Bùi Anh Trinh – ĐẰNG SAU HIỆP ĐỊNH PARIS, MẬT ƯỚC NIXON & NGUYỄN VĂN THIỆU
Mật ước Richard Nixon – Nguyễn Văn Thiệu
Năm 1973, ngày 8-1, sau
trận dội bom Mùa Giáng sinh, hòa đàm Paris được nối lại, mở đầu phiên
họp là bài diễn văn của Lê Đức Thọ, ông ta công kích HK lật lọng leo
thang chiến tranh. Kissinger không còn vui vẻ hoạt bát như các cuộc họp
trước. Buổi chiều hai bên tiếp tục soạn thảo những chi tiết của văn
bản hiệp ước mà trước đây đã bị bỏ dở.
Ngày 9, 10, 11 và 12-1, hai bên hoàn
thành văn bản của hiệp ước bằng tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Buổi chiều
Kissinger và Sullivan họp với đoàn đàm phán VNCH để thông báo nội dung
toàn bộ văn bản Hiệp định. Vấn đề còn lại là Tổng thống Thiệu có chấp
thuận hay không.
*Chú giải : Đoạn tường thuật
trên đây được ghi lại trong biên bản của Bộ Ngoại giao Hà Nội, do Lưu
Văn Lợi công bố năm 1998. Đọc qua đoạn biên bản này không ai có thể ngờ
rằng đây là một cuộc họp sau cuộc dội bom Hà Nội 12 ngày đêm của Hoa Kỳ.
Hẳn nhiên là phải có nhiều biến cố và
nhiều thượng lượng đã xảy ra sau khi cuộc dội bom vừa chấm dứt. Thế
nhưng biên bản buổi họp được ghi lại như không hề có gì xảy ra. Chứng
tỏ Lưu Văn Lợi đã buộc phải giấu kín những trao đổi đã xảy ra giữa
Kissinger và Lê Đức Thọ trước khi hai ông bước vào phiên họp ngày
8-1-1975, tức là từ ngày ngưng ném bom 29-12-1972.
Những giấu kín đó đã làm tốn rất nhiều
giấy mực của những nhà nghiên cứu thời cuộc, người ta cho rằng Hà Nội đã
chịu đầu hàng trước khi cuộc dội bom chấm dứt. Điều này sẽ được đưa ra
ánh sáng 5 năm sau cái chết của Kissinger.
Năm 1973, ngày 14-1, Tướng Alexander Haig đến Sài Gòn với tối hậu thư của Nixon cam kết “Chúng tôi sẽ không nhìn nhận quyền có mặt của quân đội ngoại quốc nào trên mãnh đất Miền Nam. Chúng tôi sẽ phản ứng mãnh liệt trong trường hợp Hiệp định bị vi phạm… …Tôi quyết định sẽ tiếp tục viện trợ đầy đủ kinh tế và quân sự cho VNCH ”.
Tối hôm đó họp Hội đồng an ninh quốc gia, Tổng thống Thiệu trình bày
nội dung tối hậu thư của Nixon. Đa số mọi người đồng ý nên ký vào vì đã
có cam kết Mỹ sẽ tham chiến trở lại để đổi lại việc quân Bắc Việt có
thể vi phạm hiệp ước.
Ngày 17-1, Tổng thống Thiệu gửi thư phúc
đáp cho Tổng thống Nixon trong một phong bì dán kín và nhờ Haig chuyển
về cho Nixon khi đến HK. Nhưng Haig về đến tòa đại sứ thì xé phong bì
để chuyển bằng diện tín về Washington. Trong thư Thiệu cho biết cần một
cam kết rõ ràng hơn nhằm bảo đảm cho việc ông ta chấp nhận quân Bắc
Việt ở lại Miền Nam ( Hồi ký của Alexander Haig ).
Ngay đêm đó, trong lúc Haig còn ở tại Sài
Gòn, Đại sứ Bunker chuyển đến Tổng thống Thiệu một điện văn của Nixon,
cho biết sau ngày ký hiệp ước, dự trù vào ngày 27-1, Phó tổng thống
Agnew sẽ đến Sài Gòn với một bản mật ước của Tổng thống Nixon, trong đó
nêu rõ ba vấn đề : (1) Hoa Kỳ công nhận chính phủ của ngài là chính
phủ duy nhất hợp pháp ở Miền Nam Việt Nam (2) Hoa Kỳ không công nhận
quyền có mặt của quân ngoại quốc trên lãnh thổ của Miền Nam. (3) Hoa Kỳ
sẽ phản ứng mãnh liệt nếu bản Hiệp định bị vi phạm. Ngoài ra : “Tôi muốn được hội kiến riêng với ngài ba hay bốn tuần sau ở tại San Clements, California để chúng ta có dịp công khai nhắc lại mối hợp tác giữa hai nước, và sự cam kết của Hoa Kỳ” ( Nguyễn Tiến Hưng, Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập ).
Trên nguyên tắc, đây cũng là điều kiện để
hình thành Hiệp định; nếu không có điện thư cam kết đó thì Tổng thống
Thiệu đã không ký vào Hiệp định. Nguyên bản bức điện văn được Nguyễn
Tiến Hưng đưa lên sách The Palace File, bản tiếng Việt trang 663. Vì vậy
sau này cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã hết lời nguyền rủa Hoa Kỳ
bội ước.
Không phải TT Nixon chủ tâm lừa đảo, sở
dĩ ông mạnh dạn viết bức điện cam kết đó là vì HN đã đầu hàng. Không thể
nào có chuyện HN gây chiến trở lại, họ không còn súng đạn, không còn
gạo, và đang cần tiền viện trợ tái thiết của HK ( Tiến bồi thường chiến
tranh ). Không ngờ là sau này tình thế đã biến chuyển khác hẳn với
những toan tính của Nixon và Kissinger.
Năm 1973, ngày 16-1. Tài liệu của CIA : “Ngày
16/1 Haig đến Sài gòn với một thư tay khác của Nixon gởi cho tổng thống
Thiệu rằng nếu vẫn không ký ông sẽ công khai tố cáo trước dư luận thế
giới Thiệu ngăn cản hòa bình. Thiệu vẫn hoãn binh và cho biết sẽ trả lời
Nixon vào ngày hôm sau.
Hôm sau, 15 phút sau khi máy bay Haig
rời Tân Sơn Nhất, Thiệu triệu tập Hội đồng An Ninh thu hẹp, đọc tối hậu
thư của Nixon cho Hội đồng nghe. Sau đó Hội đồng bàn về cung cách thi
hành hiệp định. Việc ký kết đến đây xem như đương nhiên. CIA báo cáo
rằng “trong thâm tâm Thiệu biết trước sau cũng phải ký theo ý Hoa Kỳ, nhưng ông đã làm những gì cần thiết có lợi cho sự tồn tại của Nam Việt Nam.”
Sáng ngày 20/1 Thiệu triệu tập Hội
đồng An ninh quốc gia thông báo quyết định ký. Phó tổng thống Trần Văn
Hương khóc nói rằng Nam Việt Nam đang ở trên một chiếc gậy, chạy hướng
nào cũng không tránh được tai họa, và ký Hiệp định thì tai họa nhỏ hơn.
Sau khi Hương dứt lời, Thiệu nói đồng ý với sự miêu tả của Hương ( CIA
and The Generals, bản dịch của Trần Bình Nam ).
Theo như đoạn tài liệu này của CIA thì
Haig đến SG ngày 14 rồi trở lại HK, sau đó ngày 16 mới trở lại với thư
cam kết của TT Nixon. Nhưng thực ra theo hồi ký của Haig thì thay vì
đem thư của Thiệu về HK thì ông và Bunker đã mở thư ( do lệnh của Nixon )
và chuyển bằng điện về cho Nixon. Rồi Nixon gởi lại thư cam kết bằng
điện cho Bunker để Bunker chuyển cho Thiệu.
Tài liệu của CIA ngày đó có hơi khác so
với hồi ký của Tướng Haig; sự thực là Haig đã mở thư tại SG và nhận
điện thư của Nixon rồi đem đến cho Thiệu chứ không có về HK. Haig và
Bunker không cần phải cho CIA biết chuyện này. Do đó đoạn tài liệu này
của CIA chỉ là nhờ thâu thập qua thông tin của Trần Thiện Khiêm, nhưng
Khiêm không hề biết là Haig không có về HK.
Đây mới chỉ là bức điện thư báo trước,
coi như bản nháp của mật ước, còn mật ước có chữ ký của Nixon sẽ được
Phó tổng thống HK Agnew đem đến Sài Gòn sau khi Hiệp định ngưng bắn được
ký kết.
Ký kết hòa ước
Năm 1973, ngày 23-1, lúc
10 giờ 45 sáng, bản Hiệp định Paris 1973 được Kissigner và Lê Đức Thọ
ký tắt. Sau khi ký xong hai ông trao đổi cho nhau cây viết để làm kỷ
niệm.
Năm 1973, ngày 27-1,
buổi sáng, 4 bên tham chiến cùng ký kết Hiệp định có liên quan đến 4
bên, gồm có Ngoại trưởng Hoa Kỳ William Rogers, Ngoại trưởng Hà Nội
Nguyễn Duy Trinh, Ngoại trưởng VNCH Trần Văn Lắm, và Đại diện MT/GPMN
Nguyễn Thị Bình. Buổi chiều Hoa Kỳ và Hà Nội ký vào văn kiện thứ hai có
liên quan tới sự kết ước giữa hai bên.
* Chú giải :
Dư luận Hoa Kỳ đối với Nixon : Báo Washington Post : “Chúng ta biết ơn Nixon vì ông đã thực hiện lời hứa chấm dứt chiến tranh trong vòng 4 năm”.
Báo Boston Herald Traveler : “Nó tốt hơn nhiều so với một cuộc đầu hàng hèn nhát mà một số người Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận”.
Báo Walstreet Journal : “Ông đã rút
550 ngàn quân ra khỏi Việt Nam và đem được tù binh trở về mà không mất
chế độ Sài Gòn…Kẻ địch đã hiểu rằng xương sống của người ngồi trong Tòa
Bạch Ốc được làm bằng thép…”
Báo Cleverlnad Plain Dealer: “Ván
bài quốc tế của ông đã có kết quả trước mọi thứ áp lực ở trong cũng như
ngoài nước. Đây là giờ phút oanh liệt nhất của vị Tổng thống thứ 37 của
chúng ta”.
Theo ghi chép của Hadleman thì sau khi xem các bài báo đó, Nixon có nhận xét rằng chưa có ai nói đúng về ông ta, đó là “có bản lĩnh và kiên trì”.
Bí mật đằng sau Hiệp định : Hiệp
định gồm có 9 khoản, trong 9 khoản có 23 điều. Nội dung của 9 khoản,
23 điều cho thấy trong 4 năm đàm phán hai bên chỉ thương lượng với nhau
về 3 mục là (1) Mỹ rút quân (2) Hà Nội trả tù binh (3) Mỹ bồi thường
chiến tranh. Tuy nhiên chuyện Mỹ rút quân là do Nixon tự quyết định rút
quân về để thay thế bằng quân VNCH chứ không phải là do kết quả điều
đình . Như vậy chỉ còn 2 vấn đề mà người ta phải hẹn nhau đến Paris để
thương lượng trong 4 năm là Hà Nội trả tù binh và đòi bồi thường chiến
tranh.
Nhưng vấn đề trao trả tù binh
HK và tiền bồi thường chiến tranh chỉ được đưa ra sau khi cả Trung Quốc
và Liên Xô đều thông báo cho HN là họ muốn HN chấm dứt chiến tranh.
Lúc đó Lê Duẩn có muốn đánh tiếp cũng không có gạo, không có đạn để
đánh. Do đó chỉ cần 2 cuộc họp cách nhau 2 tháng thì Hà Nội đã đưa ra
toàn bộ các điều kiện của họ: tức là thả tù binh HK vô điều kiện, không
đòi thay thế chế độ Thiệu, không đòi thả 38 ngàn tù chính trị Cọng sản
Miền Nam, không buộc HK phải ghi điều khoản bồi thường chiến tranh vào
trong Hiệp định đình chiến v.v… Dĩ nhiên là Nixon nợ LX và TQ về sự
nhượng bộ này.
Nội dung 9 khoản ghi trong Hiệp định cho thấy không cần phải tốn tới 4 năm mới có được văn bản của hiệp định:
Khoản 1 : Các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam. Dĩ nhiên K và LĐT không phải thương lượng với nhau về chương này, chỉ cần sao lại chương 1 của Hiệp định Genève ).
Khoản 2 : Chấm dứt chiến sự, rút quân.
Chương này dành cho chuyên viên kỹ thuật, ấn định ngày giờ ngưng bắn,
thời hạn rút quân ,dĩ nhiên hai ông cũng không thương lượng với nhau về
mục này.
Khoản 3 : Việc trao trả nhân viên quân sự bị bắt.
Đây mới là mục chính yếu để thương lượng nhưng tránh không nói tới chữ
“trao trả tù binh” mà nói là trao trả nhân viên quân sự bị bắt.
Khoản 4 : Việc thực hiện quyền tự quyết của dân tộc VN ( Dĩ nhiên vấn đề này cũng không cần thương lượng, chỉ cần sao lại Hiệp định Geneve ).
Khoản 5 : Vấn đề thống nhất Việt Nam. Không cần thương lượng, chỉ cần nói rằng theo như Hiệp định Geneve 1954 là xong.
Khoản 6 : Ủy ban kiểm soát đình chiến. Cũng không cần thương lượng, việc này cũng chỉ giao cho các chuyên viên quân sự.
Khoản 7 : Đối với Cam Bốt và Lào. Cũng ghi theo như HĐ Geneve là xong.
Khoản 8 : Quan hệ giữa HK và CSBV. Đây mới là vấn đề chính, nghĩa là ai phải chung cho ai và chung bao nhiêu.
Khoản 9 : Các quy định khác : Hiệp định có hiệu lực sau khi ký./-
Vậy thì chỉ cần xem lại khoản 3 và khoản 8 có 3 điều chính yếu:
Điều 5 ( Thuộc khoản 3 ) : Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký
hiệp định này sẽ hoàn toàn rút ra khỏi Miền Nam Việt Nam mọi quân đội,
cố vấn quân sự và nhân viên quân sự liên quan đến chương trình vũ khí,
đạn dược và các dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và các nước ngoài khác…
Điều 8 ( Thuộc khoản 3 ) : Việc trao trả những nhân viên quân sự
của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt sẽ tiến
hành song song và hoàn thành không chậm hơn ngày hoàn thành việc rút
quân nói trong điều 5.
Điều 21( Thuộc khoản 8 ) : Hoa Kỳ mong rằng
Hiệp định này sẽ mang lại một thời kỳ hòa giải với Việt Nam Dân Chủ
Cọng Hòa cũng như với các dân tộc Đông Dương. Theo chính sách truyền thống của mình, Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công việc xây dựng sau chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cọng hòa và toàn Đông Dương.
Tóm tắt 9 khoản, 23 điều của Hiệp định
thì người ta thấy ngay sự phi lý : Ngưng bắn da beo, chính phủ Nguyễn
Văn Thiệu vẫn còn tồn tại, 38.000 cán bộ dân sự CSMN vẫn bị giam trong
các trại tù. Trong khi đó tù binh CSBV, tù binh VNCH và tù binh HK được
thả, Hoa Kỳ không phải trả tiền bồi thường chiến tranh nhưng : “Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và tái thiết sau chiến tranh”. Như vậy công lao chiến đấu của CSVN từ 1959 tới 1973 coi như bỏ đi, họ không được một tí lợi nào cả ?
Nếu Hà Nội sáng suốt thì bắt phải ghi rõ
con số 3,25 tỉ vào điều khoản 21 và ấn định lịch trình trao đổi, hễ đưa
bao nhiêu thì thả bấy nhiêu, đưa tới đồng Dollar cuối cùng thì thả người
cuối cùng. Dĩ nhiên một khi đã ghi con số và lịch trình trao đổi thì
đến khi quốc hội HK biểu quyết thông qua Hiệp định sẽ phải ký thêm một
đạo luật chuẩn chi ngân sách đính kèm. Phải chăng Lê Đức Thọ đã bị lừa ?
Vì không tin là Lê Đức Thọ bị lừa cho nên những nhà quan sát thời cuộc thừa hiểu rằng đằng sau Hiệp định phải có một mật ước riêng giữa hai bên, trong đó sẽ quy định rõ con số bồi thường chiến tranh cũng như thể thức thanh toán.
Còn về phần Quốc hội HK thì họ không có
lý do gì để từ chối một hiệp định công khai, hoàn toàn có lợi cho HK;
nghĩa là chấm dứt chiến tranh, đem được tù binh trở về mà không tốn một
đồng nào cả.
BÙI ANH TRINH
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét