Thứ Tư, 24 tháng 10, 2012

SỐNG ĐỂ CHIẾN TRANH- CHẾT CHO HÒA BÌNH {21}

Tiếp  theo...
QUÊ HƯƠNG TÀN CHINH CHIẾN!

NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH
L.T.S.  Đến 19 tháng 6 này là Ngày Quân Lực lần thứ 42. Nhân dịp này thiết tưởng cũng cần thêm một lần nữa đưa ra những nhận định về QLVNCH anh hùng của chúng ta. Một cái nhìn khách quan phải gồm cả những ưu và khuyết điểm, hay và dở, thành và bại, không phải chỉ gồm những chiến thắng như trong một bài thuyết  trình cho quan khách đến dự một buổi lễ. Xin giới thiệu bài Nhận Định Về QLVNCH của Nhóm Đặc Nhiệm thuộc TTCSVNCH/HN.
 QLVNCH là một trong những lực lượng chủ yếu tham chiến trong Chiến Tranh Việt Nam. Với quân số Chủ Lực Quân, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân tổng cộng ngót 1.200.000 người, QLVNCH đã chịu tổn thất gần 300.000 người tử trận sau hơn 20 năm chiến đấu từ khi đất nước bị chia đôi. Dù trong điều kiện, hoàn cảnh, thành tích và phẩm chất nào chăng nữa, quân lực này cũng đã la ømột thực thể có vai trò quan trọng trong chiến tranh và tạo ra những hậu quả đáng kể về chính trị, quân sư trên thế giới và tác độïng mạnh đến xã hội, văn hóa giáo dục...ở Việt Nam. Những yếu tố trên không thể bị bỏ quên trong bất cứ đề tài thảo luận, nghiên cứu nào về lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử thế giới.
Tàøi liệu này không đi sâu vào những dữ kiện đã được nhiều sách báo đưa ra mà chỉ nhấn mạnh vào một số điểm đáng lưu ý trong tiến trình hình thành và chiến đấu của QLVNCH nhất là những gì không được nhiều người biết đến và quan tâm.

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ

Muốn hiểu rõ về nguyên nhân và nguồn gốc sự hình thành QLVNCH không thể không xét đến bối cảnh lịch sử của Việt Nam từ thập niên 1920.

1. Tranh chấp Quốc – Cộng.
Dân tộc Việt Nam rất tự hào về tinh thần bất khuất chống ngoại xâm. Mặc dầu bị Trung hoa đô hộ với mưu đồ đồng hóa hằng ngàn năm, nhưng Việt Nam vẫn tồn tại. Bởi vậy khi Pháp đặt nền đô hộ lên đầu nhân dân Việt Nam

thì phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp nổi lên khắp nơi,  với cả hai khuynh hướng quốc gia và cộng sản.
          Cuộc tranh chấp giữa các đảng phái quốc gia và đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đã nhen nhúm ngay từ ngày có đảng CSVN hồi cuối thập niên 1920. Nhưng trước năm 1945, những đụng chạm này kể cả những vụ CSVN sát hại người các đảng phái quốc gia chỉ mang tính cách lẻ tẻ không có quy mô đáng kể.
          Cuối tháng Tám năm 1945, lực lượng CSVN núp sau danh nghĩa Mặt Trận Việt Minh (MTVM) với chiêu bài quốc gia dân tộc đơn phương cướp chính quyền và dành độc quyền lãnh đạo đất nước trái với thỏa hiệp trước đó giữa MTVM và các đảng phái không-Cộng-Sản.  Ngay sau đó, phe CSVN thẳng tay tiêu diệt tất cả các tổ chức mà họ tin rằng sẽ là những phần tử đối lập đáng e ngại sau này.
          Trong thời gian 1945-1946, các lực lượng quân sự và quần  chúng thuộc các đảng phái không-Cộng-Sản đều tham gia chiến đấu chống Pháp cùng với các lực lượng Việt Minh (VM) vì họ đều nghĩ rằng phe phái nào cũng có mục tiêu chung là chống Pháp dành độc lập, không cần phân biệt.
          Lời kêu gọi "Đại Đoàn Kết" của ông Hồ Chí Minh đưa ra không lâu trước khi phe CSVN bất ngờ tung ra chiến dịch quy mô tiêu diệt phe quốc gia gồm các cá nhân, tổ chức đảng và lực lượng quân sự. Nhiều thanh niên yêu nước không-Công-Sản bị sát hại hàng lọat ngay trước khi nổ ra cuộc Kháng Chiến chống Pháp 19/12/1946.
          Năm 1947, chỉ có một số ít làng mạc chống Cộng được quân đội Pháp trang bị cho các dân quân vũ khí của Thế Chiến I để giúp họ giữ an ninh các vùng Pháp kiểm soát. Quân đội Pháp thành lập một số các đơn vị bán quân sự không có quy chế quân nhân nhưng được trả lương gọi là thân binh (Partisan) người Việt Nam để đóng các đồn bót của quân đội Pháp. Năm 1947 số người Việt chiến đấu bên cạnh lính Pháp tương đối khá ít ỏi. Sau đó để gia tăng quân số, người Pháp tuyển một số người Việt vào các đơn vị chính quy dưới danh nghĩa Liên Hiệp Pháp.
          Từ đầu năm 1947 sang năm 1948 và 1949, đảng CSVN mở nhiều đợt thanh trừng qui mô hàng ngũ quân đội kháng chiến, loại bỏ những phần tư û bị nghi ngờ là đối lập với chế độ CSVN trong đó có nhiều người yêu nước đang phục vụ tích cực và hữu hiệu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Kế đến là thường dân tham gia các đảng phái quốc gia và các phần tử khác bị VM cho là nguy hiểm.
2. Sự Lớn Mạnh Của Lực Lượng Chống Cộng

          Trong khi nhiều người có khuynh hướng quốc gia vì lòng yêu nước theo VM chống Pháp được VM tạm dung thứ, thì nhiều người quốc gia yêu nước khác biết mình bị VM liệt vào loại đáng nghi ngờ, trước sau cũng có thể bi thanh toán phải tìm đất sống ở vùng kiểm soát của quân đội Pháp. Họ phải chọn vùng của kẻ thù ít nguy hiểm hơn làm chỗ nương náu. Thực Dân Pháp tuy tàn ác, nhưng họ còn có thể len lỏi tìm cách sống được trong các vùng này.
          Chinh quyền quốc gia  do Cựu Hoàng Bảo Đại lãnh đạo ra đời sau Hiệp Định Pháp Việt ngày 8 tháng 3 năm 1948 là chỗ dựa tạm cho những người này mặc dù đây chưa phải là một chính quyền thực sự đôïc lập, ngưới Pháp nắm hầu hết quyêøn lực cai trị. Chính quyền Bảo Đại chỉ có rất ít uy tín trong dân chúng.
          Sang năm 1950-1951 khi đảng CSVN ra công khai dưới danh xưng đảng Lao Động (Worker's Party) và gia tăng thanh trừng, khủng bố thì những người không chấp nhận chế độ CSVN hoặc không được chế độ này chấp nhận ào ạt rời bỏ vùng kháng chiến trở về vùng do chính quyền Bảo Đại và quân đội Pháp kiểm soát. Số người đông đảo này làm thay đổi hẳn bộ mặt của chính quyền Quốc Gia. Môt phe quốc gia chống cộng gồm nhiều xu hướng và đảng phái không-Cộng-Sản ngày thêm vững mạnh.
          Năm 1953, ông  Hồ Chí Minh tung ra phong trào Phát Động Quần Chúng  thường được gọi là cuộc "đấu tố" hay "Cải Cách Ruộng Đất" đẫm máu nhằm lọai trừ  giai cấp địa chủ và các phần tử  bị coi là đối lập. Nhiều người bị hành hạ và hành quyết bằng những cách giết người dã man nhất. Một làn sóng những nạn nhân hay sẽ là nạn nhân của chế độ CSVN bỏ kháng chiến trở về vùng quốc gia đã là nhân tố củng cố thêm cho lực lượng chống CSVN.
          Lực lượng phe chống CSVN đã có vị trí rõ rệt và vũng chắc hơn chút ít khi đất nước bị chia cắt do Hiệp Định Geneva 20/7/1954.
3. Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.

          Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (QĐQGVN) được thành lập từ tháng 4 năm 1949 thu hút được nhiều thanh niên yêu nước không sống được dưới  sự đe dọa của phe Cộng, đang tìm chỗ đứng và đất sống cho mình. Trong lúc ấy, cường độ chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh gia tăng đáng kể, nhất là kể từ khi Việt Minh, được cộng sản Trung Hoa chi viện sau khi Mao Trạch Đông đánh bại Tưởng Giới Thạch vào năm 1949. Vì nhu cầu tăng quân số để ứng phó với tình hình chiến sựù, chính phủ quốc gia VN và Pháp đẩy mạnh chương trình bành trướng QĐQGVN như là một hình thức “Việt Nam hoá” chiến tranh mà sau này Mỹ cũng áp dụng với mục đích đứng đắn hơn.
          Mặc dầu được bành trướng vì nhu cầu chiến trường, nhưng Quân đội viễn chinh Pháp chỉ  huấn luyện và trang bị cho QĐQGVN  ở  mức giới hạn, chắc hẳn là vì không mấy tin cậy vào quân lực này. Đến năm 1954, quân số QĐQGVN có khoảng 180,000 người, được tổ chức thành các tiểu đoàn bộ binh, nhẩy dù, một số đơn vị pháo binh, thiết giáp nhẹ, công binh, một số phi cơ trinh sát nhe và những hải đĩnh nhỏ. Với đơn vị cao nhất là Liên Đoàn Lưu Động (Mobile Group) tham chiến trên các chiến  trường, QĐQGVN chưa phải là đe dọa đáng ngại cho các lực lượng Việt Minh.
4.Những Khó Khăn Của QĐQGVN

          Nhìn toàn cảnh cuộc chiến Đông Dương 1946-1954, lực lượng quân sự phe quốc gia Việt Nam có nhiều thế bất lợi:
          a)  Bộ Tư Lệnh quân Viễn Chinh Pháp vẫn nắm giữ toàn quyền điều khiển chiến tranh và các kế hoạch hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN và các BTL Quân Khu chỉ có một số quyền hạn nhỏ hẹp. Thực tế cho thấy người  Pháp không thực tình muốn xậy dựng một quân đội Việt Nam thực sự  độc lập và có nhiệm vụ chiến đấu chính mà chỉ muốn có bên cạnh họ một lực lượng phụ giúp họ trong việc giải quyết chiến tranh nhưng không muốn từ đó tạo ra mối đe dọa cho họ trong tương lai xa.
          b)  Các sĩ quan và binh sĩ QĐQG thảy đều không có cảm tình với người Pháp. Họ chiến đấu bên cạnh người Pháp như một chọn lựa bất đắc dĩ. Trong hai kẻ thù, họ      phải đứng tạm bên cạnh kẻ thù ít nguy hiểm hơn với tin tưởng trào lưu thế giới sẽ giúp cho các nước bi trị được Mỹ và Anh nâng đỡ dành độc lập từ tay Pháp. Một phái bộ quân sự Mỹ cạnh Bộ Tư Lệnh Pháp tại Việt Nam giữ vai trò rất khiêm  nhường,  trong khi viện trợ của Hoa Kỳ cho QĐQGVN đều phải đi qua tay quân đội Pháp lựa lọc và phân phối.
          c)  Quân Đội Pháp đã áp dụng chính sách quân sự coi khủng bố là biện pháp chính  để chống chiến tranh du kích. Các đơn vị Lê Dương, bộ binh gốc Phi Châu và Bắc Phi (kể cả một số lính người Việt trong các đơn vị Commando Pháp và Thân Binh) được dung túng cho tự do giết chóc, tra tấn, hãm hiếp thường dân mà không bị trừng phạt. Nhà cửa làng mạc bị đốt phá, nhiều xóm thôn bị tàn sát hàng trăm người một lần vì những lý do rất nhỏ nhặt. Quân đội Pháp đã gây ra hàng trăm vụ như vụ Mỹ Lai (16/3/1968) mà dư luận thế giới biết đến rất ít. 
           Nỗi uất ức căm thù lính Pháp của dân chúng lên rất cao khiến họ quay sang ủng hộ phe kháng chiến tạo thành sức mạnh chống Pháp cao độ. Nhiều người tin rằng nếu lính Pháp hồi ấy chỉ cần đối xử ân cần, nhân đạo với dân chúng mà không cần phải ban phát ân huệ hay trợ giúp nào to lớn, họ đã có thể chiến  thắng trước năm 1954. Quân Đội Pháp hầu như không có một chương trình nào về dân sự vụ, cứu trợ và thông tin tuyên truyền nhằm tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng như Mỹ và VNCH trong cuộc chiến tranh Việt Nam 1959-1975.
            Trong lúc ấy, các đơn vị QĐQGVN kể cả các đơn vị bán quân sự và dân quân phe quốc gia đối với dân chúng thân mật và hiền hòa, giúp đỡ, bảo vệ họ. Nhưng những cố gắng này không đủ để bù lại những tội ác chiến tranh mà các đơn vị thuộc lực lượng viễn chinh Pháp gây ra. Quân lính Pháp là  những hung thần, không bao giờ tôn trọng các viên chức chính quyền Bảo Đại chút nào, dù là cấp xã, huyện hay tỉnh như quân sĩ Mỹ trong Chiến Tranh Việt Nam.
          Vì thế  nhiều quan sát viên và báo chí quốc tế dễ lầm tưởng rằng QĐQGVN hoàn toàn là một tổ chức tay sai hay một đám lính đánh thuê của Pháp. Cũng chính vì thế mà nhiều binh sĩ trong QĐQGVN không có quyết tâm chiến đấu cao, mang nặng mặc cảm “không-yêu-nước.” Quân đội không thể tuyển mộ đủ số quân sĩ cần có.
II.  THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ.     
          Tháng 5-1954, Điện Biên Phủ thất thủ,  hiệp định ngưng chiến Genève được ký kết vào ngày 20-07-1954, chia đôi Việt Nam,  các lực lượng quân sự quốc gia tập trung về Nam Vĩ Tuyến 17. Năm 1955, chính phủ Ngô Đình Diệm dành lại toàn bộ chủ quyền chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự từ tay người Pháp, QĐQGVN sau khi dẹp tan các lực lượng Bình Xuyên và Giáo Phái ly khai, được cải tổ toàn diện và đổi danh hiệu thành Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà (QĐVNCH).
          Trong 3 năm đầu, QĐVNCH gồm Hải,  Lục và Không Quân được tổ chức lại với các đại đơn vị cấp quân đoàn, sư đoàn và hệ thống quân sự lãnh thổ từ tỉnh lên đến quân khu. Bộ TổngTham Mưu với các bộ phận trực thuộc mau chóng nhận lãnh trọng trách quốc phòng. QĐVNCH được trang bị vũ khí và quân dụng Mỹ, tổ chức và huấn luyện theo khuôn mẫu và binh thuyết Mỹ. Trong giai đoạn này, QĐVNCH gặp phải một số trở ngại quan trọng như:
          1.  Thiếu sĩ quan chỉ huy cấp trung đội lên đến tiểu đoàn có khả năng. Số sĩ quan trẻ có tinh thần yêu nước, có lý tưởng không  đủ để lấp chỗ trống này.
          2.  Một số không ít sĩ quan nguyên là lính trong quân đội Pháp thời Pháp Thuộc được lưu lại trong QĐVNCH. Những sĩ quan này do người Pháp đào tạo, nhiều người không dễ thích ứng với tổ chức và chính sách quân sư ïmới,ï thiếu căn bản tư tưởng và khả năng lãnh đạo một cuộc chiến mà nhiều nỗ lực ngoài phạm vi quân sự thuần túy lại là yếu tố thành bại: Lòng yêu nước và tư tuởng, ý thức hệ.
           3.   Các bộ tư lệnh đại đơn vị cấp Quân đoàn và Sư đoàn chưa có kinh nghiệm tổ chức và chỉ huy các cuộc hành quân có quy mô lớn.
III. TRƯỞNG THÀNH TRONG CHIẾN TRANH
   -  Từ năm 1959 khi CSVN khởi động cuộc chiến tranh khuynh đảo Miền Nam VN, QĐVNCH  còn đang ở tình trạng củng cố tổ chức và huấn luyện. Đến lúc này QĐVNCH chỉ được trang bị vũ khí và quân dụng Mỹ dùng trong Thế Chiến II.  Các toán cố vấn quân sự Mỹ làm việc cạnh các bộ chỉ huy từ cấp trung đoàn trở lên mà nhiệm vụ chính là liên lạc, yểm trợ tổ chức, huấn luyện, tiếp vận, kỹ thuật.
          -  Năm 1961, CSVN gia tăng cường độ chiến tranh với chiến dịch khủng bố sát hại các viên chức chính quyền hạ tầng cơ sở, phá hoại các cơ sở hành chính, kinh tế, giao thông, xã hội và đột kích tiêu diệt các đơn vị quân sự nhỏ song song với mặt trận tuyên truyền bịp bợm và vu cáo đối phương. 
Trong khoảng thời gian này, đã xẩy ra sự bất đồng về quan niệm chiến lược ứng phó giữa Mỹ và VNCH  đối với chiến lược của cộng sản.  VNCH đặt nặng nỗ lực chiến tranh tại địa bàn nông thôn, trong lúc Mỹ chủ trương tổ chức và huấn luyện QĐVNCH theo mô thức chiến tranh Triều Tiên.
Tình hình chiến tranh chỉ chuyển hướng sau khi chương trình Ấp Chiến Lược (ACL) được chính phủ VNCH áp dụng kể từ năm 1962. Tuy rằng chương trình ACL gây ra một số bất mãn nhưng đã dành lại được thế chủ động tại nông thôn, tái kiểm soát được nhiều vùng quan trọng. Theo dự định, hệ thống các ấp chiến lược với dân quân và lực lượng địa phương quân sẽ kiểm soát và bảo vệ mọi vùng dân cư, để quân chính quy QĐVNCH có thể lưu động 100% ngoài các vùng dân cư. Dự định này có 70% khả năng thành công nếu tình hình quân sự diễn tiến như giữa năm 1963.  Nhưng cuộc đảo chính 1/11/63 đã thay đổi tất cả.
          -  Theo cường độ phát triển chiến tranh, Hoa Kỳ bắt đầu gia tăng viện trợ, nâng số nhân viên cố vấn quân sự, gửi các đơn vị không lực yểm trợ hỏa lực và vận chuyển vào giúp cho QLVNCH. VNCH gia tăng quân số với nguồn nhân lực mới động viên , bành trướng Không Quân, Hải Quân và thành lập thêm các sư đoàn, các đơn vị Lực Lượng ĐăÏc Biệt, Chiến Tranh Tâm Lý, Dân Sự Vụ...
          -  Tình hình chính trị hỗn loạn ở Miền Nam Việt Nam sau năm 1963 đã khuyến khích CSBV đổ quân vào Miền Nam. Năm 1964, QĐVNCH bị nhiều tổn thất nặng, trong đó có trận Đèo Nhông, Phước Thành, Bình  Giả, Đức Cơ tuy có những chiến thắng ở Plei Me, đẩy lui cuộc tấn công dữ dội ở Đồng Xoài, khiến tinh thần binh sĩ và dân chúng sa sút mạnh. CSVN có khả năng cắt đôi Miền Nam và chiếm toàn bộ nước VNCH. Mỹ đã cứu vãn tình hình bằng cách tham chiến trực tiếp với sự tham dự của một số quân đội đồng minh: Nam Triều Tiên, Úc Đại lợi, Thái Lan, Tân Tây Lan.
          -  Từ 1965 đến 1969, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà  (sau khi đổi danh hiệu từ QĐVNCH) chịu trách nhiệm bình định các vùng dân cư, yểm trợ xây dựng nông thôn. Các hoạt động bên ngoài do quân lực Mỹ đảm nhiệm. Tại những vùng xung yếu, các sư đoàn Mỹ và đồng minh được trao cho các khu vực hoạt động gọi là Khu Vực Trách Nhiệm Chiến Thuật (Tactical Area of Responsibility). Tuy nhiên các  đơn vị cấp trung đoàn và tiểu đoàn QLVNCH vẫn thường xuyên tham dự các cuộc hành quân hỗn hợp quan trọng với các đơn vị Mỹ
          -  Biến cố Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 là một khúc quanh lịch sử trong chiến tranh VN. Vào đêm giao thừa Tết nhằm ngày 29/01/68, Hànội bất ngờ tung quân đánh chiếm hằng trăm thị trấn, tỉnh lỵ, quận lỵ trên khắp lãnh thổ VNCH. Mặc dầu bị  bất ngờ vì phần lớn binh sĩ nghỉ hưu Tết, nhưng QLVNCHõ đã nhanh chóng đẩy lui quân CS  và chỉ trong vòng một tháng tất cả các đơn vị CS xâm nhập đã bị quét sạch.
Trong kế hoạch Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy, CSVN đã  phạm một lỗi lầm quá lớn khi định ngày N (ngày mở đầu các cuộc tấn công). Bộ Chỉ Huy tối cao CSVN đã định ngày N là “đêm Mùng Một sang Mùng Hai Tết” theo âm lịch. Nhưng âm lịch hai miền Nam và Bắc năm ấy khác nhau một ngày. Do đó các đơn vị VC dùng lịch Bắc Việt nổ súng vào đêm giao thừa ở Miền Nam (Đà Nẵng, Quy Nhơn, Kontum, Pleiku, Nha Trang...) trong khi các đơn vị khác dùng lịch VNCH nổ súng vào đêm  Mùng Một (Huế, Sài Gòn và các nơi còn lại). Nếu quân CSVN nổ súng đồng loạt cùng một ngày giờ, QLVNCH có thể đã chịu tổn thất nhiều hơn tuy vẫn nắm phần thắng lợi.
Các lãnh tụ tối cao CSVN quá chủ quan khi quyết định mục tiêu lớn “Tổng Nội Dậy” và tin rằng 80% quần chúng  và binh sĩ Miền Nam sẽ đứng lên tiếp tay các lực lượng Cộng Sản. Trên thực tế không có quần chúng ở bất cứ nơi nào nổi dậy.
CS bị tổn thất nẵng nề, hầu như toàn bộ hệ thống cán bộ nằm vùng của CS bị tiêu diệt, bị bắt hoặc ra đầu thú.  Hànội đã thất bại nặng trong trận TCK Tết Mậu thân, nhưng lại bất ngờ đạt được chiến thắng tại nội địa Mỹ với sự tiếp tay của một số cơ sở truyền thông, phong trào phản chiến Mỹ và mũi tuyên truyền của Côïng Sản quốc tế.
          -   Từ năm 1969, Hoa Kỳ áp dụng chính sách Việt Nam Hóa chiến tranh, trang bị cho QLVCH nhiều vũ khí và quân dụng tối tân hiện đại. Quân Mỹ và đồøng minh rút dần để QLVNCH lãnh tùoàn  bộ trách nhiệm quốc phòng.
          -  1970-1975. Năm 1970, QLVNCH hành quân tràn qua Cam Bốt triệt hạ các căn cứ của CSBV. Năm 1971, QLVNCH mở cuộc hành quân cấp quân đoàn sang Lào để chứng tỏ khả năng tác chiến của mình nhưng không thành công. Đây là lần đầu tiên QLVNCH mở một cuộc hành quân lớn theo  phương thức chiến tranh quy ườc. Bộ Chỉ Huy chiến dịch của VNCH và bộ phận yểm trợ của Hoa Kỳ có những khiếm khuyết  trong việc phối hợp và điều động mặc dù tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng của các binh sĩ  ở đơn vị cấp nhỏ.
          -   Mùa Høè năm  1972, CSVN tung ra các cuộc tấn công mạnh mẽ vào 3 vùng trọng yếu:  Quảng Trị, Kontum và An Lộc. CSBV bị tổn thất nặng nhưng cố chiếm giữ vài ba vùng nhỏ hẹp có dân cư để chuẩn bị giải pháp chính trị.
          - Hiệp Đinh Paris 27/1/1973 đặt QLVNCH vào một tình thế mới. Toàn bộ các đại. đơn vị bị căng dãn ra rất mỏng để giữ đất vì địch quân vẫn tiếp tục tấn công ở nhiều nơi. Hai năm sau, CSVN bỏ trống hậu phuơng Bắc Việt đê tập trung lực lượng đánh phá VNCH. Trong lúc ấy, Hoa Kỳ giảm dần viện trợ và những cuộc tranh luận ở Mỹ cho thấy rõ Mỹ sẽ bỏ rơi VNCH.
        Những trận đánh cuối cùng của CSVN đã nhắm đúng vào các nhược điểm của VNCH. Đó là cắt ngang Miền Trung và Cao Nguyên, gây hoảng loạn tại Quân Khu 1 và lan  đến Sài Gòn, mở đường cho quân CSVN chiếm đóng toàn thể nước VNCH.
           Sau cùng, QLVNCH đã bại trận trong lúc còn có sức chiến đấu sau hơn 20 năm từ lúc xây dựng trên một quân đội quốc gia còn thô sơ rời rạc qua giai đoạn vừa trưởng thành vừa chiến đấu.
IV. NGƯỜI LÍNH VNCH
   a) Đời Sống Vật Chất
          Binh sĩ QLVNCH được trả lương thấp nhất so với quân đội của tất cả các nước đồng minh của Hoa Kỳ.  Vào cuối thập niên 1950, lúc lương (không tính tiền ăn) của Binh II Mỹ là US$ 75 thì lương Binh II VNCH tương đương với khoảng US$ 14 (VN$ 516 hay bằng 60% lương lao động thấp nhất). Số lương tháng của một binh II không đủ để nuôi vợ, nếu có con thì càng thiếu thốn. Do đó gia đình không thể sống xa họ mà bằng mọi cách sốùng gần hay trong doanh trại, nhiều khi theo đến tạân nơi căn cứ hành quân.
 Đơn vị nào cũng có gánh nặng gia đình binh sĩ gây trở ngại lớn cho việc điều động binh sĩ. Quân đội có nhiêù cố gắng giúp đỡ việc lập các cư xá cho gia đình binh sĩ với tiện nghi y tế, giáo dục của ngành Xã Hội, cửa hàng Quân Tiếp Vụ (Post  Exchange)... có kết quả tốt. Từ khi các tướng lãnh lên cầm quyêàn năm 1965, lương quân nhân được tăng. Nhưng những lợi điểm này bị giới hạn nhiều khi chiến tranh  gia tăng cường độ và kinh tế khó khăn khiến mức sống của binh sĩ thắp hơn nhiều so với  người lao động tay chân ngoài quân đội hưởng lương thấp nhất.
b) Đời Sống Tinh Thần.

          Người lính VNCH không bị khép vào khuôn khổ chặt chẽ đến độ vô nhân đạo và bị nhồi sọ bằng tuyên truyền bịa đặt như quân đội khối Cộng. Họ được hưởng một chế độ kỷ luật tuơng đối dân chủ, ít bi cấp trên áp bức.
           Họ đã chiến đấu gian khổ lâu dài hơn bất cứ quân đội nào khác từ 1959 truớc khi Mỹ tham chiến và tới  năm 1975 –  hai năm sau khi Mỹ rút lui. Họ không được dư luận Mỹ và thế giới tự do đánh giá đúng mà còn gần như bị bỏ quên hoặc xúc phạm.
           Là quân nhân dưới một chế độ tự do, họ được tự do tiếp cận với các nguồn thông tin quốc tế và quốc nội, nhất là một trong mười người lính có máy thu thanh bỏ túi bên  mình và được nghe mọi nguồn thông tin quốc tế cũng như trong nước. Do đó họ dễ bị ảnh hưởng tinh thần nặng nề vì dư luận phản chiến và vì những tin tức bất lợi mà quân đội không thể che dấu họ.
          Một lời đồn đại vô lý, không có căn cứ nhưng loan truyển đúng lúc đúng chỗ có thể gây nhiều hoang mang tai hại. Đó là một trong những cái giá chung mà VNCH phải trả để có tự do và dân chủ.
 
c) Tinh Thần Chiến Đấu.

          Tuy đời sống vật chất eo hẹp và công vụ gian khổ, luôn bị ảnh hưởng bởi nhưng dư luận  ác ý, người lính Miền Nam vẫn có một tinh thần chiến đấu đáng kể. QLVNCH không thiếu những gương anh hùng sáng chói không thua kém bất cứ quân đội nào trên thế giới kể cả những người vợ lính cùng tham gia chiến đấu với chồng con hoặc chỉ huy thay chồng điều chỉnh hỏa lực yểm trợ diệt địch cứu đồn trại.
          Trong hoàn cảnh nguy nan nhất họ vẫn chiến đấu can đảm như trong các trận tổng công kích 1968, 1972. Ngay cả khi hoàn toàn tuyệt vọng vì Hoa Kỳ ngưng viện trợ quân dụng và vũ khí, nhiều đơn vị vẫn chiến đấu đến phút cuối. Hơn 5.000 tân binh quân dịch chưa được huấn luyện ở Trung Tâm Tuyển Mộ và Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung sáng sớm ngày 30/4/1975 còn hăng hái chiến đấu hạ được 5 chiến xa CSVN ngay trước khi có lệnh đầu hàng.
           Sau khi có lệnh đầu hàng sáng 30/4/1975, nhiều vụ tự sát của các nhân sĩ, quân nhân, công chức và dân chúng xảy ra ở khắp nơi mà lý do chính là vì nỗi nhục nhã và tuyệt vọng. Cùng lúc ấy còn có khoảng hơn 1000 người xúc động đến độ mất trí vĩnh viễn, tính riêng tại Sài Gòn.
          Một số trường hợp điển hình: Ngay buổi trưa hôm ấy, một trung tá QLVNCH tự sát bằng súng lục truớc trụ sở Hạ Viện  VNCH, một trung tá QLVNCH khác cùng vợ và 7 con tự sát bằng súng tại nhà riêng và 5 sĩ quan cấp tá tự sát bằng độc dược tại bộ Tổng Tham Mưu. Buổi chiều, 5 trung sĩ cùng tự sát bằøng độc dược tại nhà của một người ở khu Lăng Cha Cả.
          Nổi tiếng nhất là trường hợp các Tướng Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú đã tự sát trong ngày 30/4/75 sau khi binh sĩ buông súng. Các vị này cũng là những tướng lãnh trong sạch có tiếng trong QLVNCH.
          Tại tỉnh Chương Thiện, Tỉnh Trưởng là Đạị Tá Hồ Ngọc Cẩn không tuân lệnh đầu  hàng, cùng binh sĩ thuộc quyền tiếp tục chiến đấu vô cùng anh dũng. Hơn 24 giờ sau khi đã hết đạn, tỉnh lị mới bị địch tràn ngập và Đại Tá Cẩn sa vào tay địch. Ông cuơng quyết không chịu khuất phục và bị địch hành quyết sau đó.
          Chỉ vì thiếu ngân sách tuyên truyền và vì khuynh hướng thiên vị của một số trong giới truyền thông , những gương hy sinh và anh hùng ấy đã không được truyền đi rộng rãi trên thế giới.
V. CÁC CHIẾN TÍCH
         Trong 20 năm chiến đấu,  QLVNCH lập được nhiều chiến tích quan trọng cả về mặt  an ninh diện địa lẫn chiến tranh quy ước.  Nổi bật nhất như:
       -   Tổ chức thành công các chiến dịch tiếp thu và bình đinh vào năm 1954 những vùng do CS chiếm cứ phía Nam vĩ tuyến 17 phải trả lại cho chính phủ quốc gia.
       -   Tảo thanh dẹp phiến loạn Bình Xuyên và các Giáo Phái ly khai năm 1954 tạo điều kiện thống nhất quân đội quốc gia
       -   Hành quân chiến thắng Plei Me Cao Nguyên Trung Phần năm 1965
       -   Hành quân phá vỡ hậu cần CSBV tại mật khu Đỗ Xá (ranh giới Kontum- Quảng Ngãi năm 1964õ
       -   Chiến thắng Tết Mậu Thân 1968 như đã nói ở trên.
       -   Hành quân phá vỡ hậu cần của CSBV tại Cam Bốt năm 1971
       -   Chặn đứng các cuộc tấn công vũ bão của CSBV tại mặt trận An Lộc. Dưới làn mưa pháo của CSBV có khi đến 8000 trái mỗi ngày, lực ượng QLVNCH phòng thủ An Lộc vẫn giữ vững thị xã, phản công tiêu diệt nhiều chiến xa và đại pháo của địch.
        -  Chặn đứng và giữ vững mặt trận  Kontum tháng 5 năm 1972 của Sư đoàn 23 bộ binh trước sức tấn công liên binh của nhiều sư đoàn CSBV
         -  Hành quân phản công tái chiếm Quảng Trị tháng 6 năm 1972 của Quân Đoàn I và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến
          -   Giữ vững tuyến phòng thủ Xuân Lộc trong nhiều ngày của Sư Đoàn 18 Bộ Binh đầu tháng 4 năm 1975 trước mũi dùi tấn công ác liệt của nhiều sư đoàn CS có thiết giáp và pháo binh yểm trợ.
          -  Tuy nhiên QLVNCH còn hàng trăm trận thắng khác ở cấp trung đoàn trở xuống nhưng ít được hoặc không hề được nhắc nhở  đến. Ngoài ra, các đơn vị VNCH cũng tham dự cùng lực lượng Mỹ trong các cuộc hành quân lớn từ Cedar Fall, Johnson City, Plei Me đến A Shau, Khe Sanh nhưng không mấy khi được báo chí Mỹ nhắc đến.
          -  Về mặt an ninh diện địa, các đơn vị bán quân sự và Cảnh Sát Quốc Gia đã thành công rực rỡ trong chiến dịch Phượng Hoàng phá vỡ hạ tầng cơ sở của địch.
          -   Trong các chiến tích, đáng ghi nhớ nhất về mặt lịch sử chống ngoại xâm  là trận hải chiến giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa sau Hiệp Định ngưng bắn Paris.
          Trung tuần tháng 1 năm 1974, quân đội Trung Cộng lấn chiếm quần đảo Hoàng Sa của VNCH. Hải Quân VNCH ở thế bất lợi với 2 tầu tuần dương, 1 tầu khu trục, 1 tầu hộ tống, 1 đại đội Biệt Hải, 1 trung đội địa phương quân, không được Không Quân yểm trợ, cũng không được Mỹ giúp đỡ. Hải Quân Trung Cộng với 14 tầu đủ loại trong đó có 4 phi tiễn đĩnh (guided-missile frigate) và có Không Quân yểm trợ.  Lực lượng Hải Quân VNCH tuy yếu hơn nhưng đã anh dũng chiến đấu suốt ngày 19/1/1974.  Kết cục phía Trung Cộng có 1 tầu chìm, tất cả số còn lại bị hư hại từ nặng đến trung bình; không rõ thiệt hại nhân mạng. Phía VNCH 1 tầu tuần dương chìm, 1 hư hại nặng và 2 hư hại trung bình, chết trên 50 binh sĩ và một hạm trưởng, khoảng 20 mất tích và 50 bị bắt.  Trung Cộng chiếm giữ quần đảo này từ đó.
     Trong khoảng thời gian này, Phái đoàn CSVN trong Ban Liên Hợp Quân Sự Hai Bên khi được yêu cầu minh định lập trường xác nhận Quần Đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam đã tránh né không trả lời.
VI. HOÀN CẢNH
1.   Hoàn cảnh Khách Quan

a. Vai Trò của Hoa Kỳ. QLVNCH là một quân đội của một  nước độc lập, có chủ quyền. Nhưng từ khi chiến tranh mở rộng phạm vi và cường độ, Hoa Kỳ đã dành quyền lãnh đạo chiến tranh. Điều đó dễ hiểu vì Hoa Kỳ cung cấp gần 100% chiến phí cho QLVNCH tất họ phải dành quyền quyết định. Hoàn cảnh này không khác gì hai cường quốc Cộng Sản đối với CSVN, chỉ khác nhau về cách thức trình diễn bề ngoài.
Tuy thế Hoa Kỳ cũng vẫn tôn trọng chủ quyền của QLVNCH ở mức độ khá cao, thí dụ như việc phía VNCH không chấp nhận đề nghị của Mỹ lập Bộ Tư Lệnh hỗn hợp. Tuy nhiên quan niệm chiến lược và chiến thuật của QLVNCH khác hẳn với phía Mỹ ở nhiều mặt. Ở Việt Nam cũng như ở nhiều  nước khác, nhiều người Mỹ vẫn mang tính tự tôn ”American know-how” thích làm theo ý mình. Do đó việc phối hợp giữa hai bên kém chặt  chẽ.
         Vì lệ thuộc vào vũ khí và chiến phí, khi Mỹ rút viện trợ thì QLVNCH phải thất trận. Không một quân đội nào ngoài các cường quốc kể cả quân các nước Cộng Sản nhỏ như CSVN có thể đứng vững khi bị ngưng viện trợ quân sự.
          Một vấn đề quan trọng về liên hệ giữa QLVNCH với quân lực Mỹ là những cố vấn quân sự cạnh các đơn vị VNCH. Trên thực tế, họ chỉ có các nhiệm vu liên lạc, yểâm trợ huấn luyện, hỏa lực và tiếp vận, kỹ thuật. Các cố vấn quân sự Mỹ không có quyền hạn gì trong các quyết định về quản trị nhân sự, chọn lựa tối hậu về kế hoạch hành quân.  Các sĩ quan cố vấn là lớp nguời Mỹ hiểu biết nhiều về Việt Nam và đã tạo được cảm  tình tốt từ phía người Việt. Công việc làm và tư cách của họ hoàn toàn khác hẳn người vai trò của nguời Pháp đối với QĐQGVN trước năm 1954. Tiếc rằng hình ảnh đẹp ấy đã không được giới truyền thông chuyển đến  quần chúng Mỹ.
          Cũng liên quan to lớn đến hình ảnh của Mỹ ở Việt Nam là vai trò của CIA. Từ khi CIA gia tăng hoạt động ở Việt Nam thì theo sau từ ngữ “CIA” là một chuỗi huyền thoại hay cũng như dở đã gắn sâu vào ký ức của nhiều người Việt Nam và dĩ nhiên đến tinh thần binh sĩ VNCH. Nói  đến CIA là nói đến những mưu mô gian trá và tàn nhẫn của người Mỹ, đánh đổ những tin tưởng vào các chính sách hào phóng, trọng công lý và tự do dân chủ của Hoa Kỳ.
b)  Phong trào phản chiến. Trong lúc QLVNCH đang chiến đấu, thì hoàn cảnh thế giới diễn tiến bất lợi cho chính quyền Mỹ. Phong trào chống Mỹ trên thế giới đồng loạt với phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ mượn Chiến Tranh Việt Nam, chế độ VNCH và QLVNCH làm đề tài cho những luận điệu xuyên tạc, thiên vị vu cáo nhằm công kích chính quyền Hoa Kỳ, biến QLVNCH thành con tốt thí cho những mưu đồ chính trị phe phái ở Mỹ.
c) Vai trò của khối công sản quốc tế.  Không nên quên rằng QLVNCH và lực lượng đồøng minh ở Việt Nam không phải chỉ chốùng lại  lực lượng CSVN mà phải đối phó với cả khối Cộng Sản quốc tế mà chủ yếu là Liên Xô và Trung Cộng. Hai nước này tích cực ủng hộ cuộc chiến tranh chiếm Miền Nam của CSVN dồi dào và bền bỉ cho đến khi Mỹ chịu thua trước.
2. Hoàn  Cảnh Đất Nước.

           a. Lãnh đạo.   Một yếu tố nội tại của đất nước Việt Nam gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho QLVNCH và cuộïc chiến đấu bảo vệ Miền Nam là Khủng Hoảng Lãnh Đạo. Chiến dịch thủ tiêu có hệ thống và có chọn lựa các nhân sĩ yêu nước không-cộng-sản và những thanh niên có tài đức bị cho là sẽ trở thành các lãnh tụ chống Cộng đáng kể sau này do đảng CSVN thực hiện đã có tác dụng rõ rệt trong Chiến Tranh Việt Nam. Lớp tuổi già dặn chỉ còn một ít nhân vật có uy tín và tài đức để lãnh đạo ở cấp quốc gia, không có nhiều để chọn lựa . Những người trong lớp tuổi trẻ hơn có thể đảm trách các trách vụ cấp cao trong chính quyền và quân đội càng ít hơn.
         
b.  Riêng trong QLVNCH, số sĩ quan cao cấp giữ các chức vụ chiến lược có đạo đức, uy tín, khả năng, lòng yêu nước và ý chí tranh đấu không nhiều. Đa số có thể có uy tín,  trong sạch nhưng rất ít người có lòng yêu nước đủ cuồng nhiệt để làm cho quân đội mạnh hơn, đủ ý chí và tài năng để lãnh đạo cuộc chiến tranh cam go chống lại cả khối Cộïng Sản.
          Giới lãnh đạo ngành hành chánh còn ở vào tình trạng khó khăn hơn. Một số chống cộng chỉ đơn giản vì cho rằng CSVN là một tổ chức phiến động, đã gây nguy hại cho bản thân và quyền lợi cá nhân họ mà thiếu hẳn lập trường tư tưởng vững chắc.
          c.  Lớp người trẻ có nhiều tài năng sẽ có thể là những nhà lãnh đạo xuất sắc trong tương lai không trưởng thành kịp với tốc độ biến chuyển của tình thế nên chưa thể đưa họ vào các chức vụ lãnh đạo cấp cao.
         d.  Trong hoàn cảnh như thế, các chế độ phải cử nhiều quân nhân sang nắm giữ các chức vụ hành chánh. Từ năm 1955, một số ít sĩ quan QLVNCH được chỉ định làm quận trưởng, tỉnh trưởng vì tình hình an ninh đặc biệt của các địa phương cần có sĩ quan cầm đầu để chỉ huy  các đơn vị quân sự dễ dàng. Sang giai đoạn 1961 và nhất là sau năm 1965 trở đi tất cả số tỉnh quận VNCH đều do các sĩ quan QLVNCH cầm quyền. Tình hình này giống như ở hầu hết các nước đang phát triển.
          Trong chế độ quân nhân cầm quyền  từ trên xuống dưới, VNCH đã đạt được những thành quả tốt nhưng nhất thời về an ninh trật tự, về phong cách làm việc. Tuy nhiên trong môït giới hạn nào đó, các quân nhân cầm quyền dễ tạo khe hở cho nạn tham nhũng lan rộng cũng như có thể tạo khuynh hướng quân phiệt.
          Do đó có thể đi đến một nhận định căn bản là tình trạng khủng hoảng nhân sự lãnh đạo của nước VNCH cũng như của QLVNCH là một trong những nguyên nhân chính tạo ra thất bại  sau cùng ngày 30/4/1975.
3) Hạn Chế  Về Tiềm Năng Chiến Tranh.

          Chính nghĩa của của Miền Nam là bảo vệ tự do, dân chủ cho VNCH nên không thể có những  chính sách mạnh bạo, cứng rắn đối với dân chúng như chính sách của CSVN đối với dân chúng của họ để yểm trợ quân đội. Thí dụ như VNCH  không thể hy sinh mạng sống và hạnh phúc của một số đông đảo  dân chúng để huy động hàng triệu dân công và số lượng thực phẩm lớn lao phục vụ quân đội như phe CSVN đã làm.
4) Hạn Chế về Kỷ Luật Chỉ Huy.

          QLVNCH cũng không thể áp đặt một hệ thống kiểâm soát và kỷ luật tàn bạo và giáo điều của một chủ nghĩa để buộc binh sĩ phải tuân lệnh  triệt để như quân đội CSVN vì quan điểm của quần chúng về dân chủ rất mạnh đòi hỏi con em họ được tôn trọng trong quân đội VNCH. Người lính VNCH cũng hiểu biết rõ về dân chủ và quyền hạn của họ nên không thể áp đặt lên đầu họ những biện pháp quá khe khắt.
5) Nhiệm Vụ Nặng Nề.
          QLVNCH phải đối phó với một cuộc chiến tranh gồm nhiều mặt trận ngoài mặt trận quân sự như tuyên vận, kinh tế, xã hội, văn hóa... từ ấp xã trở lên trong điều kiện nửa du kích, nửa trận địa. Cả 3 thứ quân (chủ lực, địa phương quân, nghĩa quân)  phải chiến đấu trên một chiến trường rộng lớn và đa dạng: phải vừa tìm và diệt địch và chống lại các cuộc tấn công của địch mà còn phải bảo vệ dân chúng, cơ sở kinh tế, kỹ thuật, giáo dục, văn hóa, y tế, xã hội, các trục giao thông... Hiếm thấy một quân đội nào trên thế giới phải gánh vác những nhiêïm vụ rộng lớn và nặng nề như thế.
6. Những Lực Lượng Hỗ Trợ QLVNCH

         Trong chiêán tranh, QLVNCH phối hợp chặt chẽ với nhiều lực lương bán quân sự và tình báo khác. Nếu không có sự phối hợp này thì QLVNCH không thể thành công trong phần nhiều các nhiệm vụ. Hai trong số đó là:
a) Cảnh Sát Quốc Gia.

          Chiến dịch Phượng Hoàng của Cảnh Sát VNCH với sự yểm trợ của CIA Hoa Kỳ đã thành công tốt đẹp, không phải bằng những cuộc tàn sát dã man như một số người có ác ý vu cáo.
Chiến dịch này đã phá vỡ đại đa số các cơ  sở hạ tầng của đảng CSVN tại Miền Nam vào năm 1971-1972, tạo một hậu phương tuơng đối yên ổn phía sau các chiến tuyến, hoạt động phá hoại quấy rối của du kích đượ c coi là không đáng kể. Nhưng đáng tiếc là QLVNCH không khai  thác được tối đa thuận lợi này trên các chiến  trường năm 1972.
b) Xây Dựng Nông Thôn

            Một chương trình quan trọng của chính phủ VNCH là Xây Dựng Nông Thôn mà tiền thân của nó là các chương trình Ấp Chiến Lược (1962-63) và Bình Định (1964-65).
Các đoàn XDNT có võ trang hoạt động khá hữu hiệu với sự yểm trợ của QLVNCH. Ngược lại các đoàn XDNT cũng góp phần giúp QLVNCH về mặt tình báo, tuyên vận. Đại đa số các ấp xã được coi là yên ổn vào năm 1972, đặt nền móng chính trị tạm ổn định đối với ít nhất là 60% dân số cho đến khi tình hình quân sự suy đồi sau Hiệp Định Paris 1973.
VII. THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
1. Lực Lượng CSVN.

         Lực lượng CSVN từ du kích đến chính quy cấp địa phương và cấp quốc gia đều được đặt dưới quyền sinh sát của Đảng CSVN. Đảng dùng chính sách ngu dân để nhồi sọ binh sĩï về tư tưởng một cách tinh vi và áp dụng những hình thức kỷ luật áp chế tâm lý để buộc binh sĩ phải hành động máy móc. Quân sĩ CSVN được ăn no gấp rưỡi nông dân nhưng sức khỏe và tính mạng họ bị coi thường. Tản thương và cứu thương không được hưởng ưu tiên. Quân trang, đồ dùng hầu như rất ít ỏi để bảo đảm tính lưu động cao. Đời sống gia đình của binh sĩ gần  như không có. Do đó quân đội CSVN có khả năng tác chiến với lưu động tính cao mặc dù rất đói rách.
        Kẻ địch của VNCH áp dụng một thứ vũ khí lợi hại hơn bất cứ  thứ bom đạn nào để kiểm soát và vận động quần chúng: đó là khủng bố kết hợp với tuyên truyền (xem phần nói về CTTL).
         Về biện pháp khủng bố, quân chính quy VNCH không có khả năng ngăn chận vì đó là công việc an ninh lãnh thổ do các viên chức xã ấp, quận huyện chịu trách nhiệm. Nhưng chỉ với một khẩu súng, một tên cán bộ an ninh có thể khống chế chặt chẽ một ấp 500 dân trong vùng chúng kiểm soát ban đêm, buộc họ nộp lương thực, đóng thuế, đi dân công, đi biểu tình... 
         Lực lượng CSVN có sức mạnh lớn nhất là nguồn nhân lực. Ở Miền Bắc, đảng ủy xã và hệ thống hộ khẩu và lương thực khe khắt đến từng 10 gram gạo là sức mạnh cưỡng bách hàng triệu thanh niên vào Nam chiến đấu, xây dựng các tuyến đường tiếp vận kỳ diệu bằng sinh mạng hàng trăm ngàn thanh thiếu niên, điều mà không chính phủ nào ở Miền Nam dám làm dù có thể làm được.
          Chế độ CSVN không tiếc sinh mạng quân lính của họ để đạt những mục tiêu dù lớn hay nhỏ. Họ thường chấp nhận  tổn thất sinh mạng trên 5 lần, có khi đến 10 lần so với phe địch để chiếm cứ mục tiêu. Khó có thể chỉ dùng hỏa lực quy ước mà hy vọng làm tiêu hao nguồn nhân lực của phe CSVN được dùng không thương tiếc và không giới hạn như thế.
2. Truyền Thông Thù Nghịch.

          QLVNCH phải đối phó với một lực lượng thù địch ở ngay bên cạïnh mình mà không thể phản công được. Đó là một số người trong giới truyền thông có định kiến thù nghịch với Mỹ và VNCH. Họ chỉ thấy và loan tin về sự xấu của phía bên này và luôn luôn ca tụng mọi điều mặc dù họ không thấy và không hề biết nhiều về phía bên kia. Lực lượng thù địch này là lực lượng chính công khai đánh bại QLVNCH mà không bị ngăn chận hoặc tiêu diệt.
          Trong nhiều trận đánh, CSVN tổn thất cực kỳ nặng nề,  QLVNCH chiếùn thắng lớn mà tin tức trung thực không được quần chúng biết đến. Nhưng sự thực đã bị bưng bít và dối  trá đã được thổi phồng khiến nhân dân Mỹ thất vọng quay sang chủ bại và khuyếùn khích phong trào phản chiến dâng lên cao độ.
          Một trong những lý do gây ra  tình trạng thông tin không đầy đủ và thiên vị này là vì đa số các phóng viên không biết tiếng Việt Nam nên chỉ đến với quân đội  Mỹ và loan tin về lính Mỹ và người Mỹ chỉ đón xem các phóng sự về lính Mỹ mà thôi. Họ cũng ít  biết về nguồn gốc lịch sử cuộc tranh chấp quốc-cộng nên dễ bị đầu độc và lừa dối.
VIII.NHỮNG  KHIẾM KHUYẾT.

1. Sai Lầm Trong chính Sách Chiến Tranh

          Hoa Kỳ và VNCH phạm phải sai lầm chiến lượïc ở hai mặt trận quan trọng nhất. Phần này bàn về mặt quân sự. Phần về  mặt trận tuyên truyền và vận động dư luận sẽ được nói đến tại mục X
          Trong khi phe CSVN coi chính trị là phuơng tiện chính chỉ đạo cho các kế hoạch của quân đội, phe VNCH và Hoa Kỳ lại  coi phương tiện quân sự là chủ yếu và dành cho các mặt trận khác ưu tiên rất thấp. Các bộ phận lãnh đạo chiến tranh giải quyết  chiến trường bằng hỏa lực pháo binh và không quân là chính.  Đôi khi việc sử dụng hỏa lực pháo binh và không quân thiếu cân nhắc đã gây những thiệt hại lớn có thể tránh được cho thường dân, tạo ra bất mãn khó hàn gắn.
          Sức mạnh hỏa lực chỉ hữu hiệu tối đa ở các chiến trường quy ước. Ở Việt Nam, kẻ địch của VNCH và Mỹ không hề quan tâm đến số thương vong lớn lao của binh sĩ, miễn là đạt được mục tiêu đã định.  Họ cũng không quan tâm đến sự gian khổ của quân sĩ, chỉ trang bị cho binh sĩ thật ít ỏi, nhẹ nhàng để di chuyển mau lẹ. Khả năng phân tán rộng và nhanh khi bị phản  công đã làm cho sức mạnh hỏa lực của VNCH và Hoa Kỳ giảm nhiều hiệïu lực.
2. Phân Nhiệm các Lực Lượng

          Các đơn vị chủ lực QLVNCH được tổ chức nhằm mục đích chiến tranh quy ước, và không thể xé nát để đối phó với chiến  tranh du kích. Trận chiến sau cùng bao giờ cũng là các cuộc điều động trân địa chiến. Nhiệm vụ chống du kich đang lẽ là do Địa Phương Quân và Nghiõa Quân đảm nhiệm đã không thực hiện được đầy đủ. Các cấp hữu trách về quân sự có khuynh hướng chính quy hóa các đơn vị ĐPQ. Nhu cầu chống du kích khủng bố đòi hỏi đơn vị an  ninh diện địa  phải phân tán mỏng và lưu động cao nhưng nếu làm như vậy cấp chỉ huy từ đại đội trở xuống sẽ rất vất vả. Các binh sĩ thường ưa đi hành quân với số đông đồng đội vì họ có cảm giác an toàn hơn.
  3. Sử Dụng Binh Lực.
          Một sai lầm khác là dùng quân phí phạm. Vào lúc chiến tranh chưa lan rộng, nhiều khi chỉ có một tiểu đội du kích xuất hiện ở xa, cả một đại đội hoặc một tiểu đoàn đã được dùng để truy lùng dù biết rằng vô hiêu. Binh sĩ hành quân liên miên, ít được nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Vào thời kỳ chiến tranh lên cao, vì lo lắng giữ lãnh thổ nên quân lực được trải ra quá mỏng. Quân sĩ ta dễ bị quấy rối và dễ rơi vào thế bị động. Do đó khả năng lưu động kém nên mức độ an ninh lãnh thổ thấp. Trong những năm sau cùng, lực lượng tổng trừ bị cũng bị cầm chân khá nhiều vào nhiệm vụ diện địa. Quân đội không có một lực lượng trừ bị hùng hậu mà bất cứ lực lượng võ trang nào cũng cần phải có.
4.  Chống Du Kích.

          Ngay từ những ngày đầu cuộc chiến nhất là từ 1959, nhiều cấp chỉ huy QLVNCH vẫn ưa dùng các chiến thuật hành quân trận địa mà quân đội Pháp và nhiều nước có chiến tranh thông thường áp dụng. Để đối phó với các hoạt động du kích các cấp chỉ huy quân sự chỉ phản ứng thụ động bằng các chiến thuật xưa cũ. Nhiều đơn vị và địa phương có sáng kiến phản du kích rất hữu hiệu nhưng chỉ được áp dung cucï  bộ, không đuợc phổ biến và đồng nhất hóa một cách có hệ thống trong toàn quân.
          Tuy gặp khó khăn trong giai đoạn đầu của chiến tranh khi phải đối phó với du kích chiến, các đơn vị từ cấp sư đoàn trở xuống của QLVNCH tỏ ra hữu hiệu khi phải giao tranh với kẻ địch trong trận địa chiến. Các cuộc tấn công và phòng thủ chống lại lực lượng địch đông đảo gấp 4 đến 5 lần (như mùa hè năm 1972 tại Quân Khu I), các đơn vị VNCH đã áp dụng các chiến thuật quy ước với thành quả khá cao. Mức độ phối hợp pháo binh, thiết giáp và bộ binh khá chặt chẽ trong khi địch tỏ ra lúng túng trong việc điều động các đơn vị hỗn hợp thiết giáp với bộ binh như tại mặt trận Đông Hà và An Lộc năm 1972.
5. Tình Báo.

          Hệ thống tình báo của QLVNCH cũng như của VNCH không có sức mạnh tích cực. Tuy
có nhiều thành công chiến thuật nhưng yếu về mang lưới chiến lược, không có dấu hiệu xâm nhập được nhiều vào các bộ phận quân  sự trọng yếu của địch.
          Ngành phản tình báo cũng tỏ ra hữu hiệu nhưng không đủ để phá tan được các ổ nội tuyến cấp cao. CSVN đã gài  được nhiều nội tuyến và gián điệp trong hàng ngũ QLVNCH.
6. Hoạt Động Đặc Biệt: Tình Báo Vùng Hậu Tuyến Địch,

          Các trại LLDB Biên Phòng và các đơn vị Dân Sự  Chiến Đấu đã đóng một vai trò đáng kể trong việc huấn luyện cho các toán Thanh Niên Chiến Đấu (sau là Nghĩa Quân) ở các ấp xã vùng ven biên nhưng chỉ thành công có giới hạn trong việc phát giác và ngăn chận địch xâm nhập vì vùng biên giới với Lào và Cam Bốt quá rộng lớn.
          Tuy nhiên các cuộc hành quân xâm nhập hậu tuyến địch của các toán viễn thám và các toán biệt  cách thuộc Nha Kỹ Thuật cũng như các toán hỗn hợp Việt-Mỹ Study and Observation Group đã đạt nhiều thắng lợi mà dư luận báo chí ít biết tới. Riêng các toán xâm nhập Bắc Việt trong kế hoạch OPLAN 34-A tỏ ra vô cùng xuất sắc và anh dũng trên đất địch. Nhưng kế hoạch này chỉ thành công giới hạn vì mục  tiêu, phương thức và kỹ thuật do kế hoạch đặt ra không thích hợp mặc dù các chiến sĩ tham dự là những phần tử chọn lọc, ưu tú và can đảm nhất của quân đội. Một số hàng trăm chiến sĩ can trường này bị bỏ rơi, coi như đã chết  trong khi họ bị giam trong các trại tù ở Bắc Việt hơn 20 năm trời mà vẫn giữ vững tinh thần cho đến khi chính phủ Mỹ không thể tránh né trách nhiệm nên phải nhận cho họ sang định cư và trả trợ cấp cho họ.
7. Quản Trị Quân Lực

          QLVNCH không có một hệ thống bổ nhiệm và sử dụng nhân sự hữu hiệu. Hàng ngũ hạ sĩ quan không được quan tâm để củng cố thành cột xương sống  của quân đội như trong các quân lực Anh Pháp Mỹ. Việc bổ dụng sĩ quan nhiều chỗ không hợp lý và không có quy luật vững chắc. Việc luân chuyển để đa năng hóa cán bộ không đuợc thực hiện đứng đắn.
          Hệ thống thăng thưởng không hợp lý. Huy chương bị mất giá trị vì được cấp bừa bãi. Điều này khiến cho cấp bậc được dùng để tưởng thưởng công trạng thay cho huy chương. Lẫn lộn tai hại  giữa công trạng và khả năng gây ra hậu quả  đáng tiếc cho uy tín của cấp bậc và khiến cho cuộc ganh đua để tiến thân của cán bộ trong quân đội không còn giữ y nguyên tính chất của một cuộc thi đua công bình nữa.
          QLVNCH áp dụng nhiều quy tắc quản trị quân lực của Hoa Kỳ nhưng không chịu mô phỏng theo khung tổ chức và điều hành guồng máy quân pháp của Mỹ như tổ chức các toà quân sự “judge advocate” từ cấp tiểu đoàn (summary court-matial) trở lên. Trái lại các cấp lãnh đạo vẫn duy trì hệ thống phạt theo quyết định đơn phương của cấp chỉ huy từ “cấm trại” đến “phạt giam” (8 đến 60 ngày  tù). Trên mức này mới ra tòa án quân sự. Hệ thống này là của Quân Đội Pháp để lại, tỏ ra không còn thích hợp với QLVNCH.
IX. NHỮNG ƯU THẾ CỦA QLVNCH
         1.  Về tổ chức, QLVNCH có một hệ thống liên kết rất chặt chẽ và khoa học từ trên xuống dưới và có trật tự chỉ huy. QLVNCH lại được trang bị những loại vũ khí tối tân nhất nhì thế giới và một hệ thống tiếp vận  đa dạng và hữu hiệu.


         2.   QLVNCH có một  hệ thống huấn luyện hiệu quả cao với các trường đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan, thiếu sinh quân và nhiều trung tâm huấn luyện binh sĩ và chuyên môn.
                  
                 
Tuy nhiên, công cuộc huấn luyện về kỹ thuật các ngành thành công hơn là về những chiến thuật chống du kích đặc biệt cho chiến trường Việt Nam.


          3.   Về  kỹ thuật quân  sự, Pháo Binh QLVNCH có trình độ kỹ thuật tác xạ khá cao. Nhiều đơn vị Mỹ đã chọn pháo binh VNCH yểm trợ thay vì pháo binh Mỹ trong các cuộc hành quân hỗn hợp. Các ngành Quân Cụ, Công Binh và Truyền Tin có nhiều thành tích cao về mặt yểm  trợ  kỹ thuật.

4.  QLVNCH có truyền  thống kỷ luật trong diễn tập. Các cuộc phi diễn của Không Lực được coi là xuất sắc nhất Á Châu. Trong nhiều cuộc diễn hành lớn, các đơn vị bộ binh đang chiến đấu diễn hành với kỹ luật hàng ngũ và đẹp không thua bất cứ đội quân nào trên thế giới.
            5.   Các sĩ quan và hạ sĩ quan trong QLVNCH hầu hết có trình độ học vấn văn hóa cao. Nhờ thế mà các tội phạm do các binh sĩ vô kỷ luật gây ra bị hạn chế rất nhiều. Tuy nhiên đây cũng là một yếu điểm so với phe CSVN. Quân đội CSVN tổ chức hàng ngũ sĩ quan cấp thấp gồm các phần tử ít học nhưng cực kỳ trung thành với đảng nên dễ tuân lệnh một cách máy móc và mù quáng, kiên trì chiến đấu và rất cứng rắn đối với thuộc cấp.
X. MẶT TRẬN TUYÊN TRUYỀN VẬN ĐỘNG
          Cho đến nay, rất ít người đánh giá đúng sức mạnh và tác dụng của mặt trận chiến tranh tâm lý trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
         Trong cuộc chiến tranh này, người lính và người dân Việt Nam là mục tiêu chính, là chủ thể chính của mọi hành vi chiến tranh và chính trị. Ngoài những đặc điểm chung của con người, người Việt Nam còn có những đặc điểm tâm lý riêng khiến họ  phản ứng khác biệt đối với cùng một  tác động tâm lý.
1.  Nỗ Lực Chủ Động của CSBV.

          Nỗ lực tuyên truyền và vận động dư luận của lực lượng CSVN nhằm bôi nhọ QLVNCH và Mỹ giữ vai trò tích cực và ưu tiên hàng đầu. Không bao giờ họ bỏ lỡ một cơ hội để khoe khoang về quân đội của họ và nói xấu kể cả vu cáo đối phương. HọÏ đã thành công trong nhiều mưu chước lừa dối dư luận.
          CSBV được cả khối Cộng Sản  quốc tế yểm trợ mạnh mẽ về mặt tuyên truyền, báo chí không kém yểm trợ về quân sự. Số sách báo ngoại ngữ để tuyên truyền của Hà Nội phát hành tại các nước ngoài nhiều gấp hàng trăm lần của VNCH. Có thể nói chế độ CSBV đã “buộc dân nhịn ăn để đảng nói dóc.”
2.  Sự Thụ Động của VNCH và Hoa Kỳ.         
       
         Trái lại, các cấp lãnh đạo chiến tranh ở Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn vốn không coi trọng tác động tâm lý nên thường mắc vào  những sai lầm và thiếu sót nghiêm trọng trong mặt trận tuyên vận. Nhiều người coi các chiến thuật tuyên vận là những biện pháp phụ thuộc sau khi đã hành quân xong, có rảnh thì làm. Phương cách chủ yếu vẫn chỉ là những việc rải truyền đơn, phóng thanh, những chuyến khám bệnh phát thuốc, trình diễn văn nghệ, xây dựng các trạm y tế, trường học, phát quà bánh tạêng vật... Quan nịệm chủ yếu đáng lẽ phải coi công tác CTTL là nhiệm vụ của mỗi người lính, thực hiện bằng nụ cười, cái bắt tay thân thiện... và vận dụng mọi cơ hội để tranh thủ “con tim và khối óc”   của từng người dân, người lính, kẻ thù và dư luận. CTTL đáng lẽ phải được coi là nghệ thuật, không phải chỉ là kỹ thuật.
3.  Khai Thác Thắng Lợi         
        
          Phe VNCH và Mỹ không nói lên được những điều tốt về quân đội  của mình trong khi Hoa Kỳ là nơi kỹ nghệ quảng cáo dẫn đầu thế giới. Thí dụ nổi bật là chỉ vì không  quảng bá đầy  đủ tin tức mà chiến thắùng vĩ đại nhất, Tết Mâu Thân 1968, bị dư luận cho là QLVNCH và Mỹø đại bại.
          Thắng lợi quan trọng nhất của QLVNCH và đồng minh năm 1968 lại là trên mặt  trận TLC, hơn hẳn mặt trận quân sự. Trước 1968, một số đông dân chúng Huế có lập trường phản chiến, chống chính phủ Sài Gòn. Sau Tết Mậu Thân 1968, đại đa  số dân chúng khắp nơi nhất là ở Huế, đặc biệt là giới thanh thiếu niên đã quay hẳn sang phía VNCH tạo ưu thế tâm lý cho QLVNCH. Không có quần chúng nổi dậy ở bất cứ nơi nào như các lãnh tụ CSVN tin tưởng. Thế mà Mỹ và VNCH đã không thể nói lên cho thế giới bên ngoài biết rõ sự kiện rất quan trọng này.
          Một thí dụ nhỏ cho thấy các chiến lược gia Mỹ không uớc tính được yếu tố  tinh thần của binh sĩ VNCH.   Có những dấu hiệu cho thấy cấp lãnh đạo chiến tranh ở Hoa Kỳ không có dự liệu được những tác động từ kế hoacïh Việt Nam Hóa, thí dụ như trang bị vũ khí cho QLVNCH. Vào năm 1964 và 1965, quân CSVN đã được trang bị súng AK-47 có khả năng áp đảo vũ khí của QLVNCH như súng trường Garand M-1, Carbine và Thompson khiến nhiều binh sĩ VNCH mất tinh thần. Mãi đến năm 1969, Mỹ mới trang bị súng M-16A1 cho toàn thể QLVNCH. Chậm chạp, so đo, tiếc của trong “Cách Cho” làm giảm phần nào giá trị cao quý mà “của cho” mang lại.
4. Nỗ Lực Từ Phía Hoa Kỳ.

          Quân Đội Mỹ đã có những nỗ lực chiến thuật đáng kể về mặt trận CTTL. MACV có nhiều tiểu đoàn Tâm Lý Chiến/Dân Sự Vụ yểm trợ các phi cơ phóng thanh và rải truyền đơn, các toán Quân Y Dân Sự Vụ  kết hợp với  TLC/DSV của Việt Nam.
Kết quả ở mứùc trung bình. Mãi đến sau khi VNCH sụp đổ, tác dụng chậm của những hoạt động này mới ngấm sâu trong tâm tư của nhiều người dân Miền Nam.
          Phòng Thông Tin Mỹ có những cố gắng và kỹ thuật hữu hiệu trong mặt trận tuyên vận chung nhưng không được dành cho ưu tiên yểm trợ nên khả năng ấy bị giới hạn.
          Phía Mỹ cũng có nỗ lực giúp QLVNCH phản tuyên truyền  chống lại chế độ CSVN như xâm nhập  vùng biển Bắc Việt làm công tác tuyên vận, lập đài phát thanh mạnh Tiếng Nói Tự Do hướng về dân chúng Miền Bắc (có kết quả tốt) và các đài phát thanh “tuyên truyền xám” khác. Tuy nhiên đây chỉ là những nỗ lực kém ưu tiên với kỹ thuật tuyên truyền không đủ tinh vi.  Đáng lẽ phía VNCH và Mỹ phải có nỗ lực thật lớn để dư luận thấùy rõ bản chất của chế độ CSVN tại Bắc Việt và nhất là mặt trái của guồng máy chiến tranh  của bộ đội CSBV. Các cấp lãnh đạo chiến tranh có lẽ đã không nghĩ rằng trong tuyên truyền cũng như trong quân sự, “tấn công là biện pháp phòng thủ hữu hiệu nhất.”
5. Nỗ Lực từ Phía Việt Nam.
          Ngay từ ngày thành lập, chính quyền VNCH và QLVNCH đãõ có nhiều cố gắng cải tiến trận chiến tư tuởng. Từ một cơ quan Chiến Tranh Tâm Lý nhỏ bé trước năm 1954 đến một tổ chức rất lớn là Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị từ năm 1965, hoạt động tuyên vận sâu rộng hơn trước. Ngành này đạt được kết quả tốt trong việc xây dựng tư tưởng cho quân sĩ, vận động dân chúng ủng hộ binh sĩ và cuộc chiến đâú bảo vệ Miền Nam Tự Do, giúp đỡ dân chúng về văn hóa giáo dục, xã hội, y tế...
          Đối với địch, quân đội tiếp tay tích cực với chương trình Chiêu Hồi của chính phủ VNCH, được Hồng Thập Tự quốc tế ca ngợi về thành tích bảo vệ săn sóc tù binh.
          Kết quả là quân đội đã gây được phần nào lòng tin tuởng của quần chúng, so với thời kỳ trước năm 1954, dân chúng hợp tác với quân đội tích cực hơn nhiều. Số thanh niên tình nguyện nhập ngũ luôn luôn cao, đặc biệt tăng vọt trong các thời điểm sôi động như Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè 1972...
         Con số binh sĩ CSVN hưởng ứng chính sách Chiêu Hồi lên rất cao từ năm 1966, tổng cộng trên 160.000 người. Một số đông đảo cựu binh sĩ CSVN nói trên tình nguyện nhập ngũ QLVNCH và chiến đấu rất can trường.
XI. MŨI DÙI CHỈ TRÍCH
          Các cố gắng bôi nhọ QLVNCH và đồng minh được bộ máy tuyên truyền của  CS  và thái độ ác ý của báo giới phản chiến được tập trung vào các đề tài sau đây:
1. Tham Nhũng.
          Tham nhũng là căn bẹânh của mọi chính quyền, mọi quốc gia nhưng ở VNCH nó bị khai thác sâu rộng nhất với ác ý chống lại VNCH và QLVNCH.                                        
          Nạn tham nhũng từ trước năm 1954 để lại nhưng dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm các vụ tham nhũng bị hạn chế phần nào. Sau đó đến thời kỳ quân nhân cầm đầu chính quyền các cấp, nạn tham nhũng càng ngày càng trầm trọng. Chiến tranh mở rộng từ năm 1965 lại càng tạo thêm thuận lợi cho các vụ nhận hối lộ mua bán chức vụ, trốn quân dịch, bớùt xén các loại ngân khoản, bán vật dụng của quân đội...
          Nạn tham nhũng bị báo chí Mỹ và nước ngoài phóng đại quá đáng và không chính xác. Thí dụ nạn “lính ma” mà họ thường nói đến. Lối ăn cắp công  quỹ kiểu này không được ưa chuộng vì dễ bị khám phá vì có nhiều cách ăn cắp khác dễ làm và khó điều tra hơn.
          Một quan niệm được không ít các nhà lãnh đạo VNCH chấp nhận và cũng được một số nhân vật Mỹ trong vai trò yểm trợ tán đồng. Đó là chấp nhận cho các sĩ quan viên chức tham nhũng có mức độ nếu họ làm việc hăng hái tích cực và hữu hiệu. Kinh nghiệm cho thấy quan điểm này sai lầm nghiêm trọng. Kẻ ăn cắp của công không bao giờ chịu dừng lại ở một giới hạn nào cả.
          So với nạn tham nhũng hiện diễn ra tại Việt Nam, thì tham nhũng ở VNCH nhất là trong QLVNCH chỉ là các con số bé nhỏ hơn ít nhất hàng chục lần. Tuy nhiên vào thời chiến trước một kẻ thù giỏi tuyên truyền bịa đặt và vu cáo và báo chí bên ngoài thiên vị, có định kiến thì mức độ tham nhũng ấy tuy nhỏ nhưng cũng đủ gây tai hại nghiêm trọng.
2. Tội Ác Chiến Tranh.    
    
          Phe Cộng Sản đã thành công khi vẽ ra trước mắt thế giới và đặc biệt là trước nhân dân của họ những hình ảnh ghê rợn về Chiến Tranh Việt Nam trong đó lính Mỹ và VNCH thường xuyên giết chóc, hãm hiếp, tra tấn hàng trăm người một lúc một cách tự do không bị trừng phạt.
          Dân chúng dưới quyền cai trị của CSVN chưa hề biết rõ sự thực dễ dàng tin theo những luận điệu vu cáo này vì họ đã từng chứng kiến quân đội Pháp hành động như thế trước năm 1954. CSVN dựa vào những sự kiện có thật nhưng ít ỏi để làm cho dân chúng nghe tuyên truyền tuởng như đó là tội ác thường xuyên lính VNCH và Mỹ. Vì vậy CSVN dễ gieo căm thù vào đầu óc quần  chúng dưới tay họ.
          Bất cứ một quân đội nào cũng có thể có những vụ phạm tội như thế nhất là trong thời chiến. Các đơn vị QLVNCH không thể ngăn chận hoàn toàn các tội phạm chiến tranh. Đã có những vụ vi phạm như  cướp bóc tài sản của dân chúng, những vụ tra tấn, giết người nhất là giết tù binh bừa bãi và những vụ hãm hiếp phụ nữ trong vùng hành quân. Tất cả là do các hành vi cá nhân lẻ tẻ xảy ra tại những vùng xa xôi và khi các cá nhân này ở ngoài tầm kiểm soát của các đơn vị trưởng cấp thấp. Tuy nhiên con số những vụ phạm pháp này rất thấp so với các cuộc chiến tranh khác trên thế giới. Hầu hết các thủ phạm đều bị truy tố và kết án.
          Một thí dụ khác là công chúng Mỹ biết rất rõ vụ Mỹ Lai với 500 nạn nhân (theo sách báo của CSVN) mà biết rất ít về vụ CSVN tàn sát trên 5,000 người ở Huế tháng 2 năm 1968.  Hoặc như các vụ rất hiếm hoi binh sĩ Mỹ và VNCH phạm tội ác chiến tranh được đăng báo nhưng khi tòa quân sự tuyên án nặng nề thì ít khi được các báo chí loan tin.
           Nhưng thực tế cho thấy chắc chắn là QLVNCH chưa hề gây ra những vụ tàn sát hàng trăm hàng ngàn nạn nhân như vậy.
           Đối với tù binh, QLVNCH đối xử tương đối  khá tử tế, được các bộ phận giám sát của Hồng Thập Tự Quốc Tế công nhận. Ngoài những vụ ngược đãi cá biệt, đời sống tù binh được bảo đảm  đúng theo Công Ước Geneva 1949. Vào lúc tiền ăn một ngày của binh sĩ VNCH là 88 đồng thì tiền ăn của tù binh là 100 đồng (năm 1969).
3. Tinh Thần Chiến Đấu Thấp.               
    
      Để chứng tỏ rằng lính VNCH không chịu chiến đấu cho tự do của Miền Nam, một số báo chí ngoại quốc có ác ý chỉ khai thác những tin tức va øhình ảnh xấu  về những hành động cá nhân ươn hèn chạy trốn, bỏ hàng ngũ khi giáp chiến, như bám càng trực thăng để thoát thân khỏi vùng giao tranh. Nhưng hầu như không mấy nhà báo này được - hoặc muốn - sinh hoạt nhiều ngày tháng với các đơn vị VNCH để  thấy rõ sức chịu đựng gian khổ, tinh thần hy sinh và các hành vi  anh hùng của  tuyệt đại đa số binh sĩ VNCH.
          Một trong những lời chỉ trích vì tin tức không đầy đủ là về nạn đào ngũ trong QLVNCH. Quả thực vì đời sống quá vất vả gian nguy khiến con số binh sĩ đào ngũ lên khá cao. Theo một vài thống kê tổng số lính VNCH đào ngũ có thể lên tới 700.000  người trong 20 năm chiến  tranh.
          Tuy nhiên, đại đa số lính đào ngũ này đều trở lại đơn vị cũ hoặc tình nguyện vào đơn vị khác sau một vài tháng lẩn trốn để gần gia đình hoặc nghỉ ngơi. Số binh sĩ thực sự đào ngũ không quay lại chỉ ở một con số rất thấp, có lẽ không cao hơn so với QĐ Mỹ nhiều lắm. Đăïc biệt là số đào ngũ sang phục vụ hàng ngũ địch còn hiếm hoi hơn. Các nhà báo và các nhà nghiên cứu  ít ai biết hoặc quan tâm đến các sự kiện này.
XII. TRẬN CUỐI CÙNG.
         Trong mọi cuộc chiến tranh, trận cuối cùng thường là trận quyết định. Trận đánh cuối cùng của Chiến Tranh Việt Nam cho thấy kẻ thắng chỉ hơn kẻ thua ở mức độ kiên nhẫn và chịu đựng của thế lực yểm trợ từ bên ngoài.
          Vào khoảng thời gian từ 1974 đến tháng 3 năm 1975 khi CSVN mở đầu chiến dịch tổng tấn công, viện trợ đạn dược và quân dụng tác chiến thiếu trầm trọng,  các máy truyền tin ở cấp đại đội và tiểu đoàn chỉ dùng đuợc 10 ngày mỗi tháng. Cung suất đạn đại bác chỉ còn 3 viên/khẩu/ngày. Các đơn vị QLVNCH mỗi ngày thêm mất tinh thần nhưng vẫn chiến đấu bền  bỉ.
           Sau khi Phước Long bị CSVN đánh chiếm bất chấp Hiệp Định Paris mà Hoa Kỳ không có phản ứng thì không còn cách gì duy trì được lòng tin của binh sĩ nữa. Vậy mà đến phút chót, nhiều đơn vị vẫn còn chiến đấu tiếp tục.
          Cùng lúc ấy, lực lượng CSVN cũng đã suy yếu trầm trọng. Trong nỗ lực gần như cuối cùng, các đoàn quân CSVN tiến vào Sài Gòn ngày 30/4/1975 mỗi tiểu đoàn chỉ còn trên 100 binh sĩ tuy rằng số lượïng đơn vị tham chiến rất lớn (hàng chục sư đoàn). 
Tại nhiều tỉnh, quận đồng bằng sông Cửu Long hai  ngày sau khi Sài Gòn đầu hàng, lực lượng CSVN vẫn chưa có đủ cán bộ và du kích vào tiếp nhận các cơ sở quân sự và dân sự,
          Có thể nói chắc rằng nếu quân lực CSVN bị Bắc Kinh và Mạc Tư  Khoa giảm viện trợ tương tự như Mỹ cắt giảm sự ủng hộ và quân viện cho QLVNCH thì chế độ CSVN cũng không thể làm gì khác hơn là chịu hòa hay thua.
XIII. HAI MƯƠI NĂM QLVNCH
      Một câu hỏi không thấy mấy nhà báo hay các nhà nghiên cứu đặt ra về QLVNCH là quân lực này đã ảnh hưởng như thế nào đến xã hội Việt Nam khi còn hiện hữu cũng như sau khi bại trận và giải thể.
          QLVNCH là một bộ máy quân sự, nhưng đã đóng góp trực tiếp và gián tiếp khá nhiều cho đời sống của nhân dân Miền Nam Việt Nam.
a.  Về mặt văn hóa, các bộ phận ngành Chiến Tranh Chính Trị, Tâm Lý Chiến với sự đóng góp của nhiều tư nhân đã tiếp tay hữu hiệu vào việc phát triển văn hóa tư tưởng. Hội viên các hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội đã góp phần quan trọng vào lãnh vực này với nhiều tác phẩm văn chương, khảo cứu, hội họa, điêu khắc có giá trị lâu dài. Đặc biệt là về sinh hoạt âm nhạc, các nhạc trưởng, nhạc sư, ca nhạc sĩ quân đội  đã đóng góp một số lượng lớn các tác phẩm ca nhạc
bất hủ nhất là các ca khúc thuần túy nghệ thuật ngoài các nhạc khúc phục vụ mục đích cổ võ tinh thần dân chúng và binh sĩ. Các ban nhạc và ca đoàn ngành CTCT đã đào tạo nhiều ca sĩ có tiếng cho Miền Nam.
b.  Về mặt giáo dục và khoa học kỹ thuật,  con số đông đảo các  giáo sư nguyên là sĩ quan QLVNCH biệt phái đã đem vào ngành giáo dục phần nào những phong cách tiến bộ và thích hợp khiến nền giáo dục có không khí phóng khoáng hơn. Riêng về khoa học kỹ thuật, các quân binh chủng QLVNCH đã đào tạo nhiều chuyên viên ưu tú các ngành y dược, cơ khí, điện lực, viễn thông, kiến trúc, hàng không, hàng hải...
          Trong hơn 20 năm tồn tại, QLVNCH đã cùng với các cơ sở nghiên cứu và giáo dục khoa học kỹ thuật phiên dịch sang tiếng Việt hầu  hết các sách vở, tài liệu, các thuật ngữ khoa học kỹ thuật từ tiêng Anh, khiến công việc
các cựu quân nhân VNCH đã có gần 400 ngàn là chuyên viên trẻ cao cấp.
Những thành tựu khoa học kỹ thuật của Miền Nam nói trên đến nay vẫn còn co' tác dụng tốt cho nước Việt Nam mà chế độ CSVN đang thừa hưởng với trìnđộ giáao dục khoa học kỹ thuật cao không thua kém các nước phát triển ở Tây Phương bao nhiêu
c. Về mặt xã hội, chiến tranh đã khiến một số đông đảo thanh niên phục vụ quân đội trong đó có một phần khá lớn thanh niên trí thức.  Ở một mặt, số thanh niên trí thức vào quân đội qua các quân trường trừ bị và hiện dịch đem lại cho quân đội một bộ mặt mới, tác phong mới, ý chí mới.
 Ở một mặt khác,  những con người lính trẻ đã làm cho gia đình và bạn bè của ho chịu ảnh hưởng và gần gũi nhiều hơn với quân đội và chiến tranh. Tâm tình người lính và những người yêu thương của họ đã là đề tài cho nhiều tác phẩm văn, thơ, nhạc kịch có giá trị còn mãi trong dân gian.
XIV. THÊM MỘT LẦN GIAN KHỔ HY SINH
          Sau khi thắng, CSVN đã đối xử với cựu chiến binh QLVNCH một cách hèn hạ, tìm cách trả thù gián tiếp bằng tù đầy, ngăn cản con cái họ lên đại học, đầy đọa đến những nơi rừng thiêng nước độc. Chính vì thế
mà lòng căm phẫn của họ đối với CSVN cao hơn trong chiến tranh gấp nhiều lần. Họ đã hy sinh nhiều trong chiến tranh, nhưng sau chiến tranh họ phải
chịu hy sinh một lần nữa trong tù đầy cho chính nghĩa của TỰ DO   Ngày nay đa số sĩ quan QLVNCH cũ đã được định cư ở nước ngoài. Họ có quyền hãnh diện đã đóng góp cho các nước này một khối chất xám của các thế hệ con cháu họ. Được biết trong số hơn 2 triệu người Việt Nam tị nạn trođó một số lớn là thuộc gia đình các cựu quân nhân VNCH đã có gần 400 ngàn là chuyên viên trẻ cao cấp.
XV. CHÍNH  NGHĨA ĐƯỢC CHỨNG MINH.
Nếu có ai hỏi QLVNCH đã làm gì cho tổ quốc của họ, câu trả lời sẽ là “Họ đã làm được nhiều điều cho đất nước và dân tộc họ, tốt nhiều hơn xấu.” Họ đã hy sinh  xương máu lớn lao
để giữ cho một nửa đất nước được sống hơn 20 năm trong tự do dân chủ; dù còn hạn chế cùng với một số bất công xã hội, nhưng hơn hẳn Miền Bắc duới chế độ Cộng Sản hàng trăm lần. Đó là một giá
khá đắt nhưng vinh quang và anh hùng.
            Những hành vi áp bức, bóc lột dân chúng, những thành tích xấu về tự do và nhân quyền, những thất bại to lớn sau khi chiếm Miền Nam và tình trạng đạo đức sa đọa cùng các tệ nạn xã hội trầm trọng với cách biệt giầu nghèo quá đáng là những chứng  cớ không thể chối cãi rằng mặt trận tranh đấu chống CSVN ở Việt Nam và  chiến đấu  của QLVNCH là vô cùng chính đáng.
          Con số hơn 2 triệu người vượt biển băng rừng tị nạn Cộng Sản bất chấp rủi ro lớn lao làm khoảng 100.000 người chết trên đường đi có lẽ đã quá đủ để chứng minh cho chính nghĩa của VNCH và QLVNCH trong một cuộc chiến mà kẻ xấu và lời nói láo đã thắng, không những thắng một chế độ mà còn thắng cả lương tri của nhân loại.
 Nhóm Đặc Nhiệm TTCSVNCHHN  
NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH
L.T.S.  Đến 19 tháng 6 này là Ngày Quân Lực lần thứ 42. Nhân dịp này thiết tưởng cũng cần thêm một lần nữa đưa ra những nhận định về QLVNCH anh hùng của chúng ta. Một cái nhìn khách quan phải gồm cả những ưu và khuyết điểm, hay và dở, thành và bại, không phải chỉ gồm những chiến thắng như trong một bài thuyết  trình cho quan khách đến dự một buổi lễ. Xin giới thiệu bài Nhận Định Về QLVNCH của Nhóm Đặc Nhiệm thuộc TTCSVNCH/HN.
 QLVNCH là một trong những lực lượng chủ yếu tham chiến trong Chiến Tranh Việt Nam. Với quân số Chủ Lực Quân, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân tổng cộng ngót 1.200.000 người, QLVNCH đã chịu tổn thất gần 300.000 người tử trận sau hơn 20 năm chiến đấu từ khi đất nước bị chia đôi. Dù trong điều kiện, hoàn cảnh, thành tích và phẩm chất nào chăng nữa, quân lực này cũng đã la ømột thực thể có vai trò quan trọng trong chiến tranh và tạo ra những hậu quả đáng kể về chính trị, quân sư trên thế giới và tác độïng mạnh đến xã hội, văn hóa giáo dục...ở Việt Nam. Những yếu tố trên không thể bị bỏ quên trong bất cứ đề tài thảo luận, nghiên cứu nào về lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử thế giới.
Tàøi liệu này không đi sâu vào những dữ kiện đã được nhiều sách báo đưa ra mà chỉ nhấn mạnh vào một số điểm đáng lưu ý trong tiến trình hình thành và chiến đấu của QLVNCH nhất là những gì không được nhiều người biết đến và quan tâm.

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ

Muốn hiểu rõ về nguyên nhân và nguồn gốc sự hình thành QLVNCH không thể không xét đến bối cảnh lịch sử của Việt Nam từ thập niên 1920.

1. Tranh chấp Quốc – Cộng.
Dân tộc Việt Nam rất tự hào về tinh thần bất khuất chống ngoại xâm. Mặc dầu bị Trung hoa đô hộ với mưu đồ đồng hóa hằng ngàn năm, nhưng Việt Nam vẫn tồn tại. Bởi vậy khi Pháp đặt nền đô hộ lên đầu nhân dân Việt Nam

thì phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp nổi lên khắp nơi,  với cả hai khuynh hướng quốc gia và cộng sản.
          Cuộc tranh chấp giữa các đảng phái quốc gia và đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đã nhen nhúm ngay từ ngày có đảng CSVN hồi cuối thập niên 1920. Nhưng trước năm 1945, những đụng chạm này kể cả những vụ CSVN sát hại người các đảng phái quốc gia chỉ mang tính cách lẻ tẻ không có quy mô đáng kể.
          Cuối tháng Tám năm 1945, lực lượng CSVN núp sau danh nghĩa Mặt Trận Việt Minh (MTVM) với chiêu bài quốc gia dân tộc đơn phương cướp chính quyền và dành độc quyền lãnh đạo đất nước trái với thỏa hiệp trước đó giữa MTVM và các đảng phái không-Cộng-Sản.  Ngay sau đó, phe CSVN thẳng tay tiêu diệt tất cả các tổ chức mà họ tin rằng sẽ là những phần tử đối lập đáng e ngại sau này.
          Trong thời gian 1945-1946, các lực lượng quân sự và quần  chúng thuộc các đảng phái không-Cộng-Sản đều tham gia chiến đấu chống Pháp cùng với các lực lượng Việt Minh (VM) vì họ đều nghĩ rằng phe phái nào cũng có mục tiêu chung là chống Pháp dành độc lập, không cần phân biệt.
          Lời kêu gọi "Đại Đoàn Kết" của ông Hồ Chí Minh đưa ra không lâu trước khi phe CSVN bất ngờ tung ra chiến dịch quy mô tiêu diệt phe quốc gia gồm các cá nhân, tổ chức đảng và lực lượng quân sự. Nhiều thanh niên yêu nước không-Công-Sản bị sát hại hàng lọat ngay trước khi nổ ra cuộc Kháng Chiến chống Pháp 19/12/1946.
          Năm 1947, chỉ có một số ít làng mạc chống Cộng được quân đội Pháp trang bị cho các dân quân vũ khí của Thế Chiến I để giúp họ giữ an ninh các vùng Pháp kiểm soát. Quân đội Pháp thành lập một số các đơn vị bán quân sự không có quy chế quân nhân nhưng được trả lương gọi là thân binh (Partisan) người Việt Nam để đóng các đồn bót của quân đội Pháp. Năm 1947 số người Việt chiến đấu bên cạnh lính Pháp tương đối khá ít ỏi. Sau đó để gia tăng quân số, người Pháp tuyển một số người Việt vào các đơn vị chính quy dưới danh nghĩa Liên Hiệp Pháp.
          Từ đầu năm 1947 sang năm 1948 và 1949, đảng CSVN mở nhiều đợt thanh trừng qui mô hàng ngũ quân đội kháng chiến, loại bỏ những phần tư û bị nghi ngờ là đối lập với chế độ CSVN trong đó có nhiều người yêu nước đang phục vụ tích cực và hữu hiệu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Kế đến là thường dân tham gia các đảng phái quốc gia và các phần tử khác bị VM cho là nguy hiểm.
2. Sự Lớn Mạnh Của Lực Lượng Chống Cộng

          Trong khi nhiều người có khuynh hướng quốc gia vì lòng yêu nước theo VM chống Pháp được VM tạm dung thứ, thì nhiều người quốc gia yêu nước khác biết mình bị VM liệt vào loại đáng nghi ngờ, trước sau cũng có thể bi thanh toán phải tìm đất sống ở vùng kiểm soát của quân đội Pháp. Họ phải chọn vùng của kẻ thù ít nguy hiểm hơn làm chỗ nương náu. Thực Dân Pháp tuy tàn ác, nhưng họ còn có thể len lỏi tìm cách sống được trong các vùng này.
          Chinh quyền quốc gia  do Cựu Hoàng Bảo Đại lãnh đạo ra đời sau Hiệp Định Pháp Việt ngày 8 tháng 3 năm 1948 là chỗ dựa tạm cho những người này mặc dù đây chưa phải là một chính quyền thực sự đôïc lập, ngưới Pháp nắm hầu hết quyêøn lực cai trị. Chính quyền Bảo Đại chỉ có rất ít uy tín trong dân chúng.
          Sang năm 1950-1951 khi đảng CSVN ra công khai dưới danh xưng đảng Lao Động (Worker's Party) và gia tăng thanh trừng, khủng bố thì những người không chấp nhận chế độ CSVN hoặc không được chế độ này chấp nhận ào ạt rời bỏ vùng kháng chiến trở về vùng do chính quyền Bảo Đại và quân đội Pháp kiểm soát. Số người đông đảo này làm thay đổi hẳn bộ mặt của chính quyền Quốc Gia. Môt phe quốc gia chống cộng gồm nhiều xu hướng và đảng phái không-Cộng-Sản ngày thêm vững mạnh.
          Năm 1953, ông  Hồ Chí Minh tung ra phong trào Phát Động Quần Chúng  thường được gọi là cuộc "đấu tố" hay "Cải Cách Ruộng Đất" đẫm máu nhằm lọai trừ  giai cấp địa chủ và các phần tử  bị coi là đối lập. Nhiều người bị hành hạ và hành quyết bằng những cách giết người dã man nhất. Một làn sóng những nạn nhân hay sẽ là nạn nhân của chế độ CSVN bỏ kháng chiến trở về vùng quốc gia đã là nhân tố củng cố thêm cho lực lượng chống CSVN.
          Lực lượng phe chống CSVN đã có vị trí rõ rệt và vũng chắc hơn chút ít khi đất nước bị chia cắt do Hiệp Định Geneva 20/7/1954.
3. Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.

          Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (QĐQGVN) được thành lập từ tháng 4 năm 1949 thu hút được nhiều thanh niên yêu nước không sống được dưới  sự đe dọa của phe Cộng, đang tìm chỗ đứng và đất sống cho mình. Trong lúc ấy, cường độ chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh gia tăng đáng kể, nhất là kể từ khi Việt Minh, được cộng sản Trung Hoa chi viện sau khi Mao Trạch Đông đánh bại Tưởng Giới Thạch vào năm 1949. Vì nhu cầu tăng quân số để ứng phó với tình hình chiến sựù, chính phủ quốc gia VN và Pháp đẩy mạnh chương trình bành trướng QĐQGVN như là một hình thức “Việt Nam hoá” chiến tranh mà sau này Mỹ cũng áp dụng với mục đích đứng đắn hơn.
          Mặc dầu được bành trướng vì nhu cầu chiến trường, nhưng Quân đội viễn chinh Pháp chỉ  huấn luyện và trang bị cho QĐQGVN  ở  mức giới hạn, chắc hẳn là vì không mấy tin cậy vào quân lực này. Đến năm 1954, quân số QĐQGVN có khoảng 180,000 người, được tổ chức thành các tiểu đoàn bộ binh, nhẩy dù, một số đơn vị pháo binh, thiết giáp nhẹ, công binh, một số phi cơ trinh sát nhe và những hải đĩnh nhỏ. Với đơn vị cao nhất là Liên Đoàn Lưu Động (Mobile Group) tham chiến trên các chiến  trường, QĐQGVN chưa phải là đe dọa đáng ngại cho các lực lượng Việt Minh.
4.Những Khó Khăn Của QĐQGVN

          Nhìn toàn cảnh cuộc chiến Đông Dương 1946-1954, lực lượng quân sự phe quốc gia Việt Nam có nhiều thế bất lợi:
          a)  Bộ Tư Lệnh quân Viễn Chinh Pháp vẫn nắm giữ toàn quyền điều khiển chiến tranh và các kế hoạch hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN và các BTL Quân Khu chỉ có một số quyền hạn nhỏ hẹp. Thực tế cho thấy người  Pháp không thực tình muốn xậy dựng một quân đội Việt Nam thực sự  độc lập và có nhiệm vụ chiến đấu chính mà chỉ muốn có bên cạnh họ một lực lượng phụ giúp họ trong việc giải quyết chiến tranh nhưng không muốn từ đó tạo ra mối đe dọa cho họ trong tương lai xa.
          b)  Các sĩ quan và binh sĩ QĐQG thảy đều không có cảm tình với người Pháp. Họ chiến đấu bên cạnh người Pháp như một chọn lựa bất đắc dĩ. Trong hai kẻ thù, họ      phải đứng tạm bên cạnh kẻ thù ít nguy hiểm hơn với tin tưởng trào lưu thế giới sẽ giúp cho các nước bi trị được Mỹ và Anh nâng đỡ dành độc lập từ tay Pháp. Một phái bộ quân sự Mỹ cạnh Bộ Tư Lệnh Pháp tại Việt Nam giữ vai trò rất khiêm  nhường,  trong khi viện trợ của Hoa Kỳ cho QĐQGVN đều phải đi qua tay quân đội Pháp lựa lọc và phân phối.
          c)  Quân Đội Pháp đã áp dụng chính sách quân sự coi khủng bố là biện pháp chính  để chống chiến tranh du kích. Các đơn vị Lê Dương, bộ binh gốc Phi Châu và Bắc Phi (kể cả một số lính người Việt trong các đơn vị Commando Pháp và Thân Binh) được dung túng cho tự do giết chóc, tra tấn, hãm hiếp thường dân mà không bị trừng phạt. Nhà cửa làng mạc bị đốt phá, nhiều xóm thôn bị tàn sát hàng trăm người một lần vì những lý do rất nhỏ nhặt. Quân đội Pháp đã gây ra hàng trăm vụ như vụ Mỹ Lai (16/3/1968) mà dư luận thế giới biết đến rất ít. 
           Nỗi uất ức căm thù lính Pháp của dân chúng lên rất cao khiến họ quay sang ủng hộ phe kháng chiến tạo thành sức mạnh chống Pháp cao độ. Nhiều người tin rằng nếu lính Pháp hồi ấy chỉ cần đối xử ân cần, nhân đạo với dân chúng mà không cần phải ban phát ân huệ hay trợ giúp nào to lớn, họ đã có thể chiến  thắng trước năm 1954. Quân Đội Pháp hầu như không có một chương trình nào về dân sự vụ, cứu trợ và thông tin tuyên truyền nhằm tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng như Mỹ và VNCH trong cuộc chiến tranh Việt Nam 1959-1975.
            Trong lúc ấy, các đơn vị QĐQGVN kể cả các đơn vị bán quân sự và dân quân phe quốc gia đối với dân chúng thân mật và hiền hòa, giúp đỡ, bảo vệ họ. Nhưng những cố gắng này không đủ để bù lại những tội ác chiến tranh mà các đơn vị thuộc lực lượng viễn chinh Pháp gây ra. Quân lính Pháp là  những hung thần, không bao giờ tôn trọng các viên chức chính quyền Bảo Đại chút nào, dù là cấp xã, huyện hay tỉnh như quân sĩ Mỹ trong Chiến Tranh Việt Nam.
          Vì thế  nhiều quan sát viên và báo chí quốc tế dễ lầm tưởng rằng QĐQGVN hoàn toàn là một tổ chức tay sai hay một đám lính đánh thuê của Pháp. Cũng chính vì thế mà nhiều binh sĩ trong QĐQGVN không có quyết tâm chiến đấu cao, mang nặng mặc cảm “không-yêu-nước.” Quân đội không thể tuyển mộ đủ số quân sĩ cần có.
II.  THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ.     
          Tháng 5-1954, Điện Biên Phủ thất thủ,  hiệp định ngưng chiến Genève được ký kết vào ngày 20-07-1954, chia đôi Việt Nam,  các lực lượng quân sự quốc gia tập trung về Nam Vĩ Tuyến 17. Năm 1955, chính phủ Ngô Đình Diệm dành lại toàn bộ chủ quyền chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự từ tay người Pháp, QĐQGVN sau khi dẹp tan các lực lượng Bình Xuyên và Giáo Phái ly khai, được cải tổ toàn diện và đổi danh hiệu thành Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà (QĐVNCH).
          Trong 3 năm đầu, QĐVNCH gồm Hải,  Lục và Không Quân được tổ chức lại với các đại đơn vị cấp quân đoàn, sư đoàn và hệ thống quân sự lãnh thổ từ tỉnh lên đến quân khu. Bộ TổngTham Mưu với các bộ phận trực thuộc mau chóng nhận lãnh trọng trách quốc phòng. QĐVNCH được trang bị vũ khí và quân dụng Mỹ, tổ chức và huấn luyện theo khuôn mẫu và binh thuyết Mỹ. Trong giai đoạn này, QĐVNCH gặp phải một số trở ngại quan trọng như:
          1.  Thiếu sĩ quan chỉ huy cấp trung đội lên đến tiểu đoàn có khả năng. Số sĩ quan trẻ có tinh thần yêu nước, có lý tưởng không  đủ để lấp chỗ trống này.
          2.  Một số không ít sĩ quan nguyên là lính trong quân đội Pháp thời Pháp Thuộc được lưu lại trong QĐVNCH. Những sĩ quan này do người Pháp đào tạo, nhiều người không dễ thích ứng với tổ chức và chính sách quân sư ïmới,ï thiếu căn bản tư tưởng và khả năng lãnh đạo một cuộc chiến mà nhiều nỗ lực ngoài phạm vi quân sự thuần túy lại là yếu tố thành bại: Lòng yêu nước và tư tuởng, ý thức hệ.
           3.   Các bộ tư lệnh đại đơn vị cấp Quân đoàn và Sư đoàn chưa có kinh nghiệm tổ chức và chỉ huy các cuộc hành quân có quy mô lớn.
III. TRƯỞNG THÀNH TRONG CHIẾN TRANH
   -  Từ năm 1959 khi CSVN khởi động cuộc chiến tranh khuynh đảo Miền Nam VN, QĐVNCH  còn đang ở tình trạng củng cố tổ chức và huấn luyện. Đến lúc này QĐVNCH chỉ được trang bị vũ khí và quân dụng Mỹ dùng trong Thế Chiến II.  Các toán cố vấn quân sự Mỹ làm việc cạnh các bộ chỉ huy từ cấp trung đoàn trở lên mà nhiệm vụ chính là liên lạc, yểm trợ tổ chức, huấn luyện, tiếp vận, kỹ thuật.
          -  Năm 1961, CSVN gia tăng cường độ chiến tranh với chiến dịch khủng bố sát hại các viên chức chính quyền hạ tầng cơ sở, phá hoại các cơ sở hành chính, kinh tế, giao thông, xã hội và đột kích tiêu diệt các đơn vị quân sự nhỏ song song với mặt trận tuyên truyền bịp bợm và vu cáo đối phương. 
Trong khoảng thời gian này, đã xẩy ra sự bất đồng về quan niệm chiến lược ứng phó giữa Mỹ và VNCH  đối với chiến lược của cộng sản.  VNCH đặt nặng nỗ lực chiến tranh tại địa bàn nông thôn, trong lúc Mỹ chủ trương tổ chức và huấn luyện QĐVNCH theo mô thức chiến tranh Triều Tiên.
Tình hình chiến tranh chỉ chuyển hướng sau khi chương trình Ấp Chiến Lược (ACL) được chính phủ VNCH áp dụng kể từ năm 1962. Tuy rằng chương trình ACL gây ra một số bất mãn nhưng đã dành lại được thế chủ động tại nông thôn, tái kiểm soát được nhiều vùng quan trọng. Theo dự định, hệ thống các ấp chiến lược với dân quân và lực lượng địa phương quân sẽ kiểm soát và bảo vệ mọi vùng dân cư, để quân chính quy QĐVNCH có thể lưu động 100% ngoài các vùng dân cư. Dự định này có 70% khả năng thành công nếu tình hình quân sự diễn tiến như giữa năm 1963.  Nhưng cuộc đảo chính 1/11/63 đã thay đổi tất cả.
          -  Theo cường độ phát triển chiến tranh, Hoa Kỳ bắt đầu gia tăng viện trợ, nâng số nhân viên cố vấn quân sự, gửi các đơn vị không lực yểm trợ hỏa lực và vận chuyển vào giúp cho QLVNCH. VNCH gia tăng quân số với nguồn nhân lực mới động viên , bành trướng Không Quân, Hải Quân và thành lập thêm các sư đoàn, các đơn vị Lực Lượng ĐăÏc Biệt, Chiến Tranh Tâm Lý, Dân Sự Vụ...
          -  Tình hình chính trị hỗn loạn ở Miền Nam Việt Nam sau năm 1963 đã khuyến khích CSBV đổ quân vào Miền Nam. Năm 1964, QĐVNCH bị nhiều tổn thất nặng, trong đó có trận Đèo Nhông, Phước Thành, Bình  Giả, Đức Cơ tuy có những chiến thắng ở Plei Me, đẩy lui cuộc tấn công dữ dội ở Đồng Xoài, khiến tinh thần binh sĩ và dân chúng sa sút mạnh. CSVN có khả năng cắt đôi Miền Nam và chiếm toàn bộ nước VNCH. Mỹ đã cứu vãn tình hình bằng cách tham chiến trực tiếp với sự tham dự của một số quân đội đồng minh: Nam Triều Tiên, Úc Đại lợi, Thái Lan, Tân Tây Lan.
          -  Từ 1965 đến 1969, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà  (sau khi đổi danh hiệu từ QĐVNCH) chịu trách nhiệm bình định các vùng dân cư, yểm trợ xây dựng nông thôn. Các hoạt động bên ngoài do quân lực Mỹ đảm nhiệm. Tại những vùng xung yếu, các sư đoàn Mỹ và đồng minh được trao cho các khu vực hoạt động gọi là Khu Vực Trách Nhiệm Chiến Thuật (Tactical Area of Responsibility). Tuy nhiên các  đơn vị cấp trung đoàn và tiểu đoàn QLVNCH vẫn thường xuyên tham dự các cuộc hành quân hỗn hợp quan trọng với các đơn vị Mỹ
          -  Biến cố Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 là một khúc quanh lịch sử trong chiến tranh VN. Vào đêm giao thừa Tết nhằm ngày 29/01/68, Hànội bất ngờ tung quân đánh chiếm hằng trăm thị trấn, tỉnh lỵ, quận lỵ trên khắp lãnh thổ VNCH. Mặc dầu bị  bất ngờ vì phần lớn binh sĩ nghỉ hưu Tết, nhưng QLVNCHõ đã nhanh chóng đẩy lui quân CS  và chỉ trong vòng một tháng tất cả các đơn vị CS xâm nhập đã bị quét sạch.
Trong kế hoạch Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy, CSVN đã  phạm một lỗi lầm quá lớn khi định ngày N (ngày mở đầu các cuộc tấn công). Bộ Chỉ Huy tối cao CSVN đã định ngày N là “đêm Mùng Một sang Mùng Hai Tết” theo âm lịch. Nhưng âm lịch hai miền Nam và Bắc năm ấy khác nhau một ngày. Do đó các đơn vị VC dùng lịch Bắc Việt nổ súng vào đêm giao thừa ở Miền Nam (Đà Nẵng, Quy Nhơn, Kontum, Pleiku, Nha Trang...) trong khi các đơn vị khác dùng lịch VNCH nổ súng vào đêm  Mùng Một (Huế, Sài Gòn và các nơi còn lại). Nếu quân CSVN nổ súng đồng loạt cùng một ngày giờ, QLVNCH có thể đã chịu tổn thất nhiều hơn tuy vẫn nắm phần thắng lợi.
Các lãnh tụ tối cao CSVN quá chủ quan khi quyết định mục tiêu lớn “Tổng Nội Dậy” và tin rằng 80% quần chúng  và binh sĩ Miền Nam sẽ đứng lên tiếp tay các lực lượng Cộng Sản. Trên thực tế không có quần chúng ở bất cứ nơi nào nổi dậy.
CS bị tổn thất nẵng nề, hầu như toàn bộ hệ thống cán bộ nằm vùng của CS bị tiêu diệt, bị bắt hoặc ra đầu thú.  Hànội đã thất bại nặng trong trận TCK Tết Mậu thân, nhưng lại bất ngờ đạt được chiến thắng tại nội địa Mỹ với sự tiếp tay của một số cơ sở truyền thông, phong trào phản chiến Mỹ và mũi tuyên truyền của Côïng Sản quốc tế.
          -   Từ năm 1969, Hoa Kỳ áp dụng chính sách Việt Nam Hóa chiến tranh, trang bị cho QLVCH nhiều vũ khí và quân dụng tối tân hiện đại. Quân Mỹ và đồøng minh rút dần để QLVNCH lãnh tùoàn  bộ trách nhiệm quốc phòng.
          -  1970-1975. Năm 1970, QLVNCH hành quân tràn qua Cam Bốt triệt hạ các căn cứ của CSBV. Năm 1971, QLVNCH mở cuộc hành quân cấp quân đoàn sang Lào để chứng tỏ khả năng tác chiến của mình nhưng không thành công. Đây là lần đầu tiên QLVNCH mở một cuộc hành quân lớn theo  phương thức chiến tranh quy ườc. Bộ Chỉ Huy chiến dịch của VNCH và bộ phận yểm trợ của Hoa Kỳ có những khiếm khuyết  trong việc phối hợp và điều động mặc dù tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng của các binh sĩ  ở đơn vị cấp nhỏ.
          -   Mùa Høè năm  1972, CSVN tung ra các cuộc tấn công mạnh mẽ vào 3 vùng trọng yếu:  Quảng Trị, Kontum và An Lộc. CSBV bị tổn thất nặng nhưng cố chiếm giữ vài ba vùng nhỏ hẹp có dân cư để chuẩn bị giải pháp chính trị.
          - Hiệp Đinh Paris 27/1/1973 đặt QLVNCH vào một tình thế mới. Toàn bộ các đại. đơn vị bị căng dãn ra rất mỏng để giữ đất vì địch quân vẫn tiếp tục tấn công ở nhiều nơi. Hai năm sau, CSVN bỏ trống hậu phuơng Bắc Việt đê tập trung lực lượng đánh phá VNCH. Trong lúc ấy, Hoa Kỳ giảm dần viện trợ và những cuộc tranh luận ở Mỹ cho thấy rõ Mỹ sẽ bỏ rơi VNCH.
        Những trận đánh cuối cùng của CSVN đã nhắm đúng vào các nhược điểm của VNCH. Đó là cắt ngang Miền Trung và Cao Nguyên, gây hoảng loạn tại Quân Khu 1 và lan  đến Sài Gòn, mở đường cho quân CSVN chiếm đóng toàn thể nước VNCH.
           Sau cùng, QLVNCH đã bại trận trong lúc còn có sức chiến đấu sau hơn 20 năm từ lúc xây dựng trên một quân đội quốc gia còn thô sơ rời rạc qua giai đoạn vừa trưởng thành vừa chiến đấu.
IV. NGƯỜI LÍNH VNCH
   a) Đời Sống Vật Chất
          Binh sĩ QLVNCH được trả lương thấp nhất so với quân đội của tất cả các nước đồng minh của Hoa Kỳ.  Vào cuối thập niên 1950, lúc lương (không tính tiền ăn) của Binh II Mỹ là US$ 75 thì lương Binh II VNCH tương đương với khoảng US$ 14 (VN$ 516 hay bằng 60% lương lao động thấp nhất). Số lương tháng của một binh II không đủ để nuôi vợ, nếu có con thì càng thiếu thốn. Do đó gia đình không thể sống xa họ mà bằng mọi cách sốùng gần hay trong doanh trại, nhiều khi theo đến tạân nơi căn cứ hành quân.
 Đơn vị nào cũng có gánh nặng gia đình binh sĩ gây trở ngại lớn cho việc điều động binh sĩ. Quân đội có nhiêù cố gắng giúp đỡ việc lập các cư xá cho gia đình binh sĩ với tiện nghi y tế, giáo dục của ngành Xã Hội, cửa hàng Quân Tiếp Vụ (Post  Exchange)... có kết quả tốt. Từ khi các tướng lãnh lên cầm quyêàn năm 1965, lương quân nhân được tăng. Nhưng những lợi điểm này bị giới hạn nhiều khi chiến tranh  gia tăng cường độ và kinh tế khó khăn khiến mức sống của binh sĩ thắp hơn nhiều so với  người lao động tay chân ngoài quân đội hưởng lương thấp nhất.
b) Đời Sống Tinh Thần.

          Người lính VNCH không bị khép vào khuôn khổ chặt chẽ đến độ vô nhân đạo và bị nhồi sọ bằng tuyên truyền bịa đặt như quân đội khối Cộng. Họ được hưởng một chế độ kỷ luật tuơng đối dân chủ, ít bi cấp trên áp bức.
           Họ đã chiến đấu gian khổ lâu dài hơn bất cứ quân đội nào khác từ 1959 truớc khi Mỹ tham chiến và tới  năm 1975 –  hai năm sau khi Mỹ rút lui. Họ không được dư luận Mỹ và thế giới tự do đánh giá đúng mà còn gần như bị bỏ quên hoặc xúc phạm.
           Là quân nhân dưới một chế độ tự do, họ được tự do tiếp cận với các nguồn thông tin quốc tế và quốc nội, nhất là một trong mười người lính có máy thu thanh bỏ túi bên  mình và được nghe mọi nguồn thông tin quốc tế cũng như trong nước. Do đó họ dễ bị ảnh hưởng tinh thần nặng nề vì dư luận phản chiến và vì những tin tức bất lợi mà quân đội không thể che dấu họ.
          Một lời đồn đại vô lý, không có căn cứ nhưng loan truyển đúng lúc đúng chỗ có thể gây nhiều hoang mang tai hại. Đó là một trong những cái giá chung mà VNCH phải trả để có tự do và dân chủ.
 
c) Tinh Thần Chiến Đấu.

          Tuy đời sống vật chất eo hẹp và công vụ gian khổ, luôn bị ảnh hưởng bởi nhưng dư luận  ác ý, người lính Miền Nam vẫn có một tinh thần chiến đấu đáng kể. QLVNCH không thiếu những gương anh hùng sáng chói không thua kém bất cứ quân đội nào trên thế giới kể cả những người vợ lính cùng tham gia chiến đấu với chồng con hoặc chỉ huy thay chồng điều chỉnh hỏa lực yểm trợ diệt địch cứu đồn trại.
          Trong hoàn cảnh nguy nan nhất họ vẫn chiến đấu can đảm như trong các trận tổng công kích 1968, 1972. Ngay cả khi hoàn toàn tuyệt vọng vì Hoa Kỳ ngưng viện trợ quân dụng và vũ khí, nhiều đơn vị vẫn chiến đấu đến phút cuối. Hơn 5.000 tân binh quân dịch chưa được huấn luyện ở Trung Tâm Tuyển Mộ và Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung sáng sớm ngày 30/4/1975 còn hăng hái chiến đấu hạ được 5 chiến xa CSVN ngay trước khi có lệnh đầu hàng.
           Sau khi có lệnh đầu hàng sáng 30/4/1975, nhiều vụ tự sát của các nhân sĩ, quân nhân, công chức và dân chúng xảy ra ở khắp nơi mà lý do chính là vì nỗi nhục nhã và tuyệt vọng. Cùng lúc ấy còn có khoảng hơn 1000 người xúc động đến độ mất trí vĩnh viễn, tính riêng tại Sài Gòn.
          Một số trường hợp điển hình: Ngay buổi trưa hôm ấy, một trung tá QLVNCH tự sát bằng súng lục truớc trụ sở Hạ Viện  VNCH, một trung tá QLVNCH khác cùng vợ và 7 con tự sát bằng súng tại nhà riêng và 5 sĩ quan cấp tá tự sát bằng độc dược tại bộ Tổng Tham Mưu. Buổi chiều, 5 trung sĩ cùng tự sát bằøng độc dược tại nhà của một người ở khu Lăng Cha Cả.
          Nổi tiếng nhất là trường hợp các Tướng Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú đã tự sát trong ngày 30/4/75 sau khi binh sĩ buông súng. Các vị này cũng là những tướng lãnh trong sạch có tiếng trong QLVNCH.
          Tại tỉnh Chương Thiện, Tỉnh Trưởng là Đạị Tá Hồ Ngọc Cẩn không tuân lệnh đầu  hàng, cùng binh sĩ thuộc quyền tiếp tục chiến đấu vô cùng anh dũng. Hơn 24 giờ sau khi đã hết đạn, tỉnh lị mới bị địch tràn ngập và Đại Tá Cẩn sa vào tay địch. Ông cuơng quyết không chịu khuất phục và bị địch hành quyết sau đó.
          Chỉ vì thiếu ngân sách tuyên truyền và vì khuynh hướng thiên vị của một số trong giới truyền thông , những gương hy sinh và anh hùng ấy đã không được truyền đi rộng rãi trên thế giới.
V. CÁC CHIẾN TÍCH
         Trong 20 năm chiến đấu,  QLVNCH lập được nhiều chiến tích quan trọng cả về mặt  an ninh diện địa lẫn chiến tranh quy ước.  Nổi bật nhất như:
       -   Tổ chức thành công các chiến dịch tiếp thu và bình đinh vào năm 1954 những vùng do CS chiếm cứ phía Nam vĩ tuyến 17 phải trả lại cho chính phủ quốc gia.
       -   Tảo thanh dẹp phiến loạn Bình Xuyên và các Giáo Phái ly khai năm 1954 tạo điều kiện thống nhất quân đội quốc gia
       -   Hành quân chiến thắng Plei Me Cao Nguyên Trung Phần năm 1965
       -   Hành quân phá vỡ hậu cần CSBV tại mật khu Đỗ Xá (ranh giới Kontum- Quảng Ngãi năm 1964õ
       -   Chiến thắng Tết Mậu Thân 1968 như đã nói ở trên.
       -   Hành quân phá vỡ hậu cần của CSBV tại Cam Bốt năm 1971
       -   Chặn đứng các cuộc tấn công vũ bão của CSBV tại mặt trận An Lộc. Dưới làn mưa pháo của CSBV có khi đến 8000 trái mỗi ngày, lực ượng QLVNCH phòng thủ An Lộc vẫn giữ vững thị xã, phản công tiêu diệt nhiều chiến xa và đại pháo của địch.
        -  Chặn đứng và giữ vững mặt trận  Kontum tháng 5 năm 1972 của Sư đoàn 23 bộ binh trước sức tấn công liên binh của nhiều sư đoàn CSBV
         -  Hành quân phản công tái chiếm Quảng Trị tháng 6 năm 1972 của Quân Đoàn I và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến
          -   Giữ vững tuyến phòng thủ Xuân Lộc trong nhiều ngày của Sư Đoàn 18 Bộ Binh đầu tháng 4 năm 1975 trước mũi dùi tấn công ác liệt của nhiều sư đoàn CS có thiết giáp và pháo binh yểm trợ.
          -  Tuy nhiên QLVNCH còn hàng trăm trận thắng khác ở cấp trung đoàn trở xuống nhưng ít được hoặc không hề được nhắc nhở  đến. Ngoài ra, các đơn vị VNCH cũng tham dự cùng lực lượng Mỹ trong các cuộc hành quân lớn từ Cedar Fall, Johnson City, Plei Me đến A Shau, Khe Sanh nhưng không mấy khi được báo chí Mỹ nhắc đến.
          -  Về mặt an ninh diện địa, các đơn vị bán quân sự và Cảnh Sát Quốc Gia đã thành công rực rỡ trong chiến dịch Phượng Hoàng phá vỡ hạ tầng cơ sở của địch.
          -   Trong các chiến tích, đáng ghi nhớ nhất về mặt lịch sử chống ngoại xâm  là trận hải chiến giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa sau Hiệp Định ngưng bắn Paris.
          Trung tuần tháng 1 năm 1974, quân đội Trung Cộng lấn chiếm quần đảo Hoàng Sa của VNCH. Hải Quân VNCH ở thế bất lợi với 2 tầu tuần dương, 1 tầu khu trục, 1 tầu hộ tống, 1 đại đội Biệt Hải, 1 trung đội địa phương quân, không được Không Quân yểm trợ, cũng không được Mỹ giúp đỡ. Hải Quân Trung Cộng với 14 tầu đủ loại trong đó có 4 phi tiễn đĩnh (guided-missile frigate) và có Không Quân yểm trợ.  Lực lượng Hải Quân VNCH tuy yếu hơn nhưng đã anh dũng chiến đấu suốt ngày 19/1/1974.  Kết cục phía Trung Cộng có 1 tầu chìm, tất cả số còn lại bị hư hại từ nặng đến trung bình; không rõ thiệt hại nhân mạng. Phía VNCH 1 tầu tuần dương chìm, 1 hư hại nặng và 2 hư hại trung bình, chết trên 50 binh sĩ và một hạm trưởng, khoảng 20 mất tích và 50 bị bắt.  Trung Cộng chiếm giữ quần đảo này từ đó.
     Trong khoảng thời gian này, Phái đoàn CSVN trong Ban Liên Hợp Quân Sự Hai Bên khi được yêu cầu minh định lập trường xác nhận Quần Đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam đã tránh né không trả lời.
VI. HOÀN CẢNH
1.   Hoàn cảnh Khách Quan

a. Vai Trò của Hoa Kỳ. QLVNCH là một quân đội của một  nước độc lập, có chủ quyền. Nhưng từ khi chiến tranh mở rộng phạm vi và cường độ, Hoa Kỳ đã dành quyền lãnh đạo chiến tranh. Điều đó dễ hiểu vì Hoa Kỳ cung cấp gần 100% chiến phí cho QLVNCH tất họ phải dành quyền quyết định. Hoàn cảnh này không khác gì hai cường quốc Cộng Sản đối với CSVN, chỉ khác nhau về cách thức trình diễn bề ngoài.
Tuy thế Hoa Kỳ cũng vẫn tôn trọng chủ quyền của QLVNCH ở mức độ khá cao, thí dụ như việc phía VNCH không chấp nhận đề nghị của Mỹ lập Bộ Tư Lệnh hỗn hợp. Tuy nhiên quan niệm chiến lược và chiến thuật của QLVNCH khác hẳn với phía Mỹ ở nhiều mặt. Ở Việt Nam cũng như ở nhiều  nước khác, nhiều người Mỹ vẫn mang tính tự tôn ”American know-how” thích làm theo ý mình. Do đó việc phối hợp giữa hai bên kém chặt  chẽ.
         Vì lệ thuộc vào vũ khí và chiến phí, khi Mỹ rút viện trợ thì QLVNCH phải thất trận. Không một quân đội nào ngoài các cường quốc kể cả quân các nước Cộng Sản nhỏ như CSVN có thể đứng vững khi bị ngưng viện trợ quân sự.
          Một vấn đề quan trọng về liên hệ giữa QLVNCH với quân lực Mỹ là những cố vấn quân sự cạnh các đơn vị VNCH. Trên thực tế, họ chỉ có các nhiệm vu liên lạc, yểâm trợ huấn luyện, hỏa lực và tiếp vận, kỹ thuật. Các cố vấn quân sự Mỹ không có quyền hạn gì trong các quyết định về quản trị nhân sự, chọn lựa tối hậu về kế hoạch hành quân.  Các sĩ quan cố vấn là lớp nguời Mỹ hiểu biết nhiều về Việt Nam và đã tạo được cảm  tình tốt từ phía người Việt. Công việc làm và tư cách của họ hoàn toàn khác hẳn người vai trò của nguời Pháp đối với QĐQGVN trước năm 1954. Tiếc rằng hình ảnh đẹp ấy đã không được giới truyền thông chuyển đến  quần chúng Mỹ.
          Cũng liên quan to lớn đến hình ảnh của Mỹ ở Việt Nam là vai trò của CIA. Từ khi CIA gia tăng hoạt động ở Việt Nam thì theo sau từ ngữ “CIA” là một chuỗi huyền thoại hay cũng như dở đã gắn sâu vào ký ức của nhiều người Việt Nam và dĩ nhiên đến tinh thần binh sĩ VNCH. Nói  đến CIA là nói đến những mưu mô gian trá và tàn nhẫn của người Mỹ, đánh đổ những tin tưởng vào các chính sách hào phóng, trọng công lý và tự do dân chủ của Hoa Kỳ.
b)  Phong trào phản chiến. Trong lúc QLVNCH đang chiến đấu, thì hoàn cảnh thế giới diễn tiến bất lợi cho chính quyền Mỹ. Phong trào chống Mỹ trên thế giới đồng loạt với phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ mượn Chiến Tranh Việt Nam, chế độ VNCH và QLVNCH làm đề tài cho những luận điệu xuyên tạc, thiên vị vu cáo nhằm công kích chính quyền Hoa Kỳ, biến QLVNCH thành con tốt thí cho những mưu đồ chính trị phe phái ở Mỹ.
c) Vai trò của khối công sản quốc tế.  Không nên quên rằng QLVNCH và lực lượng đồøng minh ở Việt Nam không phải chỉ chốùng lại  lực lượng CSVN mà phải đối phó với cả khối Cộng Sản quốc tế mà chủ yếu là Liên Xô và Trung Cộng. Hai nước này tích cực ủng hộ cuộc chiến tranh chiếm Miền Nam của CSVN dồi dào và bền bỉ cho đến khi Mỹ chịu thua trước.
2. Hoàn  Cảnh Đất Nước.

           a. Lãnh đạo.   Một yếu tố nội tại của đất nước Việt Nam gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho QLVNCH và cuộïc chiến đấu bảo vệ Miền Nam là Khủng Hoảng Lãnh Đạo. Chiến dịch thủ tiêu có hệ thống và có chọn lựa các nhân sĩ yêu nước không-cộng-sản và những thanh niên có tài đức bị cho là sẽ trở thành các lãnh tụ chống Cộng đáng kể sau này do đảng CSVN thực hiện đã có tác dụng rõ rệt trong Chiến Tranh Việt Nam. Lớp tuổi già dặn chỉ còn một ít nhân vật có uy tín và tài đức để lãnh đạo ở cấp quốc gia, không có nhiều để chọn lựa . Những người trong lớp tuổi trẻ hơn có thể đảm trách các trách vụ cấp cao trong chính quyền và quân đội càng ít hơn.
         
b.  Riêng trong QLVNCH, số sĩ quan cao cấp giữ các chức vụ chiến lược có đạo đức, uy tín, khả năng, lòng yêu nước và ý chí tranh đấu không nhiều. Đa số có thể có uy tín,  trong sạch nhưng rất ít người có lòng yêu nước đủ cuồng nhiệt để làm cho quân đội mạnh hơn, đủ ý chí và tài năng để lãnh đạo cuộc chiến tranh cam go chống lại cả khối Cộïng Sản.
          Giới lãnh đạo ngành hành chánh còn ở vào tình trạng khó khăn hơn. Một số chống cộng chỉ đơn giản vì cho rằng CSVN là một tổ chức phiến động, đã gây nguy hại cho bản thân và quyền lợi cá nhân họ mà thiếu hẳn lập trường tư tưởng vững chắc.
          c.  Lớp người trẻ có nhiều tài năng sẽ có thể là những nhà lãnh đạo xuất sắc trong tương lai không trưởng thành kịp với tốc độ biến chuyển của tình thế nên chưa thể đưa họ vào các chức vụ lãnh đạo cấp cao.
         d.  Trong hoàn cảnh như thế, các chế độ phải cử nhiều quân nhân sang nắm giữ các chức vụ hành chánh. Từ năm 1955, một số ít sĩ quan QLVNCH được chỉ định làm quận trưởng, tỉnh trưởng vì tình hình an ninh đặc biệt của các địa phương cần có sĩ quan cầm đầu để chỉ huy  các đơn vị quân sự dễ dàng. Sang giai đoạn 1961 và nhất là sau năm 1965 trở đi tất cả số tỉnh quận VNCH đều do các sĩ quan QLVNCH cầm quyền. Tình hình này giống như ở hầu hết các nước đang phát triển.
          Trong chế độ quân nhân cầm quyền  từ trên xuống dưới, VNCH đã đạt được những thành quả tốt nhưng nhất thời về an ninh trật tự, về phong cách làm việc. Tuy nhiên trong môït giới hạn nào đó, các quân nhân cầm quyền dễ tạo khe hở cho nạn tham nhũng lan rộng cũng như có thể tạo khuynh hướng quân phiệt.
          Do đó có thể đi đến một nhận định căn bản là tình trạng khủng hoảng nhân sự lãnh đạo của nước VNCH cũng như của QLVNCH là một trong những nguyên nhân chính tạo ra thất bại  sau cùng ngày 30/4/1975.
3) Hạn Chế  Về Tiềm Năng Chiến Tranh.

          Chính nghĩa của của Miền Nam là bảo vệ tự do, dân chủ cho VNCH nên không thể có những  chính sách mạnh bạo, cứng rắn đối với dân chúng như chính sách của CSVN đối với dân chúng của họ để yểm trợ quân đội. Thí dụ như VNCH  không thể hy sinh mạng sống và hạnh phúc của một số đông đảo  dân chúng để huy động hàng triệu dân công và số lượng thực phẩm lớn lao phục vụ quân đội như phe CSVN đã làm.
4) Hạn Chế về Kỷ Luật Chỉ Huy.

          QLVNCH cũng không thể áp đặt một hệ thống kiểâm soát và kỷ luật tàn bạo và giáo điều của một chủ nghĩa để buộc binh sĩ phải tuân lệnh  triệt để như quân đội CSVN vì quan điểm của quần chúng về dân chủ rất mạnh đòi hỏi con em họ được tôn trọng trong quân đội VNCH. Người lính VNCH cũng hiểu biết rõ về dân chủ và quyền hạn của họ nên không thể áp đặt lên đầu họ những biện pháp quá khe khắt.
5) Nhiệm Vụ Nặng Nề.
          QLVNCH phải đối phó với một cuộc chiến tranh gồm nhiều mặt trận ngoài mặt trận quân sự như tuyên vận, kinh tế, xã hội, văn hóa... từ ấp xã trở lên trong điều kiện nửa du kích, nửa trận địa. Cả 3 thứ quân (chủ lực, địa phương quân, nghĩa quân)  phải chiến đấu trên một chiến trường rộng lớn và đa dạng: phải vừa tìm và diệt địch và chống lại các cuộc tấn công của địch mà còn phải bảo vệ dân chúng, cơ sở kinh tế, kỹ thuật, giáo dục, văn hóa, y tế, xã hội, các trục giao thông... Hiếm thấy một quân đội nào trên thế giới phải gánh vác những nhiêïm vụ rộng lớn và nặng nề như thế.
6. Những Lực Lượng Hỗ Trợ QLVNCH

         Trong chiêán tranh, QLVNCH phối hợp chặt chẽ với nhiều lực lương bán quân sự và tình báo khác. Nếu không có sự phối hợp này thì QLVNCH không thể thành công trong phần nhiều các nhiệm vụ. Hai trong số đó là:
a) Cảnh Sát Quốc Gia.

          Chiến dịch Phượng Hoàng của Cảnh Sát VNCH với sự yểm trợ của CIA Hoa Kỳ đã thành công tốt đẹp, không phải bằng những cuộc tàn sát dã man như một số người có ác ý vu cáo.
Chiến dịch này đã phá vỡ đại đa số các cơ  sở hạ tầng của đảng CSVN tại Miền Nam vào năm 1971-1972, tạo một hậu phương tuơng đối yên ổn phía sau các chiến tuyến, hoạt động phá hoại quấy rối của du kích đượ c coi là không đáng kể. Nhưng đáng tiếc là QLVNCH không khai  thác được tối đa thuận lợi này trên các chiến  trường năm 1972.
b) Xây Dựng Nông Thôn

            Một chương trình quan trọng của chính phủ VNCH là Xây Dựng Nông Thôn mà tiền thân của nó là các chương trình Ấp Chiến Lược (1962-63) và Bình Định (1964-65).
Các đoàn XDNT có võ trang hoạt động khá hữu hiệu với sự yểm trợ của QLVNCH. Ngược lại các đoàn XDNT cũng góp phần giúp QLVNCH về mặt tình báo, tuyên vận. Đại đa số các ấp xã được coi là yên ổn vào năm 1972, đặt nền móng chính trị tạm ổn định đối với ít nhất là 60% dân số cho đến khi tình hình quân sự suy đồi sau Hiệp Định Paris 1973.
VII. THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
1. Lực Lượng CSVN.

         Lực lượng CSVN từ du kích đến chính quy cấp địa phương và cấp quốc gia đều được đặt dưới quyền sinh sát của Đảng CSVN. Đảng dùng chính sách ngu dân để nhồi sọ binh sĩï về tư tưởng một cách tinh vi và áp dụng những hình thức kỷ luật áp chế tâm lý để buộc binh sĩ phải hành động máy móc. Quân sĩ CSVN được ăn no gấp rưỡi nông dân nhưng sức khỏe và tính mạng họ bị coi thường. Tản thương và cứu thương không được hưởng ưu tiên. Quân trang, đồ dùng hầu như rất ít ỏi để bảo đảm tính lưu động cao. Đời sống gia đình của binh sĩ gần  như không có. Do đó quân đội CSVN có khả năng tác chiến với lưu động tính cao mặc dù rất đói rách.
        Kẻ địch của VNCH áp dụng một thứ vũ khí lợi hại hơn bất cứ  thứ bom đạn nào để kiểm soát và vận động quần chúng: đó là khủng bố kết hợp với tuyên truyền (xem phần nói về CTTL).
         Về biện pháp khủng bố, quân chính quy VNCH không có khả năng ngăn chận vì đó là công việc an ninh lãnh thổ do các viên chức xã ấp, quận huyện chịu trách nhiệm. Nhưng chỉ với một khẩu súng, một tên cán bộ an ninh có thể khống chế chặt chẽ một ấp 500 dân trong vùng chúng kiểm soát ban đêm, buộc họ nộp lương thực, đóng thuế, đi dân công, đi biểu tình... 
         Lực lượng CSVN có sức mạnh lớn nhất là nguồn nhân lực. Ở Miền Bắc, đảng ủy xã và hệ thống hộ khẩu và lương thực khe khắt đến từng 10 gram gạo là sức mạnh cưỡng bách hàng triệu thanh niên vào Nam chiến đấu, xây dựng các tuyến đường tiếp vận kỳ diệu bằng sinh mạng hàng trăm ngàn thanh thiếu niên, điều mà không chính phủ nào ở Miền Nam dám làm dù có thể làm được.
          Chế độ CSVN không tiếc sinh mạng quân lính của họ để đạt những mục tiêu dù lớn hay nhỏ. Họ thường chấp nhận  tổn thất sinh mạng trên 5 lần, có khi đến 10 lần so với phe địch để chiếm cứ mục tiêu. Khó có thể chỉ dùng hỏa lực quy ước mà hy vọng làm tiêu hao nguồn nhân lực của phe CSVN được dùng không thương tiếc và không giới hạn như thế.
2. Truyền Thông Thù Nghịch.

          QLVNCH phải đối phó với một lực lượng thù địch ở ngay bên cạïnh mình mà không thể phản công được. Đó là một số người trong giới truyền thông có định kiến thù nghịch với Mỹ và VNCH. Họ chỉ thấy và loan tin về sự xấu của phía bên này và luôn luôn ca tụng mọi điều mặc dù họ không thấy và không hề biết nhiều về phía bên kia. Lực lượng thù địch này là lực lượng chính công khai đánh bại QLVNCH mà không bị ngăn chận hoặc tiêu diệt.
          Trong nhiều trận đánh, CSVN tổn thất cực kỳ nặng nề,  QLVNCH chiếùn thắng lớn mà tin tức trung thực không được quần chúng biết đến. Nhưng sự thực đã bị bưng bít và dối  trá đã được thổi phồng khiến nhân dân Mỹ thất vọng quay sang chủ bại và khuyếùn khích phong trào phản chiến dâng lên cao độ.
          Một trong những lý do gây ra  tình trạng thông tin không đầy đủ và thiên vị này là vì đa số các phóng viên không biết tiếng Việt Nam nên chỉ đến với quân đội  Mỹ và loan tin về lính Mỹ và người Mỹ chỉ đón xem các phóng sự về lính Mỹ mà thôi. Họ cũng ít  biết về nguồn gốc lịch sử cuộc tranh chấp quốc-cộng nên dễ bị đầu độc và lừa dối.
VIII.NHỮNG  KHIẾM KHUYẾT.

1. Sai Lầm Trong chính Sách Chiến Tranh

          Hoa Kỳ và VNCH phạm phải sai lầm chiến lượïc ở hai mặt trận quan trọng nhất. Phần này bàn về mặt quân sự. Phần về  mặt trận tuyên truyền và vận động dư luận sẽ được nói đến tại mục X
          Trong khi phe CSVN coi chính trị là phuơng tiện chính chỉ đạo cho các kế hoạch của quân đội, phe VNCH và Hoa Kỳ lại  coi phương tiện quân sự là chủ yếu và dành cho các mặt trận khác ưu tiên rất thấp. Các bộ phận lãnh đạo chiến tranh giải quyết  chiến trường bằng hỏa lực pháo binh và không quân là chính.  Đôi khi việc sử dụng hỏa lực pháo binh và không quân thiếu cân nhắc đã gây những thiệt hại lớn có thể tránh được cho thường dân, tạo ra bất mãn khó hàn gắn.
          Sức mạnh hỏa lực chỉ hữu hiệu tối đa ở các chiến trường quy ước. Ở Việt Nam, kẻ địch của VNCH và Mỹ không hề quan tâm đến số thương vong lớn lao của binh sĩ, miễn là đạt được mục tiêu đã định.  Họ cũng không quan tâm đến sự gian khổ của quân sĩ, chỉ trang bị cho binh sĩ thật ít ỏi, nhẹ nhàng để di chuyển mau lẹ. Khả năng phân tán rộng và nhanh khi bị phản  công đã làm cho sức mạnh hỏa lực của VNCH và Hoa Kỳ giảm nhiều hiệïu lực.
2. Phân Nhiệm các Lực Lượng

          Các đơn vị chủ lực QLVNCH được tổ chức nhằm mục đích chiến tranh quy ước, và không thể xé nát để đối phó với chiến  tranh du kích. Trận chiến sau cùng bao giờ cũng là các cuộc điều động trân địa chiến. Nhiệm vụ chống du kich đang lẽ là do Địa Phương Quân và Nghiõa Quân đảm nhiệm đã không thực hiện được đầy đủ. Các cấp hữu trách về quân sự có khuynh hướng chính quy hóa các đơn vị ĐPQ. Nhu cầu chống du kích khủng bố đòi hỏi đơn vị an  ninh diện địa  phải phân tán mỏng và lưu động cao nhưng nếu làm như vậy cấp chỉ huy từ đại đội trở xuống sẽ rất vất vả. Các binh sĩ thường ưa đi hành quân với số đông đồng đội vì họ có cảm giác an toàn hơn.
  3. Sử Dụng Binh Lực.
          Một sai lầm khác là dùng quân phí phạm. Vào lúc chiến tranh chưa lan rộng, nhiều khi chỉ có một tiểu đội du kích xuất hiện ở xa, cả một đại đội hoặc một tiểu đoàn đã được dùng để truy lùng dù biết rằng vô hiêu. Binh sĩ hành quân liên miên, ít được nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Vào thời kỳ chiến tranh lên cao, vì lo lắng giữ lãnh thổ nên quân lực được trải ra quá mỏng. Quân sĩ ta dễ bị quấy rối và dễ rơi vào thế bị động. Do đó khả năng lưu động kém nên mức độ an ninh lãnh thổ thấp. Trong những năm sau cùng, lực lượng tổng trừ bị cũng bị cầm chân khá nhiều vào nhiệm vụ diện địa. Quân đội không có một lực lượng trừ bị hùng hậu mà bất cứ lực lượng võ trang nào cũng cần phải có.
4.  Chống Du Kích.

          Ngay từ những ngày đầu cuộc chiến nhất là từ 1959, nhiều cấp chỉ huy QLVNCH vẫn ưa dùng các chiến thuật hành quân trận địa mà quân đội Pháp và nhiều nước có chiến tranh thông thường áp dụng. Để đối phó với các hoạt động du kích các cấp chỉ huy quân sự chỉ phản ứng thụ động bằng các chiến thuật xưa cũ. Nhiều đơn vị và địa phương có sáng kiến phản du kích rất hữu hiệu nhưng chỉ được áp dung cucï  bộ, không đuợc phổ biến và đồng nhất hóa một cách có hệ thống trong toàn quân.
          Tuy gặp khó khăn trong giai đoạn đầu của chiến tranh khi phải đối phó với du kích chiến, các đơn vị từ cấp sư đoàn trở xuống của QLVNCH tỏ ra hữu hiệu khi phải giao tranh với kẻ địch trong trận địa chiến. Các cuộc tấn công và phòng thủ chống lại lực lượng địch đông đảo gấp 4 đến 5 lần (như mùa hè năm 1972 tại Quân Khu I), các đơn vị VNCH đã áp dụng các chiến thuật quy ước với thành quả khá cao. Mức độ phối hợp pháo binh, thiết giáp và bộ binh khá chặt chẽ trong khi địch tỏ ra lúng túng trong việc điều động các đơn vị hỗn hợp thiết giáp với bộ binh như tại mặt trận Đông Hà và An Lộc năm 1972.
5. Tình Báo.

          Hệ thống tình báo của QLVNCH cũng như của VNCH không có sức mạnh tích cực. Tuy
có nhiều thành công chiến thuật nhưng yếu về mang lưới chiến lược, không có dấu hiệu xâm nhập được nhiều vào các bộ phận quân  sự trọng yếu của địch.
          Ngành phản tình báo cũng tỏ ra hữu hiệu nhưng không đủ để phá tan được các ổ nội tuyến cấp cao. CSVN đã gài  được nhiều nội tuyến và gián điệp trong hàng ngũ QLVNCH.
6. Hoạt Động Đặc Biệt: Tình Báo Vùng Hậu Tuyến Địch,

          Các trại LLDB Biên Phòng và các đơn vị Dân Sự  Chiến Đấu đã đóng một vai trò đáng kể trong việc huấn luyện cho các toán Thanh Niên Chiến Đấu (sau là Nghĩa Quân) ở các ấp xã vùng ven biên nhưng chỉ thành công có giới hạn trong việc phát giác và ngăn chận địch xâm nhập vì vùng biên giới với Lào và Cam Bốt quá rộng lớn.
          Tuy nhiên các cuộc hành quân xâm nhập hậu tuyến địch của các toán viễn thám và các toán biệt  cách thuộc Nha Kỹ Thuật cũng như các toán hỗn hợp Việt-Mỹ Study and Observation Group đã đạt nhiều thắng lợi mà dư luận báo chí ít biết tới. Riêng các toán xâm nhập Bắc Việt trong kế hoạch OPLAN 34-A tỏ ra vô cùng xuất sắc và anh dũng trên đất địch. Nhưng kế hoạch này chỉ thành công giới hạn vì mục  tiêu, phương thức và kỹ thuật do kế hoạch đặt ra không thích hợp mặc dù các chiến sĩ tham dự là những phần tử chọn lọc, ưu tú và can đảm nhất của quân đội. Một số hàng trăm chiến sĩ can trường này bị bỏ rơi, coi như đã chết  trong khi họ bị giam trong các trại tù ở Bắc Việt hơn 20 năm trời mà vẫn giữ vững tinh thần cho đến khi chính phủ Mỹ không thể tránh né trách nhiệm nên phải nhận cho họ sang định cư và trả trợ cấp cho họ.
7. Quản Trị Quân Lực

          QLVNCH không có một hệ thống bổ nhiệm và sử dụng nhân sự hữu hiệu. Hàng ngũ hạ sĩ quan không được quan tâm để củng cố thành cột xương sống  của quân đội như trong các quân lực Anh Pháp Mỹ. Việc bổ dụng sĩ quan nhiều chỗ không hợp lý và không có quy luật vững chắc. Việc luân chuyển để đa năng hóa cán bộ không đuợc thực hiện đứng đắn.
          Hệ thống thăng thưởng không hợp lý. Huy chương bị mất giá trị vì được cấp bừa bãi. Điều này khiến cho cấp bậc được dùng để tưởng thưởng công trạng thay cho huy chương. Lẫn lộn tai hại  giữa công trạng và khả năng gây ra hậu quả  đáng tiếc cho uy tín của cấp bậc và khiến cho cuộc ganh đua để tiến thân của cán bộ trong quân đội không còn giữ y nguyên tính chất của một cuộc thi đua công bình nữa.
          QLVNCH áp dụng nhiều quy tắc quản trị quân lực của Hoa Kỳ nhưng không chịu mô phỏng theo khung tổ chức và điều hành guồng máy quân pháp của Mỹ như tổ chức các toà quân sự “judge advocate” từ cấp tiểu đoàn (summary court-matial) trở lên. Trái lại các cấp lãnh đạo vẫn duy trì hệ thống phạt theo quyết định đơn phương của cấp chỉ huy từ “cấm trại” đến “phạt giam” (8 đến 60 ngày  tù). Trên mức này mới ra tòa án quân sự. Hệ thống này là của Quân Đội Pháp để lại, tỏ ra không còn thích hợp với QLVNCH.
IX. NHỮNG ƯU THẾ CỦA QLVNCH
         1.  Về tổ chức, QLVNCH có một hệ thống liên kết rất chặt chẽ và khoa học từ trên xuống dưới và có trật tự chỉ huy. QLVNCH lại được trang bị những loại vũ khí tối tân nhất nhì thế giới và một hệ thống tiếp vận  đa dạng và hữu hiệu.


         2.   QLVNCH có một  hệ thống huấn luyện hiệu quả cao với các trường đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan, thiếu sinh quân và nhiều trung tâm huấn luyện binh sĩ và chuyên môn.
                  
                 
Tuy nhiên, công cuộc huấn luyện về kỹ thuật các ngành thành công hơn là về những chiến thuật chống du kích đặc biệt cho chiến trường Việt Nam.


          3.   Về  kỹ thuật quân  sự, Pháo Binh QLVNCH có trình độ kỹ thuật tác xạ khá cao. Nhiều đơn vị Mỹ đã chọn pháo binh VNCH yểm trợ thay vì pháo binh Mỹ trong các cuộc hành quân hỗn hợp. Các ngành Quân Cụ, Công Binh và Truyền Tin có nhiều thành tích cao về mặt yểm  trợ  kỹ thuật.

4.  QLVNCH có truyền  thống kỷ luật trong diễn tập. Các cuộc phi diễn của Không Lực được coi là xuất sắc nhất Á Châu. Trong nhiều cuộc diễn hành lớn, các đơn vị bộ binh đang chiến đấu diễn hành với kỹ luật hàng ngũ và đẹp không thua bất cứ đội quân nào trên thế giới.
            5.   Các sĩ quan và hạ sĩ quan trong QLVNCH hầu hết có trình độ học vấn văn hóa cao. Nhờ thế mà các tội phạm do các binh sĩ vô kỷ luật gây ra bị hạn chế rất nhiều. Tuy nhiên đây cũng là một yếu điểm so với phe CSVN. Quân đội CSVN tổ chức hàng ngũ sĩ quan cấp thấp gồm các phần tử ít học nhưng cực kỳ trung thành với đảng nên dễ tuân lệnh một cách máy móc và mù quáng, kiên trì chiến đấu và rất cứng rắn đối với thuộc cấp.
X. MẶT TRẬN TUYÊN TRUYỀN VẬN ĐỘNG
          Cho đến nay, rất ít người đánh giá đúng sức mạnh và tác dụng của mặt trận chiến tranh tâm lý trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
         Trong cuộc chiến tranh này, người lính và người dân Việt Nam là mục tiêu chính, là chủ thể chính của mọi hành vi chiến tranh và chính trị. Ngoài những đặc điểm chung của con người, người Việt Nam còn có những đặc điểm tâm lý riêng khiến họ  phản ứng khác biệt đối với cùng một  tác động tâm lý.
1.  Nỗ Lực Chủ Động của CSBV.

          Nỗ lực tuyên truyền và vận động dư luận của lực lượng CSVN nhằm bôi nhọ QLVNCH và Mỹ giữ vai trò tích cực và ưu tiên hàng đầu. Không bao giờ họ bỏ lỡ một cơ hội để khoe khoang về quân đội của họ và nói xấu kể cả vu cáo đối phương. HọÏ đã thành công trong nhiều mưu chước lừa dối dư luận.
          CSBV được cả khối Cộng Sản  quốc tế yểm trợ mạnh mẽ về mặt tuyên truyền, báo chí không kém yểm trợ về quân sự. Số sách báo ngoại ngữ để tuyên truyền của Hà Nội phát hành tại các nước ngoài nhiều gấp hàng trăm lần của VNCH. Có thể nói chế độ CSBV đã “buộc dân nhịn ăn để đảng nói dóc.”
2.  Sự Thụ Động của VNCH và Hoa Kỳ.         
       
         Trái lại, các cấp lãnh đạo chiến tranh ở Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn vốn không coi trọng tác động tâm lý nên thường mắc vào  những sai lầm và thiếu sót nghiêm trọng trong mặt trận tuyên vận. Nhiều người coi các chiến thuật tuyên vận là những biện pháp phụ thuộc sau khi đã hành quân xong, có rảnh thì làm. Phương cách chủ yếu vẫn chỉ là những việc rải truyền đơn, phóng thanh, những chuyến khám bệnh phát thuốc, trình diễn văn nghệ, xây dựng các trạm y tế, trường học, phát quà bánh tạêng vật... Quan nịệm chủ yếu đáng lẽ phải coi công tác CTTL là nhiệm vụ của mỗi người lính, thực hiện bằng nụ cười, cái bắt tay thân thiện... và vận dụng mọi cơ hội để tranh thủ “con tim và khối óc”   của từng người dân, người lính, kẻ thù và dư luận. CTTL đáng lẽ phải được coi là nghệ thuật, không phải chỉ là kỹ thuật.
3.  Khai Thác Thắng Lợi         
        
          Phe VNCH và Mỹ không nói lên được những điều tốt về quân đội  của mình trong khi Hoa Kỳ là nơi kỹ nghệ quảng cáo dẫn đầu thế giới. Thí dụ nổi bật là chỉ vì không  quảng bá đầy  đủ tin tức mà chiến thắùng vĩ đại nhất, Tết Mâu Thân 1968, bị dư luận cho là QLVNCH và Mỹø đại bại.
          Thắng lợi quan trọng nhất của QLVNCH và đồng minh năm 1968 lại là trên mặt  trận TLC, hơn hẳn mặt trận quân sự. Trước 1968, một số đông dân chúng Huế có lập trường phản chiến, chống chính phủ Sài Gòn. Sau Tết Mậu Thân 1968, đại đa  số dân chúng khắp nơi nhất là ở Huế, đặc biệt là giới thanh thiếu niên đã quay hẳn sang phía VNCH tạo ưu thế tâm lý cho QLVNCH. Không có quần chúng nổi dậy ở bất cứ nơi nào như các lãnh tụ CSVN tin tưởng. Thế mà Mỹ và VNCH đã không thể nói lên cho thế giới bên ngoài biết rõ sự kiện rất quan trọng này.
          Một thí dụ nhỏ cho thấy các chiến lược gia Mỹ không uớc tính được yếu tố  tinh thần của binh sĩ VNCH.   Có những dấu hiệu cho thấy cấp lãnh đạo chiến tranh ở Hoa Kỳ không có dự liệu được những tác động từ kế hoacïh Việt Nam Hóa, thí dụ như trang bị vũ khí cho QLVNCH. Vào năm 1964 và 1965, quân CSVN đã được trang bị súng AK-47 có khả năng áp đảo vũ khí của QLVNCH như súng trường Garand M-1, Carbine và Thompson khiến nhiều binh sĩ VNCH mất tinh thần. Mãi đến năm 1969, Mỹ mới trang bị súng M-16A1 cho toàn thể QLVNCH. Chậm chạp, so đo, tiếc của trong “Cách Cho” làm giảm phần nào giá trị cao quý mà “của cho” mang lại.
4. Nỗ Lực Từ Phía Hoa Kỳ.

          Quân Đội Mỹ đã có những nỗ lực chiến thuật đáng kể về mặt trận CTTL. MACV có nhiều tiểu đoàn Tâm Lý Chiến/Dân Sự Vụ yểm trợ các phi cơ phóng thanh và rải truyền đơn, các toán Quân Y Dân Sự Vụ  kết hợp với  TLC/DSV của Việt Nam.
Kết quả ở mứùc trung bình. Mãi đến sau khi VNCH sụp đổ, tác dụng chậm của những hoạt động này mới ngấm sâu trong tâm tư của nhiều người dân Miền Nam.
          Phòng Thông Tin Mỹ có những cố gắng và kỹ thuật hữu hiệu trong mặt trận tuyên vận chung nhưng không được dành cho ưu tiên yểm trợ nên khả năng ấy bị giới hạn.
          Phía Mỹ cũng có nỗ lực giúp QLVNCH phản tuyên truyền  chống lại chế độ CSVN như xâm nhập  vùng biển Bắc Việt làm công tác tuyên vận, lập đài phát thanh mạnh Tiếng Nói Tự Do hướng về dân chúng Miền Bắc (có kết quả tốt) và các đài phát thanh “tuyên truyền xám” khác. Tuy nhiên đây chỉ là những nỗ lực kém ưu tiên với kỹ thuật tuyên truyền không đủ tinh vi.  Đáng lẽ phía VNCH và Mỹ phải có nỗ lực thật lớn để dư luận thấùy rõ bản chất của chế độ CSVN tại Bắc Việt và nhất là mặt trái của guồng máy chiến tranh  của bộ đội CSBV. Các cấp lãnh đạo chiến tranh có lẽ đã không nghĩ rằng trong tuyên truyền cũng như trong quân sự, “tấn công là biện pháp phòng thủ hữu hiệu nhất.”
5. Nỗ Lực từ Phía Việt Nam.
          Ngay từ ngày thành lập, chính quyền VNCH và QLVNCH đãõ có nhiều cố gắng cải tiến trận chiến tư tuởng. Từ một cơ quan Chiến Tranh Tâm Lý nhỏ bé trước năm 1954 đến một tổ chức rất lớn là Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị từ năm 1965, hoạt động tuyên vận sâu rộng hơn trước. Ngành này đạt được kết quả tốt trong việc xây dựng tư tưởng cho quân sĩ, vận động dân chúng ủng hộ binh sĩ và cuộc chiến đâú bảo vệ Miền Nam Tự Do, giúp đỡ dân chúng về văn hóa giáo dục, xã hội, y tế...
          Đối với địch, quân đội tiếp tay tích cực với chương trình Chiêu Hồi của chính phủ VNCH, được Hồng Thập Tự quốc tế ca ngợi về thành tích bảo vệ săn sóc tù binh.
          Kết quả là quân đội đã gây được phần nào lòng tin tuởng của quần chúng, so với thời kỳ trước năm 1954, dân chúng hợp tác với quân đội tích cực hơn nhiều. Số thanh niên tình nguyện nhập ngũ luôn luôn cao, đặc biệt tăng vọt trong các thời điểm sôi động như Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè 1972...
         Con số binh sĩ CSVN hưởng ứng chính sách Chiêu Hồi lên rất cao từ năm 1966, tổng cộng trên 160.000 người. Một số đông đảo cựu binh sĩ CSVN nói trên tình nguyện nhập ngũ QLVNCH và chiến đấu rất can trường.
XI. MŨI DÙI CHỈ TRÍCH
          Các cố gắng bôi nhọ QLVNCH và đồng minh được bộ máy tuyên truyền của  CS  và thái độ ác ý của báo giới phản chiến được tập trung vào các đề tài sau đây:
1. Tham Nhũng.
          Tham nhũng là căn bẹânh của mọi chính quyền, mọi quốc gia nhưng ở VNCH nó bị khai thác sâu rộng nhất với ác ý chống lại VNCH và QLVNCH.                                        
          Nạn tham nhũng từ trước năm 1954 để lại nhưng dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm các vụ tham nhũng bị hạn chế phần nào. Sau đó đến thời kỳ quân nhân cầm đầu chính quyền các cấp, nạn tham nhũng càng ngày càng trầm trọng. Chiến tranh mở rộng từ năm 1965 lại càng tạo thêm thuận lợi cho các vụ nhận hối lộ mua bán chức vụ, trốn quân dịch, bớùt xén các loại ngân khoản, bán vật dụng của quân đội...
          Nạn tham nhũng bị báo chí Mỹ và nước ngoài phóng đại quá đáng và không chính xác. Thí dụ nạn “lính ma” mà họ thường nói đến. Lối ăn cắp công  quỹ kiểu này không được ưa chuộng vì dễ bị khám phá vì có nhiều cách ăn cắp khác dễ làm và khó điều tra hơn.
          Một quan niệm được không ít các nhà lãnh đạo VNCH chấp nhận và cũng được một số nhân vật Mỹ trong vai trò yểm trợ tán đồng. Đó là chấp nhận cho các sĩ quan viên chức tham nhũng có mức độ nếu họ làm việc hăng hái tích cực và hữu hiệu. Kinh nghiệm cho thấy quan điểm này sai lầm nghiêm trọng. Kẻ ăn cắp của công không bao giờ chịu dừng lại ở một giới hạn nào cả.
          So với nạn tham nhũng hiện diễn ra tại Việt Nam, thì tham nhũng ở VNCH nhất là trong QLVNCH chỉ là các con số bé nhỏ hơn ít nhất hàng chục lần. Tuy nhiên vào thời chiến trước một kẻ thù giỏi tuyên truyền bịa đặt và vu cáo và báo chí bên ngoài thiên vị, có định kiến thì mức độ tham nhũng ấy tuy nhỏ nhưng cũng đủ gây tai hại nghiêm trọng.
2. Tội Ác Chiến Tranh.    
    
          Phe Cộng Sản đã thành công khi vẽ ra trước mắt thế giới và đặc biệt là trước nhân dân của họ những hình ảnh ghê rợn về Chiến Tranh Việt Nam trong đó lính Mỹ và VNCH thường xuyên giết chóc, hãm hiếp, tra tấn hàng trăm người một lúc một cách tự do không bị trừng phạt.
          Dân chúng dưới quyền cai trị của CSVN chưa hề biết rõ sự thực dễ dàng tin theo những luận điệu vu cáo này vì họ đã từng chứng kiến quân đội Pháp hành động như thế trước năm 1954. CSVN dựa vào những sự kiện có thật nhưng ít ỏi để làm cho dân chúng nghe tuyên truyền tuởng như đó là tội ác thường xuyên lính VNCH và Mỹ. Vì vậy CSVN dễ gieo căm thù vào đầu óc quần  chúng dưới tay họ.
          Bất cứ một quân đội nào cũng có thể có những vụ phạm tội như thế nhất là trong thời chiến. Các đơn vị QLVNCH không thể ngăn chận hoàn toàn các tội phạm chiến tranh. Đã có những vụ vi phạm như  cướp bóc tài sản của dân chúng, những vụ tra tấn, giết người nhất là giết tù binh bừa bãi và những vụ hãm hiếp phụ nữ trong vùng hành quân. Tất cả là do các hành vi cá nhân lẻ tẻ xảy ra tại những vùng xa xôi và khi các cá nhân này ở ngoài tầm kiểm soát của các đơn vị trưởng cấp thấp. Tuy nhiên con số những vụ phạm pháp này rất thấp so với các cuộc chiến tranh khác trên thế giới. Hầu hết các thủ phạm đều bị truy tố và kết án.
          Một thí dụ khác là công chúng Mỹ biết rất rõ vụ Mỹ Lai với 500 nạn nhân (theo sách báo của CSVN) mà biết rất ít về vụ CSVN tàn sát trên 5,000 người ở Huế tháng 2 năm 1968.  Hoặc như các vụ rất hiếm hoi binh sĩ Mỹ và VNCH phạm tội ác chiến tranh được đăng báo nhưng khi tòa quân sự tuyên án nặng nề thì ít khi được các báo chí loan tin.
           Nhưng thực tế cho thấy chắc chắn là QLVNCH chưa hề gây ra những vụ tàn sát hàng trăm hàng ngàn nạn nhân như vậy.
           Đối với tù binh, QLVNCH đối xử tương đối  khá tử tế, được các bộ phận giám sát của Hồng Thập Tự Quốc Tế công nhận. Ngoài những vụ ngược đãi cá biệt, đời sống tù binh được bảo đảm  đúng theo Công Ước Geneva 1949. Vào lúc tiền ăn một ngày của binh sĩ VNCH là 88 đồng thì tiền ăn của tù binh là 100 đồng (năm 1969).
3. Tinh Thần Chiến Đấu Thấp.               
    
      Để chứng tỏ rằng lính VNCH không chịu chiến đấu cho tự do của Miền Nam, một số báo chí ngoại quốc có ác ý chỉ khai thác những tin tức va øhình ảnh xấu  về những hành động cá nhân ươn hèn chạy trốn, bỏ hàng ngũ khi giáp chiến, như bám càng trực thăng để thoát thân khỏi vùng giao tranh. Nhưng hầu như không mấy nhà báo này được - hoặc muốn - sinh hoạt nhiều ngày tháng với các đơn vị VNCH để  thấy rõ sức chịu đựng gian khổ, tinh thần hy sinh và các hành vi  anh hùng của  tuyệt đại đa số binh sĩ VNCH.
          Một trong những lời chỉ trích vì tin tức không đầy đủ là về nạn đào ngũ trong QLVNCH. Quả thực vì đời sống quá vất vả gian nguy khiến con số binh sĩ đào ngũ lên khá cao. Theo một vài thống kê tổng số lính VNCH đào ngũ có thể lên tới 700.000  người trong 20 năm chiến  tranh.
          Tuy nhiên, đại đa số lính đào ngũ này đều trở lại đơn vị cũ hoặc tình nguyện vào đơn vị khác sau một vài tháng lẩn trốn để gần gia đình hoặc nghỉ ngơi. Số binh sĩ thực sự đào ngũ không quay lại chỉ ở một con số rất thấp, có lẽ không cao hơn so với QĐ Mỹ nhiều lắm. Đăïc biệt là số đào ngũ sang phục vụ hàng ngũ địch còn hiếm hoi hơn. Các nhà báo và các nhà nghiên cứu  ít ai biết hoặc quan tâm đến các sự kiện này.
XII. TRẬN CUỐI CÙNG.
         Trong mọi cuộc chiến tranh, trận cuối cùng thường là trận quyết định. Trận đánh cuối cùng của Chiến Tranh Việt Nam cho thấy kẻ thắng chỉ hơn kẻ thua ở mức độ kiên nhẫn và chịu đựng của thế lực yểm trợ từ bên ngoài.
          Vào khoảng thời gian từ 1974 đến tháng 3 năm 1975 khi CSVN mở đầu chiến dịch tổng tấn công, viện trợ đạn dược và quân dụng tác chiến thiếu trầm trọng,  các máy truyền tin ở cấp đại đội và tiểu đoàn chỉ dùng đuợc 10 ngày mỗi tháng. Cung suất đạn đại bác chỉ còn 3 viên/khẩu/ngày. Các đơn vị QLVNCH mỗi ngày thêm mất tinh thần nhưng vẫn chiến đấu bền  bỉ.
           Sau khi Phước Long bị CSVN đánh chiếm bất chấp Hiệp Định Paris mà Hoa Kỳ không có phản ứng thì không còn cách gì duy trì được lòng tin của binh sĩ nữa. Vậy mà đến phút chót, nhiều đơn vị vẫn còn chiến đấu tiếp tục.
          Cùng lúc ấy, lực lượng CSVN cũng đã suy yếu trầm trọng. Trong nỗ lực gần như cuối cùng, các đoàn quân CSVN tiến vào Sài Gòn ngày 30/4/1975 mỗi tiểu đoàn chỉ còn trên 100 binh sĩ tuy rằng số lượïng đơn vị tham chiến rất lớn (hàng chục sư đoàn). 
Tại nhiều tỉnh, quận đồng bằng sông Cửu Long hai  ngày sau khi Sài Gòn đầu hàng, lực lượng CSVN vẫn chưa có đủ cán bộ và du kích vào tiếp nhận các cơ sở quân sự và dân sự,
          Có thể nói chắc rằng nếu quân lực CSVN bị Bắc Kinh và Mạc Tư  Khoa giảm viện trợ tương tự như Mỹ cắt giảm sự ủng hộ và quân viện cho QLVNCH thì chế độ CSVN cũng không thể làm gì khác hơn là chịu hòa hay thua.
XIII. HAI MƯƠI NĂM QLVNCH
      Một câu hỏi không thấy mấy nhà báo hay các nhà nghiên cứu đặt ra về QLVNCH là quân lực này đã ảnh hưởng như thế nào đến xã hội Việt Nam khi còn hiện hữu cũng như sau khi bại trận và giải thể.
          QLVNCH là một bộ máy quân sự, nhưng đã đóng góp trực tiếp và gián tiếp khá nhiều cho đời sống của nhân dân Miền Nam Việt Nam.
a.  Về mặt văn hóa, các bộ phận ngành Chiến Tranh Chính Trị, Tâm Lý Chiến với sự đóng góp của nhiều tư nhân đã tiếp tay hữu hiệu vào việc phát triển văn hóa tư tưởng. Hội viên các hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội đã góp phần quan trọng vào lãnh vực này với nhiều tác phẩm văn chương, khảo cứu, hội họa, điêu khắc có giá trị lâu dài. Đặc biệt là về sinh hoạt âm nhạc, các nhạc trưởng, nhạc sư, ca nhạc sĩ quân đội  đã đóng góp một số lượng lớn các tác phẩm ca nhạc
bất hủ nhất là các ca khúc thuần túy nghệ thuật ngoài các nhạc khúc phục vụ mục đích cổ võ tinh thần dân chúng và binh sĩ. Các ban nhạc và ca đoàn ngành CTCT đã đào tạo nhiều ca sĩ có tiếng cho Miền Nam.
b.  Về mặt giáo dục và khoa học kỹ thuật,  con số đông đảo các  giáo sư nguyên là sĩ quan QLVNCH biệt phái đã đem vào ngành giáo dục phần nào những phong cách tiến bộ và thích hợp khiến nền giáo dục có không khí phóng khoáng hơn. Riêng về khoa học kỹ thuật, các quân binh chủng QLVNCH đã đào tạo nhiều chuyên viên ưu tú các ngành y dược, cơ khí, điện lực, viễn thông, kiến trúc, hàng không, hàng hải...
          Trong hơn 20 năm tồn tại, QLVNCH đã cùng với các cơ sở nghiên cứu và giáo dục khoa học kỹ thuật phiên dịch sang tiếng Việt hầu  hết các sách vở, tài liệu, các thuật ngữ khoa học kỹ thuật từ tiêng Anh, khiến công việc
các cựu quân nhân VNCH đã có gần 400 ngàn là chuyên viên trẻ cao cấp.
Những thành tựu khoa học kỹ thuật của Miền Nam nói trên đến nay vẫn còn co' tác dụng tốt cho nước Việt Nam mà chế độ CSVN đang thừa hưởng với trìnđộ giáao dục khoa học kỹ thuật cao không thua kém các nước phát triển ở Tây Phương bao nhiêu
c. Về mặt xã hội, chiến tranh đã khiến một số đông đảo thanh niên phục vụ quân đội trong đó có một phần khá lớn thanh niên trí thức.  Ở một mặt, số thanh niên trí thức vào quân đội qua các quân trường trừ bị và hiện dịch đem lại cho quân đội một bộ mặt mới, tác phong mới, ý chí mới.
 Ở một mặt khác,  những con người lính trẻ đã làm cho gia đình và bạn bè của ho chịu ảnh hưởng và gần gũi nhiều hơn với quân đội và chiến tranh. Tâm tình người lính và những người yêu thương của họ đã là đề tài cho nhiều tác phẩm văn, thơ, nhạc kịch có giá trị còn mãi trong dân gian.
XIV. THÊM MỘT LẦN GIAN KHỔ HY SINH
          Sau khi thắng, CSVN đã đối xử với cựu chiến binh QLVNCH một cách hèn hạ, tìm cách trả thù gián tiếp bằng tù đầy, ngăn cản con cái họ lên đại học, đầy đọa đến những nơi rừng thiêng nước độc. Chính vì thế
mà lòng căm phẫn của họ đối với CSVN cao hơn trong chiến tranh gấp nhiều lần. Họ đã hy sinh nhiều trong chiến tranh, nhưng sau chiến tranh họ phải
chịu hy sinh một lần nữa trong tù đầy cho chính nghĩa của TỰ DO   Ngày nay đa số sĩ quan QLVNCH cũ đã được định cư ở nước ngoài. Họ có quyền hãnh diện đã đóng góp cho các nước này một khối chất xám của các thế hệ con cháu họ. Được biết trong số hơn 2 triệu người Việt Nam tị nạn trođó một số lớn là thuộc gia đình các cựu quân nhân VNCH đã có gần 400 ngàn là chuyên viên trẻ cao cấp.
XV. CHÍNH  NGHĨA ĐƯỢC CHỨNG MINH.
Nếu có ai hỏi QLVNCH đã làm gì cho tổ quốc của họ, câu trả lời sẽ là “Họ đã làm được nhiều điều cho đất nước và dân tộc họ, tốt nhiều hơn xấu.” Họ đã hy sinh  xương máu lớn lao
để giữ cho một nửa đất nước được sống hơn 20 năm trong tự do dân chủ; dù còn hạn chế cùng với một số bất công xã hội, nhưng hơn hẳn Miền Bắc duới chế độ Cộng Sản hàng trăm lần. Đó là một giá
khá đắt nhưng vinh quang và anh hùng.
            Những hành vi áp bức, bóc lột dân chúng, những thành tích xấu về tự do và nhân quyền, những thất bại to lớn sau khi chiếm Miền Nam và tình trạng đạo đức sa đọa cùng các tệ nạn xã hội trầm trọng với cách biệt giầu nghèo quá đáng là những chứng  cớ không thể chối cãi rằng mặt trận tranh đấu chống CSVN ở Việt Nam và  chiến đấu  của QLVNCH là vô cùng chính đáng.
          Con số hơn 2 triệu người vượt biển băng rừng tị nạn Cộng Sản bất chấp rủi ro lớn lao làm khoảng 100.000 người chết trên đường đi có lẽ đã quá đủ để chứng minh cho chính nghĩa của VNCH và QLVNCH trong một cuộc chiến mà kẻ xấu và lời nói láo đã thắng, không những thắng một chế độ mà còn thắng cả lương tri của nhân loại.
 Nhóm Đặc Nhiệm TTCSVNCHHN  
http://www.tapthechiensivnch.org/binhluan/9-06/nhandinhveQLVNCH.htm 

Một Quân Đội Bị Lãng Quyên!




                               

"Việt Nam , Một Quân Ðội Bị Bỏ Quên"




Tác giả cuốn "Việt Nam , Một Quân Ðội Bị Bỏ Quên"

 trả lời phỏng vấn RFA

Nguyễn Khanh, phóng viên đài RFA

Quyển sách viết bằng Anh Ngữ mang nhan đề “Việt Nam , Một Quân Ðội Bị Bỏ Quên: Anh Hùng Và Kẻ Phản Bội Trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa” do Giáo Sư Tiến Sĩ Sử Học Andrew Wiest viết, mới được ra mắt hôm Chủ Nhật vừa rồi. Ngay sau buổi ra mắt sách, Tiến Sĩ Wiest đã dành cho Nguyễn Khanh của Ban Việt Ngữ chúng tôi cuộc phỏng vấn đặc biệt sau đây.
Hình bìa cuốn "Việt Nam , Một Quân Ðội Bị Bỏ Quên"

Nguyễn Khanh: Là người chào đời trong thập niên 60, ông đâu có liên hệ gì với cuộc chiến Việt Nam . Tại sao ông lại viết quyển sách về cuộc chiến ông không hề liên quan?

Tiến sĩ Andrew Wiest: Mặc dù lúc đó tôi còn quá nhỏ, nhưng phải nói là tôi lớn lên với cuộc chiến Việt Nam . Lúc đó truyền hình, báo chí lúc nào cũng nói đến cuộc chiến, và cuộc chiến này có ảnh hưởng sâu đậm với những người lớn tuổi hơn tôi.

Ðây là cuộc chiến mang nhiều bí mật. Một cuộc chiến hầu như không được giảng dậy trong lớp học, không được viết thành sách để những thế hệ sau này có thể hiểu những chuyện gì đã xảy ra, một cuộc chiến mà theo tôi, hình như chính người Mỹ muốn quên đi, quên càng nhanh càng tốt, không ai muốn nói tới nó. Chính những bí mật đó đã khiến tôi chú ý đến cuộc chiến Việt Nam .

Khi tôi quyết định theo học các lớp sử quân sự, tôi hy vọng sẽ được giảng dậy về cuộc chiến này, nhưng chẳng ai nói tới cả. Tôi có cảm tưởng là mọi người muốn bảo tôi rằng quên nó đi, đừng nhắc tới làm gì, và điều đó lại làm tôi càng phải chú ý hơn.
Nguyễn Khanh: như vậy, phải chăng qua quyển sách này, ông muốn cho người đọc một cáinhìn, một hiểu biết đúng về cuộc chiến? Một cái nhìn, một hiểu biết cân bằng hơn?
Tiến sĩ Andrew Wiest: tôi hy vọng như vậy. Trong quyển sách, tôi có trình bày là quân đội miền Nam Việt Nam không được sử sách nhắc đến gì mấy, hoặc là quân đội miền Nam Việt Nam không được trình bày một cách cặn kẽ trước người đọc Mỹ. Vì thế trong quyển sách này, tôi giới thiệu đến người đọc hai nhân vật của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, một anh hùng, một phản bội, và hy vọng từ đó tất cả mọi người nhìn cuộc chiến dưới những góc nhìn khác nhau.
Tôi cũng hy vọng là hình ảnh tương phản tuyệt đối và đặc biệt này, anh hùng tuyệt đối, phản bội cũng tuyệt đối, sẽ giúp tôi trình bày câu chuyện trong một khung cảnh báo quát hơn.
Nguyễn Khanh: nhưng thưa Giáo Sư, cuộc chiến kết thúc đã gần 33 năm rồi, các vết thương có lẽ cũng đã lành. Ở thời điểm như vậy mà ông vẫn bỏ thì giờ để viết về một cuộc chiến chính ông nói mọi người đều muốn quên?
Tiến sĩ Andrew Wiest: phải thành thật mà nói với ông rằng trong bối cảnh chiến tranh thời đó, thì câu chuyện mà tôi tìm được là một câu chuyện tuyệt vời. Khi lớn lên, tôi được đọc biết bao nhiêu chuyện tuyệt diệu nói về cuộc thế chiến thứ Hai, từ chuyện trốn thoát khỏi ngục từ Ðức Quốc Xã, cho đến những câu chuyện anh hùng ở trận chiến Normandy, kể cả chuyện những kẻ phản bội đồng đội.
Khi nghe được câu chuyện của ông Phạm Văn Ðính và chuyện của ông Trần Ngọc Huế, tôi cũng chỉ mong mình kể lại được một câu chuyện đầy sống động liên quan đến cuộc chiến Việt Nam, về cuộc chiến bị quên lãng.
Những người thật sự liên hệ đến cuộc chiến này chính là những người Việt Nam bị bỏ quên. Họ chiến đấu hết sức mình, chiến đấu dũng cảm hơn cả những người đã tham gia các cuộc chiến trước đó. Họ đã chiến đấu trong niềm tự hào của những kẻ anh hùng, và họ cũng đã chiến đấu trong những nỗi khốn cùng của người không may lâm vào cuộc chiến.
Là một sử gia, tôi quyết định tìm cho được những gì mới về chiến tranh Việt Nam, y hệt như những người đi tìm cái mới khi muốn viết về trận thế chiến thứ Nhất. Có cả tỷ tỷ quyển sách viết về trận thế chiến thứ nhất rồi, trong khi cuộc chiến Việt Nam thì chưa, nên tôi mừng vì tìm thấy được một viên hột xoàn quý giá nằm dưới đáy sông. Thành ra, tôi viết quyển sách với một niềm hứng thú
Tác giả Andrew Wiest ký tặng sách trong ngày ra mắt “Anh Hùng và Bội Phản” tại Falls Church, Virginia, ngày 17 tháng Hai. (Hình: Thiện Giao/RFA)
Nguyễn Khanh: phải chăng vì thế mà một phần quyển sách được ông đặt là “Việt Nam : Một Quân Ðội Bị Bỏ Quên”? Tại sao họ lại bị bỏ quên và họ bị bỏ quên như thế nào?
Tiến sĩ Andrew Wiest: câu hỏi của ông hay quá!!! Thật ra tựa lúc đầu tôi đề nghị với nhà xuất bản là “Con Ðường Danh Dự” vì có một quyển sách thật hay đã được quay thành phim viết về Thế Chiến Thứ Nhất mang nhan đề là “Con Ðường Vinh Quang”. Tôi dùng “Con Ðường Danh Dự” vì muốn trình bày cho người đọc thấy cả hai nhân vật, một anh hùng, một phản bội đều mang trong lòng ý tưởng “danh dự”, và để cho người đọc phán quyết xem ai là người có thể tin được 
Khi tôi gửi quyển sách đến nhà xuất bản, thì người chịu trách nhiệm đọc và chọn quyển sách nói rằng tựa do tôi đặt không giúp người đọc biết là quyển sách họ cầm trong tay nói về cuộc chiến Việt Nam, cần phải có một cái tựa khác để độc giả biết ngay quyển sách của tôi nói về chuyện gì. Cuối cùng, chúng tôi đồng ý “Việt Nam : Một Quân Ðội Bị Bỏ Quên” là một tựa sách hay, và chúng tôi cũng đồng ý dùng cả lá cờ vàng 3 sọc đỏ chạy ngay trên bìa quyển sách để tạo lôi cuốn.
Còn về câu hỏi ông đặt ra quân đội này đã bị bỏ quên như thế nào? Thưa ông, họ bị bỏ quên vì chẳng ai viết về họ cả. Thế giới Tây Phương không ai muốn viết, muốn nhắc về họ. Qua tiếp xúc với cộng đồng người Việt ở hải ngoại, điều tôi tìm thấy là một lịch sử đấu tranh anh hùng mà hầu như người khác, chẳng mấy ai biết.
Nguyễn Khanh: và đó là thông điệp mà ông muốn gửi đến người đọc???
Tiến sĩ Andrew Wiest: tôi nghĩ đây là một thông điệp mạnh mẽ được gửi đến người đọc. Ðương nhiên trong cộng đồng người miền Nam , quân đội này không bao giờ bị bỏ quên. Ðó là một quân đội trong quá khứ có một sức sống mãnh liệt, và sức sống này vẫn còn hiện diện với họ ngày hôm nay cũng như trong tương lai.
Tôi xin kể cho ông nghe một câu chuyện. Mới đây, khi đến thành phố Adelai ở Australia, tôi ghé thăm Ðài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam và nhìn thấy người lính Australia bên cạnh người lính Miền Nam, nhìn thấy lá cờ Australia bên cạnh lá cờ Miền Nam Việt Nam. Nếu đến Ðài Tưởng Niệm ở thủ đô Washington, ông thấy tất cả đều là hình ảnh của người lính Mỹ. Tôi có thể nói là với nhân dân Hoa Kỳ, điều họ nhớ đến là quân đội Mỹ đã từng chiến đấu ở Việt Nam, nhớ những kinh nghiệm từ bài học Việt Nam. Và đó là lý do tại sao tôi lại dùng từ “bị bỏ quên”.
Nguyễn Khanh: tôi có cảm tưởng ông đang muốn làm điều mà tôi xin được gọi là sửa lại lịch sử cho đúng. Thưa ông, có phải như vậy không?
Tiến sĩ Andrew Wiest: tôi không dùng từ “sửa lại lịch sử” mà tôi muốn dùng từ “đóng góp thêm”. Lịch sử cuộc chiến Việt Nam thường chỉ được trình bầy ở bề nổi, không được trình bầy ở bề sâu. Tôi nghĩ rằng không phải chỉ quyển sách này, mà những quyển sách khác viết về nguyên nhân dẫn đến chiến tranh, nguyên nhân khu vực, nguyên nhân toàn cầu, nếu người viết thoát được cải vỏ bọc Mỹ Quốc, thì người viết sẽ có được cái nhìn sâu rộng hơn. Tôi tin đó là hướng mà tôi đang đi.
Nguyễn Khanh: sau quyển sách ra mắt ngày hôm nay, quyển sách kế tiếp ông sẽ viết về đề tài gì? Liệu có phải là cuộc chiến Việt Nam nữa không?
Tiến sĩ Andrew Wiest: tôi cũng hy vọng như vậy. Như ông thấy, tôi mất 7 năm trời mới hoàn tất được quyển sách này. Có thể là lần này tôi may mắn tìm được một câu chuyện thật tuyệt vời để kể lại với người đọc, đưa ra được những chứng cớ xác đáng để các nhà sử học dùng làm tài liệu nghiên cứu. Là một nhà sử học, đó là mục tiêu tôi đặt hàng đầu: các nhà sử học khác có tài liệu đích thực để tham khảo, và người đọc có được một quyển sách hay để đọc.
Nếu viết thêm về cuộc chiến Việt Nam, có thể tôi sẽ viết về những người đã được tưởng thưởng các huy chương cao quý của quân đội Hoa Kỳ, như huy chương Sao Bạc, Sao Ðồng. Tìm tài liệu chắc không khó, nhưng viết ra theo cái nhìn của người viết sử thì rất khó. Tôi không muốn viết một quyển sách để sau đó nghe mọi người bảo quyển sách đọc thì hay, nhưng chẳng có gì để đóng góp cho kho tàng sử liệu cả.
Ngay cả chuyện các cố vấn Mỹ cũng là đề tài đáng viết. Sách nói về cuộc chiến đều là sách nói về các trận đánh, và không ai nói về vai trò của các cố vấn Hoa Kỳ cả. Họ cũng thuộc thành phần bị bỏ quên, và tôi tin đó là một quyển sách đáng viết.
Nguyễn Khanh: cám ơn Tiến Sĩ Wiest.

“Anh hùng và Kẻ bội phản trong Quân lực VNCH,”

 một tiếng nói mới về chiến tranh VN

Thiện Giao, phóng viên đài RFA
Buổi ra mắt tác phẩm nghiên cứu lịch sử về chiến tranh Việt Nam của giáo sư Andew Wiest tại thành phố Falls Church có thể được xem là cơ hội để những người bạn cũ, những đồng đội cũ, của 40 năm trước gặp lại nhau.


Hai cựu cố vấn Hoa Kỳ chụp hình chung hai cựu chiến sĩ đại đội Hắc Báo năm xưa. (Hình: Thiện Giao/RFA)
Họ có thể là những mảnh vụn, bị phân tán khắp nơi sau khi chia tay, để rồi, với tác phẩm nghiên cứu của Wiest, họ lại được sắp vào nhau như một khoa học ghép hình, góp phần tái lập lại hình ảnh đúng đắn hơn cho một quân đội, theo lời giáo sư Wiest, gần như chưa bao giờ được thế giới Tây Phương thừa nhận và đối xử công bằng. Biên tập viên Thiện Giao có bài tường thuật tại chỗ sau đây.
Thành phố Falls Church, ngày 17 tháng Hai, năm 2008. Tại buổi lễ ra mắt tác phẩm nghiên cứu lịch sử của giáo sư Andrew Wiest. Tác phẩm có tên “ Vietnam ’s forgotten Army. Heroism and betrayal.”

“Hãy cho tôi giải thích tại sao tôi viết cuốn sách này. Tôi chỉ mới 14 tuổi khi Sài Gòn thất thủ, còn quá trẻ cho cuộc chiến Việt Nam ! Nhưng tôi đã nhìn thấy cuộc chiến ấy mỗi ngày, trên tivi, trong ánh mắt những thanh niên Hoa Kỳ đàn anh trở về từ chiến trường Việt Nam, trên khuôn mặt những người Việt Nam được các nhà thờ trong địa phương bảo trợ sang Hoa Kỳ sau cuộc chiến.
Nhưng tôi cũng nhận ra một điều: không một ai có thể giải thích cuộc chiến ấy! Đối với tôi, đó là một bí ẩn. Và chắc hẳn, đó cũng là bí ẩn trung tâm của thế hệ chúng tôi. Và tôi quyết định đi tìm câu trả lời.”(Tiến sĩ Andrew Wiest)
 Cuộc chiến không thể diễn tả hết bằng giấy mực
Andrew Wiest, giáo sư sử học, Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Tranh và Xã Hội tại đại học Southern Mississippi trình bày nguyên ủy ra đời của tác phẩm “Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Một Quân Đội Bị Quên Lãng. Anh Hùng và Kẻ Bội Phản.”
Đối với Andrew Wiest, chiến tranh Việt Nam là một lớp học không có giáo sư, một cuốn sách không có tác giả, một điều cấm kỵ mà dường như hầu hết người Mỹ muốn quên đi.
Wiest không chọn thái độ đó, và ông quyết định một phương pháp giảng dạy mới. Đó là, mời các cựu chiến binh đến giảng bài, và sau đó, chính ông đưa họ cùng các sinh viên sang Việt Nam, để tìm hiểu chiến trường của hơn 30 năm trước, và cũng để đi tìm diện mạo của một quân đội mà ông gọi là “bị bỏ quên.”
“Trong thời gian ở Việt Nam, tôi gặp một người đàn ông có tên là Phạm Văn Đính, đã tham gia chiến tranh Việt Nam . Qua câu chuyện ông ta kể, tôi thấy ông ta là một bí ẩn. Tôi tin rằng, tôi sẽ cần phải nói chuyện với ông ta nhiều hơn nữa để học hỏi.
Sau khi trở lại Hoa Kỳ, tôi hỏi rất nhiều người về Phạm Văn Đính. Tất cả đều nói, nếu tôi muốn biết nhiều hơn về Đính, có một người có thể kể cho tôi. Người đó tên là Trần Ngọc Huế, đã kết thúc cuộc đời binh nghiệp theo một con đường hoàn toàn khác Phạm Văn Đính.”
Và cuốn sách ra đời. Tác phẩm của Wiest là một công trình thuần túy lịch sử, nhưng cấu trúc được xây dựng lạ lùng, và chủ đề được tiếp cận nhân bản.

Cuộc gặp gỡ định mệnh

“Anh Hùng và Kẻ Bội Phản” cũng đầy những con số, địa danh, tên gọi, tổn thất. Nhưng “Anh Hùng và Kẻ Bội Phản” không lạnh lùng, vô cảm. Tác phẩm được xây dựng trên 2 nhân vật chính, có thật, hoàn toàn có thể kiểm chứng trực tiếp hoặc gián tiếp. Hai nhân vật có tên Phạm Văn Đính và Trần Ngọc Huế.
Cả hai gặp nhau trong một sự sắp xếp trớ trêu của định mệnh. Trước hết, họ là đồng hương, là người Huế, và cùng yêu cố đô với tình cảm mãnh liệt. Cả hai đều chọn binh nghiệp. Sĩ quan Phạm Văn Ðính, sinh năm 1937, tốt nghiệp trường Võ Bị Thủ Ðức, sĩ quan Trần Ngọc Huế, sinh năm 1942, tốt nghiệp Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt.
Con đường binh nghiệp của cả hai sĩ quan trẻ gặp nhau tất cả 5 lần.
Bốn lần đầu, trong vinh quang, khi cả hai cùng liên tiếp được thăng cấp rất nhanh trong vai trò sĩ quan tác chiến. Sự gan dạ và các chiến tích của họ được tác giả cuốn sách gọi là “Thời Đại Của Những Anh Hùng.”
Lần gặp thứ năm, cũng là lần cuối cùng, cả hai không thể lường trước, về hoàn cảnh, về địa điểm, và cả tư thế. Lần gặp này, một trong hai người sẽ phải ân hận cho đến cuối đời.
 Một quân đội anh hùng
Tạm rời câu chuyện của Phạm Văn Đính và Trần Ngọc Huế để trở lại hành trình tìm hiểu chiến tranh Việt Nam của tác giả Andrew Wiest.“Không như những gì thế giới Phương Tây đã nghĩ, miền Nam Việt Nam đã chiến đấu cực kỳ anh dũng trong 20 năm. Anh dũng hơn cả những gì mà thế giới Tây Phương, cho đến thời điểm này, vẫn viết, vẫn tin và vẫn hình dung. Trong các trận đánh, từ chiến trường nhỏ trước Mậu Thân, và mở rộng ra sau đó, họ đã chiến đấu rất can đảm và hiệu quả.”
Wiest, ở tuổi 14 khi chiến tranh kết thúc. Có thể xem Wiest là thế hệ hậu chiến. Wiest, tại sao bị ám ảnh bởi cuộc chiến? Cuộc chiến tranh Việt Nam là vậy. Hãy nghe nhận định của giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, một diễn giả trong buổi ra mắt sách.
“Những câu chuyện thân tình mà Trung Tướng William Bolt vừa kể về Trần Ngọc Huế cho thấy ông tin rằng Huế đã chết, thế mà đột nhiên ông ta lại xuất hiện. Cuộc chiến Việt Nam là như vậy. Khó hiểu thật.
Tôi thuộc vào thế hệ chiến tranh, và tôi không thể lấy cuộc chiến ấy ra khỏi đầu tôi, rõ ràng là như vậy. Thế nhưng những thế hệ trẻ hơn, chẳng hạn giáo sư Wiest, tác giả cuốn sách này, thì rõ ràng, cuộc chiến Việt Nam lại quay về, và ám ảnh chúng ta.”
Hãy quay trở lại với hai sĩ quan trẻ Trần Ngọc Huế và Phạm Văn Đính. Hãy hình dung chiến trường Tchepone, Hạ Lào, gần 40 năm về trước.
Một đêm cuối tháng Ba năm 1971, trong khuôn khổ chiến dịch Lam Sơn 719, Trần Ngọc Huế lúc đó đang ở Tchepone, bị thương và ngất lịm. Ông ra lệnh cấp dưới mở đường máu thoát thân, để ông lại trận địa nhằm tránh gây cản trở trên đường tháo lui. “Giấc Mơ Bị Vỡ Vụn,” là tên của chương sách nói về trường hợp sĩ quan Trần Ngọc Huế bị bắt làm tù binh.
Về phần Phạm Văn Đính, trong giai đoạn cuối của hành quân Lam Sơn 719, được lệnh đưa đơn vị đến Khe Sanh để yểm trợ và đóng cửa căn cứ. Vòng vây Bắc Việt xiết chặt, tình thế hiểm nghèo. Phạm Văn Đình 2 lần nhận được yêu cầu của phía Bắc Việt: Đầu hàng để được toàn mạng. Trung tá Phạm Văn Đính quyết định đầu hàng, ở tuổi 35, khi còn 2 tháng nữa thì được
vinh thăng đại tá. “Kẻ Bội Phản” là chương sách nói về trường hợp của trung tá Phạm Văn Đính.
Một năm sau, tại một trại tù binh ở Sơn Tây, trung tá Đính và thiếu tá Huế gặp nhau lần thứ năm. Huế bàng hoàng nhận ra, trung tá Đính của quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngày nào, bây giờ đã là trung tá Đính quân đội nhân dân, đến gặp, nói chuyện và tế nhị chiêu dụ thiếu tá Huế hợp tác với miền Bắc. Thì ra, chỉ một thời gian ngắn sau khi trung tá Đính đầu hàng, ông đã quyết định đổi bộ quân phục, hợp tác và được chuyển ngang cấp bậc sang phía quân đội Bắc Việt.
Thiếu tá Huế từ chối hợp tác, bị giam đến năm 1973, có tên trong danh sách trao đổi tù binh theo Hiệp Định Paris . Ông được đưa đến địa điểm trao đối tù binh thuộc tỉnh Quảng Trị, có thể nhìn thấy cảnh cũ ở bên kia biên giới, tay đã chạm vào tự do, và rồi, một sĩ quan Bắc Việt tiến đến, nói rằng Huế bị bắt tại Lào nên không phải là tù binh của Bắc Việt. Ông không được trả tự do.
Năm 1983, thiếu tá Huế ra tù, về sống tại Sài Gòn, sau đó sang Hoa Kỳ và định cư tại thành phố Falls Church, tiểu bang Virginia , cho đến nay.
Trung tá Phạm Văn Đính thì đã qua đời hồi năm ngoái, tại Việt Nam , sau một lần sang Hoa Kỳ để trả lời phỏng vấn của tiến sĩ Wiest, tác giả cuốn sách đang được nói đến. Tại đây, những đồng đội ngày xưa, tức những kẻ thù bây giờ, kể cả các cố vấn Hoa Kỳ, từ chối gặp mặt ông.
 Lịch sử không công bằng
c giả Wiest khẳng định, quân lực Việt Nam Cộng Hòa là một quân lực bị bỏ quên. Trong tư thế một sử gia, Wiest khẳng định, bằng chính nghiên cứu của mình, rằng quân lực Việt Nam Cộng Hòa là một quân lực anh dũng, đã chiến đấu trong cuộc chiến 20 năm để bảo vệ tự do.
Quân lực ấy có rất nhiều anh hùng, nhưng không được lịch sử đối xử công bằng. Wiest nói, Tây Phương chỉ viết về chiến tranh Việt Nam như một cuộc chiến chỉ có người Hoa Kỳ đánh nhau. Thực tế không phải như vậy, và càng không phải như vậy khi người Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam . Hãy nghe thiếu tướng Creighton Abrams, con trai cố đại tướng Abrams nhắc lại những gì thân phụ ông suy nghĩ.
“Một sĩ quan người Anh đã phát biểu về cha tôi, rằng Abrams giỏi lắm, rất giỏi. Đáng lý ra ông ta phải có một cuộc chiến tốt hơn. Tôi không đồng ý với nhận định ấy.
Đến hôm nay tôi vẫn tin, cũng như cha tôi đã từng nói, quân đội miền Nam Việt Nam đáng cho những gì tốt nhất mà ông đã ra công. Và ông thấy hãnh diện đã từng cùng họ phục vụ một cuộc chiến mà kết thúc cuối cùng không như mong muốn.”
Để kết thúc, xin được giới thiệu trích đoạn trong lời đề tựa trên tác phẩm “Anh Hùng và Kẻ Bội Phản.” Lời đề tựa do thượng nghị sĩ James Webb, cựu Bộ Trưởng Hải Quân, và cũng là cựu chiến binh Việt Nam , viết, có đoạn đại ý như sau:
Câu chuyện của Phạm Văn Đính và Trần Ngọc Huế không phải là những câu chuyện dễ cảm nhận. Điều quan trọng không phải là nhìn vào một Việt Nam vươn mình từng năm một vào cộng đồng thế giới. Để hiểu được hai hành trình trái ngược này, phải nhìn vào một Việt Nam những ngày đầu thoát ra khỏi bóng tối của cuộc chiến.
Hãy nhìn như vậy, để cảm nhận một Trần Ngọc Huế chiến sĩ dũng cảm, trả giá đắt cho lòng trung thành nhưng chẳng bao giờ phải trả lời câu hỏi về danh dự. Trong khi đó, con đường mà Phạm Văn Đính đã chọn, ít đau đớn hơn, nhưng lại trở nên phức tạp hơn ở hồi kết thúc.”
Tác giả Wiest nói rằng, sự chọn lựa của hai nhân vật chính, nhất là quyết định “thay đổi bộ quân phục” của Phạm Văn Đính, sẽ do chính độc giả tự đánh giá. Mục đích của Wiest là, thông qua câu chuyện của hai sĩ quan này, trình bày lại sự thật về một quân đội quả cảm nhưng bị đối xử thiếu công bằng về mặt lịch sử.
Mà đó cũng là công việc của Wiest, một sử gia. Có người đã từng phát biểu, rằng “không có sử gia, sự thật sẽ vĩnh viễn nằm trong bóng tối.”
Andrew Weist, thông qua “Anh Hùng và Bội Phản,” đã phần nào đưa được sự thật ra ánh sáng.
Nguồn: https://sites.google.com/site/cqnucchau/vit-nam--mt-qun-i-b-b-qun


XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ QUÂN LỰC VNCH

25/06/2012 by: hh75
Trần Đỗ Cung

 QLVNCH dựng cờ tái chiếm Quảng Trị mùa hè 1972. Photo Trung tá Nguyễn Ngọc Hạnh

Vài lời của người dịch.

Tôi được một bạn trẻ Không Quân giới thiệu và Tiến Sỹ Lewis Sorley liên lạc gửi cho tôi bài diễn văn ông đã đọc tại Đại Học Kỹ Thuật Texas TTU về đề tài Reassessing ARVN. Ông có ý muốn nhờ tôi phiên dịch bài này ra để phổ biến rộng rãi trong cộng đồng Mỹ gốc Việt. Tôi đã đọc kỹ bài thuyết trình giài 32 trang, nhận thấy rất bổ ích về phương diện sử liệu và nhân bản và đã chấp thuận đề nghị.

Trong bài thuyết trình Tiến Sỹ Sorley đã dùng nhãn quan của một quân nhân và một trí thức khoa bảng để thẳng thắn bênh vực quân đội Việt Nam trong một thời kỳ chiến đấu cam go gian khổ nhất của nước nhà. Ông đã dầy công nghiên cứu các tài liệu đã bạch hóa hầu đưa ra những nhận xét rất xác đáng về khả năng, lòng quả cảm và sự chịu đựng tột cùng của các chiến sỹ chiến đấu cho một nước Việt Nam tự do trước những búa rìu bất công của các lực lượng phản chiến và thiên tả Mỹ Quốc. Những tên tuổi lớn ông đưa ra như Đại Sứ Ellsworth Bunker, Đại Tướng Creighton Abrams, Thiếu Tướng James L. Collins, Đại Tướng Tham Mưu Trưởng Lục Quân Harolk K. Johnson, Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara, trùm CIA William Colby, Sir Thompson, Tướng John Paul Vann, Tướng Tiếp Vận Việt Nam Đồng Văn Khuyên, Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tướng Cộng Sản Võ Nguyên Giáp, Lê Trọng Tấn vv là những nhân vật và dẫn chứng lịch sử trong giai đoạn nhiễu nhương và đau đớn ê chề cho đất nước và tất cả chúng ta.

Nói về chiến dịch Hạ Lào Lam Sơn 719 ông đã đưa ra những con số cho thấy địch quân đã bị thiệt hại nặng nề và quân ta tuy không thắng trận nhưng đã không thất bại như bọn chủ bại bên Mỹ đã rêu rao. Tôi được biết viên Trung Tướng cộng sản chỉ huy chiến dịch là Trung Tướng Phạm Hồng Sơn, tên thật là Phạm Thành Chính là một sinh viên luật cùng thời với tôi và cùng ở Đại Học Xá Bạch Mai. Anh ta là anh em đồng hao với Võ Nguyên Giáp, cùng là con rể nhà học giả Đặng Thái Mai, lấy con út ông Mai là nhà văn và nhà giáo Đặng Anh Đào. Hiện tại Tướng Phạm Hồng Sơn đã 84 tuổi, đã lãng trí và cũng đã ra rìa như Giáp tuy được cấp một biệt thự lớn ở đường Lý Nam Đế Hà Nội.

Có cả năm trang dành cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Trước hết tôi phải nói rằng tôi cũng như nhiều đồng hương đã không mấy có thiện cảm với ông Thiệu. Riêng tôi lại có một điều hận trong lòng khi ông ta cho tôi là đàn em của Nguyễn Cao Kỳ. Năm 1948 khi tôi vào Sài Gòn với mấy bạn Đại Việt Nguyễn Tất Ứng, Nguyễn Đình Tú tôi đã được đưa đến thăm ông Nguyễn Văn Kiểu là anh lớn của ông Thiệu ở đường Kitchener. Ông Kiểu là một đảng viên Đại Việt miền Nam, người rất hiền hậu và trung thực làm chủ một cửa hàng bán nước mắm ở đó và chúng tôi đã trở thành khá thân thiết. Hồi tôi nhận chức Thứ Ủy Tổng Cuộc Trưởng Tiếp Tế trong chính phủ Nguyễn Cao Kỳ mà không có nhân viên phòng sở thì tôi đã được tạm dùng bàn giấy của ông Kiểu ở Trụ Sở Liên Minh Á Châu Chống Cộng số 122 trên đường Hồng Thập Tự. Sau khi tôi rời TCTT, lúc ông Thiệu lên làm Tổng Thống thì ông Kiểu đã đưa ý kiến cho chú em là “Tám, tại sao không dùng anh Cung” thì được một câu trả lời lạnh lùng, “Cung là tay chân đao búa của Nguyễn Cao Kỳ”. Nghe vậy tôi cho là một sỉ nhục. Vì coi tôi như là một lũ điếu đóm xun xoe mạt chược, nhậu nhẹt, ăn tục nói phét xung quanh ông Kỳ thì hơi quá!

Trong phần dành cho ông Thiệu tôi thấy thương ông ta khổ tâm nhiều trong thời kỳ mười năm nắm vận mệnh quốc gia, đương đầu với Mỹ, với đe dọa đảo chính và với tình hình đa đoan của nước nhà. Được đọc bài phỏng vấn cựu Phụ Tá thân cận Nguyễn Văn Ngân của Trần Phong Vũ tôi càng nhìn rõ sự cô đơn của một lãnh tụ thông minh, mưu trí nhưng sinh bất phùng thời. Và tôi càng thông cảm nỗi bất hạnh của ông để đặt câu hỏi “một người khác nắm quyền có khá hơn không hay là chúng ta lại phải trải qua một bất hạnh lớn hơn không”?
Trần Đỗ Cung (Prunedale, tháng 10, 2006)


XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ QUÂN LỰC VNCH

Trong một cuộc chiến dai dẳng và khó khăn không một ai có thể nhìn rõ khả năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hôm nay tôi trình bày vấn đề này dưới nhiều khía cạnh trong tám mục chính và hai phụ khoản.

Chính Phủ Việt Nam cấp các huy chương tham chiến cho quân nhân Mỹ. Đặc biệt thấy gắn trên băng biểu chương một thẻ kim khí khắc “1960…” Người ta đã không ghi niên điểm cuối cùng bởi lý do dễ hiểu; tuy nhiên ta có thể xem 1960 là khởi điểm vì đó là mốc đánh dấu sự gia tăng tham chiến của Mỹ cho đến ngày quân đội Mỹ lên cực điểm. Trong giai đoạn này chúng ta có môt cái nhìn tổng thể về thành tích của quân đội Việt Nam từ 1960 cho đến 1975.

Vài năm trước đây tôi đã viết một bài nhan đề “Dũng cảm và xương máu” để phân tích thành quả quân đội Việt Nam trong vụ tấn công tháng Tư 1972. Bài đã được đăng trong báo Parameters của trường Đại Học Quân Sự. Hồi còn sinh thời ông Douglas Pike đã bình luận trong một ấn bản Indochina Chronology như sau: “Đã có cố gắng chậm chạp nhưng liên tục điều chỉnh và cứu vãn danh dự của ngưới quân nhân Việt Nam từng bị nhục mạ bởi bọn phóng viên truyền hình thương mại ngu dốt và cánh trí thức thiên tả. Bài của ông Sorley đã xét lại lịch sử và ông ta lập luận vững vàng trong lãnh vực này”

Tôi vẫn tri ân lời khuyến khích ấy và ước gì Giáo Sư Pike còn hiện diện để thấy các tài liệu lịch sử hiện hữu chứng minh sự dũng cảm đưa đến trưởng thành và thành tựu của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Chỉ vì nước chúng ta không thực thi cam kết cho Nam Việt trong khi phe cộng sản vẫn tiếp tục và đều đặn gia tăng yểm trợ Bắc Việt nên đồng minh bất hạnh của chúng ta mới bị tràn ngập và thua trận.

Cho đến nay chưa bao giờ có một cố gắng định mức toàn diện sự tiến triển và thành tích của quân đội Việt Nam trong những năm bành trướng. Trong thời giờ hạn hẹp ở đây tôi chỉ mong điều chỉnh phần nào sự khiếm khuyết, bất công và nhiều lúc sai lạc mỗi khi bàn đến QLVNCH tuy đó là một thái độ khôn ngoan cho đến nay.

Chúng ta rất thiếu hiểu biết về cuộc chiến Việt Nam mặc dầu nó đã kết thúc ba mươi năm qua. Là vì những người phản chiến hoặc ít nhất chống sự tham dự của chính mình đã mô tả mọi khía cạnh qua một lăng kính xấu và nhiều khi đã nói sai sự thật. Ông James Webb vạch mặt giới truyền thông, trí thức và Hollywood là những nhóm đã “có lợi khi làm cho cuộc chiến bị xem là không cần thiết hay không thắng được”. Và vì họ điều khiển dư luận nên họ đưa ra những lập luận sai lầm ngay cả khi chiến tranh kết thúc đã ba mươi năm. Những lập luận thật sai lạc, đi từ thóa mạ người lính Việt trong một quá trình chiến đấu cam khổ cho đến Jane Fonda hạ nhục những tù binh Mỹ là bọn láo khoét hoặc đạo đức giả khi nói rằng họ đã bị tra tấn hay hành hạ trong lúc bị giam cầm. Đã đến lúc ta phải bỏ thái độ tiêu cực, lắm khi mạt sát và cố tình dùng chính trị để đổ lỗi cho quân đội Việt Nam trong hầu hết các tranh luận.

PHẦN 1 : QUÂN ĐỘI VIỆT NAM LÚC ĐẦU
Đây là giai đoạn mà chúng ta chủ động trong khi Việt Nam bị đẩy ra ngoài lề với nhiệm vụ bình định (mà đây chính cũng là một khía cạnh của chiến tranh và bộ chỉ huy Mỹ đã quên lãng). Bởi vậy họ không được cấp những vũ khí mới cũng như được trợ chiến cần thiết.

Phần đông chúng ta và ngay cả một số người Mỹ phục vụ tại chỗ đều chỉ trích quân đội Việt Nam trong thời kỳ ấy. Họ đã không lưu ý đến một số yếu tố ảnh hưởng nặng nề lên tình trạng đó. Quân cụ Mỹ cung cấp đều là những thứ lỗi thời từ Thế Chiến II, nhất là các súng trường M-1 vừa nặng vừa cồng kềnh với tầm vóc người Việt. Trong khi đó thì kẻ thù đã được Nga-Tầu trang bị đầy đủ súng AK-47.

Thiếu Tướng James L. Collins đã trình bầy về tình hình quân đội Việt Nam như sau, “Năm 1964 địch quân đã bắt đầu xử dụng AK-47, một loại súng tân tiến, tự động và rất bén nhậy. Trái lại lực lượng bạn vẫn dùng loại khí cụ phế thải của Thế Chiến II…” Rồi từ năm 1965 khi quân Mỹ lần hồi gia tăng nhập cuộc thì nhu cầu chiến tranh về phía bạn lại càng bị đẩy lui vào hậu trường”.
Do đó các đơn vị Việt luôn luôn bị địch quân áp đảo trong thế đánh không cân xứng. Đại Tướng Fred Weyand khi thuyết trình mãn nhiệm chỉ huy Đệ Nhị Lộ Quân đã nói rõ, “Sự chậm trễ cung cấp khí giới và quân cụ mới cho Việt Nam, ít nhất ngang với sự yểm trợ của Nga Tầu cho quân địch làm cho quân bạn yếu kém”.

Chỉ từ khi Đại Tướng Creighton Abrams nhận chức Tư Lệnh Phó Quân Lực Mỹ vào hồi tháng Năm 1967 người ta mới bắt đầu chú ý đến quân Nam Việt. Tướng Abrams điện ngay cho Đại Tướng Tham Mưu Trưởng Harold K. Johnson như sau. “Tôi thấy ngay là quân lực Mỹ tại đây cũng như bên chính quốc chỉ nghĩ trước tiên đến hành quân Mỹ và yểm trợ các đơn vị Mỹ. Do đó chương trình cung cấp chiến cụ cho Việt Nam đã ít ỏi mà lại còn không được thi hành một cách tích cực và cấp tốc như đối với quân Mỹ. Rõ ràng chúng ta có trách nhiệm lớn với quân bạn. Công việc phải làm ngay và tôi đang bắt tay cấp kỳ vào việc”!
Ngay khi nhậm chức, Tướng Abrams liền gia tăng lực lượng Việt Nam, nhất là cung cấp các súng M-16. Trong trận tấn công Tết Mậu Thân 1968 ông đã đưa được M-16 vào tay Nhẩy Dù và các đơn vị tiền tiến khác. Tuy nhiên phần đông vẫn bị lép vế đối với công sản. Trung Tướng Chỉ Huy Tiếp Vận Đồng Văn Khuyên nhắc lại rằng, “Trong Vụ Tềt Mậu Thân người ta nghe rõ tiếng sắc bén liên hồi của AK-47 trong Sài Gòn cũng như các thị trấn khác, như là một diễu cợt khôi hài cho các phát súng lẻ tẻ Garant và Carbine trong tay hoảng hốt của quân ta”!
Tuy vậy quân Việt vẫn đẩy lui địch quân một cách bất ngờ và dũng cảm. Báo Time đã viết: “Nhiều người Mỹ đã ngạc nhiên và Công Sản đã đau đớn sửng sốt thấy quân đội Việt Nam đã tức tốc đương đầu và chiến đấu ngang tàng can đảm khác hẳn dự đoán”. Nhưng không thấy ai đề cập đến sự chênh lệch khí giới của đôi bên.

Tháng Hai 1968 Tướng hồi hưu Bruce C. Clarke đi thăm Việt Nam và viết một tờ nhận định được Đại Tướng Early Wheeler chuyển đến tay Tổng Thống Johnson. Tướng Clarke nói “các đơn vị Việt còn bị chi phối bởi một chương trình quân viện nghèo nàn, kể cả khí giới cá nhân. Điều này ảnh hưởng lớn đến tinh thần và thành quả của binh sĩ. Quân sỹ cảm nhận rõ khi họ không được trang bị đầy đủ”!

Tổng Thống Johnson liền mời Tướng Clarke đến văn phòng đàm luận thêm. Và sau đó ít ngày “viên phụ tá Tổng Thống điện thoại báo cho tôi là Tổng Thống Johnson đã ra lệnh gửi ngay 100,000 súng M-16 cho quân VNCH”. Tổng Thống đã nhấn mạnh trong bài diễn văn lịch sử ngày 31 tháng Ba 1968, “Chúng ta sẽ nhanh chóng tăng viện cho quân đội Việt Nam để đáp ứng sự gia tăng hỏa lực của địch quân”.Thật là kịp thời.
Tướng Clarke trở lại Việt Nam vào tháng Tám 1969 để thấy “lực lượng VNCH đã có 713,000 khẩu M-16 cùng với các khí giới khác và họ đã tiến bộ nhiều kể từ Tết Mậu Thân”. Hiện nay họ và các lực lượng diện địa đều đã có súng cá nhân tối tân luôn cả phóng lựu M-79, súng máy M-60 và các đài vô tuyến AN/PRC-25 như quân đội Hoa Kỳ.
Các sư đoàn Mỹ được trang bị tối tân và nhiều hơn phía Việt Nam nên khả năng tác chiến cũng gấp bội. Tùy viên của Tướng Abrams đã nhấn mạnh là Đại Tướng đã nghiên cứu so sánh khả năng tác chiến giữa sư đoàn Mỹ và Việt Nam để thấy chênh lệch hỏa lực 16 lần. Tướng Abrams dùng dữ kiện này để tìm cách tăng viện cho các sư đoàn VNCH. Phía VN còn bị kém hơn nữa vì lúc đầu các yểm trợ chiến trường đều ưu tiên cho quân Mỹ, như oanh tạc B-52, xử dụng trực thăng, chiến đấu cơ cận chiến và chuyển quân giữa chiến địa.

Tướng Abrams nói thêm là trong lần tấn công thứ ba vào tháng Tám và Chín 1968 quân VN đã hạ được nhiều địch quân hơn cả tổng số của Đồng Minh. Họ cũng chịu nhiều tổn thất nhân mạng hơn theo số kiểm chứng cũng như theo ước tính với phân số ta và địch tử vong. Ông nói với Tướng Wheeler rằng đó là vì thật sự quân đội VN không được yểm trợ như quân đội Mỹ cả về phẩm lẫn lượng (trọng pháo, không tập chiến thuật, không pháo và trực thăng vận). Bởi vậy việc chỉ trích quân đội VN trong thời kỳ đầu thiếu khách quan. Thiếu khí giới cần thiết trước một địch quân hùng hậu hơn lại còn bị đẩy xuống vai trò thứ yếu trong nhiều năm đã không cho họ cơ hội tăng tiến kinh nghiệm chiến đấu.

Về sau ông Robert McNamara từng là Bộ Trưởng Quốc Phòng và chủ động chiến tranh đã viết một cách hời hợt về phía Việt Nam. Ông đã bị William Colby sửa lưng như sau, “Ông không có quyền nói xấu những người Việt đã đem xương máu chống cộng sản trong khi đại cường Mỹ đã phủi tay chỉ vì lỗi lầm của McNamara. Mục đích hết sức cao đẹp nhưng Hoa Kỳ đã thua với McNamara và phần lớn là vì hắn”!

PHẦN 2.- TẾT 1968
Chiến trận xẩy ra khắp nơi hồi Tết 1968 là một thử thách lớn cho Quân Đội VNCH. Nhiều người đã sửng sốt chứng kiến một thành tích vượt bực. Khi đi nhận giải Thayer tại trường Westpoint Đại Sứ Ellsworth Bunker lên diễn đàn ca ngợi chiến tích ấy. “Mặc dầu Quân Đội VN ít hơn nhưng họ đã chiến đấu vượt bực. Đại Tướng Abrams đã nói họ chiến đấu ngoài sức tưởng tượng của họ. Đã không có nổi dậy, không có đào ngũ và chính quyền vẫn nguyên vẹn. Trái lại họ phản ứng cấp kỳ, mạnh mẽ và đích đáng; họ chiến đấu với tối đa sức mạnh”.

Thành tích vượt bực của quân đội VNCH trong trận Tết Mậu Thân 1968 rất cần thiết cho tương lai Việt Nam. Đại Sứ Bunker nói tiếp :”Kết quả là cả một chuỗi diễn tiến làm cho chính phủ Việt Nam vững mạnh, dân chúng tin tưởng hơn khả năng đương đầu với địch và chính quyền thấy sẵn sàng gánh vác vai trò chiến đấu hơn”.
Ông John Paul Vann cũng đồng ý nói trong năm 1972 rằng “Tết Mậu Thân đã làm cho chính phủ Nam Việt gia tăng kiểm soát lãnh thổ, tổng động viên nhân lực để có đủ quân số trám vào khi quân Mỹ rút lui và gia tăng lực lượng địa phương bảo dảm sự hiện diện chính quyền trung ương tại các vùng thôn quê”.
Lúc Đại Tướng Abrams nhận chức chỉ huy lực lượng Mỹ tại Việt Nam thì xẩy ra vụ tấn công thứ ba của cộng sản vào mùa Thu 1968. Ông điện cho Đại Tướng Earle Wheeler và Đô Đốc John McCain, “Tôi phải kết luận rằng việc quân Việt Nam đã giết nhiều địch trong vòng sáu tuần lễ hơn cả quân Đồng Minh chứng tỏ tiến bộ lãnh đạo và tinh thần xung kích của họ. Họ phải trả một giá rất cao về tử vong vá tôi cho phần lớn là vì không được yểm trợ đúng mức. Do đó cần phải nhanh chóng tăng viện khí giới cho họ”.
Trong cuộc họp thượng đỉnh ở Midway vào tháng Sáu 1969 chưong trình nghị sự chú tâm đến bành trướng và tăng quân viện cho quân lực Việt Nam. Quân số tăng lên 820,000 rồi lại đưa lên đến 1.1 triệu người đã được ký kết. Ngoài ra, theo ghi nhận của Thiếu Tướng Trần Đình Thọ, còn thỏa thuận trang bị thêm M-16, đại liên M-60 và hỏa tiễn LAW. Vậy thấy rằng ngay lúc ấy mà còn bàn đến M-16 thì quân Việt đã phải chiến đấu từ lâu ở thế kém với một địch quân hùng hậu.

PHỤ ĐÍNH .- VÀI SO SÁNH
*Đã có 50 người đào ngũ mỗi ngày dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tổng Tư Lệnh. Đó là trường hợp Đại Tướng George Washington ở Valley Forge trong mùa Đông 1777-1778.
*Đã phải đưa đại pháo ra đường dẹp phiến loạn chống động viên. Đó là lúc Tổng Thống Abraham Lincoln đã phải quyết định ở Nữu Ước hòi tháng Tư năm 1865 trong cuôc nội chiến Nam Bắc.
*Trong trận chiến cuối cùng đã chỉ có nửa quân số tham dự vì tệ nạn đào ngũ. Đó là trường hợp Đại Quân Potomac của Tướng George Meade ở Gettysburg. “Ông ta hy vọng có 160,000 binh sĩ nhưng chỉ vỏn vẹn được 85,000 vì 75,000 lính đã đào ngũ. Trong cuộc Nội Chiến Mỹ, tỷ lệ đào binh của Liên Quân là 33% trong khi bên kia còn hơn nữa ở mức 40 phần trăm”.
*Trong cuộc tổng xung kích một nửa số binh sĩ trong các sư đoàn đã kháng lệnh. Đó là trường hợp Quân Đội Pháp năm 1917 làm cho tòa án binh đã phải kết tử hình 554 quân nhân trong số ấy 49 người đã bị hành quyết.
*Đặc biệt có trường hợp một số đơn vị đã tháo chạy; đó là trong Thế Chiến II khi Đại Đội K thuộc Sư Doàn 25 Mỹ đã bỏ chạy toán loạn. Sử gia Geoffrey Perret ghi, “Hiếm thấy một Sư Đoàn Mỹ nào không có tình trạng Đại Đội bỏ ngũ như vậy”.
*Nói đến một đơn vị mà Tư Lệnh Sư Đoàn bị cách chức, bốn phụ tá chính bị loại, hai Tiểu Đoàn Trưởng bị bắt sống và chin Tiểu Đoàn Trưởng khác bị thay thế. Đó là Sư Đoàn Mỹ 36 tại Salermo trong Thế Chiến II.
*Luôn luôn pháo kích, ám sát, bắt cóc và áp đảo thường dân vô tội là việc làm của công sản trong suốt cuộc chiến.
*Giết hại thường dân vô tội như trong trường hợp Thủy Bồ và Mỹ Lai là thành tích xấu xa của quân Mỹ trong những năm 1967-1968.
Ta có thể kể ra nhiều trường hợp tương tự. Điểm nên nhớ là nếu đem so sánh với các lực lượng đương thời hoặc theo lịch sử ghi nhận thì QLVNCH đã chiến đấu ngang tàng và xứng đáng trong suốt cuộc chiến. Đó là một điểm son không bao giờ được nhắc tới.
Có rất nhiều tài liệu ghi sự dũng cảm và thiện chiến của QLVNCH, tuy nhiên các nhà viết sử không chú ý đến và các phóng viên báo chí thì lờ đi. Trong Văn Khố Quôc Gia có hàng ngàn huy chưong Hoa Kỳ cấp cho quân sỹ Việt Nam vì thành tích phục vụ quả cảm.
Quá trình đẹp đẽ ấy lại càng đáng nể hơn nếu ta nghĩ rằng người lính Việt đã tham chiến từng nhiều thập niên và phần đông đã hy sinh cả quãng đời thanh niên của họ. Một người Mỹ đã nói rất chí tình, “Quân nhân Việt không có DEROS (ngày được trở về) như lính Mỹ chỉ phục vụ một năm ở Việt Nam. Họ chiến đấu không ngừng nghỉ năm này qua năm khác với một sức chịu đựng và lòng nhiệt thành không tưởng tượng được. Ngay sau khi cộng sản thắng trận phần đông lại còn chịu giam cầm hàng chục năm trong các trại lao cải nghiệt ngã”.

PHẦN BA.- ĐỊA PHƯƠNG QUÂN
Sau vụ Tết Mậu Thân 1968 Bộ Tư Lệnh Mỹ thay đổi. Đại Tướng Creighton Abrams lên thay Đại Tướng Westmoreland và đổi quan niệm về cuộc chiến và phương pháp hành xử. Tướng Abrams nhấn mạnh “chiến tranh toàn diện” gồm cả hành quân, bình định và gia tăng khả năng QLVNCH theo một quy trình cấp bách ngang với chiến trận.
Chiến thuật cũng thay đổi từ quan niệm “truy và diệt” qua “bình định và giữ đất”. Có nghĩa là khi địch bị đẩy ra khỏi vùng có dân thì quân đội phải đóng lại chớ không rút đi cho địch trở lại. Do đó Địa Phương Quân được phát triển tối đa để phụ trách an ninh và bình định lãnh thổ.
Trung Tướng Nguyễn Duy Hinh cho sự phát triển và nâng cao các lực lượng địa phương là việc làm quan trọng nhất của Mỹ. Đại Tướng Ngô Quang Trưởng nhận định rằng kết quả bình định xã ấp, gia tăng số dân sống dưới chính quyền và an toàn giao thông là công của lực lượng địa phưong quân và nghĩa quân.
Tháng Năm 1967 khi Đại Tướng Abrams đến Việt Nam thì quân lực VN gồm có Lục Quân, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân. Ngoài ra còn có những lực lượng diện địa bao gồm Địa Phương Quân và Nghĩa Quân phụ trách an ninh lãnh thổ. Tỉnh Trưởng chỉ huy Địa Phương Quân còn Nghĩa Quân đặt dưới quyền Quận Trưởng. Các lực lượng này trú đóng tại địa phưong của họ và thực hiện mục tiêu “càn quét và giữ đất”. Vào năm 1970 đã có 550,000 quân số, nghĩa là một nửa QLVNCH.
Một trùng hợp, đêm hôm trước Bing West và một nhân vật nữa đã lên kênh PBS “Giờ tin tức với Jim Lehrer” để thảo luận về tình hình Iraq. Một người đã nói đến quan niệm “càn quét và giữ vững” của Condoleza Rice. Nếu ta tìm nguồn gốc quan niệm này thì hẳn phải kể Lực Lượng Diện Địa Nam Việt, Đại Tướng Abrams, Đại Tướng Harold K. Johnson và bản nghiên cứu PROVN (chương trình bình định và phát triển Nam Viêt) của Đại Tá Jasper Wilson.
Ngay từ tháng Mười 1968 ông William Colby làm phụ tá Bính Định cho Tướng Abrams đã giải thích tầm quan trọng của các lực lượng ấy. “Để bảo vệ an ninh lãnh thổ chúng ta chú trọng đến tăng tiến Địa Phưong và Nghĩa Quân, lên ngót một nửa toàn thể quân số. Chúng ta đã bắt đầu ngay từ tháng Mười vừa qua. Trong một buổi thuyết trình Đại Tướng Abrams đã nhấn mạnh ba mươi điều phải làm trong đó có việc cử các toán nhỏ cố vấn quân sự đến các Đại Đội Địa Phương Quân và các Trung Đội Nghĩa Quân. Ta đã có 250 toán năm người rải rác khắp mọi nơi”.

Ba tháng sau ông Colby đã thấy sự tăng tiến nhanh chóng huấn luyện và vũ khí cho các đơn vị ĐPQ cũng như NQ. “Dã có 91,000 binh sỹ nhiều hơn năm ngoái. Khoảng 100,000 người đã được trang bị súng M-16 và 350 toán cố vấn đã sống và làm việc với các đơn vị ĐPQ và NQ”. Ngay khi lãnh chức Tư Lệnh Đại Tướng Abrams đã thẳng thừng chuyển các súng mới cho họ. Ông nói trong bài thuyết trình tháng Tám 1968, “Trong một năm ĐPQ và NQ được ưu tiên hàng đầu và nhận súng M-16 trước cả Lục Quân. Cũng như mọi việc, tôi đã bỏ vào quỹ-tiết-kiệm-lính với lãi xuất 10 phân. Trời Đất ơi, chúng ta đã đầu tư vào đây và đó là việc phải làm, ưu tiên tối đa trên tất cả mọi thứ”!

ĐPQ và NQ gia tăng khả năng và thành tích của họ và phải được ghi công đầu. Trong buổi thuyết trình WIEU (dự đoán tình báo hàng tuần) cho quan khách Tướng Abrams nói, “Điều tôi quan tâm nhất là vai trò của ĐPQ và NQ trong chiến cuộc luôn bị quên lãng. Người ta chỉ thường nói đến QLVNCH trong khi đã lâu nay ĐPQ và NQ gánh chịu nhiều tổn thất và đã giáng cho quân địch nhiều đòn chí tử. Tôi nói thẳng, nếu ta muốn nói đến an ninh cho dân thì đây mới là phần việc lớn”!
Cùng một lúc, ông nói rõ ràng về thành tích của các đơn vị này. “Tôi không biết có nên trang bị thêm các đại đội Lục Quân không. Nếu có thêm nhân số thì tôi nghĩ đem đầu tư vào các lực lượng diện địa này có lợi hơn”.
Cuối năm 1969, khi nhìn biểu đồ tình hình trong ba tháng vừa qua ghi rõ ai đã đem lại nhiều thành quả nhất về khí giới, tử vong, Tướng Abrams đã nói: “Thật rõ ràng và đúng. Số địch bị giết, khí giới thu được, hầm bí mật phát hiện, vv, thì QĐVNCH vẫn giữ nguyên tỷ lệ 27/28% trong khi tỷ lệ của Đồng Minh sút giảm. Sự chênh lệch là do các lực lượng địa phương và đã xẩy ra từ tháng Tám vừa qua”.
Một người trong cừ tọa nói lớn, “Đó là tính chất của cuộc chiến”!.

Tướng Abrams trả lời ngay, “Đúng lắm! Tôi luôn luôn hỏi lợi nhuận thu được từ 100,000 súng M-16 như thế nào? Như vậy hả? Vâng ta đã bắt đầu thấy kết quả”!
Ông Bill Colby cũng nhận xét rằng trong tháng Bẩy 1970 lực lượng địa phương cũng bảo vệ được súng của mình. Tỷ lệ khí giới mất đối chiếu với vũ khí thu được là một trên ba, khác hẳn tình trạng năm năm trước đây.
Tướng Abrams nói thêm: “Các Lực Lượng Địa Phưong, các con sóc ấy tiến tới rất vững vàng. Một tình trạng đã được duy trì lâu nay là ĐPQ và NQ đã gánh chịu phần lớn trách nhiệm chiến tranh”.
Các sỹ quan cao cấp Việt Nam cũng nhìn nhận như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, “Các ĐPQ và NQ đã lần hồi gỡ bỏ mặc cảm của một phụ lực quân để trở thành các binh sỹ chính quy và là một bộ phận chính của bộ máy chiến tranh”! ĐPQ tăng tiến về phẩm cũng như lượng đã được các nhân vật bình luận khắt khe như Tướng Julian Ewell khen tặng, “Họ là mũi nhọn trên chiến trường”!

PHẦN 4 .- NHỮNG VẤN ĐỀ NHỨC NHỐI
Có ba vấn đề luôn luôn khó khăn cho QLVNCH trong suốt chiến tranh là, thiếu cán bộ lãnh đạo giỏi, tình trạng tham nhũng lan rộng và đào ngũ.
Có lãnh đạo với đầy đủ khả năng chỉ huy là một vấn nạn cho QLVNCH trong suốt cuôc chiến. Với sự gia tăng quân số đến 1.1 triệu người tình trạng lại càng trầm trọng hơn. Sự thất thoát cấp chỉ huy của các đon vị nhỏ lại càng làm cho vấn đề tệ hại khi quân số gia tăng.
Công việc huấn luyện và các kế sách tuyển mộ các chỉ huy mới rồi đôn họ lên theo chiến tích thật là nhọc nhằn và khó khăn. Sau chiến dịch Lam Son 719, Đại Tướng Abrams tham dự một cuộc duyệt binh tại Huế đã nói, “Thật là một việc đáng ghi. Họ đôn quân, HSQ được thăng lên, HSQ lên thành Chuẩn Úy, Chuẩn Úy lên Thiếu Úy. Tổng Thống Thiệu tuyên bố rằng đó là việc nhỏ với 5,000 thăng cấp, mà thăng cấp mặt trận”.
Tướng Abrams rất thích: “Đó là chuyện đã xẩy ra ở Lào. Không có cách gì tốt hơn trong quân đội là đi vào hàng ngũ lựa chọn những phần tử chiến tích thích đáng mà đôn lên”. (Cũng như vậy đối với các viên chức tại Trung Tâm Huấn Luyện Vũng Tàu hầu giúp họ tăng tiến khả năng quản trị và lãnh đạo trong công việc).
Vài vị chỉ huy Việt Nam đã không ngớt chỉ trích khả năng lãnh đạo của mình. Đại Tướng Cao Văn Viên đã viết trong cuốn sách của ông như sau, “Trong thời gian tôi phục vụ ở cương vị Tộng Tham Mưu Trưởng tôi đã chứng kiến sự thành công cũng như thất bại của khả năng lãnh đạo của chúng ta. Mặc dầu chúng ta đã cố gắng tối đa nhưng vẫn không đủ trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước”.
Sự đào ngũ trong các sư đoàn là một căn bệnh trầm trọng của QLVNCH. Tuy nhiên không phải đào ngũ theo phe đich nhưng phần lớn là để tránh ra trận hay để về nhà. Đó là một việc khác hẳn phía địch khi phần đông những đào binh quay về hàng ngũ quân ta. Trái lại đào binh ta thường trở lại ngũ tại địa phương. Theo Anthony Joes đó là sự hoán chuyển từ quân đội chính quy về địa phưong quân mà tỷ lệ đào ngũ gần như không có mặc dầu số tử vong cao hơn quân chính quy.
Tham nhũng là một nhược điểm nữa không bao giờ gột tẩy được mặc dầu ảnh hưởng lên chiến cuộc không mấy quan trọng như ngưới ta thường kêu la. Tuy nhiên Đại Tướng Cao Văn Viên đã kết luận như sau. “tham nhũng không phải yếu tố đưa đến sự xụp đổ của chế độ nhưng chắc chắn nó gây ảnh hưởng tệ hại đến trình độ binh nghiệp và như vậy làm suy nhược khả năng chiến đấu”.
Ông Tom Polgar của CIA nhận định xác đáng rằng tham nhũng không thể lật đổ một quốc gia cũng như trường hợp Phi Luật Tân, Nam Hàn hay Thái Lan. “Nước nào mà không trả công tương xứng cho viên chức đều có tham nhũng, đó là một quy luật. Tuy nhiên tham nhũng bòn rút hết tiêm lực quốc gia khi có ngoại xâm”.
Đại Tá William LeGro đã ở lại đến những ngày cuối cùng với DAO (Cơ Quan Tùy Viên Quốc Phòng) đồng ý. Ông nói: “Tham nhũng không làm cho sụp đổ. Sự giảm thiểu viện trợ Hoa Kỳ đến con số không là đáp số”. Ông ta nói thêm: “Chúng ta đã đối xử một cách xấu xa bỉ ổi với bạn Việt Nam của chúng ta”.

PHỤ ĐÍNH .- NGUYỄN VĂN THIỆU.
Phần này bàn về cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Tối Cao QLVNCH.
Tổng Thống Thiệu lãnh đạo quốc gia trong một thời kỳ ngặt nghèo nhất. Trong khi chiến đấu chống ngoại xâm và nội loạn được Nga Tầu yểm trợ tối đa, ông đã đặt các cơ cấu dân cử từ trung ương cho đến hạ tầng xã ấp. Ông đã gia tăng quân đội và với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, ông đã tăng tiến phẩm chất quân lực để thay thế quân Mỹ. Ông trực tiếp lãnh đạo chương trình bình định nông thôn và phá vỡ hệ thống khủng bố đe dọa dân quê. Ông thực thi một chính sách cải cách ruộng đất đáng khen, phân phát cho 400,000 nông dân 2 triệu rưỡi mẫu ruộng, và tổ chức bốn triệu dân thành một lực lượng dân vệ với 600,000 khẩu súng.
Trong sáu năm phục vụ Đại Sứ Ellsworth Bunker thường xuyên tiếp xúc với Tổng Thống Thiệu và đã nhận xét xác đáng về con người cùng khả năng của ông ấy. Đại Sứ Bunker nói: “Ông ta đối phó với tình hình một cách khôn ngoan và khéo léo. Ông ta là một con người trí thức đầy khả năng. Thoạt đầu ông đã cai trị theo hiến pháp chớ không theo một lũ Tướng Tá chỉ muốn ông hành động theo ý họ. Càng ngày ông càng hành xử như một chính trị gia (đây là một lời khen của Bunker), đi về vùng quê, thanh tra bình định, chuyện trò với dân xem họ muốn gì”. Ông Bunker khen ngợi ông Thiệu và có khi coi ông ta như một đối thủ chính trị có bản lãnh. Bunker nói: ‘Tôi nghĩ Thiệu là một người khôn ngoan và chín chắn”.
Ông Thiệu cũng hết sức thực tế khi phàn nàn với Bunker rằng, “Thật là khổ cho chúng tôi đã không có mấy vị Tướng đủ khả năng chỉ huy hơn một sư đoàn”! Khi nói vậy ông ám chỉ cả chính ông một cách khiêm nhượng và rất đúng.
Vì quân đội cung cấp phần lớn khả năng hành chính cũng như chính trị nên ông Thiệu bị giới hạn một cách đau thương trong việc thay thế các phần tử thiếu khả năng hay bất xứng. Lại nữa ông ta cũng cần phải lưu giữ những người đáng tin cậy mặc dầu yếu kém. Trong thời đầu nhiệm kỳ ông đã cắt nghĩa cho một nhân viên Mỹ cao cấp như sau: “Hoàn toàn thanh lọc cấp chỉ huy trong quân đội là một việc bất khả thi. Mỗi sự thay thế một vị tư lệnh đều phải sắp đặt và thi hành hết sức cẩn trọng. Không thể kéo quân đội ra khỏi chính trị trong một sớm một chiều. Tổ chức quân đội vẫn là thế đứng duy nhất của tôi và hơn nữa là một cơ chế vững vàng nhất để bảo đảm thống nhất quốc gia”.
Đại Sứ Bunker cũng như Đại Tướng Abrams hiểu rõ vấn đề nên tỏ ra rất kiên tâm và thông cảm. Nhưng họ cũng đưa ra những đề nghị chính xác liên quan đến các cấp chỉ huy cao thiếu khả năng. Thường thì được nghe theo tuy phải mất thời giờ trong khi sắp xếp chính trị. Trong một thời gian đã có những thay đổi lớn trong cấp lãnh đạo quân cũng như chính, có khi do áp lực khủng hoảng chiến trường. Tuy nhiên chưa bao giờ có việc thanh trừng rộng rãi là vì không những để tránh xáo trộn mà lại còn không có đủ người xứng đáng thay thế. Đào tạo nhiều cấp chỉ huy tốn quá nhiều thì giờ.
Giới cao cấp Hoa Kỳ nhận thấy sự quan trọng của Thiệu trong việc bình dịnh. Tướng Abrams bảo rằng ông Thiệu hiểu nhiều hơn bất cứ ai về công tác bình định và William Colby gọi ông là “con người bình định số một”. Lịch sử Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Mỹ đã nhận định “Thiệu là một yếu tố quan trọng. Ông ta nhận định rõ ràng sự quan trọng của chương trình bình định và thiết lập các cơ cấu hành chính cấp địa phương”.
Nhiều dịp Tổng Thống Thiệu mời Đại Sứ Bunker cùng đi kinh lý thôn xã. Ông Bunker đã nghe ông Thiệu nhấn mạnh sự thiết lập cơ chế hành chính địa phương, tổ chức bầu cử xã ấp, huấn luyện các viên chức địa phương và cải cách ruộng đất. Tại Trung Tâm huấn luyện Vũng Tầu 1,400 xã trưởng nghĩa là ba phần tư làng xã Nam Việt đã theo học trong chin tháng đầu năm 1969. Tổng Thống Thiệu đi thăm mọi lớp và cho các học viên khi trở về làng có thể hãnh diện nói với dân là “Tổng Thống đã khuyên nhủ tôi thế này thế nọ”. Cuối năm 1969 tình hình đã tiến bộ rõ rệt khiến cho ông John Paul Vann, một nhân vật hàng đầu trong chương trình bình định đã nói trước cử tọa tại Princeton rằng, “Hoa Kỳ đã thắng trên trận địa và nay đang thắng chính trị với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu”.
Hồi tháng Tư 1968, trái với ý kiến của hầu hết các cố vấn, Tổng Thống Thiệu đã thiết lập các lực lượng Nhân Dân Tự Vệ. Ông Thiệu lập luận rằng, “chính quyền căn bản trên dân. Bởi vậy chính quyền không có nền móng nếu không dám đưa khí giới cho dân”. Do đó khoảng bốn triệu người, trong số những người quá trẻ hoặc quá già để nhập ngũ, đều xung vào Dân Vệ và được trang bị 600,000 súng cá nhân. Lập luận xác đáng là chính phủ Thiệu được dân ủng hộ, Dân Vệ đã dùng súng chống lại sự đô hộ cộng sản chớ không phải chống chính phủ.
Về sau qua bao nhiêu tài liệu người ta thấy rõ rằng cộng sản đã nhiều lần kêu gọi tổng nổi dậy nhưng không bao giờ dân đã nổi dậy theo chúng. Theo con mắt khách quan của nhiều quan sát viên thì không lạ gì mà sau bao nhiêu năm ám sát, bắt cóc, khủng bố, ức chế và pháo kích bừa bãi các khu dân cư trong toàn Nam Việt mà cộng sản đã không chinh phục được lòng dân.
Tháng Mười năm 1971 trong tình hình chiến tranh dữ dội Tổng Thống Thiệu đã thắng cử không có đối thủ. Nhiều người đã chỉ trích ông cho rằng sự thắng cử của ông không xứng đáng vì không có đối lập.. Tuy nhiên mặc dầu địch đe dọa và kêu gọi tẩy chay đầu phiếu đã có 87.7 phần trăm cử tri hợp lệ đến phòng phiếu và 91.5 phần trăm đà bỏ phiếu cho ông Thiệu. Đó là một tỷ lệ cao nhất của Việt Nam. Nếu không hay ho vì không có đối thủ hay dân không bằng lòng sự lãnh đạo của ông thì tại sao họ lại đi bỏ phiếu đông như vậy mặc dầu có thể nguy hiểm đến tính mạng? Người ta thấy rằng, mặc dầu có nhiều chỉ trích, phần đông dân chúng muốn ông tiếp tục lãnh đạo xứ sở.
Ông John Paul Vann tuyên bố hồi tháng Giêng 1972 rằng “yếu tố căn bản không chối cãi được là khoảng 95 phần trăm dân chúng muốn có chính phủ Việt Nam hiện hữu hơn là chính phủ cộng sản hay một chính phủ do phía bên kia đưa ra”.
Thật là buồn khi nhiều người Việt đã chỉ trích ông Thiệu. Tôi đã nói chuyện với nhiều bạn Việt hiện sinh sống ở đây. Mới đây một người bạn học thức và thông minh đã nói với tôi một cách phũ phàng rằng Tổng Thống Thiệu đã nói dối. Tôi hỏi lại như thế nào thì được trả lời ngay: “Thiệu biết rõ là người Mỹ sẽ bỏ rơi mà không nói cho chúng tôi biết”.
Tôi cho đó là một lời buộc tội quá nặng và cần bàn lại. Đại Sứ Bunker nhớ đã tự tay đưa cho Tổng Thống Thiệu ba bức thư cam kết của Tổng Thống Nixon giúp Việt Nam nếu cộng sản vi phạm trắng trợn hiệp định. Nhưng ông Bunker nói, “Quốc Hội bó tay chúng ta và kết quả là nước Mỹ đã bội phản”. Ông Bunker giải thích rõ ràng, “tôi không thể hình dung được làm sao Tổng Thống Thiệu có thể biết trước cung cách và hành động điếm nhục ấy của Hoa Kỳ”!
Ông Thiệu đã từ chức vài ngày trước khi Sài Gòn thất thủ hầu mong có dàn xếp ổn thỏa. Trong bài giã từ ông đã làm đúng khi giận dữ chua chắt về một cuộc tranh đấu cam go trong nhiều năm. Nó đã cho thấy rằng ông cũng đã sửng sốt như bất cứ ai khi người đồng minh một thời đã quay lưng lại một người bạn trong lúc hoạn nạn (và phản bội cả những người Mỹ đã hy sinh tại Việt Nam).
Theo tôi thì Nguyễn Văn Thiệu đã thi hành nhiệm vụ một cách can dảm trong nhiều năm chiến tranh để xứng đáng được kính nể và biết ơn của những ai vẫn muốn thấy miền Nam Việt Nam tốt đẹp (còn có nể trọng hay không là tùy trường hợp).

PHẦN 5 .- LAM SON 719
Rõ ràng người ta đã cho rằng chiến dịch Lam Son 719 vào Hạ Lào là một thảm bại cho Nam Việt. Tuy nhiên sự thật khác hẳn, vì hiện nay với băng ghi Abrams và các nguồn tin khác đã cho biết là quân Bắc Việt thiệt hại nặng khiến cho chúng mất trớn tổng tấn công miền Nam để ta có thì giờ kiện toàn Việt-Nam-Hóa-Chiến-Tranh.
Trong tài liệu WIEU (cập nhật hằng tuần tình báo) ngày 30 tháng Giêng ta thấy địch quân biết đôi chút về hành quân vượt biên giới của ta. Tám ngày trước khi cuộc hành quân khởi diễn, COMINT (tình báo vô tuyến) nhận thấy địch quan tâm đến các hoạt động phía ta tại vùng 1 và những khu vực lân cận Hạ Lào. Đã phát hiện các truyền tin của địch từ ngày 24 tháng Giêng để ý đến “quân ta có thể đánh qua biên giới phá trục tiếp vận của chúng”. Cũng có tin tức là địch hết sức lo cuộc đổ bộ vào Bắc Việt và sư xâm nhập Lào từ những chiến hạm ngoài khơi, vv.
Ngày 8 tháng Hai các đơn vị QLVNCH vượt biên vào Lào trên trục lộ 9 với thiết giáp, nhẩy dù, biệt động, thủy quân lục chiến và lục quân. Tổng số 10,000 quân đã nhập đất Lào vào cuối tuần. Cùng lúc, 10,600 quân tiến vào Cao Mên.
Khi Đô Đốc McCain Tư Lệnh Thái Bình Dương (CINPAC) dự thuyết trình ngày 19 tháng Hai thì được biết các đụng độ khá cao ở cấp Đại Đội và nhiều trận lẻ tẻ đã diễn ra trên khắp chiến trường. MACV theo rõi sáu tiểu đoàn địch đương đầu QĐVN tại Lào. Quân Đội Mỹ không được phép tham dự nhưng sư yểm trợ của không lực Mỹ đã mất 21 trực thăng trong 7,000 phi xuất (tổng số thất thoát trong chiến dịch là 108 nghĩa là 21 cho 100,000 phi xuất).
Trung Tướng William E. Potts của MCV J-2 đã tóm lược cho Đô Đốc McCain như sau: “Điểm đáng ghi nhận là trong chiến dịch Lam Son, địch quân đã đua ra tất cả những gì chúng hiện có hoặc đang gửi đến ngoại trừ Sư Đoàn 325 và Tiểu Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 304. Vậy nếu chúng bị thiệt hại thì chúng sẽ tụt hậu trong một thời gian khá lâu”. Tướng Abrams nói thêm, “Lẽ cố nhiên chúng ta mong đón tất cả bọn chúng với toàn thể sức mạnh của chúng ta”. .
Dầu vậy, đến ngày 20 tháng Hai, nghĩa là gần hai tuần sau chỉ có sáu Trung Đoàn địch hiện diện trong chiến dịch Lam Sơn. Thuyết trình viên nói trong buổi họp chỉ huy WIEU (dự đoán tình báo hàng tuần) ngày hôm ấy là, “thật vậy sự phản công mạnh mẽ của địch đã xẩy ra đêm 18 tháng Hai. Phía ta có một lực lượng tương đương với 18 tiểu đoàn vẩn tiếp tục tìm địch thanh toán”.
Đại Tướng Abrams nhấn mạnh với ban Tham Mưu và các cấp chỉ huy của ông là phải cho quân Việt Nam mọi phương tiện cần thiết để họ chiến thắng trong trận hệ trọng này. “Đây là một dịp dể giáng cho địch một vố ta chưa bao giờ làm được”. Ông nhấn mạnh hết sức ý nghĩa khi Hoa Thịnh Đốn đưa ra một vài chỉ trích: “Ai cũng biết cái rủi ro từ lúc đầu nhưng ta thấy là đã đến lúc phải chấp nhận rủi ro”. Khi qua Hoa Thịnh Đốn Đại Sứ Bunker đã trình bầy tất cả các khía cạnh tương quan.
Cho đến ngày 24 tháng Hai MACV vẫn theo dõi sáu Trung đoàn địch (tăng lên thành bẩy ba ngày sau) trong chiến dịch Hạ Lào. Trong tường trình cho Tướng Abrams, thuyết trình viên đã nói rằng bốn tiểu đoàn trong số 18 cung cấp cho Trung Đoàn địch hình như đã bị tê liệt. Cũng trong ngày ấy số tử thương của địch quân được ước lượng là 2,191 người trong khi quân bạn mất 276 mạng.
Đến dây thì một khó khăn lớn xẩy ra là thiếu hụt trực thăng. Mà Quốc Lộ 9, con đường chính Đông Tây có nhiều đoạn bị đào sâu lên đến cả sáu thước khiến cho việc xử dụng con lộ này hầu như bị gián đoạn. Nhất là loại bồn chở xăng không thể đi qua được. Bởi vậy phải tiếp tế bằng phi cơ, ảnh hưởng nặng nề lên đội ngũ trực thăng. Sự tính toán điều hành và sửa chữa cấp bách đã xoay lại tình thế. Cho nên khi Tướng Julian Ewell, một nhân vật không mấy thiện cảm với chiến dịch, đi thanh tra ông đã nói, “tỷ lệ sẵn sàng hành quân (operational readiness) ngày Chủ Nhật khi tôi đến thăm là 79%, một con số vượt bực”.
Cùng lúc địch tung ra một trận tấn công lớn với thiếp giáp và tràn ngập cứ điểm 31 là nơi trú quân của Tiểu Đoàn Bộ Đệ Nhất Sư Đoàn VNCH. Người ta đã ghi nhận địch có 350 quân bị giết và 15 thiết giáp bị phá hủy đối lại 13 quân bạn chết, 39 bị thương và ba thiết vận xa bị hư hại.
Người ta nhận thấy ngày mồng 1 tháng Ba một Trung Đoàn địch nữa đã tham chiến nâng tổng số lên tám đơn vị (trong 24 tiểu đoàn có sáu đã bị tê liệt). Đại Tướng Abrams nói, “thật là một trận khủng khiếp”. Trong buổi thuyết trình cập nhật ngày 4 tháng Ba thuyết trình viên đã nhắc lại rằng ngày 11 tháng Hai đã thấy dấu hiệu địch chuyển sang thế tấn công. Tuy nhiên sự việc chỉ xẩy ra ngày 18. Ta có thể nói là địch đã mất quân số vào khoảng bẩy tiểu đoàn chủ động, còn số thiết giáp của họ vào khoảng 100 chiếc lúc đầu thì nay chỉ còn từ 65 đén 70 chiếc mà thôi. Ở thời điểm này ta ước lượng địch quân có tại hiện trường 15,000 chiến binh cộng với từ 8,000 đến 10,000 quân hậu cần trong khi bên ta huy động mười sáu tiểu đoàn chủ động.
Khi một tù binh thuộc Trung Đoàn 24-B khai rõ sự tộn thất nặng nề trên đường 92 về phía Bắc Bản Đông thì phòng J-2 MACV giảm hiệu lực của địch đi hai Tiểu Đoàn, nghĩa là trong số 30 Tiểu Đoàn địch thuộc 10 Trung Đoàn tung ra trên chiến trường đương đầu với quân VN thì chúng đã mất hẳn 10 Tiểu Đoàn. Tướng Abrams nói, “Tôi càng tin chắc rằng đây có thể là trận quyết định chiến cuộc”. Tướng Potts nói thêm, “Họ mất một nửa chiến xa, một nửa đại bác phòng không và 10 trên 30 Tiểo Đoàn”.
Trong một buổi cập nhật tình báo hàng tuần (WIEU) ngày 20 tháng Ba Đại Sứ Bunker nói Chiến Dịch Lam Sơn đang chấm dứt là một cuộc hành quân rất thích ứng. Tướng Abrams bèn trả lời: “Thật là một trận đánh cam go. Tuy nhiên ảnh hưởng lên phần cuối năm nay hết sức to lớn. Chúng đã tung nhiều lực vào Lam Son và đã bị thua đậm”
Ngày 23 tháng Ba khi địch quân tung vào thêm Trung Đoàn thứ mười ba, thuyết trình viên trình bầy rằng chín trong số mười một Trung Đoàn đã bị thiệt hại nặng nghĩa là họ chỉ còn khoảng 17 Tiểu Đoàn chủ động trong số 33 đem ra. Ngoài ra họ lại còn mất khoảng 3,500 đơn vị hậu cần. Khi các yếu tố dược trình bầy trong kỳ WIEU thì Tướng Potts nói thêm, “Không phải các Tiểu Đoàn ấy bị sút kém nhưng chúng đã bị hoàn toàn tiêu diệt”.
Quân đội VNCH cũng chịu nhiều tổn thất, 1,416 bị giết và 714 mất tích. Nhiều khí cụ đã bị phá hủy hay bỏ lại khi vội vã rút lui. Khi xét lại kết quả, Đại Tướng Sutherland nhận định như sau: “Khuyết điểm từ lâu là Bộ Tham Mưu VN không có đủ khả năng thiết kế và phối hợp Không Lực cũng như phối hợp yểm trợ không địa. Tuy nhiên họ dã học hỏi nhiều trong chiến dịch này”.
Quần chúng hết sức ủng hộ trận Lam Sơn. Khi Đức Ông Thompson tới viếng thăm hồi cuối tháng Ba người ta đã trình bầy với ông kết quả cuộc thăm dò dư luận trong 36 tỉnh. Kết quả cho thấy 92% đồng ý với các chiến dịch như Lam Sơn 719, 3% chống đối và phần còn lại không có ý kiến. Kết quả cho thấy một phân xuất rất cao so với bất cứ lần thăm dò về bất cứ một vấn đề gì trước đây.
QLVNCH đã chiến đấu trong 42 ngày liền tại Lào. MACV trình bầy khiêm tốn cho Bộ Trưởng Lục Quân Stanley Resor là Chiến Dịch Hạ Lào đã “thử thách QLVNCH trước một địch quân quyết tâm trong trận địa xuyên biên giới. Chắc chắn là đã phá được đường tiếp vận của họ”. Ở Hoa Kỳ người ta kêu đó là một thảm bại của quân Việt. Lẽ cố nhiên bộ máy tuyên truyền Hà Nội vội vã túm lấy cơ hội.
Tuy nhiên Tướng Abrams nhận định là chiến dịch nhất định có lợi cho QLVNCH. “Từ trước ta cứ tưởng rằng Bắc Việt có thể chiến thắng họ. Chiến tranh chưa chấm dứt nhưng Bắc Việt bắt đầu thấy là họ phải đương đầu với một công việc khó hơn nhiều”.

PHẦN 6 .- MỘT CUỘC CHIẾN THẮNG LỢI
Phương pháp áp dụng trong giai đoạn Abrams đã có kết quả tốt mặc dầu nhiều người không tin như vậy. Quân Mỹ đã lần hồi rút nên quân Việt đạt nhiều thành quả hơn. Vì chiếm được nhiều đất hơn nên đã thấy nhiều lính địch quy thuận hơn. Trong năm 1969 có 47,000 hàng binh cọng thêm 37,000 hồi chánh năm 1970. Mỗi Sư Đoàn Bắc Quân có 8,689 quân số. Như vậy thì số đào ngũ của họ trong hai năm bằng chín Sư Đoàn. Đã đến chiến thắng mặc dầu vẫn phải đánh nhau là vì Nam Việt đã đủ khả năng giữ vững chủ quyền và tự lực hành động với lời hứa yểm trợ của Hoa Kỳ như họ vẫn làm cho đồng minh tại Tây Đức và Nam Hàn.
Ngay từ cuối năm 1969 John Paul Vann, một nhân vật chính của chương trình bình định đã viết cho cựu Đại Sứ Henri Cabot Lodge như sau: “Tôi không cần thăm Hoa Thịnh Đốn hay Ba Lê như trước để tìm cách thay đổi chính sách Việt Nam. Tôi hài lòng với chính sách hiện hữu. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã đạt mục tiêu bỏ được số Mỹ tử vong sau 1972 và chiến phí (cuộc chiến sẽ còn kéo giài mãi) sẽ giảm hẳn vì được người Việt lo liệu với sự trợ giúp tiếp vận và tài chính của chúng ta”.
Ngoài trách nhiệm chiến đấu thay vào quân Mỹ rút đi, Nam Việt còn phải đương đầu với nhiều thay đổi chính sách. Đại Tướng Abrams nói rõ là họ phải vượt qua các trở ngại mỗi ngày một khó hơn. Ông nhắc lại, “Chúng ta đã bắt đầu từ năm 1968,. Mục tiêu của chúng ta là đến 1974 họ phải quất nặng bọn VC để sau nữa sẽ đập cả bọn Việt Cộng lẫn quân Bắc Cộng tại miền Nam. Rồi họ phải nén chặt chúng lại, nén ba bốn lần. Như vậy chúng ta bắt đầu; trong một thời gian dài – ông ra dấu bằng tay – và phải kết thúc trong thời gian ngắn hơn nhiều”.
“Và nếu cần truy cản Việt Cộng, Bắc Cộng hay giúp Cao Mên chẳng hạn thì chúng ta cũng giúp tay vào. Tuy nhiên chúng ta cần hết sức cẩn thận không có sẽ bị trật đường rầy. Ta tránh làm như vậy vì nó sẽ làm cho ta điên lên”. Sự thay đổi đường lối quan trọng nhất là loại bỏ dự tính giữ lại một lực lượng Mỹ lâu dài tại chỗ như thể ở Tây Âu hay Nam Hàn.
Ông Thomas J. Barnes trở lại Việt Nam sau ba năm vắng mặt để làm việc trong chương trình bình định vào mùa Thu 1971. Ông nói với Tướng Fred Weyand là “tôi đã ngạc nhiên với ba tiến bộ chính, sự phồn thịnh của nông thôn, Địa Phương và Nghĩa Quân giữ vững vị trí và phát triển sự tự trị chính trị kinh tế làng xã. Ta đã giúp làng xã lấy lại tính cách độc lập và tự lực theo tập tục Việt Nam. Đó là việc tham gia quan trọng nhất của chúng ta trong công việc bình định”.
Ngay từ giữa tháng Ba 1971 quân đội Việt Nam đã gánh vác chiến đấu. Thuyết trình viên đã nói với Đại Tướng Ewell rằng sự chú trọng của Tướng Abrams vào công tác bình định nay đã hầu như thành tựu 100% với các kế hoạch tương quan. Quân Mỹ đã gần như rời khỏi việc hành quân”.
Những tin tức từ phía địch đã xác nhận thành quả. Trong một cuốn sách in bởi nhà Xuất Bản Thế Giới Hà Nôi, hai tác giả Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Võ đã viết, “cuối năm 1968 trong Nam Bộ các Ấp Chiến Đấu và những vùng xôi đậu đã bị quân đội Sài Gòn chiếm lại. Cuối 1968 chúng ta đã bị tổn thất nặng. Địch dồn lực lượng vào công tác bình định thôn quê gây cho chúng ta nhiều khó khăn trong hai năm 1969-1970. Từ khi quân Mỹ vào Việt Nam chúng ta chưa bao giờ gập nhiều vấn nạn như trong hai năm ấy. Các căn cứ của ta ở thôn quê bị suy nhược và vị trí co thắt lại. Quân ta bị tiêu diệt, không còn đất bám và phải qua đồn trú tại Cao Mên. Chúng ta trải qua một thời kỳ hết sức khó khăn trong những năm 1969-1970-1971. Kể từ giữa năm 1968 địch đã tập trung đánh phá các vùng giải phóng để tiêu diệt và đẩy chúng ta ra khỏi cứ địa”.
Tháng Giêng 1972 Vann nói rằng “chưa bao giờ chúng ta phải tham chiến ít như bây giờ. Ngày nay thấy rõ các vùng quê phồn thịnh, đường xá khai thông, cầu kỳ mở lại và bạn có nhiều rủi ro hơn với cả đống Honda và Lambretta ngược xuôi. Chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh đã có kết quả ngoài tưởng tượng”. Đó là công đầu của Việt Nam Cộng Hòa.

PHẦN 7 .- TỔNG TẤN CÔNG PHỤC SINH 1972
Thành quả Việt-Nam-Hóa-Chiến-Tranh và việc bình định nông thôn khiến cho đối phương phải tìm một phương án khác. Đó là cuộc tấn công Phục Sinh. Douglass Pike viết: “Không còn là một cuôc chiến cách mạng nữa, và theo quan niệm của Võ Nguyên Giáp thì phải qua giai đoạn chiến tranh quy ước nhỏ giống như ở Triều Tiên”.

Trong vài ngày về Mỹ John Paul Vann đã trình bầy hiện tình Việt Nam trước một cử tọa giáo sư chọn lọc. “Họ dựa vào các giới chức dân cử xã ấp khi kinh tế tăng trưởng, an ninh tiến bộ và chiến tranh đã chuyển sang Cao Mên và Lào. Sự thực là 95% dân chúng muốn lưu giữ chính quyền hiện tại hơn là một chính phủ cộng sản hay một cơ cấu do bên kia đưa ra”.

Theo lịch sử ghi chép của Quân Đội Nhân Dân thì kế hoạch tấn công 1972 được chấp thuận bởi Ban Quân Ủy Trung Ương từ tháng Sáu 1971. Mục tiêu là chiến thắng vào năm 1972 làm cho quân Mỹ xâm lược phải thưong thảo trong thế yếu. Ông Pike diễn giải, “đó là một cuộc tấn công toàn diện với nhân lực, khí giới và tiếp vận quy mô. Vào giữa mùa Hè tất cả 14 Sư Đoàn Bắc Quân rời khỏi Bắc Việt. Chúng xử dụng nhiều thiếp giáp và đại pháo nặng hơn QLVNCH và đạn dược cũng không giới hạn”.
Cuối tháng Ba 1972 địch tiến hành một cuộc xâm lăng cổ điển với 20 Sư Doàn và một trận chiến tàn bạo sắt máu đã xẩy ra. Ông Douglas Pike viết, “Cuộc tấn công được sửa soạn công phu đã bị bẻ gẫy vì không yểm làm cho chúng không tập hợp được và vì sư chống trả dũng cảm và kiên trì của quân Nam Việt. Bắc Quân và hệ thống giao thông của chúng đã bị triệt hạ nặng. Nhưng chính yếu là QLVNCH và cả Địa Phương Quân đã hiên ngang chống trả như chưa từng thấy”.

Bắc Quân tổn hại 100,000 người trong số 200,000 xung trận và có lẽ 40,000 đã bị giết. Họ đã mất già nửa thiết giáp và đại pháo. Sẽ cần ba năm để hồi phục trước khi tấn công lại và Tướng Võ Nguyên Giáp bay khỏi chức Tổng Tư Lệnh. Trái lại Nam Quân mất 8,000 tử vong, gần ba lần thương binh và vào khoảng 3,500 mất tích. Tướng Giáp đã tính sai và phải trả một giá đắt cho lỗi lầm ấy. Ông Pike kết luận: “Giáp đã ước sai lòng quyết tâm và sự chống trả mãnh liệt của Quân Nam Việt. Hắn sai lầm về sức đề kháng của QLVNCH”.
Về sau nhiều người chỉ trích nói rằng Nam Quân đã đẩy lui được Bắc Quân nhờ có không yểm của Mỹ. Tướng Abrams đã phản ứng mạnh mẽ và nói với các cấp chỉ huy của ông rằng, “Tôi không tin là không có không trợ mọi việc đã giữ vững được. Tuy nhiên phải có những người Việt Nam đúng thẳng chiến đấu. Nếu họ không dũng cảm làm như vậy thì đến mười lần không quân cũng không chận đứng được bọn cộng sản”.

Bọn chỉ trích cũng triệt hạ QLVNCH cho rằng họ sống sót được là nhờ Quân Mỹ. Không một ai nhớ rằng 300,000 Quân Mỹ phải đóng ở Tây Đức là vì người Đức không thể chống lại Nga Xô Viết hay nhóm Liên Minh Warsaw nếu không có Quân Mỹ. Họ cũng quên là 50,000 Quân Mỹ phải lưu lại Nam Hàn để giúp trong trường hợp bọn Bắc tấn công. Và không ai đã nghĩ rằng vì Quân Mỹ hiện diện nên phải chê bai và chế riễu Quân Đội Tây Đức cũng như Nam Hàn. Chỉ có Nam Việt bị tách rời ra để bôi nhọ một cách bất công và ác độc mặc dầu chỉ được không trợ chớ không được Quân Lực Mỹ hỗ trợ như Đức hay Cao Ly.

Quân Nam Việt đã thực sự đánh bại cuộc tấn công Phục Sinh 1972 với xương máu và lòng quả cảm. Đại Tướng Abrams nói với Tổng Thống Thiệu rằng “nhờ khả năng bén nhậy của các cấp chỉ huy nên đã gặt hái thành quả và họ đã chứng tỏ đủ bản lĩnh đương đầu với cuộc thử thách. Những anh hùng bảo quốc Nam Việt đã giáng cho quân xâm lăng một đòn chí tử khiến cho chúng cần ba năm nữa mới có thể mở lại một cuộc tấn công quy mô”. Tuy nhiên trong khi ấy bao nhiêu thay đổi hệ trọng đã xẩy ra trên một bình diện rộng lớn hơn.
QLVNCH đã trở thành một lá chắn thiện nghệ, nhanh nhẹn và quyết tâm cho xứ sở của họ. Tuy nhiên họ đã bị bôi nhọ bởi những luận điệu tiêu cực gồm cả vu khống của bọn phản đối Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến hay ít nhất chính sự tham gia của cá nhân họ hay bọn thân cộng. Trái lại đã có bao nhiêu thành tích rõ ràng trên trân địa hồi cuối Xuân và trong mùa Hè 1972.

PHẦN 8 .- BỎ RƠI
Phần này bàn về tình hình sau khi Hiệp Định Paris được ký kết vào tháng Giêng 1973. Để dụ Việt Nam thỏa thuận điều mà họ cho là quá sai lầm khi cho Bắc Việt được để lại miền Nam một lực lượng lớn, Tổng Thống Nixon đã hứa với Tổng Thống Thiệu rằng nếu Bắc Việt bội ước và lại tấn công Nam Việt thì Hoa Kỳ sẽ can thiệp mạnh mẽ để trừng phạt chúng. Và Nixon nói thêm, nếu chiến tranh trở lại, nước Mỹ cam kết thay thế các chiến cụ trên căn bản một đổi một theo như điều khoàn của Hiệp định Paris (chiến xa, trọng pháo vv). Sau nữa Hoa Kỳ sẽ tiếp tục viện trợ kinh tế tài chánh cho Việt Nam. Thật ra, Hoa Kỳ đã bội ước tất cả các khoản kể ra.
Trong khi ấy thì Bắc Viễt đã nhận viện trợ không tiền khoáng hậu của các quan thầy. Theo một cuốn sử xuất bản tại Hà Nội năm 1994 thì trong vòng chin tháng sau khi ký kết Hiệp Định Paris, từ tháng Giêng đến tháng Chín 1973, Bắc Việt đã gửi tiếp tế vào Nam bằng bốn lần năm vừa qua. Dầu vậy con số còn nhỏ nhoi so với lượng chúng đưa vào Nam từ đầu 1974 cho đến ngày chấm dứt cuộc chiến năm 1975. Trong vòng mười sáu tháng, theo tài liệu cộng sản, thì bằng 1.6 lần quân viện trong cả mười ba năm.
Nếu chính phủ Nam Việt không ký Hiệp Định thì không những Hoa Kỳ sẽ đơn phương tính với bên kia mà Quốc Hội Mỹ cũng nhanh chóng cắt hết viện trợ. Mặt khác nếu Việt Nam chấp thuận Hiệp Định với hy vọng sẽ tiếp tục nhận viện trợ Mỹ thì họ bắt buộc phải chấp nhận tình trạng Bắc Quân sẽ trú đóng một cách nguy hiểm trên lãnh thổ. Nam Việt đã quyết định phương án thứ nhì, một tiên liệu quyết tử để thấy một cách đau đớn là phải chấp nhận cả hai việc tồi nhất, quân Bắc Việt trong lãnh thổ và viện trợ Mỹ chấm dứt.
Nguyên Tổng Trưởng Quốc Phòng Melvin Laird giải thích hệ quả như sau. “Trong hai năm sau Hiệp Định, Nam Việt đã can đảm chống lại một cách đáng nể một địch quân được yểm trợ tối đa. Hoà đàm Bắc Nam vẫn tiếp tục cho đến ngày mà Quốc Hội cắt hẳn viện trợ vào năm 1975. Và Nam Việt nhanh chóng bị tràn ngập. Chúng ta đã tiết kiệm được khoảng 257 triệu mỗi năm và làm cho Nam Việt xụp đổ sau khi đã chiến đấu dũng mãnh từ năm 1973 không có sư giúp đỡ của quân Mỹ.
Nhiều người Mỹ không thích nghe rằng bọn độc tài Nga Xô và Trung Hoa đã tỏ ra đáng tin cậy hơn là nước Mỹ Dân Chủ. Nhưng đó là sự thật phũ phàng. Phóng viên William Tuohy đã nhiều năm phúc trình cuộc chiến cho Washington Post viết, “một chuyện không tin được và không tha thứ được là một đại cường quốc đã bỏ rơi đồng minh yếu kém vào tay bọn Bắc Cộng. Nhưng chúng ta đã làm như vậy”.
Binh sỹ Nam Việt can đảm chiến đấu cho đến khi viện trợ bị cắt dần dần rồi ngưng hẳn. Trong vòng hai năm sau khi ký Hiệp Định Paris Nam Việt đã mất 59,000 quân tức là nhiều hơn số quân Mỹ tử trận trong mười năm. Nếu nghĩ rằng dân số Nam Việt chỉ bằng một phần mười Mỹ Quốc thì ta thấy rằng sư thiệt hại hết sức thảm khốc và cường độ trận chiến đã cao như thế nào.
Bà Merle Pribbenow nhấn mạnh rắng sự ghi nhận của Bắc Việt cho thấy trong 55 ngày cuối cùng họ đã phải đương đầu với một chiến cuộc hết sức gay go. Đó là một chiến tích đáng ghi cho Nam Việt khi họ biết là kết cục sẽ chắc chắn như thế nào. Đại Tướng Bắc Quân Lê Trọng Tấn đã ghi, “Trong giai đoạn cuối cùng Quân Y của chúng ta đã phải di tản và chữa chạy cho quá nhiều thương binh, 15 lần nhiều hơn trong trận chiến biên giới, 1.5 lần hơn trận Diện Biên Phủ và 2.5 lần nhiều hơn trong trận Hạ Lào”. Bà Pribbenow chiết tính là “Quân Đội Nhân Dân đã chịu tối thiểu từ 40,000 đến 50,000 thương binh và có thể còn nhiều hơn nữa, nghĩa là còn cao hơn tổng số tổn thất lúc QLVNCH xụp đổ theo nhận xét của các sử gia”.
Đại Tá William LeGro đã ở lại DAO đến phút chót đã có một cái nhìn chính xác về sự việc. Ông nói: “Sự gỉảm quân viện Mỹ cho đến gần số không là lý do đưa đến sự xụp đổ cuối cùng”. Ông nói thêm, “Chúng ta đã làm một việc hết sức quái gở với người bạn Việt Nam”.
Gần đến ngày cuối, ông Tom Polgar đứng đầu CIA Sài Gòn gửi một điện văn ngắn ngủi: “Kết quả quá rõ ràng vì Nam Việt không thể sống sót nếu không có quân viện Mỹ trong khi khả năng chiến tranh của Bắc Việt vẫn giữ nguyên với sự trợ lực của Nga Xô Viết và Trung Cộng”.
Sau chiến tranh tình hình trở nên quá đen tối như người ta sợ. Phóng viên Seith Adams của New York Times viết về hoàn cảnh Đông Nam Á một cách xác đáng và cảm động như sau. “Hơn một triệu người Nam Việt bỏ xứ. Khoảng 400,000 người bị đầy vào các trại cải tạo, một ít trong thời gian ngắn nhưng nhiều người đã bị giam giữ đến mười bẩy năm. Một triệu rưởi dân bị cưỡng bách đi các vùng ‘kinh tế mới là những nơi hoang dã trong hoàn cảnh đói kém và bệnh tật”.
Cựu Đại Tá Việt Cộng Phạm Xuân Ẩn mô tả sự vỡ mộng của y với kết quả chiến thắng của cộng sản đã áp đặt như thế nào lên xứ sở. Ông ta phàn nàn, “tất cả các lý luận về ‘giải phóng’ trong hai mưoi, ba mươi hay bốn mươi năm qua đã gây ra một xứ sở nghèo nàn và rách nát lãnh đạo bởi một lũ ác độc, một bọn lý thuyết gia ít học và chuyên chế”.
Đại Tá Bắc Quân Bùi Tín cũng thẳng thắn nói về hậu quả cho cả những người chiến thắng: “Thật là quá chậm cho thế hệ tôi, một thế hệ của chiến tranh, của chiến thắng và bội phản. Chúng tôi đã thắng nhưng chúng tôi cũng đã thua”.
Sư cố gắng của những người miền Nam trong một cuộc tranh đấu dai dẳng cuối cùng là một thảm trạng. Quân đội đã mất 275,000 người chết trong khi chiến đấu. 450,000 dân bi hy sinh, phần đông do khủng bố cộng sản hoặc bị chết trong những cuộc pháo kích bừa bãi vào các đô thị và thêm 935,000 người nữa bị thương.
Trong số cả triệu người trở thành thuyền nhân một số có thể rất cao đã bỏ mạng trên biển cả. Có lẽ 65,000 người đã bị hành quyết bởi bọn tự xưng là giải phóng. Khoảng 250,000 hay hơn nữa đã chết trong các trại tù “cải tạo” man rợ. Hai triệu người bị đẩy ra khỏi quê cha đất tổ để trở thành một diaspora Việt Nam.
Ta không thể hoàn toàn xác định giá trị của QLVNCH mà không nói đến các cựu chiến binh bị đầy khỏi xứ với các gia đình của họ hầu lập nghiệp lại trên đất Mỹ. Đó chính là một câu chuyện khác về sự can đảm, quyết tâm và thành quả. Đã biết quá rõ tính chất của bọn mạo danh là “giải phóng”, một băng đảng luôn luôn giết hại, gây thương tích, bắt cóc và ức chế hang ngàn dân vô tội, nên họ bỏ chạy hàng loạt khi sự chống đỡ tan rã.
May thay nhiều người đã thoát được đến bờ bến tự do làm lại đời mới. Mỹ Quốc may mắn đón nhận một triệu di dân Việt Nam là một tăng tiến cho văn hóa và một đóng góp đáng kể vào phúc lợi của chúng ta. Với một quyết tâm và cần cù không tưởng tượng được, những người Mỹ mới này đã dậy dỗ con cái, nuôi sống gia đình và lợi dụng các cơ hội mà xứ sở này đã dành cho bất cứ ai tham gia vào xã hội. Đó chính là những người đã bao năm đem xương máu ra chiến đấu cho quê hương cũ trong hang ngũ QLVNCH. Chúng ta dã bỏ rơi họ và những hy sinh của họ đã thành vô nghĩa. Tuy nhiên cưu mang họ trên đất này đã cho chúng ta đền tội đôi phần.

KẾT LUẬN
Để kết luận, tôi chỉ xin nói rằng cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến giá trị, bởi người Nam Việt và các đồng minh của họ bảo vệ một mục đích cao đẹp. Tất cả các chiến binh đều đã tham chiến với một tấm long vô biên và họ đã gần như đạt được mục đích bảo đảm cho NamViệt có tự do như một quốc gia độc lập. Có lần một phóng viên đã nhận xét rằng Đại Tướng Creighton Abrams phải được chỉ huy một cuộc chiến hay hơn. Tôi đã nói câu ấy cho trưởng nam của Tướng Abrahms và được phản hồi ngay; “Cha tôi không nhìn như vậy. Ông nghĩ rằng người Nam Việt rất xứng đáng”. Và tôi đồng ý.
Tóm lại, đối chiếu biểu của QLVNCH bao gồm cà địa phương và nghĩa quân trong năm 1970 rất tích cực. Rốt cục chúng ta đã không thắng trận, tuy nhiên tinh thần, sự tận tâm, can đảm và lòng quyết chí của tất cả các chiến binh đã nẩy nở thăng hoa trên đất nước này. Chúng ta đều cùng tiến tới.

NÓI VỀ TÁC GIẢ
Ông Lewis Sorley đã phục vụ tại Việt Nam chỉ huy một Tiểu Đoàn Thiết Giáp trên Tây Nguyên. Ông thuộc thế hệ thứ ba trong gia đình tốt nghiệp Đại Học Quân Sự Hoa Kỳ. Ông cũng đậu bằng Tiến Sỹ của Đại Học John Hopkins. Trong hai thập niên binh nghiệp ông chỉ huy thiết giáp và nhiều dơn vị thiết kị tại Mỹ, Đức cũng như Việt Nam. Ông cũng đã phục vụ tại Bộ Lục Quân, văn phòng Tham Mưu Trưởng Bộ Binh và là giảng viên tại West Point và Đại Học Chiến Tranh Bộ Binh.
Ông là tác giả của hai cuốn sách, Thunderbolt, General Creighton Abrams and the Army of His Times và General Harold K. Johnson and the Ethics of Command. Ông đã viết quân sử nhan đề, A Better War; the Unexamined Victory and Final Tragedy of America’s Last Year in Vietnam. Ông cũng ghi chép và nhuận chính Vietnam Chronicles: the Abrams Tapes 1968-1972”.
  Nguồn: http://web247.78.cyhost.ch/vnch/?p=6393 { Đọc tiếp...}

xXem

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét