuộc Tiểu Khu Quảng Nam và 4 nhân viên đài khí tượng trú đóng từ trước.
Trong đêm cùng ngày, 3 chiến hạm của ta bị hư hại, được lệnh trở về Căn Cứ Hải Quân Đà Nẵng.
Trong cuộc hải chiến, hộ-tống-hạm HQ 10 của HQ/VNCH bị trúng hỏa tiễn Styx của Trung Cộng và bị thiệt hại nặng trong ngày 19-1.  Chiến hạm cùng thủy-thủ-đoàn gồm 82 người đã bị mất liên lạc.
    
Hạm Trưởng Hộ-Tống-Hạm Nhật Tảo HQ10, HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà đã anh dũng hi sinh theo chiến hạm.  Hộ-Tống-Hạm HQ10 đã bị chìm trong trận Hải Chiến Hoàng Sa.
Lúc 10 giờ 20 phút ngày 20-1-74, 4 phi cơ Mig 21 và Mig 23 của Trung Cộng đã oanh tạc các hải đảo Hoàng Sa (Pattle), Cam Tuyền (Robert) và Vĩnh Lạc (Money) đồng thời quân Trung Cộng cũng đổ bộ tấn công các đơn vị ta đồn trú trên các hải đảo này.  Sau 20 phút giao tranh, vô tuyến bị hư, các toán quân tuần đảo dã mất liên lạc.  Bốn chiến hạm của ta còn lại trong vùng biển gồm 1 hộ-tống-hạm và 3 tuần đỉnh cũng bị trúng đạn và hư hại nhẹ.
                    
                                  Tuần-Dương-Hạm HQ 16 trở về bến. 
                  
        Đồng bào đón tiếp các chiến sĩ vừa dự trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa. 
                  
Nữ sinh tại địa phương choàng vòng hoa cho các chiến sĩ anh hùng.
                   
    Tình quân dân thắm thiết vì bảo vệ tổ quốc chống ngoại xâm
  Trung Cộng là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân. 
                  
     Phái đoàn dân chính địa phương thăm viếng các chiến hạm.
        tham dự trân Hải Chiến Hoàng Sa chống Trung Cộng. 
Sau trận hải chiến oai hùng của Hải Quân VNCH với lực lượng Trung Cộng, tổn thất đôi bên được ghi nhận như sau:
Việt Nam Cộng Hòa                          Trung Cộng
    19 tử thương                                   Không được ghi nhận.
    43 bị thương
    101 mất tích
                   
                                       Nhân dân thủ đô biểu tình lên án Trung Cộng
                               xâm chiếm Quần Đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa,
                          Nhân dân thủ đô cực lực lên án tham vọng bá quyền của Trung Cộng.
Vào lúc 18 giờ 30 phút ngày 22-1-74, thương thuyền Kopionella quốc tịch Hòa Lan đã vớt được 23 thủy thủ của hộ-tống-hạm HQ 10 bị tàu Trung Cộng bắn chìm ngày 19-1-74 tại vùng 287 cây số Đông Đà Nẵng.
Sáng hôm sau, chiến ham HQ 6 của HQ/VNCH đã tiếp nhận số thủy thủ trên.  Trong số này, có 2 quân nhân bị tử thương (gồm có 1 Đại Úy Hạm Phó) và 2 người khác bị thương.
                   
           Tư Lệnh Hải Quân Trần Văn Chơn đang tuyên dương
    chiến sĩ Hải Quân trên các chiến hạm tham dự trận hải chiến.
                  
Tư Lệnh HQ thăm hỏi các chiến sĩ hải quân... 
                   
Phái đoàn dân chính địa phương thăm viếng và ủy lạo các chiến sĩ.
        
    Thăm viếng và ủy lạo các chiến sĩ bị thương.          Giúp đỡ các chiến sĩ bị thương trở về.
Ngoài ra, hồi 12 giờ ngày 29-1-74, ngư phủ ta đã vớt được 15 quân nhân Hải Quân gồm 1 sĩ quan, 2 hạ-sĩ-quan và 12 đoàn viên tại 55 cây số phía Đông Mũi Yên (Qui Nhơn).  Tất cả 15 chiến sĩ HQ này thuộc toán đổ bộ lên Đảo Vĩnh Lạc.
Trong số 48 chiến sĩ ta bị Trung Cộng bắt giữ, 5 người gồm 2 Địa Phương Quân, 1 Công Binh, 1 Hải Quân và 1 nhân viên đài khí tượng đã được Trung Cộng trao trả tại Hương Cảng ngày 31-1-74.  Do một chuyến phi cơ đặc biệt, họ đã trở về tới Sài Gòn hồi 15 giờ 30 phút và được đón tiếp vô cùng nồng hậu.  43 người còn lại cũng đã trở về tới Sài Gòn chiều ngày 17-2-74 trong sự tiếp đón tưng bừng của các đoàn thể và nhân dân thủ đô.  
                  
Đồng bào thủ đô đang chờ đón các chiến sĩ tham dự
     trân Hải Chiến Hoàng Sa trở về tại phi trường.
                  
 Một số chiến sĩ bị thương được trực thăng tải thương về hậu cứ.
        
         Các chiến sĩ QLVNCH trấn đóng cùng nhóm nhân viên Đài Khí Tượng
   trên đảo bị Trung Cộng tấn công và bắt giữ trái phép được trao trả cho VNCH.
                  
 Hân hoan đón các chiến sĩ trở về sau trân Hải Chiến Hoàng Sa.
                    
     Trao tặng huy chương, ủy lạo chiến sĩ trong tình chiến hữu.   
                   
Niềm vui đoàn tụ sẽ chẳng trọn khi toàn dân Việt chưa thể tái chiếm Quần Đảo Hoàng Sa vì phải tập trung nỗ lực chiến đấu chống quân tay sai Cộng Sản Bắc Việt, đang đựơc chính bọn bá quyền Trung Cộng và cả khối Cộng tích cực yểm trơ mọi mặt.  
 
-------------------------------------------------------------------------------------------------
(Trích từ tài-liệu “THẾ GIỚI LÊN ÁN TRUNG CỘNG XÂM LĂNG HOÀNG SA CỦA VNCH” do CỤC TÂM LÝ CHIẾN – TỔNG CỤC CHIẾN TRANH CHÍNH TRỊ - QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA ấn hành năm 1974 (bản song ngữ Việt-Anh) – Xin xem toàn văn trong phần “Các tài Liệu Về Hoàng Sa”)


Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Việt Nam

Tác Giả: Giáo sư Robert F. Turner   
Chúa Nhật, 16 Tháng 9 Năm 2012 20:51
Tôi là một sinh viên trong số tương đối ít ỏi đã thực tin rằng việc chống Cộng sản xâm lược là việc đúng của Hoa kỳ ở Việt Nam, Lào, Cambodia là đúng.
Tôi lần đầu đến Việt Nam trong một giai đoạn ngắn khi là phóng viên năm 1968, rồi quay về đi lính, bắt đầu chức vụ Trung úy rồi sau lên Đại úy rồi trở lại đó hai lần làm việc tại một bộ phận của toà Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, là Văn phòng Nghiên cứu về Bắc Việt và Việt Cộng. Tôi có cơ hội được đi tới nhiều địa phận tại Việt nam, khoảng 44 tỉnh thành, có chỗ chỉ đi ngang qua. Tôi được qua Lào, Cambodia. Sau khi giải ngũ tôi gia nhập Hoover Institution, tôi đã viết cuốn sử quan trọng đầu tiên bằng tiếng Mỹ về “Cộng sản Việt Nam” .
Trong hơn hai chục năm, tôi đã có nhiều khóa giảng dạy tại viện Đại học Virginia về Chiến tranh Việt Nam. Vì thời giờ có hạn, tôi phải nói ngắn, nhưng trước khi đề cập tới chủ điểm của bải thuyết trình, tôi xin có thêm một lời cảnh báo, nhất là với các khán thính giả trẻ tuổi.
Rằng đa số lập luận “sáng suốt phổ biến” của người Mỹ về Chiến tranh Việt Nam thật ra lại không đúng. Rất đáng tiếc rằng điều ấy có nghĩa là đa số những gì được giảng dạy tại cấp trung và đại học lại gần với thần thoại hơn là lịch sử. Tôi chi xin đơn cử hai thí dụ, hai thí dụ quan trọng:
1- Ngày nay, chúng ta được nghe rằng cuộc chiến Việt Nam là “bất khả thắng”. Chúng ta đứng sai chỗ. Tôi xin được góp tiếng bên cạnh nhiều sử gia thuộc loại xuất sắc nhất ngày nay khi nêu lập luận ngược rằng chúng ta không chỉ hy vọng thắng mà thực tế đã thắng vào đầu thập niên 1970. (Và khi nói “chúng ta”, tôi không nghĩ rằng đấy là Quân lực Hoa Kỳ mà là nỗ lực chung của hai quân đội miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ cùng với người dân miền Nam).
2- Chuyện gì đã xảy ra? Khi tôi tuyên bố là có thể thắng. Tôi xin đưa câu nói của người bạn thân Douglas Pike: ông Douglas Pike đã quá vãng, người mà tôi hoán đổi công vụ nhiều lần trong Sứ quán Hoa Kỳ, ông Pike nói rằng: Tôi tin rằng chúng tôi có thể đã thắng cuộc chiến Việt Nam. Tôi tin rằng trong tương lai lịch sử sẽ nói rằng chúng ta đã thắng. Đó là sự thật.
Một số thí dụ sau đây sẽ chứng minh.
Có một bài viết trong báo Foreign Affairs năm 2004 do Giáo sư John Lewis Gaddis Khoa trưởng Americạn Diplomatic Historians nói rằng: Các sử gia hiện tại công nhận rằng miền Nam Việt Nam và đồng minh đã thắng cuộc chiến quân sự. Nh­ưng lại thua cuộc chiến tâm lý tại Mỹ. Tôi xin nhắc lại cho quý vị trẻ biết sau khi bị bỏ bom tơi bời Hà Nội vội vã trở lại đàm phán tại Paris. Và mọi chuyện êm xuôi nếu chúng ta dùng máy bay B52 để trấn giữ hiệp định.
Nhưng quốc hội với áp lực của “Phong trào Hòa Bình” đã thông qua dự luật vào tháng năm 1973. Sẽ là bất hợp pháp nếu Tổng Thống sử dụng bất cứ đồng nào trong công quỹ cho cuộc chiến tại Việt Nam, Lào và Cambodia. Làm như vậy, Quốc hội đã chuyển thắng thành bại. Quốc hội phản bội lời cam kết lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các nước không Cộng sản tại Đông Dương. Lúc ấy tôi làm việc tại Thượng nghị viện, nghị sĩ Ted Kennedy tuyên bố rằng “Việt Nam không cần giúp đỡ, họ đã có lượng vũ khí trị giá vô số triệu đô la”. Đó là sự thật. Việt Nam có phi cơ trực thăng, xe tăng Hoa Kỳ. Nhưng cái mà họ không biết là, Việt Nam không có đạn, không có xăng. không có phụ tùng. Đống đồ đó trở nên vô dụng. Đây là câu chuyện tôi chưa bao giờ kể cho ai nghe. Ngay sau khi sơ tán từ Việt Nam về tới Mỹ, tôi gặp Nghị sĩ Ted Kennedy tại Thượng Nghị Viện. Đó là lần đầu tiên tôi gặp ông ấy khi trở về Mỹ. Ông ấy đứng cách tôi khoảng 3 mét. Tôi cung tay phải lên và tự nhủ: “mình phải cho nó biết tay, phải đấm gục hắn ta và nói cho thế giới biết rằng chúng tôi vừa mới phản bội chính danh dự của mình và bỏ rơi những người đáng yêu.”
Nhưng tôi đã tự cản bản thân mình vì làm vậy sẽ ảnh hưởng đến cương vị Nghị sĩ của tôi và Ted Kennedy sẽ trở thành người hùng. Không phải là việc làm đúng đắn nhưng đôi lúc tôi nghĩ là mình đã bỏ rơi cơ hội ấy.
Sau khi Quốc Hội cắt hết viện trợ cho Việt Nam, Trung cộng gia tăng viện trợ cho Hà Nội. Phạm Văn Đồng nói rằng: “Được cho kẹo tụi nó cũng không dám quay lại”. Đó là lý do của sự thất bại tại chiến trường Việt Nam.
Quân nhân Mỹ, QLVNCH, và miền Nam Việt Nam không bị bại trận, mà thua vì cái gọi là “tự do” của Quốc hội Hoa Kỳ.
Điềm thứ 2 tôi muốn đưa lên là: Việt Nam rất quan trọng. Họ cho rằng Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến “phi lý” tiến hành không lý do chính đáng, do hiểu lầm về vụ đụng độ không đáng kể ở Vịnh Bắc Bộ. Thật sự là ngớ ngẩn.
Tôi đã viết 450 trang trình bày trong luận án đạt giải danh dự năm 1966. Tôi đã ghi lại vào tháng Năm 1975 đảng Lao động của Cộng sản Việt Nam đã quyết định từ Tháng Năm năm 1959 là mở ra đường mòn Hổ Chí Minh và gửi vào Nam nhiều ngàn lính và vô số chiến cụ với mục đích lật đổ chính phủ trong Nam. Đây là hành động xâm lược quốc tế và vi phạm Hiên chương Liên hiệp quốc. Hoa Kỳ tham chiền để giúp người dân miền Nam tự vệ vì cùng một lý do như việc chúng ta tham chiến tại Cao Ly, nhằm bảo vệ tự do của con người và thực thi việc chống xâm lược đã được ghi trong Hiến chương Liên hiệp quốc.
Trong cuốn sách “Cộng sản Việt Nam” xuất bản năm 1975, Hà Nội đã nhiều lần xác nhận sự thực đó từ Tháng Năm năm 1959 ngay ngày sinh nhật Hồ Chí Minh. 10 năm trước, chúng tôi đã thảo luận tại Đại học Luật Virginia về vấn đề hợp pháp này. Luật quốc tế và Hiến chương Liên hiệp. Không thể thảo luận nối vì Hà Nội lập luận rằng đó là nội chiến trong miền Nam VN v.v... hãy bỏ qua 1 số điểm vì thời gian có hạn.
Tôi nêu lên hậu quả của việc bỏ rơi VN.
Tôi có thể nói hoài về việc người Mỹ bỏ rơi Việt Nam. Tôi là người đứng ngay trong trận khi Quốc Hội biểu quyết không giúp đỡ Angola vì sự xâm lăng của Xô Viết. Kết quả nạn nhân bị tử vong ở đấy được ước lượng là không dưới trăm ngàn người.
Đến việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan khiến cả triệu người chết. Sẽ không xảy ra nếu chúng ta không rút lui.
Và lần đầu tiên trong sáu chục năm, Moscow bảo với tay sai của họ ở Mỹ châu La Tinh rằng tiến hành “đấu tranh võ trang” để cướp chính quyền thì cũng được, từ đấy mới xảy ra nội chiến tại El Salvador, Nicaragua, Honduras, Guatemala, Costa Rica và các nước khác trong vùng. Vô số người lại thiệt mạng vì chuyện đó. Một số lớn súng M16 tịch thu được từ quân phiến loạn El Salvador, căn cứ theo số xê ri là súng bỏ lại tại chiến tranh VN của quân đội Mỹ. Hà Nội đã cung cấp cùng với Xô Viết qua đường Cuba rồi đưa lậu qua El Salvador.
Cho những người nói chiến tranh VN là phi lý. Họ đã sai.
Nhưng hôm nay tôi không muốn tập trung về các vấn đề dù rất quan trọng là đia dư chiến lược. Tôi muốn nói về hậu quả của quyết đinh của Hoa Kỳ đối với con người.
“Phong trào hòa bình” - của phe phản chiến - trấn an chúng ta rằng Hoa Kỳ chỉ lần rút quân và chấm dứt chiến tranh thì mình sẽ phát huy “nhân quyền” và “ngăn nạn tàn sát”. Tôi rất ngại nói về những gì xảy ra tại Việt Nam sau khi Hoa Kỳ triệt thoái, vì trong hội trường này và tại khu “Little Sàigon” có nhiều người đã trực tiếp nếm mùi và biết rõ hơn những gì mà mọi “học giả” Mỹ có thể muốn biết. Nhưng có một số sự thật thì đã rõ ràng.
Hãy trước tiên nói về nhân quyền. Tháng Tư năm 1975, khi sự chiến thắng của Cộng sản đã thành hiển nhiên cho mọi người, Đệ nhất Bí thư đảng Lao Động là Lê Duẩn đã tuyên bố rằng: sau khi “giải phóng” Miền Nam, chúng ta sẽ biến nhà tù thành trường học”. Tới Tháng 10 năm 1978, nhật báo Times đầy uy tín tại Luân Đôn đã báo cáo sự thật: Cộng sản Việt Nam đã biến nhà trường và cô nhi viện thành nhà tù vì họ có quá nhiều tù nhân.
Điều 11 của Hiệp định Paris ký kết năm 1973 cấm “mọi hành vi trả thù hay kỳ thị các cá nhân hay tổ chức đã hợp tác với một phe bên này hay bên kia”, và còn rõ ràng bảo đảm quyền tự do báo chí, tôn giáo, tự do sinh hoạt chính trị và một loạt những quyền thiêng liêng khác. Vậy mà Tháng Năm năm 1977, tờ Quân đội Nhân dân công khai thông báo “triệt để cấm mọi hành vi chống lại chế độ và tước hết mọi quyền tự do của những kẻ không tin vào xã hội chủ nghĩa”. Bài báo tuyên bố: “Với bọn phản cách mạng... nhân dân ta dứt khoát xoá bỏ quyền tự do ngôn luận và trừng phạt đích đáng”.
Sau đó, một dân biểu duy nhất của Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa được phép tham gia cái gọi là “Quốc hội Thống nhất” đã tuyên bố: Chế độ mới cai tri bằng bạo lực và khủng bố. Không có tự do di chuyển hay lập hội; không có tự do báo chí hay tự do tôn giáo hay... cả quyền tự do có ý kiến riêng... Sự sợ hãi tràn ngập khắp nơi”
QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ
Tháng Chín năm 1970, Trưởng phòng Sài Gòn của tờ Christian Science Monitor là Daniel Sutherland - ông bạn của tôi vào thời ấy - có viết một bài dài về “quyền tự do báo chí” trong Nam. Ông viết: “Dưới bộ luật báo chí mới, Miền Nam bây giờ có một nền báo chí thuộc loại tự do nhất Đông Nam Á...”. Tôi tin chắc rằng mình không là người duy nhất trong hội trường này có thề xác nhận điều ấy. Riêng Sài Gòn thì đã có hơn ba chục tờ báo, và nhiều tờ trong số đó kịch liệt chống chính phủ.
Dĩ nhiên là để thu thập dữ kiện về quyền tụ do ấy, tôi thường cầm máy ảnh lang thang trong Sài Gòn vào những chiều Chủ Nhật được nghỉ. Tôi thấy bày bán công khai những quyển sách như “Chiến tranh Nhân dân và Quân đội Nhân dân” của Tướng Võ Nguyên Giáp là cuốn chỉ nam về nổi dậy của Việt Cộng, vài cuốn của lãnh tụ cộng sản Cuba là Ché Guevarra, và cả các cuốn sách về hay của Mao Trạch Đông. Sau ngày gọi là “giải phóng”, người Cộng sản chiếm đóng đã “tạm thời” đình chỉ xuất bản mọi tờ báo hay tạp chí độc lập. Chưa đầy một tháng sau, mọi tiệm sách báo đều bị đóng cửa và việc mua bán hay tàng trữ các văn hoá phầm xuất hiện “dưới chế độ cũ!” đều bị cấm.
TÙ CHÍNH TRỊ
Một trong các vấn đề nặng nề nhất là những người chống Việt Nam thường nêu ra, là cái gọi là “chế độ phát xít” tại miền Nam đã giam giữ hơn 200 ngàn “từ chính trị”. Khi trở lại Đông Dương vào Tháng Năm 1974 - cũng là dịp thăm viếng Cam Bốt và Lào – tôi chú trọng đến việc điều tra những lời cáo giác trên.
Tôi ghé thăm Linh mục Chân Tín, nổi danh lãnh tụ của “lực lượng thứ ba” nhưng có lẽ là một cán bộ của Hà Nội. Tôi hỏi ông là tìm đâu ra con số “202 ngàn tù nhân chính trị?” Ông ta bảo rằng mình đã hỏi các tù nhân cũ và gia đình thân nhân của họ là họ nghĩ xem có bao nhiêu tù nhân. (Tôi nghi là họ đã cộng lại tổng số của các câu trả lời). Sự thật thì thời đó chỉ có khoảng 35 ngàn tù nhân trong tất cả các nhà tù của Miền Nam.
Tôi cũng gặp một lãnh tụ khác của “lực lượng thứ ba” là bà Ngô Bá Thành, người nói với tôi rằng định nghĩa của bà về “tù nhân chính trị” có thể gồm cả người nh­ Sỉrhan Sirhan, là tay cán bộ người Palestine đã ám sát nghị sĩ Robert Kennedy vào tháng Sáu năm 1968. Mục đích của hắn, bà Ngô Bá Thành giải thích là, “chính trị” khi hắn ám sát một ứng cử viên Tổng thống rất nổi tiếng của Hoa Kỳ .
Rồi còn vụ “chuồng cọp” đầy tai tiếng tại Côn Sơn, được họ mô tả như sau:
,”… xà lim chôn dưới mặt đất với các đống sắt, đồng trên trần thay vì ở dưới. Mà trần xây thấp đến nỗi tù nhân không thể đứng được …”
.”… những hố nhỏ được đào dưới đất và che bằng chấn song sắt.”
- “[Mấy hầm đó] quá hẹp cho những người Việt Nam dù thấp bé cũng không thể nằm duỗi thẳng và trần quá thấp nên tù nhân khó có thể đứng thẳng người”
Thật ra, tôi có đến đảo Côn Sơn và thăm những chuồng cọp này. Tôi nghĩ rằng chúng ta cùng đồng ý là tôi hơi cao hơn đa số người Việt Nam. Vậy mà tôi chưa thể với tới các chấn song trên trần - vốn cao tới ba thước (khoảng 10 bộ) kể từ mặt đất lên.
Ngay cả lực sĩ Nghiêu Minh (Yao Minh) người Tầu - tay trung phong của đội bóng rổ Rocket's ở Houston bên Texas - cũng chỉ cao tới bảy bộ và sáu phân - hơn hai thước hai - nên anh ta cũng chẳng gặp khó khăn gì đề duỗi dài trong căn xà lim một bề thước rưỡi một bề ba thước của cái gọi lả “chuồng cọp”.
Ít nhất, một số cán bộ chống Việt Nam đã từng cáo giác chuyện “chuồng cọp” biết là họ nói láo. Trước khi qua Việt Nam năm 1974, tôi nói với một người trong số này rằng tôi dự tính sẽ tới nhà tù Côn Sơn đề tự minh xem tận mắt và anh ta có vẻ khó chịu – có lẽ biết rằng tôi sẽ thấy sự thật. Anh ta nói rằng vấn đề thật bây giờ chính là tại nhà tù Chí Hòa ở Sài Gòn.
Vì vậy sau khi thăm Côn Sơn, tôi xin phép vào xem nhà tù Chí Hòa và chưa đầy 48 tiếng sau đã được tới đó trong mấy tiếng đồng hồ. Đây không là nơi mà mình thích sống nhưng cũng chẳng tệ hơn đa số các nhà tù và bên trong tôi không thấy dấu vết gì của những sự lạm dụng phổ biến. Tôi nói riêng với vài người Mỹ đã từng ở trong này và họ nói rằng dù có nghe nhiều lời tố cáo nhưng tất cả đều cho biết là họ không hề nghe thấy “tiếng gào thét trong đêm vắng” hoặc được báo cáo về nạn tra tấn hay hành hạ tù nhân.
NGĂN CHẬN TÀN SÁT
Bi thảm nhất của những người chống Việt Nam là lý luận của họ, rằng cắt viện trợ cho Miền Nam là Hoa Kỳ sẽ “ngăn được nạn tàn sát”. Họ sai lầm tới chừng nào. Ông bạn Giáo sư R.J. Rummel của tôi (một người từng được tuyển liên tiếp cho giải Nobel Hòa Bình) ước lượng là tổng số người bị giết sau khi miền Nam được “giải phóng” lên tới 643 ngàn.
- Khoảng 100 ngàn bị xừ tử qua quít ngay sau khi Cộng sản nắm quyền. Qua quít vì cũng chẳng có một hình thức tạm bợ về “tiến trình hợp pháp” hay một toà án.
- Giáo sư Rummel cho là 400 ngàn là “thuyền nhân” bị chết ngoài biển cả khi muốn thoát khỏi chê độ độc tài và đàn áp đã trùm lên quê hương. Cao ủy Ty nạn của Liên hiệp quốc thì cho là một phần ba những người vượt biên bằng thuyền đã chết ngoài biển - một số là vì tầu quá đông người bị chìm, hoặc chết vì đói, vì khát. Nhiều người tử nạn sau khi bị hải tặc cướp bóc và cưỡng hiếp. Cao ủy cũng tường trình rằng có khoảng 840 ngàn người tới được Hong Kong hay các nước không Cộng sản ở Đông Nam Á. Nếu áp dụng tỷ số “chết một phần ba” cho con số này thì ta đoán là có một triệu 300 ngàn người vượt biên bằng thuyền và khoảng 420 ngàn người đã chết trên đường tìm tự do. Con số không xa với ước lượng của Giáo sư Rummel.
Giáo sư Lewia Sorley, tác giả cuốn sách có giá trị của một dấu mốc là “A Better War” - một Cuộc Chiến Khá Hơn - mà tôi ân cần giới thiệu đến quý vị, cho rằng có chừng 250 ngàn sĩ quan và binh lính của miền Nam cũ đã chết trong các “Trại Cải Tạo” do chế độ Cộng sản lập ra.
- Khoảng một triệu rưởi người dân miền Nam bị đày vào các khu “Kinh Tế Mới” để sống trong những điều kiện nghiệt ngã và chừng 48 ngàn đã chết tại đấy. Tôi biết rằng rất đông người trong cộng đồng này có thể kể lại những kinh nghiệm thật về “Trại Cải Tạo” và khu “Kinh Tế Mới” và khuyên các sinh viên ở đây nên tìm ra họ, ghi nhận câu chuyện của họ để làm chứng liệu cho lịch sử.
CĂM BỐT
Và còn chuyện xứ Căm Bốt nữa.
Khi Tổng thống Nixon gửi quân đội Hoa Kỳ sang Cam Bốt vào năm 1970 đề yêm trợ các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa, khuôn viên các Đại học Mỹ bị đóng vì những cuộc phản đối đầy bạo động chống lại vụ xâm lược “phi pháp”. Thật ra, về pháp lý thì y như Việt Nam, Căm Bốt là “quốc gia thành viên của Nghị định thư” - Protocole States - đã được cam kết bảo vệ chống Cộng sản xâm lăng trong khuôn khổ Hiệp ước SEATO năm 1954. Mười năm sau, và với tỷ lệ đầu phiếu là 99,6%, khi Quốc hội Hoa Kỳ cho phép Tổng thống Johnson tham chiến tại Đông Dương. quy chế ấy hoàn toàn có thể áp dụng cho Căm Bốt như cho Việt Nam và Lào. Nghị quyết ấy của Quốc hội chỉ cần dẫn chiếu “Protocole States” của hiệp ước SEATO (South East Asia Treaty Organization). Tôi thăm viếng Căm Bốt nhiều lần trong năm 1974 và trong nhiều năm đã viết về Khờme Đỏ. Thời ấy, việc họ là những kẻ sắt máu có dự tính tàn sát không tưởng tượng nỗi với đồng bào Khờme của họ thật ra chẳng còn là bí mật. Và dĩ nhiên, khi tôi trở lại Việt Nam vào Tháng Tư năm 1975, một trong những mục tiêu chính của tôi là đễ cố gắng cứu lấy đám trẻ cô nhi tại Căm Bốt. Tôi đến quá trễ và có lẽ những đứa trẻ tôi hy vọng cứu được chắc là đã chết.
Không hề có một cuộc khảo sát dân số tại Căm Bốt và chẳng ai biết thực sự có bao nhiêu người đã sống tại nơi ấy. Con số ước đoán về nạn nhân có những dị biệt lớn, với một số chuyên gia thì cho lả có hơn hai triệu. Tài liệu khảo cứu khá nhất mà tôi được đọc là của Đại học Yale, nơi mà Chương trình của Yale về nạn Diệt chủng Căm Bốt ước tính là Pol Pot và bọn đao phủ của hắn đã thảm sát một triệu bảy trăm ngàn người - hơn 20% dân số toàn quốc.
Một bài báo về “các vùng thảm sát” của Căm Bốt trên tạp chí Nattonal Geographic Today trong số tháng Giêng năm 2004 cho chúng ta những chi tiết này: “Nhân viên hướng dẫn giải thích rằng đạn quá quý để dùng cho việc tàn sát. Rìu, dao và gậy tre thật đắc dụng hơn. Còn về trẻ em thì bọn đồ tể chỉ đơn giản giọng chúng vào thân cây”.
Ông Douglas Pike đã quá vãng, người mà tôi hoán đỗi công vụ nhiều lần trong Sứ quán Hoa Kỳ, có viết như sau về hậu quả nhân sinh của việc Hoa Kỳ bội ước sự cam kết của mình là sẽ bảo vệ người dân của các nước không cộng sản ở Đông Dương: “Dù có ước l­ợng dè dặt nhất, có nhiều thường dân Đông Dương bi bạo sát sau Chiến tranh Việt Nam hơn là tổng số nạn nhân trong thời chiến, ít ra là hơn hai triệu... Nỗi khổ đau lên tới mức chưa từng thấy, còn thê thảm hơn những ngày chinh chiến”.
Thật bi đát vì tôi nghĩ rằng ông Pike có lý. Và tôi lại càng tin rằng cộng đồng tại đây, đôi khi ngay trong hội trường, có những người có thể cung cấp những dữ kiện trực kiến về thảm kịch nêu như ta muốn tìm đến họ và ghi nhận lời chứng của họ. Việc này thì chẳng ai có tâm trí bình thường lại thích làm, nhưng là điều mà những ai muốn truy lùng sự thật tới cùng vẫn có nhiệm vụ thực hiện. Chúng ta phải kể lại chuyện này - một cách chính xác và cẩn trọng – đểngười khác sẽ biết rất lau về sau, khi các nhân chứng cuối cùng không còn tại thế nữa. Chúng ta phải kể lại, nếu không chuyện đó sẽ lại tái diễn.
Những ai thấy bàng hoàng về những chuyện đã xảy ra khi Cộng sản khống chế người dân Miền Nam và của Căm Bốt hay Lào thật ra không hiểu gì về lịch sử hiện đại. Nếu quý vị muốn biết rõ hơn về thảm kịch, tôi xin đề nghị tập sách do nhà Harvard University Press xuất bản có tên là “The Black Book of Communism” - Cuốn Hắc thư về Chủ nghĩa Cộng sản”. Do một nhóm trí thức Âu Châu thuộc khuynh hướng trung tả biên soạn, cuốn sách kết luận là trong thế kỷ 20, chủ nghĩa cộng sản quốc tế đã gây ra cái chết cho từ 80 đến 100 triệu sinh linh.
Những ai muốn biết sâu xa hơn về Chiến tranh Việt Nam có thể còn bị lầm lạc lớn nếu không chịu khó tìm đọc các cuốn sách do chư vị diễn giả nơi đây hoặc bằng hữu của chúng tôi đã biên soạn.
Đây là một vinh dự cho tôi khi được thuyết trình trước một cử toạ quan trọng như hôm nay và trong cơ hội long trọng này. Với những người giận dữ về sự bội phản của nước tôi 35 năm về trước, xin cho tôi được nói rằng sự giận dữ này cũng là sự giận dữ của bản thận tôi. Tôi yêu quý Hoa Kỳ và tin rằng đây là một xứ tuyệt vời nhất trên địa cầu. Nhưng khi đa số của Quốc hội phản bội nạn nhân của Cộng sản xâm lược họ cũng phản bội 58 ngàn 200 lính Bộ binh, Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã dâng hiến mạng sống trong sự hy sinh cao quý nhất cho chính nghĩa này. Họ cũng phản bội sự hy sinh của hai triệu bảy trăm ngàn người Mỹ đã từng phục vụ tại Việt Nam từ năm 1959 cho đến 1975.
Chúng ta không cải sửa được điều ác đã xảy ra. Nhưng chúng ta có thể nghiên cứu nó và có thể hành động để người Mỹ chúng ta lánh xa truyện thần thoại sai lạc mà hiểu rõ thảm kịch lớn lao của sự bội tín. Tôi thiết tha kêu gọi giới trẻ trong cử toạ nơi đây là hãy tự nguyện giành một chút cố gắng để học hỏi trang sử này và chịa sẻ với ng­ười khác. Quan trọng nhất, hãy chú ý đến các cựu chiến binh và những người sống sót trong cộng đồng, hãy ghi lại lời kể của họ khi mình còn cơ hội. Nếu mình làm được như vậy thì may ra những hy sinh lớn lao của thảm kịch bi đát này sẽ không bị uổng phí.
Xin cảm tạ quý vị và cầu xin Thượng Đế sẽ phù hộ chúng ta./.
Giáo sư Robert F. Turner
Trung tâm an Ninh Luật Pháp Quốc Gia
Đại Học Luật Khoa Virginia & Học Viện Hải Quân.
(Trích trong “những sự thật về Chiến Tranh Việt Nam)
Theo nguồn,
http://saigonecho.com/main/lichsuvn/37-chientranhvn/37060-hu-qu-ca-vic-hoa-k-b-ri-ong-dng.html

Ngày 30-04-1975, QLVNCH Buông Súng Nhưng Không Đầu Hàng





Từ chiều 29 cho tới trưa ngày 30-4-1975, súng đủ loại lớn nhỏ đã bắt đầu nổ vang khắp Sài Gòn. Kinh khiếp hơn hết là các loại bích kích pháo B40-41, hỏa tiễn 122 ly, cứ bì bỏm liên tục, rót xuống phi trường Tân Sơn Nhất và các vùng đông dân lân cận.

Rốt cục chỉ có mặt nhựa ở phi đạo bị đan làm xoáy tung mà thôi. Nơi nơi bôn hướng, cây cối, dây điện, gạch vôi và thân xác của những người lính quèn lúc đó, vẫn còn ở lại để phòng thủ cái phi trường trống không, chập choạng, ngả nghiêng thảm thê theo làn đạn địch. Ánh lửa hồng từ các đám cháy, quyện với mùi khói khét và sơn vôi gạch vụn, theo gió bốc mùi vào các ô cửa kính bị vỡ vì mãnh đạn bay lạc. Trong Viện Quốc Gia Nghĩa Tử, nằm cạnh khu nghĩa trang Thánh Tây và phi trường, trên đường Võ Tánh, là nơi tạm trú của mấy trăm gia đình di tản thuộc các Ty Cựu Chiến Binh từ Miền Trung chạy vào. Mọi người ai cũng đang co rúm giữa bốn bức tường mỏng manh loang lổ đan, nằm ngồi trên nền xi măng hay các bàn ghế học trò lạnh lẽo, đói khát. Lũ con nít thiếu nước, thiếu sữa nên la khóc inh ỏi.

Lúc đó trên đường Võ Tánh từ cổng chính của Bộ Tổng Tham Mưu gần ngã ba Trương Tấn Bửu chạy tới ngã ba Bảy Hiền, xa nhìn ngút mắt, có các đám cháy lớn và nhiều quân xa chở lính cũng như thiết giáp đang dồn dập di chuyển. Khói lửa, điêu linh và chết chóc, đã được đám khoa bảng trí thức vô dụng, ăn chén đá bát của miền Nam, qua cái rổ tự do dân chủ, hòa hợp dân tộc, để rước cọng sản đệ tam quốc tế Hà Nội, mang từ Liên Xô và Trung Cộng, vào tận đất Sài Gòn thơ mộng hiền hòa.

Trong nổi câm nín của những ngày Việt Nam sắp mất nước, đất trời như cũng cảm thông chia sớt với thân phận của một dân tộc nhược tiểu, bị chính đồng bào mình, qua nhân danh lãnh tụ, đem bán đứng cho các thế lực ngoại nhân, trong có đế quốc Trung Cộng, là một kẻ thù ngàn đời mãn kiếp của nước Việt.. Bởi vậy bốn bề quang cảnh mông mênh sầu thảm, qua cơn mưa hè đầu mùa sụt sùi lệ mắt. Trong góc phòng, có chiếc máy thu thanh của ai đó mở suốt từ đêm qua, nhưng âm thanh tuyệt nhiên vắng ngắt , lâu lâu phát ra những tiếng gió sè sè lãng xẹt.

Giữa giờ thứ 25 chết chóc đang chực chờ, bổng thấy thèm những giọng ca thương lính thuở nào, của những nam nữ ca sĩ phong lưu dỏm dáng, trắng trẻo no tròn, với bộ đồ trận rằn ri, lúc nào cũng còn nguyên nếp gắp và mùi thơm vải. Tình nhất là trên túi aó có lúc lắc chùm huy chương đủ loại, cũng như các phù hiệu của những binh chủng dữ dằn như Nhảy Dù, TQLC, BÐQ, Lôi Hổ.. Cũng thấy nhớ tới những bài diễn văn bốc lửa, đượm tình mến nước yêu dân của các đấng nguyên thủ, chính khách, lãnh tụ, cha-thầy, kể cả các trí thức khoa bảng của Sài Gòn. Rồi nhưng cuộc biểu tình chống chính phủ, chống tham nhũng, chống đàn áp tôn giáo, báo chí đến nỗi ký giả phải đi ăn mày để có được tự do ngôn luận như các đồng nghiệp đang sống ở Hà Nội, trong thiên đàng xã hôi chủ nghĩa, cái gì cũng có.

Nhưng giờ này họ ở đâu ?, vì hôm qua còn thấy chường mặt đủ trên đài truyền hình hay báo chí, hùng hổ phun bọt mép, khua cả tay chân quả đấm đòi này nọ, để có thực quyền đối mặt với mấy trăm ngàn bộ đội miền Bắc, đang lăm lăm súng đạn, mả tấu, để phanh thây xé xác đồng bào. Họ nói có quyền mới có hòa hợp hoà giải,mang lại hòa bình cho đất nước và trên hết người Việt không cần phải bỏ nước ra đi, để phải chết vì thèm mấm tôm cà pháo nơi xứ người.

Tất cả gần như chạy hết rồi, bỏ lại đồng bào thân yêu , lính tráng đồng đội đang còn tử chiến với giặc khắp chiến trường, các thương bệnh binh đang rên la trong quân y viện và mảnh đất Sài Gòn ba trăm năm, trong cơn hấp hối :

Sài Gòn, những phút giờ hấp hối

Hai mươi năm chinh chiến, bao giờ cũng vậy, tới lúc cuối cùng chờ chết, vẫn là người lính trận và đồng bào nghèo, không có phương tiện để vượt thoát khỏi cảnh bom đạn. Lính chết thật oan khiên vì chiến đấu trong đơn độc, không có đồng minh cũng như đồng đội yểm trợ, vì vào giờ thứ 25, đâu có ai ngu như người lính VNCH, ở lại chết để không có tiền tử tuất, kể cả chiếc quan tài vùi thây đời lính. Biết nghĩ như vậy, những ai còn sống sót tơí ngày hôm nay, phải nhỏ một giọt nước mắt, dù muộn màng để cảm ơn họ. Lính chết oan khiên chẳng những ngoài chiến trường khi phải đối mặt với kẻ thù hung ác, mà còn chết lãng nhách nơi hậu phương bởi những cái lưỡi tắc kè xanh xanh đỏ đỏ, giờ này nhìn lại cũng đỏ đỏ xanh xanh, đâu có thấy đổi màu. Thảm nhất là trên đầu lính, gần hết là bọn lãnh đạo tồi, thứ này giờ đã hết răng để mà ăn, nhưng lúc nào cũng muốn chường ra giữa bia miệng, chọc cho thuộc hạ và con cháu khinh nhờn, khi cứ xưng chức, đeo huy chương và trả lời những phỏng vấn cuội, như mới đây có đám việt gian ở hải ngoại về Sài Gòn phỏng vấn lũ tướng đầu hàng VC, trong đó có Nguyễn Hữu Hạnh và Triệu Quốc Manh, thuộc hàng tép riu, không quân, không đơn vị trước khi Dương Văn Minh được làm tổng thống hai ngày, để bắt QLVNCH buông súng rã ngủ.



Người lính Miền Nam bi hùng là thế đó, như vậy làm sao bảo họ phải chiến thắng khối cộng sản đệ tam quốc tế, trong đó có Liên-Xô và Trung Cộng ? Người lính đã ở lại tới giờ phút cuối cùng vào trưa ngày 30-4-1975, đã là anh hùng thử hỏi có quân đội nào anh hùng hơn, kể cả quân Pháp, Ðức, Anh trong Thế chiến 2.

Sau khi Hoa Kỳ cùng Bắc Việt đồng thuận ngụy tạo cuộc ngưng bắn bịp vào tháng 2-1973, chấm dứt sự hiện hữu của Mỹ tại chiến trường. Cũng từ đó, QLVNCH bị đem con bỏ chợ, chiến đấu trong thiếu thốn, thiếu cấp chỉ huy trên thượng tầng, thiếu đạn dược, thuốc men, xăng nhớt, các quân dụng khiến cho nhiều phi cơ, chiến xa phải nằm ụ vì không cơ phận sửa chữa hay thay thế. Tóm lại mọi sự đều do người bạn đồng minh Hoa Kỳ tạo ra, như cắt quân viện, bội ước lời thề ‘ một đỗi một ‘ được chính siêu cường ký nói hứa hẹn bằng giấy trắng mực đen. Trong khi đó thì Bắc Việt, từ Hồ Chí Minh tới Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng.. đã đem mãnh giang sơn gấm vóc của tiền nhân, cầm bán thế chấp cho đệ tam cộng sản, nên được cả khối như Liên Xô-Trung Cộng, Ðông Âu, Bắc Hàn, Cu Ba, các đảng cộng sản Ý, Pháp, Mỹ và những thành phân ăn cơm miền nam lại theo VC miền bắc, giúp đỡ hết lòng, từ cây kim hột gạo, cho tới bom đạn, tăng, máy bay, tiền bạc và những cái lưỡi tắc kè đỏ đỏ xanh xanh đảo lộn sự đời. Tệ nhất là lũ hề hữu danh vô thực, trong cái gọi là Liên Hiệp Quốc, lúc nào cũng bưng bợ Hà Nội, như muốn đổ dầu vào biển lửa thống hận trùng hằng tại Miền Nam.

Không chịu nổi cái cảnh ứa gan, hiếp người ngã ngựa, nhà bỉnh bút quân sử thế giới lương thiện và nổi tiếng là Louis A Fanning, đã phải viết lời chửi Mỹ : " Sau hiệp định Paris 1973, hơn 300.000 bộ đội cọng sản quốc tế, được người Mỹ bỗng dưng tự tác cho ở lại trên lãnh thổ của nước khác. Ðó là Miền Nam VN, một quốc gia độc lập, có chủ quyền, quốc hội và không hề là thuộc địa hay các tiểu bang của Hoa Kỳ. Trong lúc đó, VNCH là một đồng minh với Mỹ từ khuya , lại bị chính Mỹ phản bội, lường gạt, cắt viện trợ và sỉ nhục mọi điều. Ðúng là thái độ của bọn con buôn chính trị, hèn chi người Mỹ đã bị thế giới tự do coi thường, vì đã bội tín với nhiều đồng minh của mình."

Viết về tình trạng đồng bào VN, sống giữa cảnh chết chóc của chiến tranh mạt kiếp, đáng lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy ra nếu không có đảng cọng sản Hà Nội, khiến cho đất nước sau khi Nhật đầu hàng, thay vì sẽ có hòa bình như nhiều nước trong vùng Á Châu, lúc đó cũng đang là thuộc địa của bọn thực dân da trắng. Ðể diễn tả sự bất hạnh này, nhà báo người Tây Ðức Une Siemon Netto, đã viết trong tờ International Herald Tribune : ‘ giờ thì mọi người đã biết rõ cái thực chất cách mạng cứu nước, mà cọng sản Hà Nội luôn dùng làm chiêu bài, để có cớ gây nên một cuộc chiến vô luân, nồi da xáo thịt. Tiếc thay trước tháng 5-1975, nhiều trí thức khoa bảng và nhà báo Tây Phương, đã biết rõ cọng sản đệ tam quốc tế gây chiến tranh chỉ vì ý thức hệ và trên hết chúng rất dã man tàn bạo. Nhưng vì họ ích kỷ, hám danh và trên hết nhiều kẻ đã táng tận lương tâm, nên muối mặt, bẻ cong ngòi bút, viết láo sai sự thật, để đầu độc môi người, nhất là dân chúng Hoa Kỳ, đang có nhiều người thân tham dự cuộc chiến thần thánh, bảo vệ tự do cho nhân loại tại Ðông Dương, đang bị Ðệ tam cọng sản quốc tế tàn sát nhuộm đỏ.’. Hành động vô lương của bọn bồi bút, đã gây nên nhiều nổi oan khiên tội nghiệp, khiến bao oan hồn lương dân vô tội, đã bị bộ đội cọng sản miền bắc tàn sát dã mang trong tết Mậu Thân, nhất là tại Huế. Rồi mùa hè đỏ lửa 1972 trên đại lộ kinh hoàng, từ Ðông Hà về Huế, trên quốc lộ 14 Dakto-KomTum, đường 13 An Lộc-Bến Cát và đoạn đường số 1, từ Tam Quan-Hoài Nhơn-Phù Mỹ về Qui Nhơn, qua những Lai Giang, sông Côn, sông Cả.. Nhưng bi thảm nhất cũng vẫn là những ngày cuối cùng di tản tại Vùng I, vùng II trên đường số 7, dân chúng lánh nạn gục chết như ra vì đạn kích pháo của giặc, không cần biếy hay thương hại cho mạng người lá rụng, dù những mạng sống đó vốn cùng bộ đội VC, chung cháu Lạc Con Hồng. Tóm lại tất cả đều vô lý, đã khiến cho nhiều nhà báo ngoại quốc sau này, phải kêu trời không ngớt, vì tự vấn lương tâm khi họ đả vô tình hay cố ý, câm nín trước những thảm trạng của nam VN. Trong lúc đó vụ Mỹ Lai (Quảng Ngãi), do chinh Hà Nội giật dây đạo diễn, đẩy dân lành vô tội ra làm bia đỡ đạn cho lính Mỹ, thì được bao chi Tây phương làm lớn chuyện, tuyên truyền không công cho Hà Nội, trong suốt cuộc chiến.

Sài Gòn đã bắt đầu xáo trộn từ tháng 3-1975, từ lúc miền Trung bị mất qua quyết định sai lầm rút bỏ quân đoàn I và II của TT.Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tứớng Trần Thiện Khiêm và Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH lúc đó. Ngày 21-4-1975, Tổng Thiệu qua áp lực của Mỹ, muốn thay ngựa theo ý của cọng sản Bắc Việt, để hòa hợp hòa giải, nên ông phải tuyên bố từ chức tổng thống trong lúc đất nước nguy ngập, ngàn cân treo chỉ mành và đã cùng Thủ tướng Khiêm, được Tòa Ðại Sứ Mỹ, đưa ra khỏi Sài Gòn, tới Ðài Bắc trong đêm tối bằng máy bay quân sự. Việc bỏ nước ra đi của TT. Thiệu, khác với trường hợp của Thủ Tứơng Khiêm hay Ðại Tứớng Viên, vì hai người này chẳng hề bị đe dọa hay bắt buộc. Trái lại Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ thứ 25 của VNCH trong tháng 4-1975, giống như cái chết của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm ngày 2-11-1963, được quyết định bởi bàn tay của người Mỹ. Tổng Thống Diệm không cho người Mỹ đem quân vào VN nên bị giết trong danh dự. TT Thiệu khôn ngoan từ chức ra đi, nên được sống những ngày thừa nơi quê người, chịu bia miệng nguyền rủa, vì ham sống sợ chết, dù rằng con kiến cũng muốn sống. Ðó là sự thật của lịch sử, của thân phận nhược tiều VN, mà các tài liệu Mỹ đã hé mở cho mọi người cùng đọc, trong vài năm trước đây và còn được lưu trữ phổ biến khắp mọi văn khố, kể cả VC. Ngoài ra, cũng theo sử liệu, chính Tổng Thống Trần Văn Hương, muốn người Mỹ đem Tổng Thống Thiệu ra khỏi nước, mà theo TT Hương, đó là kỳ đà cản mũi, nên ông ta không thể trị nước hay chống Cộng được.

Đáng thương là Cụ Trần văn Hương lúc đó, đã gần đất xa trời, thêm mắt mũi kém, lại bị Mỹ bắt làm Tổng Thống VNCH, theo điều kiện của Bắc Việt. Nguyên thủ như vậy, nên miền Nam bị mất là cái chắc, dù sớm hay muộn cũng thế thôi.Sau đó lại màn thay ngựa cuối cùng, để Dương Văn Minh danh chánh ngôn thuận, kết thúc cuộc chiến từ đầu cũng do VC sắp đặt và cuối cũng cũng do VC quyết định, qua miệng kẻ cầm quyền của miền Nam, dù chỉ có hai ngày ngắn ngủi.

VNCH đang lúc lâm nguy vì thù trong giặc ngoài. Cả triệu quân, công, cán cảnh.. lúc đó đang xã thân, dùng xác người thay súng đạn Mỹ, làm công sự cản xe tăng hứng đạn pháo của cọng sản khắp mọi nẻo đường dẫn vào thủ đô, thì cũng lúc đó nhưng sâu bọ nơi hậu trường chính trị, hăng say toắc mồm, áo thụng vái lạy ông, bày ra những trò hề tác tệ, để tự phong quan gắn chức, làm nản chí những người lính đang xả thân nơi chiến trường, bắt QLVNCH phải tan hàng rã ngũ trong tức tủi oan khiên và cuối cùng làm cho cả nước phải sống đọa đày thương đau, trong cùm gông xã nghĩa từ ấy cho tới bây giờ, vẫn không hề thay đổi, vẫn không có tự do dù chút tự do để nói lời chân thật trong đáy hồn mình.

Nhưng dù gặp khó khăn nguy hiểm, các lộ quân còn lại của VNCH vẫn cản nổi quân xâm lăng Bắc Việt, trên khắp các tuyến đường dẫn vào Sài Gòn. Chính hành động phi thường này, nên dù VNCH không còn nửa, vẫn được thế giới ngợi khen và kính phục, như Peter Kohn đã viết trên tờ the Wall Street Journal :

" Quân đội VNCH là một quân đội can đảm và chiến đấu lão luyện. Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi trên nhiều địa danh, mà người Mỹ hoặc thế giới biết hay chưa biết tới. Quân đội ấy đã hào hùng ngạo nghễ với địch , qua hàng ngàn chiến trận, tiền đồn hẻo lánh hiu hắt. Quân đội ấy không được trang bị như quân Mỹ hay bộ đội cọng sản Hà Nội. Thế nhưng từ khi Hoa Kỳ rút quân về nước hay lúc đầu quân Mỹ chưa vào VN, vẫn hiên ngang chiến đấu trong suốt 20 năm khòi lửa, gần như bảo toàn trọn lãnh thổ của cha ông, từ phía bên này vỹ tuyến 17 cho tới Cà Mâu, đến khi bị Việt gian đâm sau lưng, VC bắn trước mặt, mới đành để mất non sông vào tay đệ tam cọng sản quốc tế.
Cũng vì phải chiến đấu khắp các mặt trận, nên đã có hằng tram ngàn người lính phải chết, hằng triệu thương phế binh, cô nhi quả phụ. Tới giờ phút cuối cùng, đã biết nước sắp mất, chết chỉ thêm uổng mạng nhưng họ vẫn hiên ngang chiến đấu tại Khánh Dương, Phan Rang, Phan Thiết, Xuân Lộc, Long An, Tây Ninh, Củ Chi , Biên Hòa và Sài Gòn. Tất cả đều là những chiến tích để đời và lưu danh thiên cổ trong dòng sử Việt
Cuối cùng trong giờ thứ 25, QLVNCH đã xử sự một cách mã thượng anh hùng. Thay vì dùng vũ lực bắt trọn Toà Ðại Sứ và Cơ Quan Dao làm con tin, như Iran đã từng làm, để gây áp lực, bắt Hoa Kỳ phải giữ lời hứa, dùng B52 đuổi bộ đội cọng sản rúr về phía bên kia vỹ tuyến 17 như Hiệp định Geneve năm 1954 và 1973. Nhưng họ vẫn không làm như vậy, vẫn tôn trọng kỷ luật quân đội, biểu lộ nét hào hùng văn hiến ngàn đời của một dân tộc có văn minh, văn hóa VN, khi cố gắng phòng thủ và tiếp tục chiến đấu khắp nơi, giúp cho Mỹ và những đồng đội, cấp chỉ huy hèn nhát, bỏ chạy khỏi nước một cách an toàn, trước khi giặc Hồ vào Sài Gòn trưa 30-4-1975. Họ đáng được ca tụng và kính phục . "

QLVNCH tử chiến trong giờ thứ 25



Sau khi được 400.000 quân Trung Cộng phòng thủ đất Bắc, cọng sản Hà Nội xua toàn bộ quân đội xâm lăng miền Nam. Mai mỉa nhất là lúc mà Dương Văn Minh cùng nội các mới, hy vọng được hòa hợp hòa giải với VC, để chúng chia chức nhín cho một chút quyền trong cái chính phủ liên hiệp, nếu có cũng chỉ là thứ bù nhìn, như MTGPMN được dựng lên, từ 12-1960 tới tháng 5-1975. Ðây chính là thời điểm , mà Bắc Bộ Phủ gọi là giờ G, ngày N, để tổng tấn công chiếm Sài Gòn. Ðó là lúc nửa đêm 29-4-1975, thời gian Hà Nội qui định cho tất cả các cánh quân, từ năm hướng tiến vào thủ đô. Ðây cũng là thời gian qui định cho bọn đặc công, biệt động nằm vùng, chui ra khỏi các hang ổ để gây hỗn loạn trong thành phố, chỉ đường, bắt tay cho bộ đội miền Bắc.

Tại Mặt Trận Miền Ðông Nam Phần, từ sau ngày SÐ18BB và Lữ Ðoàn 1 Dù, rút lui an toàn về Bà Rịa, Quân Ðoàn III đã tái phối trí lại các phòng tuyến mới vào những ngày cuối tháng 4-1975.

Vì SD18BB của Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo bị thiệt hại nặng nề sau 12 ngày ác chiến với cọng sản Bắc Việt. Ngoài Trung Ðoàn 48/18 của Trung Tá Công, tương đối quân số còn nguyên vẹn, các Trung Ðoàn 52/18 của Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng, tại Mặt Trận Ngã Ba Dầu Giây-Túc Trưng, thiệt hại hơn 80% quân số và Trung Ðoàn 43/18 của Ðại Tá Lê Xuân Hiếu, tử thủ trong thị xã Xuân Lộc, thiệt hại trên 30% nhất là Tiểu Ðoàn 2/43/18 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, là đơn vị cuối cùng rời Long Khánh. Do đó sau khi chỉnh đốn lại đơn vi, SD18BB được giao trách nhiệm phòng thủ tuyến phía đông Sài Gòn, từ kho đan thành Tuy Hạ chạy dài tới Tổng Kho Long Bình. Riêng BCH Hành quân của SD18BB đặt tại căn cứ Hải Quân Cát Lái. Phòng tuyến của SD 18BB tiếp giáp với vị trí phòng thủ của Lực lượng Nhảy Dù, Trường Thiết Giáp và Bộ Binh Thủ Ðức.

Tỉnh Phước Tuy và Ðặc Khu Vũng Tàu, trong đó có quốc lộ 15 được Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, SD3BB phối họp với các lực lượng DPQ + NQ của Phước Tuy và Bình Thuận di tản từ miền trung tới. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SDTQLC kiêm Tổng trấn đặc khu Vũng Tàu. Riêng SD3BB từ vùng 1CT di tản vào, quân số kể luôn SD1BB cộng được hơn 1000 người, lập thành 2 tiểu đoàn thuộc Trung Ðoàn 2/3 và 56/3 vẫn do Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh. SD3BB được tăng cường thêm Chi đoàn 2/15 Thiết Kỵ và Lữ Ðoàn 1 Dù, bảo vệ QL15, thị xã Bà Rịa-Vũng Tàu.

Tỉnh Biên Hòa và phi trường do Lực lượng III xung kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, được tăng phái thêm 2 Lữ đoàn 147 và 258 TQLC phòng thủ. Từ ngày 28-4-1975, để bảo vệ thành phố Biên Hòa, Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù bố trí trong phi trường giữ mặt bắc Bộ tư Lệnh QDIII. Một TD/TQLC thuộc Lữ Ðoàn 2 bảo vệ BTL.QDIII, các thành phần còn lại của Lữ Ðoàn, phòng thủ mặt nam BTL. Quân Ðoàn. Lữ Ðoàn Nhảy Dù giữ hai Cầu Mới và Sắt cùng các nút chận vào thị xã. Riêng Lực Lượng III Xung kích gồm Chiến Ðoàn 315phòng thủ từ Ngã ba Hố Nai đến Ngã tư Lò Than. Chiến đoàn 322 giữ từ Ngã tư Lò Than tới cổng phi trường Biên Hòa và Chiến đoàn 318 từ phi trường tới Cầu Mới.

Về phía bắc Sài Gòn có SD25BB của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá được tăng phái thêm hai Liên Ðoàn 8 và 9 Biệt Ðộng Quân, trách nhiệm Tây Ninh và Củ Chi-Hậu Nghĩa. Mặt trận phiá bắc tỉnh Bình Dương là trách nhiệm của SD5BB của Chuẩn Tướng Lê NguyênVỹ, kể cả Trung Ðoàn 8/5 của Ðại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng phái cho Lực Lượng III Xung kích của Tướng Khôi ở Hưng Lộc, vừa được trả về. Phòng tuyến phía nam Sài Gòn là Long An, có SD22BB ở Bình Ðịnh di tản tới, phối hợp với Lực Lượng 99 Tuần Thám Ngăn Chận của Hải Quân và DPQ+NQ.Long An, từ lâu nổi tiếng là kiêu dũng thiện chiến, không kém gì quân chủ lực. Như vậy trừ ba SD7,9 và 21BB của QDIV phải bảo vệ lãnh thổ của các tỉnh thuộc Vùng 4/CT.. Phía VNCH chỉ còn lại : sáu Sư Ðoàn gồm SD5,18,22,25 bô binh + Hai Lữ Ðoàn 1 và 4 Nhảy Dù + Sư đoàn TQLC + Lực Lượng III Xung Kích +Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù +4 LiênÐoàn BDQ + DPQ và NQ + 625 chiến xa đủ loại và 400 pháo, tất cả chừng 240.000 người, để bảo vệ Sài Gòn. Trong khi đó VC tung vào 5 lộ quân với quân số trên 280.000, gồm 15 Sư đoàn BB + 5 Lữ đoàn biệt lập + 4 Lữ đoàn thiết giáp + 6 Trung Ðoàn Ðặc công.Tất cả được trang bị đầy đủ với các vũ khí bom đạn hiện đại, không thua gì quân đội Mỹ.

Từ chiều ngày 29-4-1975, hai Bộ Tư Lệnh Không Quân và Hải Quân VNCH đã di tản chiến thuật, kể cả Tướng Nguyễn Văn Toàn (Tư Lệnh QDIII) và Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng TMT từ chức. Do đó, tổng thống mới nhậm chức là Dương Văn Minh, cử Tướng Vĩnh Lộc lên thế chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Ðến tối cùng ngày, Tướng Lộc ra lệnh cho SD18BB về bố trí từ Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hoà, tới Thủ Ðức.

Từ đầu tháng 4-1975, trường Bộ Binh Thủ Ðức đã dời về Long Thành-Biên Hòa, đông nghẹt sinh viên các khóa, trong đó có hai quân trường từ Ðà Lạt di chuyển về như Trường Võ Bị và Chiến Tranh Chính Trị. Lúc 8 giờ tối ngày 27-4-1975, trường Bộ Binh lại có lệnh di chuyển trở về trường củ ở Thủ Ðức. Tới 8 giờ sáng ngày 30-4-1975, có bốn T54 của cọng sản Bắc Việt từ Xa Lộ Biên Hòa, tấn công trường, bị Pháo Binh 105 bán trực xạ cháy 3 chiếc tại chỗ. Nhưng chiếc còn lại đã nhập dược vào trung tâm, sau khi thoát được các tầm đạn M72 của sinh viên, bắn tử thượng Trung Tá Ông văn Tuyên, Trung sĩ I Nhân và 5 sinh viên, cùng 10 người bị thương, trong số này có Trung Tá Vương Bá Thuần. Cuối cùng chiếc tăng trên bò ra khỏi trường và bi M72 bắn đứt xích, nằm tại Niệm Phật Ðường cạnh Chợ Nhỏ, nhưng vẫn tác xạ dữ dội vào trường. Giờ chót, có hai sinh viên Thủ Ðức, chưa được gắn Alpha, tình nguyện mang lựu đạn lân tinh loại xuyên phá, mới tiêu diệt được chiếc T54 này.

Cũng tại Long Bình vào sáng ngày 29-4-1975, Tiểu Ðoàn 43 thuộc Liên Ðoàn 4 BDQ do Thiếu Tá Xẻn làm TDT được lệnh của Biệt Khu Thủ Ðô tăng phái phòng thủ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Từ 2 giờ 30 chiều cùng ngày, VC đã về tới Trung Chánh-Hóc Môn, sau khi chiếm được Căn cứ Ðồng Dù của SD25BB, căn cứ Pháo Binh Lòng Tảo và đánh tan Trung Ðoàn 46/25BB trên QL số 1 từ Củ Chi về Tân Phú Trung. Lúc đó Trường Quân Vận đối diện với TTHL Quang Trung cũng đã mất, nên Chiến xa của VC bắt đầu tấn công trung tâm, nhưng không ngờ trong đó không phải chỉ có tân binh quân dịch, mà còn sự hiện diện của một tiểu đoàn BDQ vơí hơn 500 tay súng, suốt cuộc chiến, đã cùng với các TD41,42,44 là những cọp ba đầu rằn tung hoành như chỗ không người trong mật khu sình lầy của Vùng 4 Chiến thuật. Tối 29-4-1975, qua hệ thống truyền tin của TD43BDQ, mới biệt BTL Biệt Khu Thủ Ðô đã bỏ chạy, chỉ còn các sĩ quan cấp uý ở lại nhưng BCH.Biệt Ðộng Quân và Tướng Ðổ Kế Giai vẫn còn nguyên vẹn tại Trại Tô Hiến Thành. Bên trong chiến hào của TTHL Quang Trung, cũng như suốt đoạn đường từ ngã ba Trung Chánh- Hóc Môn, về tới Ngã ba Bảy Hiền, các đơn vị kiệt hiệt nhất của QLVNCH như BDQ, Biệt Cách Dù và Nhảy Dù đang đợi chờ một trận đánh cuối cùng dũng liệt như SD18BB, LD1ND,TD82BDQ và DPQ Long Khánh, tại Xuân Lộc, thì trưa 30-4-1975 bị Dương Văn Minh ban lệnh buông súng rã ngũ, một cách tức tủi đoạn trường.

5 giờ chiều ngày 29-4-1975, các mặt trận, lính vẫn chiến đấu không ngừng nghĩ. Tại Biên Hòa, TQLC, Biệt Cách Dù và các Chiến Ðoàn thuộc Lực Lượng III Xung Kích, đã ngăn chống VC tại các phòng tuyến vô cùng đẫm máu kinh hoàng.

Tại BCH. Thiết Giáp trong trại Phù Ðổng, cũng là nơi đặt tạm BTL.QDIII từ Biên Hòa di tản về, cũng như Trung Tâm Hành Quân /BTTM/QLVNCH gần như không còn đại bàng để nhận tin chiến trường và quyết định lệnh lạc. Cho tới 22 giờ 30 đêm 29-4-1975, Phế tướng Nguyễn Hữu Có, người vào năm 1965 bị Nguyễn Cao Kỳ lột chức và bắt ở lại Hồng Kông không cho về nước, cách đó vài giờ, vừa được TT.Dương Văn Minh gắn cho cái lon Trung Tướng, lên máy ra lệnh cho SD18BB của Thiếu Tướng Ðảo và LL3XK của Tướng Khôi, cố gắng giữ yên phòng tuyến trong đêm 29-4-1975, để rạng sáng ngày 30-4-1975 sẽ có hòa bình vì cọng sản Bắc Việt đã chịu hòa họp hoà giải hòa chung máu lệ với TT. Minh và lực lượng thứ ba đối lập.
Nhưng 23 giờ 45 đêm 29-4-1975, Bắc Việt đã không hòa hợp mà lại tấn công dữ dội bằng bộ binh và chiến xa khắp các phòng tuyến tại Biên Hòa. Hai bên gần như cận chiến với khoảng cách chừng 10-15m, nhất là tại phòng tuyến do quân Dù, TQLC và Chiến Ðoàn 315 của Trung Tá Ðổ Ðức Thảo có chiến xa M48.

2 giờ sáng ngày 30-4-1975, phòng tuyến SD18BB của Tướng Ðảo tại Long Bình bị VC tràn ngập, quân ta từ Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa phải rút về Thủ Ðức.
Riêng Chiến Ðoàn 3, thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù của Thiếu Tá Phạm Châu Tài, quân số hơn 1000 người, từ Biên Hòa được điều động về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu từ 5 giờ 30 ngày 26-4-1975. Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn đóng tại Building số 1, đối diện vối Trại Võ Tánh. Các Biệt đội 811 của Ðại Uý Lâm đóng trong Lục Quân Công Xưởng. Biệt đội 812 của Ðại Uý Ánh đóng ở giữa cổng sau TTM và Tổng Y Viện Cộng Hòa. Biệt đội 813 ủa Ðại Uý Thạch rải quân từ Ngã Tư Bảy Hiền tới Trại Phi Long của Nhảy Dù và Biệt Ðội 815 của Ðại Uý Lợi là lực lượng trừ bị của Chiến Ðoàn, đóng trước cổng Bộ TTM.

Từ ngày 28-4-1975, các đại bàng ở Bộ TTM, Bộ Tư Lệnh QD3, Quân Khu Thủ Ðô... từ Ðại Tướng trở xuống đã di tản chiến thuật, nên coi như không còn ai ra lệnh cho thuộc cấp dưới quyền. Về việc tên phi công nội tuyến Nguyễn Thành Trung, dẫn đoàn máy bay của KQ.VNCH bỏ lại ở Phù Cát, Phan Rang vào oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, không bị Chiến Ðoàn 3 Biệt Cách Dù bắn hạ, vì đã tưởng là phe ta làm đảo chánh.

Chiều ngày 29-4-1975, Tướng Vĩnh Lộc được TT.Minh cử làm Tổng Tham Mưu Trưởng thay Cao Văn Viên, còn Nguyễn Hữu Có thỉ gắn ba sao, xưng là Tổng Tham Mưu Phó. Ngoài ra còn có VC nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh, cũng được Dương Văn Minh gắn sao tướng, dù Có và Hạnh đã bị giải ngũ từ lâu. Mới đây VC lại cho các tên hề Có, Hạnh và Triệu Quốc Mạnh làm cuộc phỏng vấn cuội tại Sài Gòn, do bọn Việt gian hải ngoại từ Canada về thực hiện, rồi đem phát trên đài để lừa bịp người Việt trong và ngoài nước, một cách trơ trẽn vì câu chuyện lãng xẹt của đám sâu bọ, từng làm xấu hổ danh dự và thể thống của người lính VNCH năm nào.

Từ 6 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, VC pháo kích bừa bãi hỏa tiễn 122 ly vào khu dân cư đông đúc, nhiều trái rớt xuống đường Võ Di Nguy, làm nhiều đồng bào thương vong. Nhiều trái khác rơi vào vòng thành Bộ TTM. Trên các đường phố dẫn tới Ðại Lộ Chí Lăng, chiến xa Bắc Việt đã xuất hiện, bắn vào Bệnh Viện Vì Dân tại Ngã Tư Bảy Hiền nhưng bị Biệt Cách Dù, dùng súng đại bác M90 ly không giựt, chỉ trong vòng 15 phút, bắn cháy 6 chiếc T54, PT76 cùng với một khẩu pháo phòng không có bánh xe kéo, với nhiều đặc công bị chết, nằm rải rác từ Bảy Hiền tới Bộ TTM.



Chiến công cuối cùng của LĐ 81 BCD tại Lăng Cha Cả, Bảy Hiền trong lòng Thủ Đô Sài Gòn ngày 30-04-1975

9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, Dương Văn Minh ra lệnh cho Chiến Ðoàn 3 Biệt Cách Dù, lúc đó cũng đang tử chiến với VC, phải ngưng đánh nhau, để chờ đầu hàng. Tuy nhiên nhiều toán không tuân lệnh, vẫn tiếp tục bắn vào các đoàn xe của VC, sau đó tự tử tập thể bằng lựu đạn vào giờ thứ 25. Riêng 2 Chiến Ðoàn Biệt Cách Dù do Ðại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy, sáng ngày 30-4-1975, từ Suối Máu rút về Nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa, khi nghe lệnh Dương Văn Minh bắt đầu hàng, nên cũng rã ngũ tại đây.
Khôi hài nhất là lúc mà người lính đang nối tiếp nhau ngã gục khắp các chiến trường, để bảo vệ cho thủ đô Sài Gòn và cuộc di tản bằng máy bay trực thăng của Mỹ, trên các mái nhà tại Cơ Quan DaAO và Tòa Ðại Sứ, thì gần hết tướng lãnh bỏ chạy trước. Còn Chính phủ Dương Văn Minh vừa mới nhậm chức, thì đã sai Nguyễn Văn Huyền vào Trại David, để thương thuyết với giặc xin đầu hàng, nhưng bị Võ Ðông Giang làm nhục và bắt giam luôn bọn Việt Gian Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần Ngọc Liễng, từ chiều ngày 29-4-1975, khi vào làm sứ giả hòa bình.

Trong cuộc di tản ra khỏi nước, ngoài người Mỹ còn có đủ mọi thành phần lúc đó, từ quan tướng, trí thức, thầy cha, nhà báo, ca sĩ, mẹ mìn, đĩ điếm. Tất cả đạp lên đầu lẫn nhau để kiếm một chỗ chạy ra khỏi nước trốn cọng sản. Lúc đó không còn ai thèm nghỉ tới tư cách, thể diện, trinh tiết hay gì gì nửa. Kỳ cục nhất là những chuyên viên đối lâp, phản chiến, phá hoại và nói xấu chính phủ VNCH, giờ phút cuối lại là những thành phần hăng hái chạy trốn nhiều và trước hết. Ba mươi năm sau mới chợt hiểu, thì ra họ chỉ có thể chũi người quốc gia mà thôi. Với cọng sản, dù chỉ mới léng phéng mồm miệng, không bị roi đòn thoi đấm, hay ăn mã tấu, vào tù, bị cột đá neo sông, mới là chuyện lạ. Bởi vậy phải nhanh chân chạy trước ra ngoại quốc, để được tiếp tục đối lập với người Việt tị nạn, lần nữa làm tôi mọi cho cọng sản, dù rằng đã vì chúng mà phải một lần chuốc lấy sự nhục nhã năm nào.

Sài Gòn náo loạn khắp nơi, dân chúng ùn ùn kéo tới các ngân hàng rút tiền ký thác. Các Tòa Ðại Sứ lần lượt đóng cửa, cũng như nhiều Hãng Máy bay ngưng hoạt động vì sợ họa lây. Hòn Ngọc Viễn Ðông như đã chết vào những ngày gần cuối tháng 4-1975

Thế rồi 9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, trong lúc mọi người đang mê tỉnh trong cơn hấp hối của đất nước, thì Dương Văn Minh vì quá nghe lời xúi dại của bọn thân Cộng như Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Hữu Hạnh, nên lợi dụng chức vụ tổng thống tổng tư lệnh quân đội, ép QLVNCH buông súng rã ngủ, trong khi tất cả còn đang tử chiến với giặc ngoài biên đình.

Hỡi ơi VN chỉ vì một tên hám danh lừng khừng, mà cả một dân tộc chịu cảnh lầm than nô lệ từ ba chục năm qua và không biết tới bao giờ mới thoát khỏi xích xiềng tù ngục. Tất cả đều là ý trời, là số mệnh, là hậu quả tất yếu của một hậu phương miền Nam vô tình bạc nghĩa, chỉ biết hưởng thụ cá nhân, nên chẳng bao giờ chịu chia xẻ nỗi đau cùng cực của người lính, đã vì họ mà vong thân hay tàn phế nữa đời.

Nhưng rồi giặc chiếm được nước, tất cả dân lính cùng chịu cảnh tan tác phân ly không chừa hay bỏ sót một thành phần nào, kể cả những người một thời theo giặc. Lính bỏ súng vào tù, dân không còn được lính bảo vệ, nên bị đe dọa mạng sống và mất hết tự do kể cả quyền sống làm người dân thường bên vệ đường.



Trưa 30-4-1975, bộ đội Bắc Việt hồ hởi tiến vào Sài Gòn. Người người cùng cười dù đang thúi ruột, vì lần đầu tiên được chạm mặt với lính cụ Hồ, lù khù, ngô nghê. Nhiều chàng nàng cục mịch trong bộ đồ trận, với nón cối, dép râu, y chang những con dã nhân trong sở thú. Vậy mà suốt ba mưới năm qua, tháng tư nào cũng khoe là mùa xuân đại thắng, hay huênh hoang nhận đại là quân đội nhân dân anh hùng.



Bộ đội cụ Hồ ngơ ngác giữa Sài Gòn hoa lệ trong ngày 30/4
và cũng là lần đầu tiên nhận ra được sự dối trá của những gì được
dạy bảo từ BCT/guồng máy lãnh đạo họ

Phút cuối vẫn còn một số đơn vị Dù, TQLC, BDQ, Biệt Cách Dù.. không thèm nghe lệnh của Dương Văn Minh. Họ chận đánh cọng sản Bắc Việt, trên các đường phố Hồng Thập Tự, Thị Nghè. Tại Ðại lộ Thống Nhất, lính Dù và BDQ bắn M72 vào xe tăng VC khi chúng tiến vào chiếm Dinh Ðộc Lập.



Những người lính Biệt Động Quân chiến đấu tới giây phút cuối cùng
của cuộc chiến ngay tại cửa ngõ vào thủ đô Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Họ đã chiến đấu vì Danh Dự của QLVNCH

Ðúng 12 giờ 30 trưa ngày 30-4-1975, lá cờ vàng ba sọc đỏ của quốc dân VN treo trên nóc Dinh Tổng Thống VNCH bị giặc tước bỏ. Dương văn Minh và toàn bộ nội các có mặt tại dinh, bị bộ đội miền bắc, nhốt giữ tại chỗ, dù từ lớn tới nhỏ, đã sùi bọt mép nịnh bợ ca tụng chúng. Nhục nhã muôn đời là cả đám bị thu hình trước ống kính của hằng trăm nhà báo ngoại quốc. Cũng vào giờ phút mà Dương văn Minh bị còng tay gục đầu, thì tại Bộ Quốc Phòng, Trung Tá Nguyễn văn Cung, thuộc SD18BB khi nghe tin đầu hàng đã tự sát. Nhiều lính Dù cũng dùng súng M16 kết liễu đời trai trước Tổng Cục Chiến Tranh Chính trị. Trong trại Hoàng Hoa Thám, một toán lính Nhảy Dù, nắm tay làm thành vòng tròn, rồi mở chốt lựu đạn để cùng chết tập thể. Một Ðại Úy Cảnh Sát tự bắn vào đầu chết trước Quốc Hội. Trong khi đó các tướng lãnh Phạm văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Lê nguyên Vỷ, Phạm Văn Hai.. cũng quyên sinh khi thành mất. Ðó là những hình ảnh tuyệt vời, ngàn đời khắc sâu trong tâm khảm của người Việt và những trang sử bất diệt của dân tộc.

Sài Gòn đã chết từ đó, dân chúng thành đô dửng dưng trước chủ mới. Cùng lúc, có nhiều con khỉ trong sở thú, vừa được sổ chuồng, cổ quàng khăn đỏ, tay phất cờ máu, trang bị súng đạn lượm được của lính bõ bên vệ đường, chễm chệ trên các xe quân đội, tung tăng múa rối khắp đường phố, cổ võ, làm oai, hoan hô, đã đảo một cách lố bịch.


Những kẻ xu thời bám víu thời cơ tung hô chủ mới

Trưa đó, 125 nhà báo ngoại quốc còn nán lại, đổ xô tới chiêm ngưỡng những anh hùng cách mạng, mà từ năm 1960-1975, họ đã không ngớt xưng tụng và tô son đánh phấn khắp thế giới không tiếc lời. Nhưng sự thật đã làm té ngửa các trái tim thú vật, khi biết được tất cả chì là sự tuyên truyền lừa bịp của miệng lưỡi cọng sản, mục đích để cho thế giới có thành kiến không tốt và ghét bỏ VNCH. Có như vậy họ mới bỉ ổi ca tụng một chiều cuộc xâm lăng miền Nam của Bắc Việt, mà không cần phải tìm hiểu sự thật.

Từ đó, thế giới mới bắt đầu tỉnh ngộ và chịu viết về một sự thật mà họ đã cố tình dấu diếm : ‘ Không có ai là người miền nam, tất cả đều là bộ đội miền bắc, trong tập đoàn đệ tam cọng sản quốc tế, do Liên Xô-Trung Cộng cầm đầu ‘.Riêng Norman Podhreta, khi về nước đã viết trên tờ Los Angeles times :’ Nam VN bị mất, không phải vì cấu xé nội bộ, cũng không do nhiệt thành quốc gia hay vì chính phủ không tranh thủ được lòng dân. Sự thật tất cả do sự xâm lăng của Bắc Việt, qua hậu thuận của khối cọng sản đệ tam quốc tế, trong đó có đảng cọng sản Hoa Kỳ .’ Còn nữ ký giả Ý từng ca tụng Hồ Chí Minh, tên Tiziano Tersani thì viết ‘ Binh sĩ tấn công vào Sài Gòn đều là bộ đội Bắc Việt. Sự phân biệt rất dễ dàng nhờ hình vóc và tiếng nói, người miền bắc hoàn toàn khác lạ với VC miền nam. ‘.Một nữ ký giả Pháp, Brigitte Friang thì mai mỉa hơn ‘ Trưa 30-4-1975, bộ đội Bắc Việt vào Sai Gòn. Ðây là một thành phố chết, chỉ có 125 nhà báo ngoại quốc và hơn một chục đứa con nít nam nữ, trương cờ máu đế chào đón chúng. Ba triệu dân miền Nam nhìn chúng bằng thái độ lãnh đạm. Vậy mà Trần văn Trà, Nguyễn Thị Bình đi đâu cũng tuyên bố rằng, chính nhân dân miền nam đã tổng nổi dậy, để lật đổ chính phủ VNCH’.

Nhưng cay cú nhất, phải là lời viết của Jean Larteguy, một nhà báo Pháp từng cuồng nhiệt ca tụng Hồ Chí Minh và VC như thần thánh trong nhiều năm qua . Ông viết ‘Sài Gòn mất bởi đạo quân Bắc Việt. Nhìn đoàn quân chiến thắng đang hồ hởi trên những chiếc tăng T54 hay PT46, treo cờ máu , đâu có khác gì cảnh quân Sô Viết đàn áp, xâm lăng Hung Gia Lợi, Tiếp Khắc, Ba Lan tai Ðông Âu năm nào .’
Ba mươi hai năm qua, hầu hết đồng bào VN trong cũng như ngoài nước tan nát cửa nhà sau cuộc đổi đời không bao giờ dám nghĩ là sẽ có. Nên cứ mỗi lần tháng tư quốc hận tới, cho dù ai chăng nửa, đại đa số người dân sống thầm lặng bên vê đường thời gian hay thiểu số dấn thân trên con đường đấu tranh quang phục đất nước, đều mang chung tâm trang bi thương, tức tưởi, ngậm ngùi.
Tất cả đều là sự thật vì mọi bí mật của cuộc chiến đã được cac phe phái, chính người trong cuộc hay các sử gia tìm hiểu, như giáo sư Morris ‘ Cọng sản Hà Nội đã thắng cuộc xâm lăng miền nam, nhờ tuyên truyền, đẻ và thổi phồng bịa đặt các huyền thoại chính trị mà hầu hết, đều là chuyện trên trời dưới biển. Có như vậy, VC mới dụ dỗ và phỉnh gạt được, nhiều trí thức khoa bảng nhà báo trong và ngoài nước. Nhờ thế suốt cuộc, chính thành phần này đã góp phần chiến thắng cho Hà Nội, không phải ở chiến trường, mà là tại Paris, Luân Ðôn và Hoa Thịnh Ðốn. ‘

Ba mươi hai năm rồi, xin hãy trả lại cho người lính trận miền Nam những gì họ đã mất từ lâu, do những kẻ cứ hay tự xưng mình là trí thức, đã cướp đoạt. Người lính VNCH không cần bất cứ ai phải vinh danh, vì chính cái phẩm cách tuyệt luân phi thường của lính, đã có một vị trí xứng đáng trong lòng dân tộc

Bổng ao ước sao cho đất nước sớm có tự do cuộc đời trở lại như thuở nào, để dân-lính lại thỏa tình cá nước, lính từ dân mà có và dân sống được nhờ sự bảo vệ thần thánh và chân thành của lính, điển hình như các cuộc di tản khỏi vùng chiến cuộc Tết Mậu Thân 1968, mùa hè đỏ lửa 1972, cuộc di tản tại Bình Thuận, Xuân Lộc và những ngày Sài Gòn hấp hối, cuối tháng 4-1975.

Ta về cúi mặt đầu sương điểm
nghe nặng từ tâm lượng đất trời
cám ơn hoa đã vì ta nở
thế giới vui vì mọi lẻ loi ‘
(Thơ Tô Thùy Yên)

Ba mươi hai năm trước hay bây giờ, người Mỹ cũng chỉ nghỉ đến quyền lợi của quốc gia mình mà thôi. Bởi vậy muốn đem quân vào VN, người Mỹ phải giết một tổng thống dân cử của bản xứ. Rồi để rút quân an toàn về nước, khi đã đạt xong mục đích chiến lược kinh tế của mình, Mỹ lại dùng áp lực quân viện, để bắt buộc đồng minh của mình, ký vào một hiệp ước giả mạo phi luân. Cuối cùng dùng nó để bán đứng quốc gia VN, chôn vùi tương lai của dân tộc anh hùng trong vòng nô lệ của cọng sản đệ tam quốc tế., suốt thời gian từ đó tới bây giờ. Tất cả đúng như lời Sir R.Thompson đã viết năm 1989 trong tác phẩm ‘ Make for the hill ‘, đại ý ông nói rằng, sự sống của miền nam VN đã bị bán đứng , vì cảnh cấu xé của nước Mỹ. Riêng Nixon, nhân vật chính đã cùng Kissiger đạo diễn tấn thảm kịch VN hôm nay, cũng đã viết những lời sám hối trong ‘ No More VietNam ‘.Ông viết rằng, tôi đã nhìn thấy những vấn đề nan giãi của hiệp định Ba Lê, nhất là sự thỏa hiệp, cho phép bộ đội Bắc Việt công khai ở lại và xâm lăng miền Nam . Nhưng đau đớn nhất, có lẽ là lời phát biểu của M. Gauvin, nguyên Ủy Viên Giám Sát Quốc Tế (ISCC) tại VN. Ngay khi thấy CS Hà Nội ngang nhiên xé bỏ hiệp định ngưng bắn mà chúng vừa ký kết chưa ráo mực, tấn công xâm lăng VNCH, bất chấp cả Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc. Vì vậy ông đã viết bài đăng trên tờ The Times số 59362 ngày 5-4-1975 rằng, sự thất bại của VNCH đã bắt nguồn từ hiệp định Ba Lê, vì nó chẳng bao giờ phản ảnh được ý muốn và nguyện vọng của dân-nước VNCH.

Một thập niên sau ngày Mỹ bỏ chạy khỏi Sài Gòn trong đêm tối trên mái nhà, do những biến chuyển chính trị thế giới, quan trọng nhất là sự hòa hoãn giữa Nga-Hoa cũng như sự liên hệ của Mỹ và Trung Cộng có chiều hướng thay đổi. Ðể chiếm phần ưu tiên, người Mỹ lại tìm cách mon men trở lại Ðông Dương lần thứ 4 vào tháng 4-1985. Bởi vậy một phái đoàn cao cấp của Mỹ , do Richard Armitage cầm đầu, cùng với phụ tá ngoại trưởng Mỹ là Paul Wolfon Witz (đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương ), lần đầu tới Hà Nội, với chiêu bài ‘ tìm lính Mỹ mất tích và hài cốt quân Hoa Kỳ còn tại VN’. Sự kiện giằng co úp mở giữa hai nước, cho tới khi phái đoàn nghiên cứu Mỹ do cưu bộ trưởng quốc phòng Mc.Namara, sau khi thăm viếng Hoa Lục về, đã tiết lộ âm mưu Trung Cộng đang có dã tâm muốn trở thành Á Châu và Thái Bình Dương. Vì thế Hoa Kỳ mới mở phòng liên lạc giữa hai nước vào ngày 3-2-1995 và nối lại bang giao năm 1996. Một Ðại Sứ Mỹ tại Hà Nội được Thượng viện Hoa Kỳ chấp thuận sau 22 năm chiến tranh chấm dứt, đã chính thức xác nhận sự bình thường hoá ngoại giao với VC.

Ngày nay, lịch sử đã ngừng lại và quay tròn đúng vào thời điểm củ trên đất nước tội nghiệp VN. Cả hai : Tài phiệt Hoa Kỳ và cọng sản đệ tam quốc tế cũng đều vì quyền lợi riêng tư của mình, nên muối mặt đổi thù thành bạn. Lần này không còn có chiêu bài VN là tiền đồn chống cộng, nên người Mỹ đã công khai tới VN qua danh phận lái buôn lái súng. Hiện trong cộng đảng cầm quyền đã manh nha hai phe theo Tàu, theo Mỹ. Nhưng dù VN có theo phe nào chăng nửa, thì chắc chắn đất nước chúng ta cũng sẽ bị cuốn hút theo vết xe lịch sử, khi Trung Cộng công khai gây nên thế chiến lần thứ 4 tại Á Châu-Thái Bình Dương.
Ðọc và viết lịch sử không phải để khóc hận than thân, mà là lấy đó làm một kinh nghiệm để hành động cứu nước trong thực tại và tương lai. Năm 1954, khi cọng sản đệ tam chiếm được miền bắc, một số ít trí thức khoa bảng chạy vào làm trùm tại VNCH nên họ chẳng hề biết gì về kinh nghiệm sống chung với VC. Ngày 30-4-1975, khi VC chưa vào Sài Gòn, số trí thức khoa bảng trên lại ù trốn chạy sang Mỹ hay ngoại quốc. Họ không hề biết thế nào là sự đổi đời của phận người xuống hàng súc vật. Ở ngoại quốc, vì quá tự do, nên vẫn chứng nào tật đó, coi sự hiểu biết của mình ngang hàng với lãnh tụ, muốn ai cũng phải theo ý và đứng sau lưng mình. Họ vì không sống thật với lịch sử nên chẳng bao giờ có kinh nghiệm lịch sử, vẫn ảo tưởng xây lâu đài và chức phận trên cát biển, vẫn ngây thơ muốn hòa hợp hòa giải, với một đảng cướp tàn bạo bất lương, qua bảy mươi năm chỉ lừa bịp lường giết đồng bào và ban nước mình mà thôi.. Tệ nhất là mình và gia đình lúc nào cũng thích sang giàu hạnh phúc nơi thiên đường Âu Mỹ, mà mồm thì luôn xuí người khác, nếu đi hết biển, thì phải trở về để làm nô lệ cho cọng sản .
Cũng may bọn người này không nhiều và ngày nay hầu hết đều giống như những bình vội gìa nua, mà Phan Khôi từng ví với bọn cán ngố miền bắc trong tác phẩm ‘Trăm Hoa Đua Nở ‘, chỉ nổ trên giấy hay nằm trơ trọi trong góc đời hiu quạnh về chiều..

Thảm thê cho thân phận nhược tiểu VN, hết bị Tàu đô hộ tới Pháp, Nhật, Mỹ, Liên Xô.. rồi nay lại làm đầy tớ cho cả thế giới, mà điển hình nhất là hình ảnh của những công nhân lao động và phụ nữ bị bán ra nước ngoài. Không biết bao giờ đất nước và đồng bào mới thoát được nổi thống hận trên, để cho con cháu có cơ hội ngẩn mặt nhìn trời, người Việt tị nạn tha phương, trở về cố quốc, một cõi lòng mà ai cũng hoài vọng ao ước, khi quê hương không còn bóng dáng lá cờ máu và đảng CSQT.

Mùa Quốc Hận<o:p></o:p>
2008-02-08
Mường Giang<o:p></o:p>

Còn tiếp...
SỐNG ĐỂ CHIẾN TRANH- CHẾT CHO HÒA BÌNH {20}







Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét