Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2014

Quân lực Việt Nam Cộng Hoà 1968-1975

 
Tong Le
Quân lực Việt Nam Cộng Hoà 1968-1975 - Nhà sử học Bill Laurie (Dịch giả: Nguyễn Tiến Việt)

Lời người dịch: Bill Laurie là sử gia Hoa Kỳ, một trong những chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam và nhân chứng được mời trình bày quan điểm trong cuộc hội thảo mang tên “Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa: Suy ngẫm và tái thẩm định sau 30 năm” (ARVN: Reflections and reassessments after 30 years) do Trung Tâm Việt Nam thuộc Ðại Học Texas Tech tổ chức tại Lubbock trong hai ngày 17 và 18 Tháng Ba năm 2006.
Trong số nhiều diễn giả Việt-Mỹ, ông Laurie là người nêu ra quan điểm của riêng ông về một quân đội mà ông từng sát cánh với cương vị một chuyên viên tình báo cao cấp trong nhiều năm. Bài này được chuyển ngữ từ nguyên bản bài viết của Bill Laurie, mà ông dùng để trình bày, vắn tắt hơn, trong buổi hội thảo. Bill Laurie gửi tặng bài viết cho dịch giả, cho phép được dịch và phổ biến trong giới truyền thông Việt ngữ. Những chữ viết ngả để trong ngoặc đơn là chú thích của tác giả để câu văn chuyển dịch mang được đầy đủ ý nghĩa của nó.
----------
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thay đổi một cách đáng kể cả về số lượng lẫn phẩm chất trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1975. Sự thay đổi không hề được giới truyền thông tin tức (Hoa Kỳ) lưu ý, và nhìn chung thì đến nay vẫn không được công chúng Mỹ biết đến, vẫn không được nhận chân và mô tả đầy đủ trong nhiều cuốn sách tự coi là “sách sử”. Một phần nguyên nhân của sự kiện này là do bản chất và tầm mức của sự thay đổi không dễ được tiên đoán hay tiên kiến, dựa trên hiệu quả hoạt động và khả năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1968.
Bài này không hề muốn chối bỏ những vấn đề nghiêm trọng đã hiện hữu, hay phủ nhận rằng vấn đề tham nhũng, lãnh đạo kém cỏi không tiếp tục gây hiểm họa cho khả năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ đất nước họ. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, những vấn đề này có được giải quyết, và những khía cạnh tích cực của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không thể bị xóa khỏi trang lịch sử vinh quang.
Tôi đã tự chứng nghiệm điều này, khi đến Việt Nam cuối năm 1971 và phục vụ 1 năm tại MACV(Phái Bộ Quân Viện Hoa Kỳ tại Việt Nam), rồi sau đó trở lại thêm hai năm, từ 1973-1975, làm việc ở Phòng Tùy Viên Quân Sự. (DAO)
Khởi thủy, được huấn luyện và dự trù phục vụ như một cố vấn, tôi tham dự khóa huấn luyện căn bản sĩ quan lục quân tại Fort Benning, Georgia, tình báo chiến thuật và chuyên biệt về Ðông Nam Á ở Ft. Holabird, Maryland, và học trường Việt ngữ tại Ft. Bliss, Texas. Tới Việt Nam thì được biết những nhiệm vụ cố vấn đang được giảm dần để đi đến chỗ bỏ hẳn; nên thay vào đó tôi được chỉ định vào MACV J-2 với cương vị một chuyên viên phân tích tình báo, trước hết phụ trách Cambodia, rồi tập trung vào Quân Khu IV, bao quát toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Công việc này mở rộng một cách không chính thức để bao gồm công tác liên lạc giữa Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, các toán cố vấn Mỹ, các chính quyền tỉnh thị của Việt Nam, và cả các đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ở vùng IV. Trong 3 năm đó tôi có mặt lúc chỗ này, lúc chỗ khác, trên khắp 18 trong số 44 tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa, liên lạc không những với các đơn vị Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa mà cả với người Úc, cơ quan viện trợ Mỹ USAID, và CIA. Khi thì đứng vào vị trí rất cao cấp trong những buổi thuyết trình ở tổng hành dinh của MACV cũng như ở Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tuần lễ sau đó tôi có thể đã lội trên những ruộng lúa tỉnh Kiến Phong cùng với các binh sĩ Ðịa Phương Quân, hay bay ngang tỉnh Ðịnh Tường trên một chiếc trực thăng Huey của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, hoặc là nằm trong căn cứ Biệt Ðộng Quân Trà Cú bên sông Vàm Cỏ Ðông.
Nói tiếng Việt là điều vô cùng quan trọng, và trong vòng một tháng sau khi tới Việt Nam, thật rõ ràng hiển nhiên là những điều tôi từng nghe ở Mỹ, dù là tin tức báo chí hay là những cuộc thảo luận ngốc nghếch trong các trường đại học, mà có thể diễn tả được những gì tôi đang trải qua và gặp phải. Nói vắn tắt, tôi tự hỏi “Nếu quả thật tất cả những người ở Mỹ đang nói về Việt Nam, thì mình đang ở nơi nào đây?”
Những thời khắc ngoài giờ làm việc của tôi được dàn trải trọn vẹn trong một kích thước thực tế hoàn toàn Việt Nam. Dù là ở Sài Gòn, Cao Lãnh, hay Rạch Giá, tôi cũng lui tới những cái quán nhỏ, với những bàn cà-phê, mì, cháo… háo hức lắng nghe người dân, người lính Việt Nam nói chuyện, tôi hỏi han, và học được thật nhiều, nhiều hơn những gì tôi từng học ở Hoa Kỳ.
Sự học tập của tôi không dừng lại ở năm 1975. Từ đó đến nay tôi đã đọc hằng feet/khối những tài liệu giải mật và hằng trăm cuốn sách, kể cả những tác phẩm tiếng Việt, phỏng vấn đến mức từ kỷ lục này qua kỷ lục nọ với những cựu chiến binh gốc Ðông Nam Á và gốc Hoa Kỳ, săn tìm trong hằng trăm trang web Việt Nam và Ðông Nam Á trên Internet. Vẫn còn rất nhiều điều về Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan hơn là những gì công chúng Hoa Kỳ tưởng, và những kết luận do những người ở các xứ ấy tự trình bày lên thì lại không phù hợp với những gì mà hầu hết mọi con người (ở Mỹ) tưởng là họ biết.
Quả là có những vấn đề nghiêm trọng về tham nhũng. Ðúng là có những tấm gương về lãnh đạo bất xứng. Tuy nhiên, chẳng phải ai nói hay gợi ý gì với tôi, mà chính là ngay lần đầu tiên đến với Sư Ðoàn 9 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa, tôi đã phát giác khả năng dày dạn và đầy chuyên nghiệp trong những hoạt động mà tôi chứng kiến ở một trung tâm hỏa lực cấp sư đoàn. Cũng chẳng ai nói với tôi là Sư Ðoàn 7 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa, đơn vị cứ mãi bị kết tội vì khả năng chiến đấu kém cỏi ở Ấp Bắc nhiều năm trước, đã biến thái thành một đơn vị có hiệu năng chiến đấu cao dưới tài lãnh đạo chỉ huy của Tướng Nguyễn Khoa Nam, một con người thanh liêm không một tì vết, song song với tài năng về chiến thuật, mà đến nay vẫn không hề được công chúng Hoa Kỳ biết tới, tuy đã được người Việt Nam tôn sùng đúng mức. Cũng không hề có ai ngụ ý hay nói với tôi rằng có thể là lực lượng Ðịa Phương Quân tỉnh Hậu Nghĩa, là những dân quân của tỉnh, đã làm mất mặt chẳng những 1 mà tới 3 trung đoàn chính quy của quân đội miền Bắc trong chiến dịch tấn công năm 1972 của Hà Nội. Họ đã nhai nát và nhổ ra nguyên cả lực lượng xung kích của đối phương, một lực lượng có thể đã làm đổi chiều lịch sử vào thời kỳ đó.

Ðịa Phương Quân không được Pháo Binh và Không Quân sẵn sàng yểm trợ như lực lượng chính quy Việt Nam Cộng Hòa, trong đó kể cả Nhảy Dù, Biệt Ðộng Quân, Thủy Quân Lục Chiến. Quân địa phương chỉ dựa vào kỹ thuật chiến đấu căn bản bộ binh. Nếu quân Bắc Việt đánh thủng được chiến tuyến này thì họ đã lập tức trực tiếp đe dọa Sài Gòn, chỉ cách đó 25 dặm, buộc Sư Ðoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa phải rút khỏi quốc lộ 13, từ đó để cho lực lượng Bắc Việt hướng thẳng vào An Lộc. Và như Tiến Sĩ James H. Willbanks viết trong tác phẩm xuất sắc của ông (về trận An Lộc), Sư Ðoàn 21 tuy không thành công trong việc phá vòng vây An Lộc nhưng cũng đã buộc Bắc Việt phải đưa một sư đoàn đổi hướng khỏi chiến trường An Lộc, nếu không, nơi này có thể đã sụp đổ với những hậu quả khốc liệt.
Nói vắn tắt, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một cách toàn diện, đã có khả năng cao hơn nhiều so với những gì tôi biết trước khi tôi qua Việt Nam, và càng cao hơn nhiều so với những gì được chuyển tới cho người dân Mỹ. Ngày trước… và ngày nay cũng vậy.
***
Trở lại thời kỳ đang thảo luận trong bản thuyết trình này, ai cũng biết Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vướng mắc nhiều vấn đề trầm trọng. Ðiều này là hiển nhiên. Nếu không như vậy thì đã chẳng cần phải yêu cầu những đơn vị chiến đấu của Hoa Kỳ, Úc, Nam Hàn, Thái Lan và New Zealand tới đó.

Tuy nhiên, còn có những chỉ dấu cho thấy lực lượng Việt Nam Cộng Hòa khi được trang bị đúng mức và chỉ huy tốt đẹp thì sẽ có khả năng tới đâu. Năm 1966 một tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân Việt Nam Cộng Hòa đã gây thiệt hại nặng và đã “giúp” giảm quân số chỉ còn 1 phần 10 cho một trung đoàn Bắc Việt đông gấp ba lần họ ở Thạch Trụ. Tiểu đoàn này được Tổng Thống Johnson tặng thưởng “Huy chương của tổng thống Hoa Kỳ”. Ðại Úy Bobby Jackson, cố vấn tiểu đoàn này, đã mô tả người đối tác của ông, Ðại Úy Nguyễn Văn Chinh (hay Chính?), như là con người tuyệt nhiên không hề sợ hãi. Tiểu Ðoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, mang huy hiệu Trâu Ðiên, đã từng bắt nạt nhiều đơn vị cộng sản miền Nam và chính quy Bắc Việt, chứng tỏ sự xứng hợp của huy hiệu trâu điên (càng có ý nghĩa đối với những ai đã từng gặp phải một con trâu đang nổi giận (và bị nó ăn hiếp!) Công trạng của họ không hề được tường trình trong giới truyền thông tin tức của Hoa Kỳ, và về sau cũng bị bỏ quên trong cái gọi là “lịch sử”…
Năm 1968, trong bối cảnh cuộc tổng công kích 68 thất bại của Hà Nội, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ thấy rõ là kế hoạch Việt Nam hóa phải được tăng tiến, nhưng nhiều người (Mỹ) lại lầm tưởng đó là ranh giới giữa hai thời kỳ, thời kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không chiến đấu, và bây giờ là lúc họ bắt đầu chiến đấu. Thái độ này đã bỏ quên dữ kiện là mức tử vong vì chiến sự hằng tháng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã vượt xa mức tổn thất trong toàn cuộc chiến của tất cả các lực lượng đồng minh cộng lại.
Rốt cuộc thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng được cung cấp vũ khí tối tân, thay thế những trang bị thời Thế Chiến Thứ Hai mà hầu hết quân lực này phải sử dụng (khoảng đầu năm 1968 chỉ có 5% quân đội Việt Nam Cộng Hòa được trang bị súng M16), nhìn chung thì thua kém vũ khí của Việt Cộng và bộ đội Bắc Việt. Ðồng thời, quân số cũng tăng tiến, theo như bảng dưới đây trình bày:
(Bảng ghi những con số gia tăng quân số của các lực lượng chính quy và Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân, từ năm 1968 đến năm 1972, cho thấy quân số tổng cộng tăng 28%, từ 820 ngàn lên 1 triệu 48 ngàn quân. Trong đó, Không Quân gia tăng quân số tới 163%, Hải Quân tăng 110%, Lục Quân tăng gần 8% quân số)
Trong bảng này, nhóm từ Anh ngữ ARVN, tức the Army of Republic of Vietnam, có nghĩa là Lục Quân Việt Nam, chỉ bao gồm 38% Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (tác giả không đồng ý dùng nhóm chữ ARVN để chỉ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và ông dùng nhóm chữ RVNAF, Republic of Vietnam’s Armed Forces). Ngoài ra còn những thành phần khác, gồm Cảnh Sát Dã Chiến, Nhân Dân Tự Vệ, và các toán Xây Dựng Nông Thôn.
Lực lượng xây dựng nông thôn không được coi là lực lượng chiến đấu, còn lực lượng Nhân dân tự vệ thường bị chế diễu nhưng (những lực lượng này) cũng là chướng ngại cho quân Việt cộng và quân đội Bắc Việt (North Vietnam’s Army trong nguyên bản). Có lần một toán cán bộ xây dựng nông thôn đã đẩy lui cả một tiểu đoàn Việt cộng ở tỉnh Vĩnh Long. Các toán viên biết gọi pháo binh của tỉnh yểm trợ. Chuyện này cũng không được biết đến để ghi nhận vào tài liệu.
Thành phần của lực lượng Nhân dân tự vệ thì quá trẻ, hay quá già, hay vì thương tật nên không gia nhập quân đội chính quy, chỉ phục vụ như lực lượng phòng vệ làng ấp chống lại những toán thu thuế, tuyển mộ, hay tuyên truyền của cộng sản địa phương. Nhưng Nhân dân tự vệ cũng là một yếu tố mà cộng sản địa phương phải đối phó sau năm 1968. Trước đó không có lực lượng này, Việt cộng ở địa phương tự do đi vào ấp xã lúc ban đêm. Nhiều lúc Nhân dân tự vệ không có hiệu quả, nhiều khi họ bị tuyên truyền để đi theo Việt cộng, nhưng có nhiều lúc khác lại có những báo cáo như sau: (Trích từ các sách vở của các tác giả người Mỹ).

“Hai Việt cộng đang bắt cóc một Nhân dân tự vệ thì một Nhân dân tự vệ khác xuất hiện, bắn chết hai Việt cộng này bằng súng M1 (không ghi rõ garant hay carbine), tịch thu được một súng AK47 và một súng lục 9 ly.”
Và “cả hai ấp Prey Vang và Tahou đêm nay bị bắn súng nhỏ và B-40. Nhân dân tự vệ địa phương đẩy lui hai toán trinh sát nhẹ.”
Còn nữa: Một Nhân dân tự vệ 18 tuổi đã là người bắn cháy chiếc xe tăng đầu tiên trong rất nhiều xe tăng T 54 của Bắc Việt bị tiêu hủy tại An Lộc trong cuộc bao vây năm 1972.
Hà Nội không mấy hài lòng về lực lượng này, theo như tài liệu sau đây:
“Chúng (QLVNCH) tăng cường các lực lượng bù nhìn, củng cố chính quyền bù nhìn và thiết lập mạng lưới tiền đồn cùng các tổ chức Nhân dân tự vệ bù nhìn ở nhiều làng xã. Chúng cung cấp thêm trang bị kỹ thuật và tính lưu động cho lực lượng bù nhìn, thiết lập những tuyến phòng vệ, và dựng ra cả một hệ thống phòng thủ và đàn áp mới ở những khu vực đông dân cư. Kết quả là chúng đã gây nhiều khó khăn và tổn thất cho lực lượng bạn (Việt cộng).”
Sự kiện này không thể xảy ra trước năm 1968, khi lực lượng Nhân dân tự vệ được thành lập và trang bị bằng những vũ khí thời thế chiến thứ hai do các lực lượng QLVNCH chuyển giao lại.
Tương tự như vậy, lực lượng Nghĩa quân, Ðịa phương quân với sự trợ giúp của các toán cố vấn Mỹ lưu động, được tuyển mộ thêm từ năm 1968 và trang bị vũ khí tốt hơn, khởi sự tiến bộ, như cố vấn David Donovan thuộc một toán lưu động chứng kiến trong một trận tấn công bộ binh năm 1970:
“Chúng tôi vừa vượt khỏi khu mìn bẫy chính thì bị hỏa lực từ một rặng cây trước mặt bắn tới. Nước văng tung tóe xung quanh, đạn bay véo véo trên đầu, trong tiếng súng nhỏ nổ dòn. Binh sĩ bây giờ phản ứng tốt lắm, không giống như trước kia cứ mỗi khi bị bắn là họ gần như tê liệt. Trung sĩ Abney chỉ huy cánh đuôi của đội hình hàng dọc, bung qua bên phải, sử dụng như thành phần điều động tấn kích, trong khi chúng tôi ở phía trước phản ứng lại hỏa lực địch. Khi toán của Abney tới được chỗ địa thế có che chở thì họ dừng lại và bắt đầu tác xạ. Dưới hỏa lực bắn che đó chúng tôi tràn tới một vị trí khác. Hai thành phần chúng tôi yểm trợ nhau như vậy và tiến được tới hàng cây, sẵn sàng xung phong. Ba người trong toán của tôi bị trúng đạn, không biết nặng nhẹ ra sao nhưng mọi người đều xông tới. Chúng tôi đã hành động khá hay.”
Kinh nghiệm của Donovan không phải là độc nhất. Cố vấn John Cook nhắc lại niềm lạc quan của ông vào năm 1970:
“Chúng tôi (tức Cook và sĩ quan đối tác phía Việt Nam) đang rất lên tinh thần, cảm thấy như mình là “kim cương bất hoại”. Tinh thần chiến đấu và hăng hái chủ động tấn công trong quận hết sức cao, khiến chúng tôi truy kích quân địch một cách gần như khinh suất, liều lĩnh.”
Những thành tích như vậy không phải mọi nơi đều có. Có những đơn vị không đáp ứng được trong thời kỳ thay đổi và vẫn bị lãnh đạo chỉ huy kém cỏi, chẳng thực hiện một cuộc hành quân lục soát với chiến thuật chủ động tấn công nào. Có khi cố vấn Hoa Kỳ suýt bị giết hay bị dọa giết bởi những sĩ quan địa phương của Việt Nam mà họ không hòa thuận được. Nhiều cố vấn Mỹ khác không gặp cảnh ngộ khó chịu đó, nhưng cũng chẳng có ấn tượng tốt nào về hoạt động của những đon vị mà họ cố vấn. Dù sao thì những chuyện tích cực và thích thú do cố vấn Mỹ chứng kiến cũng đầy rẫy, nhưng lại hoàn toàn vắng bóng trong những cuộc thảo luận trên nước Mỹ hay trong ý tưởng của những người Mỹ bình thường, cũng như trong những gì được dạy dỗ tại các trường học Hoa Kỳ.
Sự tiến bộ hay những tấm gương xuất sắc ngay trước mắt không phải chỉ hiển hiện trong những lực lượng lãnh thổ và những sư đoàn bộ binh VNCH, (là những đơn vị) thường bị cho là không mấy nổi trội về chiến thuật chủ động tấn công. Cố vấn về kế hoạch bình định của tỉnh Quảng Trị Richard Stevens, trước đó từng phục vụ trong Thủy quân lục chiến Mỹ tại Việt Nam, tỏ ra ngạc nhiên trước thành tích của một đơn vị thuộc sư đoàn 1 bộ binh Việt Nam trong trận tấn công một vị trí phóng hỏa tiễn của quân Bắc Việt:
“Tôi có ấn tượng hoàn toàn tốt, và thực sự là kinh ngạc, về cách thức hành quân và sự táo bạo của họ trong mọi việc… Ðây là cuộc hành quân thứ 13 như vậy do vị tiểu đoàn trưởng này chỉ huy. Ta đang nói chuyện về những chuyên gia hết sức tinh thục trong những gì họ làm, những người đã từng thực hiện những công tác sởn tóc gáy và vẫn tiếp tục thực hiện… Các cố vấn của trung đoàn này luôn luôn nói với tôi lúc tôi ra đó, rằng ‘anh đang làm việc với những người giỏi nhất. Chúng ta không có điều gì để mà có thể nói cho những người này làm. Chúng ta (các cố vấn) chỉ có việc yểm trợ hỏa lực mà thôi. Còn về sự hiểu biết trong hành quân, thì họ là người dạy chúng ta.’ Chúng tôi có các cố vấn người Úc và người Mỹ, họ đều nói y như nhau.” (tác giả trích luận án Master năm 1987 của Howard C.H Feng, đại học Hawaii).
Ở miền Nam, trong lãnh thổ tỉnh Ðịnh Tường thuộc quân khu IV, sư đoàn 7 bộ binh VNCH cũng thi hành nhiệm vụ không hề có khuyết điểm, theo lời xác nhận của các cố vấn và các phi công Mỹ lái trực thăng chuyển quân cho các binh sĩ sư đoàn 7 trong những trận tấn công. Sư đoàn này từng bị mang tiếng là sư đoàn “lùng và né” (thay vì “lùng và diệt”, search and destroy), có thể vì trận Ấp Bắc hồi 1963, nhưng những ai trực tiếp công tác với họ không thể nói gì hơn là những lời ca tụng, ngưỡng mộ về sự tinh thông chiến thuật và tinh thần hăng hái xông xáo. Một cựu cán binh Bắc Việt xác nhận về sự dũng cảm của sư đoàn 7 bộ binh:
“Vùng giải phóng bị thu hẹp… Tôi mất thêm thời gian di chuyển quanh, cố tránh xa các cuộc hành quân của quân đội VNCH.
Ở Bến Tre (tức tỉnh Kiến Hòa) sư đoàn 7 VNCH là lực lượng chính gây nên nhiều khó khăn. Hầu hết sư đoàn được tuyển mộ ở vùng châu thổ sông Cửu Long nên họ biết rành hết cả vùng. Họ thông thuộc vùng này cũng như chúng tôi.” (tác giả trích dẫn David Chenoff và Ðoàn văn Toại, sách Chân dung kẻ địch, Random House ở New York xuất bản năm 1986).
Tình hình còn tồi tệ hơn khi các đơn vị quân đội Bắc Việt điền khuyết cho các đơn vị “Việt cộng”, không hiểu biết chút nào về vùng này và được trang bị kém cho cuộc chiến kiểu các rặng cây ở phía Bắc vùng châu thổ. Một tù binh cho biết bị bắt sống không bao lâu sau khi tới, lúc anh ta và những người khác được lệnh phục kích một cuộc hành quân càn quét của sư đoàn 7 vào ngày hôm sau. Bố trí xong trước bình minh, đội quân đáng lẽ phục kích người ta thì lại bị tấn công từ phía sau do thành phần bên sườn của sư đoàn 7, trước khi tới lượt lực lượng chính. (Tài liệu trích dẫn).
Kết quả của điều này thêm hiển nhiên trong thời gian giữa 1968 và 1971, thời kỳ mà quân số lực lượng Hoa Kỳ giảm thiểu hơn một nửa, trong khi những cuộc hành quân tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt lại bị suy giảm rõ rệt:
(Bảng thống kê trong bài ở đoạn này cho thấy lực lượng Mỹ ở Việt Nam từ năm 1968 đến 1971 đã giảm 322 ngàn quân, tức 58%, các cuộc tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt cấp tiểu đoàn trở lên giảm 98%, chỉ còn 2 trận, những cuộc tấn công lẻ tẻ của phía cộng sản cũng giảm, kể cả những vụ bắt cóc, khủng bố, trong khi số xã ấp có an ninh tăng 56%, diện tích trồng tỉa lúa tăng 9.8%, thương vong vì chiến tranh của dân và quân phía VNCH giảm 55%, quân số của Việt cộng, Bắc Việt trên toàn miền Nam giảm 21%).
Tỉ lệ về các cuộc tấn công lớn nhỏ của phía cộng sản giảm hơn là tỉ lệ giảm quân số, cho thấy một sự sa sút toàn diện về khả năng quân sự, dưới tỉ lệ dự đoán là 21% quân số sụt giảm. Ðiều này xảy ra trong khi quân số tham chiến của Hoa Kỳ giảm tới 58%. Quân cộng sản Bắc Việt và Việt cộng không những chỉ có mặt ít hơn trên toàn lãnh thổ, mà còn kém khả năng tung ra những cuộc hành quân tấn kích.
Nhiều con số thống kê của VNCH không chính xác, nhất là con số xã ấp có an ninh thì lại còn kém xác thực hơn, nhưng biểu đồ khuynh hướng khá rõ ràng, và không có bằng chứng dù về thống kê hay tin đồn vặt, mà nêu ra điều gì khác hơn là sự xuống dốc thẳng đứng trong thời vận của quân Việt cộng và quân đội Bắc Việt trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1971. Trong khi Việt cộng, gọi như vậy để phân biệt với quân Bắc Việt, không bị tiêu diệt hoàn toàn, và những ổ kháng cự có ảnh hưởng mạnh do họ kiểm soát vẫn tồn tại ở những tỉnh như Chương Thiện, Ðịnh Tường, Quảng Nam, Quảng Ngãi, thì Việt cộng ở địa phương cũng không còn là một lực lượng chiến lược. Nếu không có sự xâm nhập đại quy mô của quân Bắc Việt và sự cung cấp vũ khí hiện đại, thì chiến tranh đã dần dần tự tàn lụi. Những đơn vị và khu vực của Việt cộng tồn tại được cũng hoàn toàn không phụ thuộc vào quân đội Bắc Việt để sống còn. Tác giả “phản chiến” Frances Fitzgerald của cuốn “Lửa trong hồ” (thật khôi hài, là cuốn sách bị đả kích bởi cả người chỉ đạo về tư tưởng của Hà Nội, Nguyễn Khắc Viện, lẫn người ủng hộ Mặt trận Giải phóng và Hà Nội, Ngô Vĩnh Long), nhìn nhận rằng khả năng sinh tồn của cả Việt cộng lẫn QLVNCH hồi năm 1966 là mỗi bên 50%, nhưng đến 1969 thì cơ hội sống còn của Việt cộng chỉ còn 10%, trong khi tỉ lệ này phía QLVNCH lên hẳn 90%. Nguyễn Văn Thành, sau 23 năm theo Việt cộng, hồi chánh năm 1970, cho rằng cứu cánh của Mặt trận giải phóng là vô vọng. Ông ta nêu ra những cuộc hành quân gia tăng của QLVNCH, sự phát triển những đơn vị Nghĩa quân xã quận và các chương trình Nhân dân tự vệ, cùng với kế hoạch cải tổ về ruộng đất của chính phủ VNCH, coi đó là những việc không thể đối phó được nữa. Stanley Karnow khẳng định thằng thừng trong cuốn sách được đánh giá cao quá đáng của ông, không cần giải thích nguyên do, rằng đến năm 1971, thì “riêng phía Việt cộng không phải là đối thủ của quân đội chính quyền Sài Gòn.”
Don Colin trải qua nhiều năm ở Việt Nam, được nhiều người biết đến qua lối bày tỏ thô lỗ, phản bác thô bạo và quá đáng, cộng với lối rủa sả om sòm những gì mà ông ta coi là tào lao nhảm nhí. Ông này đã phải chịu đựng những khó khăn trở ngại, những khởi đầu sai lạc cùng những vấn đề tương tự, bị coi như toàn những điềm gở. Nhưng năm 1971 Don Colin cũng thấy những kết quả tích tụ hiển hiện ở vùng châu thổ:
“Ba mươi tháng trước, con số những cấp chỉ huy giỏi ở quân khu IV chỉ đếm được trên một bàn tay. Ngay cả tư lệnh quân đoàn, một cấp chỉ huy tốt, trong sạch và tương đối có khả năng, cũng nhút nhát, thiếu óc sáng tạo và không đủ sức kích động thuộc cấp vào những hoạt động xông xáo và tích cực. Cấp tư lệnh sư đoàn thì phần lớn thiếu khả năng, hầu hết các tỉnh trưởng cũng kém cỏi và tham nhũng. Các cấp chỉ huy thuộc quyền của họ thì chẳng những noi gương xấu mà nhiều khi còn phạm khuyết điểm quá hơn cấp trên nữa. Nhưng nay thì chuẩn mực chung về tài năng, sự trong sạch và tận tâm đã tăng lên tới mức mà trước kia tôi cho là không thể tưởng tượng được. Sự thay đổi đặc biệt này khiến tôi thêm lạc quan tin tưởng ở khả năng tối hậu của chính phủ trong việc kiểm soát được Việt Nam và thành lập một chính quyền ổn định.”
Rồi tới cuộc tấn công 1972 của Hà Nội, một cuộc tấn công tốc chiến phối hợp phương tiện cơ khí kiểu cổ điển (a classical blitzkrieg), với đặc điểm là những vũ khí hạng nặng và những vũ khí chết người được đưa ra sử dụng như hỏa tiễn tầm nhiệt phòng không SA-7, hỏa tiễn công phá điều khiển bằng dây AT-3, những đoàn chiến xa T-54 được yểm trợ bằng mấy trăm khẩu đội hỏa tiễn 122 ly, đại bác 130 ly, hơn hẳn tất cả mọi thứ từng được Hoa Kỳ cung cấp cho lực lượng pháo binh QLVNCH. QLVNCH bị đánh tơi bời, có lúc đã gần tới kết cuộc, và sự đổ vỡ hiển hiện rõ ràng. Nhưng cái quân lực đang nằm đo ván đã đứng dậy ở tiếng đếm thứ 8, hồi phục sức lực và bẻ gãy cuộc tấn công nặng nề nhất ở Việt Nam, tính tới lúc đó.
Không ai khác hơn là học giả hàng đầu của Hoa Kỳ về Việt Nam, Douglas Pike, đã tuyên bố cuộc xâm lược của Hà Nội thất bại là vì “…Nam Việt Nam chiến đấu hơn hẳn quân đội xâm lăng đến từ phương Bắc.” Nhiều nhà bình luận, kể cả Tướng Ngô Quang Trưởng, nói tới không lực Hoa Kỳ như một yếu tố quyết định, thì đó đúng là yếu tố chính. Nhưng những điều ngụ ý nói là QLVNCH không thể chiến đấu nếu như không có không lực Mỹ, thì đã thiếu sót hai điều căn bản. Thứ nhất, quân đội Mỹ cũng chỉ được yểm trợ bằng không lực giống như QLVNCH đã được. Thứ hai, là điểm người ta ít nhìn ra: Không lực Hoa Kỳ là một yếu tố bổ sung để cân bằng với hai lực lượng vượt trội của Bắc Việt là thiết giáp và, lợi hại hơn cả, là lực lượng pháo binh hơn hẳn, hỏa tiễn 122 ly chính xác và đại pháo 130 ly gây tàn phá quy mô ở tầm tối đa 19 dặm (32 km).
Hoa Kỳ không cung cấp cho đồng minh của họ, VNCH, những vũ khí lợi hại ngang bằng, nhất là về pháo binh, như Liên Xô và Trung Cộng cung cấp cho Hà Nội. Hà Nội có hằng trăm hỏa tiễn 122 và đại pháo 130. QLVNCH không đủ đại bác để phản pháo, chỉ có 24 khẩu 175 ly, không chính xác bằng, bắn chậm hơn các loại 122 ly và 130 ly. Cả pháo đài kiên cố cũng không chịu nổi đạn 130 ly khoan hầm, nổ chậm. Tựu chung, trở lại đề tài không lực, thì không quân Việt Nam đã thi hành nhiệm vụ một cách đáng kính phục trong các trận chiến năm 1972, nhưng vẫn bị giới bình luận Hoa Kỳ hoàn toàn quên lãng. Một chuyên viên điều không tiền tuyến của Hoa Kỳ tỏ ra ngưỡng mộ một phi công A-37 của Việt Nam mà anh ta cùng thi hành một vụ tấn công không lục vào vị trí quân Bắc Việt:
“Anh ta đâm chúc đầu chiếc máy bay xuống tới tầm vũ khí liên thanh, và quả nhiên tôi thấy nhiều lằn đạn lửa vạch đường sáng bao quanh Pepper dẫn đầu. Tôi la lên báo động, thì đã thấy anh thả bom ở độ cực thấp và ghi một bàn tuyệt hảo trúng ngay bức tường. Trong những lần oanh kích tiếp theo ngay đó, các phi công của không quân Việt Nam cũng ghi bàn hoàn hảo mỗi lần đâm xuống, cũng là mỗi lần họ bị đạn phòng không bắn lên xối xả… Hỏa lực từ mặt đất vô cùng mạnh mẽ. Quân Bắc Việt có vẻ như biết rằng đối thủ của họ là người Nam Việt Nam.
“Tôi tin chắc là hai chiếc A-37 sẽ bị bắn rơi, nhưng cả hai đều xả hết bom đạn của họ trúng đích, không hề hấn gì. Hai phi công không quân Việt Nam đã trình diễn một màn tuyệt vời, và tôi ngưỡng phục lòng can đảm của họ trên cả sự thông minh. Trong giây phút đó lòng can đảm ấy đã vượt hẳn sự khôn ngoan trong những tính toán hơn thiệt về sự an toàn của cá nhân họ.”
Ðây không phải là một sự kiện riêng lẻ, theo như một quan sát viên không quân của Mỹ chứng thực:
“Không quân Việt Nam tự chứng tỏ sự trưởng thành trong cuộc tấn kích 1972… Trong trận phòng thủ Kontum KQVN thật cừ khôi, hết sức tuyệt diệu.”
QLVNCH lãnh cú mạnh nhất của Hà Nội năm 1972, mạnh hơn nhiều so với trận Tết Mậu Thân 1968, về khía cạnh quân số và hỏa lực. Ước lượng có khoảng gần 150 ngàn quân Bắc Việt đã tham chiến trong giai đoạn 1, và thêm 50 ngàn quân khác bổ sung khi trận chiến tiếp diễn. Mặt khác, trong trận Tết 1968 chỉ có 84 ngàn quân Việt cộng và Bắc Việt tham chiến, với pháo binh và xe tăng rất hạn chế. (ngoại trừ ở quân khu I).
QLVNCH tiếp tục hoạt động tốt đẹp sau khi hiệp định Paris gian lận được ký kết và bị vi phạm lập tức. Cuối Tháng 11 năm 1973 một lực lượng đặc nhiệm VNCH đã đánh đuổi sư đoàn 1 Bắc Việt ra khỏi căn cứ Thất Sơn, gây tổn thất nặng tới nỗi sư đoàn 1 này của Bắc Việt phải giải thể, số quân sống sót phải gia nhập các đơn vị khác. Ít tháng sau sư đoàn 7 VNCH tung ra cuộc hành quân lớn để quét các đơn vị Bắc Việt khỏi mặt khu Tri Pháp ở vùng giáp ranh ba tỉnh Ðịnh Tường-Kiến Tường-Kiến Phong, gây tổn thất nặng cho địch. Tri Pháp chưa bao giờ bị xâm phạm trong suốt cuộc chiến tranh, có đặc điểm là những vị trí phòng thủ kiên cố; cuộc thất trận gây hổ thẹn tới mức nhà cầm quyền cộng sản cảnh cáo các cấp là phải dấu sự thất bại đừng để bộ đội của họ biết, sợ bộ đội xuống tinh thần. Các phái đoàn Ba Lan và Hungary trong cái Ủy ban liên hiệp quân sự bốn bên bất lực, chỉ là gián điệp cho cộng sản Hà Nội. Nhưng một trong những báo cáo của họ năm 1973 xác định là không có đơn vị Việt cộng nào ngang sức với QLVNCH, và cả những đơn vị thiện chiến nhất của Bắc Việt cũng không sánh được với các đon vị Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến của VNCH.
Tuy nhiên đến giữa 1974 thì việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ bắt đầu từ từ siết cổ QLVNCH, và đạo quân này chỉ còn nước xuống dốc dần dần từ khi ấy. Ðến 1975 cấp số cung ứng có sẵn (Available Supply Rate- ASR) dành cho đạn đại bác đã giảm nhanh tới mức không thể chấp nhận, như theo bảng dưới đây, cho mỗi khẩu đội bắn trong một ngày:
Năm 1972 Năm 1975 Tỉ lệ giảm
Ðạn 105 ly 180 viên 10 viên 94%
Ðạn 155 ly 150 viên 5 viên 97%
Ðạn 175 ly 30 viên 3 viên 90%
Mọi thứ bị cắt đến tận xương, rồi tận tủy. Nhiều binh sĩ bộ binh được cấp số đạn căn bản là 60 viên M16 cho một tuần lễ. Nhiều đơn vị cấm binh sĩ bắn M16 liên thanh, chỉ được bắn phát một. Các đơn vị chạm địch có khi bị giới hạn chỉ còn được bắn yểm trợ hai trái đạn đại bác, ngoại trừ khi bị tràn ngập. Thiếu cơ phận thay thế, xe tăng, tàu giang tuần, máy bay… nằm ụ chờ rỉ sét (“cho mối mọt ăn”). Tệ hơn nữa, binh sĩ QLVNCH và gia đình họ phải chịu thiếu thốn khi nền kinh tế bị lạm phát 50%, và 25% thất nghiệp. Một bản nghiên cứu của cơ quan DAO thực hiện năm 1974 tiết lộ 82% binh sĩ VNCH không có đủ thực phẩm cho nhu cầu của gia đình. Ðói kém và suy dinh dưỡng làm xuống tinh thần cùng khả năng chiến đấu. Tình hình những tháng sau đó càng xuống dốc, và người ta đau lòng chứng kiến một cái chết chắc chắn sẽ đến vì hằng ngàn vết thương. Một năm sau, khi chính phủ Việt Nam cuối cùng sụp đổ, và, theo như những sách gọi là sách sử, thì nhiều người Mỹ ngạc nhiên, tự hỏi tại sao mọi thứ có thể sụp đổ nhanh chóng như vậy. Lẽ ra câu hỏi đáng chú ý hơn phải là tại sao QLVNCH đã có thể chiến đấu dài lâu sau thời gian giữa năm 1974, với sự thiếu thốn về vũ khí, trang bị, đạn dược, nhiên liệu, thuốc men, với những cái bụng lép kẹp, và gia đình cũng đói khát không kém?
Khi bắt đầu sự đổ vỡ tan hoang, và đám đông hỗn độn theo lệnh ông Thiệu rút khỏi vùng cao nguyên, thì khủng hoảng và kinh hoàng xảy đến, phần nào tăng thêm vì những lệnh lạc trái ngược phát xuất từ dinh Tổng Thống. Nhưng trong sự sụp đổ nhục nhã sau cùng, vẫn có không ít những trận “Alamo” nhỏ của những người lính VNCH chiến đấu đến phút cuối.
Sư đoàn 18 đứng vững ở Xuân Lộc là một trận anh hùng ca, nhưng sự có mặt và vai trò của của Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù trong trận này không hề được biết đến. Khi quân khu II đổ vỡ và kết cuộc đã gần, sư đoàn 7 VNCH vẫn đánh bại một nỗ lực của quân Bắc Việt muốn cắt quốc lộ 14, con đường quốc lộ duy nhất nối vùng châu thổ Cửu Long vói Sài Gòn. Vào ngày cuối, gọi là “ngày quốc hận” (tác giả viết bằng tiếng Việt), một máy bay AC-119 trang bị liên thanh sáu nòng do các Trung Úy Thanh và Trần Văn Hiền (hay Thành, Hiển?) còn bay quanh Sài Gòn yểm trợ hỏa lực cho những đơn vị VNCH lâm chiến sau cùng. Hết xăng, hết đạn, họ đáp xuống đổ xăng và lấy thêm đạn, sĩ quan hành quân biểu họ không cần cất cánh nữa, tất cả đã mất hết rồi. Nhưng các Trung Úy Thanh và Hiền vẫn vững chí, nhận nhiên liệu và đạn dược, và được hai chiếc A1H-Skyraider tháp tùng do Thiếu Tá Trương Phụng và Ðại Úy Phúc lái, họ tiếp tục lại một trận chiến tuyệt vọng. Sau cùng chỉ còn Ðại Úy Phúc sống sót, oanh kích đến khi hết đạn. Hai Trung Úy Thanh, Hiền và Thiếu Tá Trương Phùng đều bị SA-7 bắn rơi, tử trận. Họ đã chiến đấu đến mãi tận giây phút cuối cùng!
Một cách tổng quát, cứ bị đói như QLVNCH đã bị thì không một quân đội nào có thể chống lại cuộc tấn công cuồng bạo của quân đội Bắc Việt, với thừa ứ những khẩu pháo, xe tăng, vũ khí, nhiên liệu, xe tải quân, đạn dược, do khối cộng sản cung cấp. Trước một đạo quân VNCH bị rút ruột vì cắt viện trợ như vậy, quân đội Bắc Việt đã phải tung ra tất cả những gì họ có. Chừng 400 ngàn quân cộng sản, gần 90% là bộ đội miền Bắc, được đưa ra trận để đánh bại QLVNCH. Hà Nội chưa bao giờ từng tung ra một lực lượng khổng lồ và hiện đại như họ đã ném vào trận chiến năm 1975. Hà Nội chưa từng rút ra tất cả các đơn vị từ Lào, Cambodia. Về lượng, quân số 400 ngàn là gần gấp 5 số quân Việt cộng và Bắc Việt lâm chiến hồi tết 1968, trong khi về phẩm, còn có hằng trăm đại bác tầm xa, hằng trăm xe tăng, hằng ngàn xe tải, và nguyên một kho vũ khí hiện đại, Ðoàn quân viễn chinh năm 1975 có hơn gấp năm lần khả năng chiến đấu của lực lượng cộng sản hồi Tết Mậu Thân 1968.
Xem xét sự việc từ một khía cạnh khác, có thể phán đoán mà không sợ sai lầm rằng giả sử quân đội Bắc Việt bị yếu đi vì cắt giảm mức cung ứng như QLVNCH đã gánh chịu, thì họ không bao giờ có thể tung ra một cuộc tổng công kích sau cùng, mà hẳn đã yếu kém hơn thế nhiều. Ưu thế hỏa lực quyết định chiến trường, chẳng phải là điều gì mới lạ trong lịch sử quân sự. Vào lúc cuối, QLVNCH chịu sự tổn thất khoảng 275 ngàn tử trận, không kể con số bị ám sát, trong một quốc gia mà dân số trung bình khoảng 17 triệu. Nước Mỹ với dân số 200 triệu, nếu chịu tổn thất với tỉ lệ tương đương trong cùng khoảng thời gian ấy, con số tử vong sẽ là 3 triệu 200 ngàn, cần dựng thêm 56 bức tường đá đen nữa mới đủ ghi tên tử sĩ. Ðiều này không lọt qua mắt của một số nhà quan sát. Sir Robert Thompson, tuy biết rõ những nhược điểm của QLVNCH, cũng kết luận:
“Quân đội và chính phủ VNCH vượt qua những cuộc khủng hoảng quốc gia và cá nhân mà có thể đã nghiền nát hầu hết mọi người, và mặc dù mức tổn thất có thể gây kinh ngạc và làm sụp đổ Hoa Kỳ, VNCH vẫn duy trì được một triệu quân dưới cờ sau hơn 10 năm chiến tranh. Vương quốc Anh cũng làm được như thế, theo tỉ lệ tương đương, trong năm 1917, sau ba năm chiến tranh, nhưng không bao giờ làm được nữa. Hoa Kỳ chưa bao giờ làm được điều này.” (được nhấn mạnh và thêm vào).
Ký giả Peter Kann, sáng suốt hơn rất nhiều so vói những đồng nghiệp, cũng nhập cuộc, sau khi Sài Gòn thất thủ:
“Nam Việt Nam quả đã phấn đấu để kháng chiến trong nhiều năm ròng rã, không phải lúc nào cũng được Hoa Kỳ giúp đỡ dồi dào. Ít có quốc gia hay xã hội nào mà tôi cho là có thể chiến đấu được lâu dài đến thế.”
Kế hoạch Việt Nam hóa có hiệu quả không? QLVNCH có trưởng thành nên một lực lượng chiến đấu có khả năng?
Có thể biện luận rằng kế hoạch Việt Nam Hóa có hiệu quả, nhưng lại bị moi ruột vì cắt giảm viện trợ chí tử. Năm 1974 có cuộc thăm dò các tướng lãnh Hoa Kỳ từng phục vụ tại Việt Nam, nhằm tìm hiểu chương trình Việt Nam hóa thành công tới mức nào. Các câu hỏi và trả lời như sau:
1. QLVNCH là lực lượng chiến đấu rất đáng chấp nhận?: 8% đồng ý.
2. QLVNCH xứng đáng và cơ may hơn 50% đứng vững trong tương lai?: 57% đồng ý.
3. Có nghi ngờ khả năng QLVNCH có thể đẩy lui một cuộc tấn công mạnh của lực lượng Việt cộng-Bắc Việt trong tương lai?: 25% nghi ngờ.
4. Ý kiến khác và không ý kiến: 10%.
Như vậy 65% các tướng lãnh chỉ huy của Hoa Kỳ dành cho QLVNCH tỉ lệ phiếu thuận, tuy nhiên những câu trả lời này có thể đã mang khuynh hướng lệch theo chiều xuống. Không biết bao nhiêu vị tướng phục vụ trong khoảng 1966-1967, trước khi QLVNCH thực hiện những đổi thay to lớn nhất. Chức vụ mà các sĩ quan này đảm trách là gì, họ làm việc với ai, và họ quen thuộc với quân đội VNCH ở mức độ nào, sự tăng tiến hiệu năng của lực lượng Ðịa phương quân, Nghĩa quân, vân vân… cũng không được tiết lộ. Câu hỏi cũng không hỏi: “Nếu quân đội Mỹ cũng bị cắt giảm cung ứng như QLVNCH vào năm 1974-1975 thì còn đứng vững được bao lâu?”
Ðiều có thể nói chắc chắn, là QLVNCH từ 1968 trở đi đã hoàn thành nhiệm vụ tốt đẹp hơn nhiều so với những gì được biết đến một cách chung chung, rằng các đơn vị QLNCH đã thi triển tài năng để có thể đứng vững và đánh bại quân xâm lược Bắc Việt trong năm 1972, thường là không cần tới sự yểm trợ hỏa lực ồ ạt của pháo binh và không quân chiến thuật, như trong trường hợp của Nghĩa quân và Ðịa phương quân. Ðiều có thể nói chắc chắn nữa là sự hiểu biết của người Mỹ về việc này thấp kém đến kinh tởm, thấp tít mù xa như vực thẳm không đáy.
Một yếu tố rất quan trọng nữa mà nhiều nhà bình luận bỏ qua và tới nay vẫn không biết gì hơn, là thế hệ các sĩ quan, hạ sĩ quan QLVNCH trẻ trung hơn, hết lòng hết dạ vì mục tiêu một nước Việt Nam không cộng sản. Họ cởi mở, ngay thật, biết lẽ phải, trong sạch, biết nhìn nhận phải trái, ví dụ như họ cho là người Thượng không nên được đối xử thấp kém hơn, rằng tham nhũng cần bị công kích, rằng một quốc gia Việt Nam mới cần được tạo thành, bung ra khỏi mọi xích xiềng quá khứ. Nhiều người trong số này có thể có vị trí tốt để tránh quân dịch hay giữ một chỗ an toàn, không ra trận; nhưng họ không cần cả hai thứ đó, đã có mặt trong hàng ngũ phục vụ tại những vị trí chiến đấu đầy nguy hiểm, với tư cách những người tình nguyện. Thái độ của họ được một sĩ quan trẻ của QLVNCH bày tỏ:
“Những người ở cỡ tuổi tôi vào quân đội vì chúng tôi có một lý tưởng, chúng tôi hiểu được cuộc sống trong một thế giới tự do ra sao, và sống trong thế giới cộng sản ra sao. Không phải như người ta nói, rằng những ai vào quân đội thì chỉ vì đến tuổi lính và không có lý tưởng gì riêng cho mình. Nhưng người Mỹ không bao giờ có vẻ hiểu ra điều đó.”
Trần Quốc Bửu là chủ tịch Liên Ðoàn Lao công Nam Việt Nam, tương đương với AFL-CIO của Hoa Kỳ. Ông có ảnh hưởng và có thể xếp đặt cho con trai ông tìm một chỗ an toàn, an toàn hơn nhiều so với vị trí của anh này là một sĩ quan bộ binh VNCH. Trong những tuần lễ sau cuối của VNCH, lúc bị Bắc Việt dập pháo tơi bời, tuyệt vọng trong cảnh thiếu đạn, con ông Bửu viết cho ông một lá thư:
“Ba phải giải thích cho người Mỹ hiểu sự nghiêm trọng của tình hình chúng ta… Họ phải cung cấp viện trợ quân sự và kỹ thuật như họ đã hứa. Con xin ba, ba à, hãy can thiệp với họ. Nếu không, chúng ta sẽ bị đè bẹp và thất trận. Tụi con không hèn nhát. Tụi con không sợ chết… Trong mọi tình huống, con sẽ giữ vững vị trí và không rút lui.”
Con ông Bửu hy sinh tại chiến trường.
Bác sĩ Phan Quang Ðán là quốc vụ khanh về định cư và tị nạn, một cựu đối lập với ông Ngô Ðình Diệm, nổi tiếng nhờ trong sạch. Ông có đủ quyền lực và ảnh hưởng để giữ con trai là Phan Quang Tuấn khỏi bị nguy hiểm. Cả hai cha con đều không chọn điều đó, và Tuấn tình nguyện lái A-1E Skyraider, chỉ dùng để yểm trợ chiến thuật gần cho các dơn vị dưới đất. Sau khi tiêu diệt 7 xe tăng quân Bắc Việt tại khu vực ngưng chiến, trong trận tấn công 1972 của Hà Nội, Ðại Úy Tuấn bị hỏa lực phòng không địch bắn rơi, tử trận. Những cá nhân ấy không phải là duy nhất. Người viết bài này hằng ngày gặp những phi công trực thăng võ trang trẻ tuổi, những sĩ quan trẻ trong Biệt động quân, Thủy quân lục chiến, Nhảy dù, tất cả đều tình nguyện lãnh nhiệm vụ tác chiến nguy hiểm, bị “lưỡng đầu thọ địch”, với hệ tư tưởng về một nước Việt Nam cộng sản, và với nạn tham nhũng trở thành thông lệ hằng ngày ở Sài Gòn. Một trong những tấm gương gây xúc động hơn nữa về lòng tận tụy với chính nghĩa quốc gia, là cảnh các sinh viên sĩ quan trường Võ Bị quốc gia Ðà Lạt chuẩn bị cho trận đánh sau cùng của họ, mà ký giả Pháp Raoul Coutard chứng kiến, vào lúc họ tiến ra để chặn các đơn vị quân đội Bắc Việt đang tiến tới:
“- Anh sắp bị giết đó!
- Vâng. Một sinh viên sĩ quan trả lời.
- Sao vậy? Ðã kết thúc rồi mà!
- Tại vì chúng tôi không ưa cộng sản.
Và, lòng đầy can đảm, những sinh viên trẻ tuổi trong bộ quân phục mới toanh, tuyệt đẹp, giày bóng loáng, tiến ra để chờ chết.”
Trường Thiếu Sinh quân ở Vũng Tàu, là trường nội trú, trong học trình có dạy quân sự cho các thiếu niên Việt Nam có cha tử trận. Khi đến lúc cuối, những em trai 12-13 tuổi đuổi các em thiếu sinh quân nhỏ hơn về nhà, lập chướng ngại vật bảo vệ trường và đối đầu với các đơn vị quân Bắc Việt:
“Họ tiếp tục chiến đấu sau khi tất cả mọi người khác đã đầu hàng!… Nhiều người trong số họ bị giết. Và khi quân cộng sản tiến vào, các thiếu sinh quân đánh trả. Cộng sản không vào được ngôi trường ngay lúc đó.”
Những con người tương tự (lúc đó) đang gia tăng trong mọi cấp bực của QLVNCH, và nhu cầu cấp bách của tình hình buộc sự thăng thưởng phải dựa trên khả năng, không dựa trên quan hệ chính trị hay quan hệ gia đình.
Giới truyền thông Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam, thua bại hoàn toàn và thê thảm hơn nhiều so với các lực lượng quân sự của VNCH, Hoa Kỳ và các đồng minh. Họ thường lên án bằng những lối can thiệp đầy tự phụ và tự mãn. Một cuộc thăm dò 9,604 chương trình truyền hình của NBC, CBS và ABC từ 1963 đến 1977 cho thấy rõ những sự thiếu sót của những cái gọi là bài tường thuật truyền hình. 0.7% chương trình nói về việc huấn luyện QLVNCH. 0.8% về bình định. 2.7% về chính quyền hay quân lực VNCH hay Cambodia. Tổng cộng chỉ có 392 chương trình, tức 2.7% toàn bộ các chương trình tin tức truyền hình Mỹ, tường trình về Việt Nam. Không có một lời nào về hơn 200 ngàn hồi chánh viên, không một lời về QLVNCH thiện chiến. Không có gì về những phi công Ong Chúa lừng danh của trực thăng Việt Nam cứu mạng cho những toán lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ chạm địch dọc đường mòn Hồ Chí Minh. Hầu hết người Mỹ, nếu không phải là tất cả, đều nhớ hình ảnh bi hùng của một người Trung Hoa đứng trước đoàn xe tăng ở quảng trường Thiên An Môn, nhưng không ai biết Trung Sĩ thủy quân lục chiến Việt Nam Huỳnh Văn Lượm đứng trên cầu Ðông Hà chặn đứng đoàn xe tăng Bắc Việt, tác xạ bằng khẩu súng chống tăng LAW của anh:
“Cảnh tượng anh lính TQLC nặng có 95 cân Anh trụ ngay trên đường tiến của 40 xe tăng không có ý nào muốn dừng lại, trên một khía cạnh thì là dại dột một cách khó tin. Trên khía cạnh khác, quan trọng hơn, hình ảnh này mang đầy niềm phấn khích đối với một lực lượng phòng thủ mỏng manh đến thê thảm, và với nhiều người tị nạn, ít ai trong số đó từng chứng kiến một hành động thách đố dũng cảm đến thế… Sự anh dũng lạ thường của người lính thủy quân lục chiến Nam Việt Nam này đã khiến đợt tấn công bằng xe tăng, tới lúc đó chừng như chắc chắn phải thắng lợi, đã bị mất đà tấn kích.”
Trong một khoảnh khắc mà giới truyền thông mang tật cận thị lên tiếng, thì phóng viên Donald Kirk tuyệt đối không tỏ ra sự quan tâm nào khi đến thăm sư đoàn 7 bộ binh VNCH, nơi đã trở nên một đơn vị có hiệu năng cao tuyệt dưới tài lãnh đạo của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Quân nhân trong sư đoàn nhận thức rõ giá trị những nông trại của sư đoàn do tướng Nam thiết lập để giảm bớt gánh nặng kinh tế cho binh sĩ của sư đoàn 7. Nhưng khi Kirk và các phóng viên khác bị giữ lại ở một điểm chắn đường của quân đội Bắc Việt rồi được thả ra sau đó, thì Kirk lại thất vọng vì anh ta không có cơ hội để nói chuyện với bộ đội Bắc Việt:
“Tôi cứ nghĩ mãi về việc trông họ như vừa bước ra khỏi cuốn phim… Họ có vẻ là những tay chính quy, vậy đó. Tôi chỉ mong sao chúng tôi đã có thể ở lại thêm và nói chuyện với họ lâu hơn.”
Ông Kirk có thể yên tâm rằng quân sĩ sư đoàn 7 đều là “những tay chính quy”, rất đáng để nói chuyện, và học hỏi nơi họ. Anh chàng này, cũng như đông đảo trong giới truyền thông làm tin tức, đã không để ý gì đến việc đó, cho nên không có gì kỳ bí về nguyên nhân vì sao hầu hết những người Mỹ từng phục vụ tại Ðông Nam Á đều nhìn cái giới truyền thông tin tức này với sự khinh miệt gay gắt.
Quân đội Đồng Minh tham chiến tại Việt Nam
Phải chi giới này chịu khó quan hệ với quân dân Việt Nam mà họ gặp gỡ, như tôi đã làm nhiều lần, thì đám ký giả hẳn đã biết trong mắt những người Việt ấy chủ nghĩa cộng sản của Hà Nội là điều đáng khinh bỉ và kinh tởm, như một loại phản bội văn hóa và truyền thống Việt Nam. Không phải những người Việt này chiến đấu và hy sinh để bảo vệ “chế độ tham nhũng của Thiệu”, mà là để gìn giữ một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân, cho con cái, và cho đất nước của họ. Một thủy quân lục chiến Việt Nam diễn giải và lột tả chân xác nhất về điều này, khi anh ta nói với tôi rằng sau khi quân đội VNCH giải quyết xong với quân đội miền Bắc, họ sẽ quay súng lại chống đám tham nhũng ở Sài Gòn. Những sự kiện thảm thiết bi thương sau năm 1975 đã chứng thực tính thuận lý và giá trị của điều quyết tâm ấy.
Giới truyền thông giải trí và giới giáo dục ở Hoa Kỳ cũng chẳng khá gì hơn, mà còn mãn nguyện khi lặp lại, nếu không phải là thêm mắm thêm muối vào cái chuyện thần thoại do truyền thông dựng lên. Một cuốn sách sử trung học được sử dụng rộng rãi ở Mỹ có chương sử về Việt Nam không hề nói đến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chỉ viết rằng: “Việt Nam hóa thất bại,” ngoài ra còn gom góp hơn 200 điều khẳng định có thể được chứng minh là sai trái và mang hoàn toàn tính chất dẫn dắt lạc hướng, trong 13 trang bài học. Có nói đến vụ tấn công sang Cambodia, nhưng không nói gì về việc quân Việt Nam Cộng Hòa tham dự đông đảo hơn lực lượng Hoa Kỳ, 29 ngàn quân so với 19,300 quân Mỹ tham chiến. Sách cũng không nói lên rằng trước khi chính thức mở chiến dịch, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã tấn công trước vào các vị trí phòng thủ của quân đội Bắc Việt ở Cambodia. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn vô hình, như một đề tài sẽ được trình bày nơi đây (trong cuộc hội thảo).

Phim ảnh và truyền hình lại càng tệ hơn, mặc dù có được một số phim tài liệu lịch sử. Cả cuốn phim “Bat 21”, nhằm miêu tả cuộc tìm cứu trung tá Iceal Hambleton năm 1972, không thể hiểu được tại sao đã loại hẳn sự kiện là một chiến sĩ Người Nhái Việt Nam, Nguyễn Văn Kiệt, người cùng thi hành công tác tìm cứu đó với người nhái Hoa Kỳ Tom Norris, được tặng thưởng huy chương US Navy Cross do sự dũng cảm và anh hùng của Kiệt. Làm sao công chúng có thể trông mong được biết bất kỳ điều gì khi mà chế độ “kiểm duyệt” trên thực tế đã bôi xóa tất cả và từng dấu vết của sự hoạt động gương mẫu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa?
***
Sau cùng, cần phải nhìn nhận rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị đè bẹp bởi một gánh nặng trầm kha không thể nào vượt thắng: đó là một đồng minh bất xứng, ngu dốt và gây rối một cách đáng kinh ngạc, dưới hình thức cái chính phủ Hoa Kỳ.
Một hội nghị chuyên đề toàn diện nên được tổ chức về đề tài này, và cần phải có hội nghị đó. Những chiến lược giả hiệu phát xuất từ Washington, về bản chất, phải bị coi là cẩu thả mang tính cách tội ác. Không một hành động nào được tung ra để chặn và giữ đường mòn Hồ Chí Minh. Không có con đường này thì cuộc chiến tranh của Hà Nội đã không thể nào tiến hành được. Không một việc gì được thi hành để giao chiến với chiến tranh thông tin tuyên truyền-phản tuyên truyền dưới hình thức gọi là địch vận, một trong những chiến lược quan trọng của Hà Nội, được thi hành với những sự lừa gạt quỷ quyệt xuất chúng. Không làm một việc gì mãi đến khi cơ quan CORDS được thành lập để ra kế hoạch và phối hợp những hoạt động quân sự và bình định về mặt tình báo. Không làm một việc gì để khai triển một liên minh rộng lớn như một chiến trường chung của người Việt, người Lào, người Cambodia và Thái Lan, chống lại kẻ thù chung, trong khi Hà Nội đã làm y như vậy: thiết lập một cấu trúc chỉ huy chiến trường Ðông Dương nhằm kết hợp mọi yếu tố vào một chiến lược gắn bó cho toàn khu vực. Lý cớ về lãnh đạo của Hoa Kỳ là mù lòa, lần mò vụng dại như con heo trên tảng băng, như một con cóc vàng, rất giàu có nhưng cũng rất ngu độn. (Những chữ in đậm là những chữ tác giả viết bằng tiếng Việt)

Những kế hoạch, những đề nghị đi ngược dòng lịch sử khó có thể được chứng minh hoàn toàn chắc chắn, và có thể chiến tranh (Việt Nam đã qua) là một cuôc chiến không thể nào thắng được.
Có thể như vậy. Tuy nhiên những người Mỹ, người Úc đã phục vụ sát cánh những chiến hữu của họ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, “những chiến hữu, bạn bè, giống như anh em ruột,” (viết tiếng Việt trong nguyên bản) mang trong lòng họ nỗi buồn sâu xa vì đã thua cuộc, hay đã mất biết bao bạn bè tận tụy, mất cả niềm vinh dự lớn lao cho việc đã cố gắng đạt cho kỳ được một thế giới tốt đẹp hơn cho những người dân thường của Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan. Họ không bị thúc đẩy vì những quan niệm tinh vi về địa lý chính trị thế giới, nhưng đúng hơn, là do sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với nhiều người Ðông Nam Á đã biết yêu quý xứ sở, những con người đã “thề bảo vệ giang sơn quê hương”.

Nhiều trang lịch sử còn chưa được lật ra, phản ảnh sự tiếp nối cái khuynh hướng của Hoa Kỳ chỉ toàn nhìn qua con mắt người Mỹ, bị lọc qua định kiến của người Mỹ. Một số sách vở nói đến Việt Nam như một “giai đoạn thử thách đầy khổ đau của Hoa Kỳ,” mà chưa từng một lần hỏi xem người Ðông Nam Á đã trải qua loại thử thách khổ đau nào. Ðầy dẫy những dữ kiện lịch sử quý giá và những nét quan sát sắc sảo nằm trong những cuốn sách được viết do người Việt Nam (và cả người Lào). Thiếu những sách đó, không thể nào có được sự hiểu biết toàn diện. Những tác phẩm của Lý Tòng Bá, Hà Mai Việt, Phạm Huấn, Phan Nhật Nam, Trần Văn Nhựt, và nhiều người khác, đang kêu gào đòi được dịch thuật, cũng như hằng chục bài phổ biến hằng năm trên sách báo tạp chí quân sự và các ấn bản khác. Nhiều bài trong đó mô tả những trận đánh, những diễn tiến và những nhân cách, không hề được các sử gia Hoa Kỳ biết đến. Không tham khảo những nguồn đó thì chắc chắn là chiến tranh Việt Nam, cũng là Chiến Tranh Ðông Dương của Hà Nội, sẽ mãi là những bí ẩn không thể giải đoán, và lịch sử chân thực của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ mãi bị chôn vùi dưới tầng lớp này qua tầng lớp nọ của những chuyện hoang đường, của sự không thông hiểu, và của sự giả định vô căn cứ.
Nhà sử học Bill Laurie
Dịch giả: Nguyễn Tiến Việt
Nguồn: https://www.facebook.com/tong.le.925/posts/673212662751243

Việt gian Phùng Quang Thanh và chính sách đầu hàng quân xâm lược của đảng CSVN

 

Việt gian Phùng Quang Thanh và chính sách đầu hàng quân xâm lược của đảng CSVN

Vũ Đông Hà (Danlambao) - Nếu "hòa bình" là mục tiêu nhắm đến trong "cuộc xung đột" giữa Việt Nam và Tàu cộng thì mục tiêu ấy chỉ có hy vọng đạt được khi quân xâm lược thấy rằng quân đội Việt Nam sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ tổ quốc bằng mọi giá. "Hòa bình" chỉ hiện hữu trong sự lo ngại từ cả hai phía về hiểm họa chiến tranh. Trong bàn cờ cân não, nếu ở lãnh vực ngoại giao cần phải có những tuyên bố khéo léo thì phía quân đội, các tướng lãnh phải luôn bày tỏ thái độ cứng rắn, không nhân nhượng, không lùi bước, không đầu hàng. 
Khi người đứng đầu quân đội là Bộ trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh tuyên bố "Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Đông và đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng" (1) - ông ta đã cho quân xâm lược thấy được cái tẩy hèn nhát và vô hình chung đã đại diện cho đảng cộng sản Việt Nam treo cờ trắng đầu hàng quân xâm lược.
Chính sách đầu hàng trong sĩ diện hảo đối với thế giới và mị dân đối với quần chúng Việt Nam là chính sách nhất quán của đảng cộng sản Việt Nam. Chính sách này không chỉ mới thể hiện trong giai đoạn "giàn khoan HD981" mà đã kéo dài nhiều năm tháng. Giàn khoan HD981 chỉ là một hệ quả tất yếu cũng như nhiều "giàn khoan xâm lược" khác sẽ là những hệ quả tất yếu - tiếp tục được Tàu cộng đặt để lên Việt Nam cho đến khi Bắc Kinh hoàn thành giấc mộng bá quyền.
Chính sách đầu hàng và thuần phục này đã được thể hiện rất nhất quán bởi Phùng Quang Thanh, người chỉ huy lực lượng đại diện cho sức mạnh của tổ quốc trong việc bảo vệ chủ quyền.
Đây là người trong lúc cả nước vừa lo âu vừa phẫn nộ trước hành vi xâm lược của Bắc Kinh thì đã bắt tay và thần phục với Bộ trưởng quốc phòng Tàu cộng Thường Vạn Toàn rằng: "Đảng, Chính phủ và quân đội Việt Nam cực kỳ coi trọng phát triển đoàn kết và hữu nghị với Trung Quốc, quân đội Việt Nam sẽ không áp dụng hành động làm phức tạp tình hình, sẵn sàng cùng với Trung Quốc duy trì trao đổi về các vấn đề liên quan." (2)
Đây cũng là người chỉ huy quân đội đã từng nói với Tôn Quốc Tường, Đại sứ Trung Quốc trước đây tại Việt Nam rằng: "Việt Nam luôn coi trọng quan hệ đoàn kết, hữu nghị, “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” với Trung Quốc; Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, đều kiên định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và là hai nước xã hội chủ nghĩa, có nhiều điểm tương đồng. Việt Nam mãi mãi biết ơn sự giúp đỡ quý báu của Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam trong những năm qua." (3)
Đây là người mà trước đây, trong lúc người Việt khắp nơi đang lên án Trung Quốc cắt dây cáp tàu Bình Minh, thì tại hội nghị đối thoại Shangri-La ở Singapore đã cúi đầu nói với Bộ trưởng quốc phòng Tàu cộng lúc đó là Lương Quang Liệt rằng: "hai nước Trung Việt là anh em tốt, đối tác tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt (4 tốt), quân đội hai nước có truyền thống quan hệ tốt đẹp. Trước sau quân đội hai nước cần tăng cường các lãnh vực giao lưu và hợp tác, cùng nhau bảo vệ khu vực này hòa bình ổn định." (4)
Đây là người đã xác định thái độ phục tùng trước sau như một với quan thầy Tàu cộng, khi nhân kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Quân Giải phóng nhân dân Tàu cộng đã phát biểu trong buổi tổ chức gặp mặt đại biểu các thế hệ cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam được đào tạo bởi Tàu cộng qua các thời kỳ: “Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam”. (4)
Quân đội Nhân Dân Việt Nam làm sao có được ý chí, tinh thần chiến đấu để làm tròn trách nhiệm của một người lính, làm sao có thể nhắm thẳng quân thù mà bắn khi mà người chỉ huy vẫn một mực hết năm này qua tháng khác coi trọng hữu nghị, trân trọng và đội ơn quân xâm lược?  
Nhưng không phải chỉ một mình Phùng Quang Thanh. Nhìn lại suốt một chiều dài cai trị của đảng cộng sản Việt Nam, nội dung những tuyên bố của Phùng Quang Thanh cũng là kinh điển của toàn bộ các lãnh đạo đảng từ thời Hồ Chí Minh cho đến Nguyễn Phú Trọng.
Kinh điển ấy đã được Nguyễn Tấn Dũng "bẻ cua" làm phấn chấn một số người đang đi trong sa mạc, được Nguyễn Tấn Dũng nhỏ cho vài giọt nước. Những giọt nước đó là câu “Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”.
Tuy nhiên, phối hợp điều Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố với lời của Phùng Quang Thanh chúng ta có thể thấy ngay hy vọng của ông Dũng là vô vọng. Ông Dũng lấy gì để giữ điều thiêng liêng khi sức mạnh sau cùng để kẻ thù phải đắn đo, lùi bước là ý chí quân sự thì ông tướng Thanh đã treo cờ trắng?
Nhưng đừng nghĩ rằng Thủ tướng Dũng và Bộ trưởng Thanh trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Chính Nguyễn Tấn Dũng đã xác nhận tại Shangri La: “Việt Nam không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào để chống lại một quốc gia khác. Đây là chính sách đối ngoại nhất quán của Việt Nam”, “Việt Nam không bao giờ đơn phương sử dụng biện pháp quân sự, không bao giờ khơi mào một cuộc đối đầu quân sự, trừ khi bị bắt buộc phải tự vệ.”
Ngay trong phiên họp Chính phủ thường kỳ ngày 29/5, Nguyễn Tấn Dũng đã đưa ra cái gọi là 3 nhóm giải pháp cho tình hình biển Đông (5)
Thứ nhất, sử dụng các lực lượng thực thi pháp luật trên thực địa để bảo vệ và khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Các tàu chấp pháp Việt Nam phải luôn có mặt tại vị trí mới để ngăn cản và đẩy đuổi tàu Trung Quốc hoạt động trái phép... "Sẽ có va chạm nhưng chúng ta kiên quyết và cố gắng kiềm chế".

Thứ hai, đấu tranh bằng con đường chính trị, ngoại giao đến cấp cao nhất, nói rõ sai phạm của Trung Quốc và kiên quyết yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng biển Việt Nam.

Thứ ba, đấu tranh bằng dư luận, thông tin trung thực cho nhân dân và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hành vi xâm phạm lãnh thổ của Trung Quốc cũng như các biện pháp đấu tranh hòa bình của Việt Nam; kêu gọi cộng đồng quốc tế lên án mạnh mẽ hành vi vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế của Trung Quốc.
Chúng ta thấy gì?:
Thứ nhất, việc các ngư dân Việt Nam bị đánh đập, bị săn đuổi hàng giờ trên vùng biển chủ quyền của VN, đến mức khi tàu chìm được kéo vào bờ cũng không phải do hải quân VN thực hiện cho thấy biển Đông đã bị bỏ ngỏ. Thực tế không có cái gọi là luôn có mặt tại vị trí mới để ngăn cản và đẩy đuổi tàu Trung Quốc hoạt động trái phép. Phát biểu của Nguyễn Tấn Dũng là láo khoét. Đồng thời, làm thế nào để ngăn chận và đẩy đuổi quân xâm lược nếu "sẽ có va chạm nhưng chúng ta kiên quyết và cố gắng kiềm chế"? Phát biểu của Nguyễn Tấn Dũng là mị dân.
Thứ hai, "kiên quyết yêu cầu" là gì? Nếu Tàu cộng vẫn "kiên quyết ở lì" với giàn khoan HD981? Làm sao quân xâm lược sẽ thối lui trước lời "yêu cầu kiên quyết" khi mà chúng biết chắc - chứ không cần phải đoán - lá bài tẩy về thái độ đầu hàng của quân đội Việt Nam qua những phát biểu rất tha thiết của Phùng Quang Thanh với chúng? Ngày nào ngư dân còn bám thuyền chìm chứ không còn bám biển, thoát chạy trối sống trối chết trên biển của mình và hải quân Việt Nam vẫn đắp chăn trên cái giường ô nhục của Phùng Quang Thanh ngày đó tuyên bố của Nguyễn Tấn Dũng vẫn là những lời láo khoét.
Thứ ba, đấu tranh bằng dư luận, thông tin, nhờ vả quốc tế sẽ đạt được gì khi chính Nguyễn Tấn Dũng ra lệnh đàn áp tất cả những người Việt yêu nước đứng lên chống Tàu cộng? Quốc tế nào ủng hộ, can thiệp khi chính những tên lãnh đạo vẫn một mực "Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp".
Do đó, chính sách đầu hàng quân xâm lược là một chính sách nhất quán của Bộ Chính trị đảng CSVN. Chỉ khác nhau là ở cách thức ứng xử của từng tên bán nước: im lặng như tờ kiểu Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng, trơ trẻn trong hèn mạt như Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh, hoặc khéo léo và ma đầu kiểu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Trước bất kỳ cách hành xử nào của những tên đầu não Bộ Chính trị đảng CSVN đang nắm giữ những vị trí lãnh đạo của nhà nước và quốc hội do chúng thao túng, trước khi tung hô chúng hãy luôn luôn hỏi rằng: Cho đến bây giờ có một lời nói nào của những tên lãnh đạo này đã được thực hiện và làm tròn như lời chúng nói?
Đồng lòng với dối trá là giết chết sự thật và trở thành người dối trá.
Nhân danh chiến thuật, chiến lược để đồng lòng với những kẻ mị dân là tiếp tay với chúng đi mị đồng bào của mình.
Đồng lòng với những kẻ đã làm cho nước mất nhà tan là tiếp tay làm tan nhà, mất nước.
Nhân danh yêu chuộng hòa bình để đứng sau lưng tập đoàn độc tài đang dùng mặt nạ hòa bình để che giấu bộ mặt bán nước là tiếp tay với chúng biến cả nước từ nô lệ tập đoàn lãnh đạo bản xứ sang nô lệ ngoại bang.
Tàu cộng sẽ dời giàn khoan HD981 đi nơi khác sau khi đã đóng dấu ấn: đây là vùng biển của Trung Quốc, chúng tôi đến khảo sát, thăm dò và bây giờ chúng tôi tiếp tục chỗ khác.
Nhưng bầy đàn của đảng CSVN với hệ thống truyền thông có sẵn trong tay sẽ tung ra những tít lớn:
Bằng đường lối ngoại giao khôn khéo, đảng và nhà nước ta đã buộc Trung Quốc phải rút giàn khoan ra khỏi Biển Đông!
Và...
Uy tín của Thủ Tướng lên cao hơn bao giờ hết!
Sự im lặng của Tổng bí thư là vũ khí chiến lược!
Phùng Quang Thanh: một nhà quân sự đại tài với khả năng ngoại giao cực kỳ khôn khéo!
Và...
“Đảng, nhà nước Việt Nam luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam”.
Không đời nào có thể chống giặc cướp nước nếu đất nước tiếp tục bị cai trị bởi những kẻ bán nước.

Nguồn:http://danlambaovn.blogspot.com/2014/06/viet-gian-phung-quang-thanh-va-chinh.html#more

Mỹ công khai “tuyên chiến” với Trung Quốc


Biển Đông:
Mỹ công khai “tuyên chiến” với Trung Quốc
Cập nhật lúc 16h43" , ngày 31/05/2014
(VnMedia) - Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel hôm nay (31/5) đã công khai lên tiếng cảnh báo tại một hội nghị an ninh quốc tế rằng, Mỹ “sẽ không nhìn đi nơi khác” khi các nước như Trung Quốc cố tìm cách giới hạn sự tự do hàng hải hay phớt lờ các quy định và tiêu chuẩn quốc tế.


Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Hagel (bên trái) bắt tay với Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe

"Những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông đang gây bất ổn trong khu vực, và việc nước này không thể giải quyết được các cuộc tranh chấp với những nước láng giềng khác đang đe dọa sự tiến bộ lâu dài của khu vực Đông Á", ông Hagel phát biểu.

Trong một loạt phát biểu nhằm trực tiếp vào Trung Quốc, Bộ trưởng Hagel cho biết, Mỹ phản đối hành động của bất kỳ nước nào trong việc tìm cách sử dụng sự dọa dẫm hay đe dọa dùng vũ lực để tranh giành chủ quyền.

"Tất cả các nước trong khu vực, trong đó có Trung Quốc, có một sự lựa chọn: hoặc là đoàn kết và tái cam kết với trật tự ổn định trong khu vực hoặc là từ bỏ cam kết đó và gây nguy cơ đe dọa hòa bình, an ninh - hai thứ đang đem đến lợi ích cho hàng triệu người dân trên khắp khu vực Thái Bình Dương và hàng tỉ người trên khắp thế giới”, ông Hagel đã nói như vậy.

Ông chủ Lầu Năm Góc cảnh báo Bắc Kinh không được có “những hành động gây bất ổn” ở Biển Đông đồng thời thể hiện sự ủng hộ đối với Nhật Bản - kỳ phùng địch thủ trong khu vực của Trung Quốc, trong việc tìm kiếm một vai trò an ninh mạnh mẽ hơn, chủ động hơn, tích cực hơn ở Châu Á.

Nhấn mạnh cam kết của Mỹ đối với các nước đồng minh và bạn bè ở Châu Á, Bộ trưởng Quốc phòng Hagel kêu gọi tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho các cuộc tranh chấp quốc tế đồng thời phát đi một thông điệp thẳng thừng, sắc lạnh với Trung Quốc.

"Trong những tháng gần đây, Trung Quốc liên tục có những hành động đơn phương, gây bất ổn nhằm tranh giành chủ quyền ở Biển Đông”, ông Hagel đã nói thẳng thắng như vậy trước hàng loạt Bộ trưởng Quốc phòng, quan chức quân sự cấp cao, các nhà ngoại giao và các chuyên gia an ninh hàng đầu của Châu Á đang tham dự cuộc Đối thoại hàng năm Shangri-La.

Ông Hagel cáo buộc Trung Quốc hạn chế khả năng tiếp cận của Philippines đối với bãi cạn Scarborough, gây áp lực đối với sự hiện diện lâu dài của Manila ở bãi cạn Second Thomas, bắt đầu các hoạt động khai khẩn ở một loạt khu vực khác nhau và đưa một giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam.

Theo Bộ trưởng Hagel, Mỹ không đứng về bên nào trong các cuộc tranh chấp chủ quyền nhưng “chúng tôi kiên quyết và kịch liệt phản đối bất kỳ nước nào định dùng sự dọa dẫm, ép buộc hay đe dọa dùng vũ lực để tranh giành chủ quyền”.

"Mỹ sẽ không nhìn đi nơi khác khi những nguyên tắc cơ bản của trật tự quốc tế bị thách thức”, Bộ trưởng Quốc phòng Hagel tuyên bố đầy cứng rắn như vậy.

Trung Quốc đang có tranh chấp chủ quyền quyết liệt với một loạt các nước láng giềng Đông Nam Á gồm Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Vùng lãnh thổ Đài Loan ở Biển Đông. Trung Quốc cũng có tranh chấp “căng như dây đàn” với Nhật Bản ở quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông.

Mỹ đã nhiều lần công khai khẳng định rõ ràng rằng, nước này có nghĩa vụ theo hiệp ước với Nhật Bản. Theo đó, Mỹ sẽ bênh vực Nhật Bản trong trường hợp nước này bị một bên thứ ba tấn công và Washington tuyên bố, quần đảo Senkaku/Điếu Ngư nằm trong sự điều chỉnh của hiệp ước phòng thủ chung Mỹ-Nhật. Washington cũng kiên quyết không công nhận vùng nhận diện phòng không mà Bắc Kinh tuyên bố thành lập hồi cuối năm ngoái ở biển Hoa Đông, trong đó bao trùm nhiều khu vực tranh chấp với Nhật Bản và Hàn Quốc.

Trung Quốc “nổi điên” với Mỹ

Trung Quốc đã phản ứng vô cùng giận dữ trước những cảnh báo, chỉ trích của Bộ trưởng Quốc phòng Hagel. Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Trung Quốc – ông Wang Guanzhong đã miêu tả những phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ là vô cơ sở, vô căn cứ đồng thời lên án ông Hagel về việc đã công khai đưa ra những phát biểu như thế.

"Bài phát biểu đó chứa đầy tư tưởng thể hiện quyền bá chủ, đầy sự kích động, đe dọa và dọa dẫm”, một phóng viên của Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc dẫn lời ông Wang cho biết.

"Hơn nữa, việc nước này nhiều lần công khai chỉ trích đích danh Trung Quốc cùng với những kiểu cáo buộc như trên là hoàn toàn không có cơ sở, không có lý do”, Phó Tổng tham mưu trưởng Wang nói. Dự kiến, ông này sẽ có bài phát biểu trong ngày mai (1/6).

Những phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cũng đã vấp phải sự thách thức từ Tướng cấp cao Yao Yunzhu của quân đội Trung Quốc. Ông này tỏ ý hoài nghi về việc liệu Mỹ và các nước đồng minh có tuân theo luật quốc tế và có tham vấn với các nước khác khi thiết lập vùng phòng không hay không.

Ông Yao – Giám đốc Trung tâm Quan hệ Quốc phòng Mỹ-Trung thuộc Học viện Khoa học Quân sự Trung Quốc, cũng đặt câu hỏi về việc làm thế nào Mỹ có thể nói là nước này không đứng về bên nào trong các cuộc tranh chấp chủ quyền khi vẫn tuyên bố cam kết thực hiện các nghĩa vụ trong hiệp ước phòng thủ với Nhật Bản.

Đáp lại, Bộ trưởng Hagel khẳng định, Mỹ và các đồng minh đã tham vấn với các nước láng giềng chứ không giống như Trung Quốc đơn phương thiết lập vùng nhận diện phòng không ở biển Hoa Đông.

Giới chức Mỹ cũng bày tỏ sự quan ngại sâu sắc về quyết định của Trung Quốc trong việc đưa một giàn khoan khổng lồ vào vùng biển của Việt Nam. Động thái này đã dẫn đến hàng loạt cuộc va chạm giữa hai nước, trong đó tàu Trung Quốc từng đâm chìm một tàu cá của ngư dân Việt Nam.



Kiệt Linh - (tổng hợp)
Nguồn: http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=28969

TIN NÓNG: GIÀN KHOAN DH 981 SẼ DI CHUYỂN DỌC THEO “ĐƯỜNG LƯỠI BÒ” VÀ “CẮM MỐC” Ở TRƯỜNG SA ?

 
« Trước |
TIN NÓNG: GIÀN KHOAN DH 981 SẼ DI CHUYỂN DỌC THEO “ĐƯỜNG LƯỠI BÒ” VÀ “CẮM MỐC” Ở TRƯỜNG SA ?
hoanghuuquyet | 31 May, 2014, 08:43 | Báo chí New | (501 Reads)
alt

Nếu Việt Nam chậm trễ, chần chừ, thiếu quyết đoán trong hành xử và cộng đồng quốc tế làm ngơ, Trung Quốc sẽ leo thang. Sau khi “bịp” dư luận ở Hoàng Sa, họ bắt đầu di chuyển giàn khoan DH 981 xuống vùng biển phía Nam biển Đông, đồng thời "cắm mốc" từng điểm một trên mặt biển như đường lưỡi bò phi lý đã vẽ. Đó là nước cờ tiếp theo trong ván bài lớn ở Biển Đông với “điểm đến” là mỏ dầu khổng lồ ở vùng biển Trường Sa.
ĐÁNH LỪA DƯ LUẬN
Trung Quốc tuyên bố đã thực hiện xong giai đoạn đầu tiên của quá trình thăm dò.
Tuy nhiên, cho đến giờ, họ không đưa ra bất kỳ kết quả cụ thể nào từ việc thăm dò. Dù việc hoạt động của giàn khoan rất tốn kém, lên đến cả triệu USD mỗi ngày cộng thêm chi phí duy trì một đội tàu đông đảo xung quanh giàn khoan thăm dò “trộm” này, nhưng triển vọng để Trung Quốc tìm ra khí đốt tại khu vực này không cao.
Trong khoảng 3 tuần lễ, họ hạ đặt giàn khoan ở vùng biển sâu khoảng 1.000 mét, khoan thăm dò khoảng 1.000 mét nữa. Nếu tính theo logic về kỹ thuật, đây là "chuyện vô lý". Thế nhưng, các chuyên gia của Trung Quốc vẫn nhắm mắt “phán” bừa.
Wu Shicun (chủ tịch Viện Nghiên cứu Biển Đông) tuyên bố: "Nơi mà các giàn khoan đang thăm dò tại thời điểm này có thể sẽ là một mỏ khí đốt. Trung Quốc đã tiến hành khảo sát địa chất ba chiều trước khi chuyển các giàn khoan ở đó". Ông này lý luận một cách phi lý, Trung Quốc khá tự tin trong các đánh giá, nếu không họ sẽ không bắt đầu khoan.
Kiểu phát biểu ngụy biện về trữ lượng dầu mỏ ở vùng biển gần Hoàng Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam) chẳng khác nào đánh lừa dư luận. Trên thực tế, các công ty thăm dò khai thác dầu của Mỹ đã khảo sát và đánh giá trữ lượng dầu và khí đốt ở vùng bắc biển Đông không nhiều.
Có thể khẳng định, việc hạ đặt giàn khoan của Trung Quốc là một hành động chính trị.
HD 981 tại Hoàng sa chỉ là phép thử phản ứng của Việt Nam và quốc tế.
alt
CHUẨN BỊ “CẮM MỐC” Ở TRƯỜNG SA ?
Những khảo sát của các hãng thăm dò uy tín trên thế giới cho thấy vùng biển phía nam biển Đông mới là nơi có trữ lượng dầu và khí đốt khổng lồ. Điều này khiến cho Trung Quốc thèm khát cho dù vùng biển này ở cách rất xa bở biển Trung Quốc.
Nếu không tìm kiếm được gì trong quá trình thăm dò phi pháp tại vùng biển gần Hoàng Sa, giàn khoan của Trung Quốc có thể sẽ "liếm" xuống quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Lin Boqiang (Giám đốc Trung tâm Trung Quốc Nghiên cứu kinh tế năng lượng tại Đại học Hạ Môn, đồng thời là một cố vấn quản lý năng lượng quốc gia của Trung Quốc, cơ quan quản lý hàng đầu của ngành công nghiệp năng lượng của Trung Quốc ) cho biết: " Nó sẽ di chuyển vào vùng nước sâu ở các khu vực khác của biển Đông".
Theo lý lẽ này, việc thăm dò phi pháp ở gần Hoàng Sa hiện nay chỉ là một cách tạo tiền lệ để thử phản ứng của quốc tế. Còn mục đích và địa điểm tiếp theo của giàn khoan Haiyang Shiyou 981 có thể là ven biển của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia hay bất kỳ nước nào trong khu vực miễn là nằm trong cái "lưỡi bò" mà Trung Quốc tự vẽ ra.
Thậm chí, nếu không bị phản đối mạnh mẽ, Trung Quốc còn có thể mang giàn khoan ra biển Hoa Đông nơi họ tranh chấp với Nhật, nơi được dự báo có trữ lượng dầu mỏ cao. Do vậy, Reuters đã kêu gọi, "ngay từ bây giờ cộng đồng quốc tế cần lên án và có hành động thích hợp để chặn đứng một tham vọng ngông cuồng của Bắc Kinh".
Ngay từ bây giờ, Việt Nam nên chuẩn bị lực lượng ở Trường Sa để khỏi rơi vào thế bị động.
                                           (Nguồn : Reuters)

Nguồn: http://hoanghuuquyet.vnweblogs.com/post/8627/454442

Trung Quốc tức tối sau phát biểu của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ

 

Trung Quốc tức tối sau phát biểu của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ

(Dân trí) - Một quan chức quân đội Trung Quốc hôm nay đã thể hiện sự tức tối và lên tiếng chỉ trích Washington vì đưa ra "những đe dọa" sau khi Bộ trưởng quốc phòng Mỹ cáo buộc Bắc Kinh kích động các căng thẳng ở Biển Đông.
 >>  "Mỹ không ngồi yên nếu trật tự thế giới bị đe dọa"

Trung tướng Vương Quán Trung trong một cuộc gặp với Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chuck Hagel.
Trung tướng Vương Quán Trung trong một cuộc gặp với Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chuck Hagel.

Người đứng đầu Lầu Năm Góc Chuck Hagel đã chỉ trích các hành động "đơn phương, gây mất ổn định của Trung Quốc nhằm khẳng định chủ quyền trên Biển Đông", tại Đối thoại Shangri-La, một diễn đàn an ninh khu vực, ở Singapore mà giới chức hai nước đang tham dự.
Trung tướng Vương Quán Trung, phó Tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc, đã miêu tả các bình luận của ông Hagel là không có cơ sở và lên án ông này vì đưa ra các cáo buộc như vậy công khai trước khán giả là các bộ trưởng quốc phòng các nước, các nhà ngoại giao, các chuyên gia an ninh tham dự Đối thoại Shangri-La thường niên.
"Bài phát biểu của ông ấy chứa đầy tư tưởng bá quyền, kích động, các mối đe dọa và hăm dọa", đài truyền hình trung ương Trung Quốc dẫn lời ông Vương.
"Bài phát biểu này hoàn toàn không có tính xây dựng và hơn nữa lại công khai vài lần đích danh chỉ trích Trung Quốc. Những kiểu cáo buộc này hoàn toàn không có cơ sở", ông Vương tức tối nói.
Các căng thẳng gần đây đã bùng phát tại Biển Đông, nơi Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ. Bắc Kinh đã thực hiện các bước đi hung hăng nhằm thực thi điều mà nước này gọi là các quyền lợi lịch sử.
Ông Vương nói rằng giá trị của Đối thoại Shangri-La là khuyến khích các trao đổi, đôi khi thẳng thắn giữa các chính phủ và các tổ chức cố vấn, nhưng Trung Quốc không nên bị cáo buộc mà không có cơ sở.
Trung Quốc đã tìm cách chống lại chính sách xoay trục sang châu Á của Washington, nhưng đã làm nổi giận các quốc gia láng giềng, trong đó có Philipines và Nhật Bản, 2 đồng minh của Mỹ. Các quốc gia trong khu vực tố cáo Trung Quốc ngày càng hung hăng trong các tranh chấp lãnh hải riêng rẽ.
Trung Quốc mới đây đã hạ đặt trái phép giàn khoan trong Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam. Trung Quốc đã khoảng điều 80 tàu cùng nhiều máy bay hộ tống việc lắp đặt giàn khoan này.
Hành động ngang ngược nhất của Trung Quốc gần đây nhất là việc Trung Quốc đâm chìm một tàu cá của Việt Nam gần giàn khoan Hải Dương-981.
Philippines cũng tố cáo Trung Quốc thực hiện công tác cải tạo và có vẻ như đang xây dựng một đường băng trên một khu vực tranh chấp ở Biển Đông.
An BìnhTheo AFP
Nguồn: http://dantri.com.vn/the-gioi/trung-quoc-tuc-toi-sau-phat-bieu-cua-bo-truong-quoc-phong-my-881891.htm

Làm cách nào xóa mối nhục bán nước?

Làm cách nào xóa mối nhục bán nước?
Ngô Nhân Dụng

Các “đồng chí anh em” bắt đầu tỏ thái độ đối nghịch với nhau. Lần đầu tiên một thủ tướng Cộng Sản Việt Nam (viết tắt là Việt Cộng) dọa rằng sẽ dùng đòn pháp lý để nói chuyện với Cộng Sản Trung Quốc (viết tắt, Trung Cộng).
Chỉ mới nói thôi, chưa đưa đơn kiện, tức là chưa làm gì cả; nhưng dám nói còn hơn không. Thêm vào đó, tờ tạp chí trên mạng, tiếng nói của đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ đích danh lãnh tụ Trung Cộng tố cáo là theo chủ nghĩa Ðại Hán. Hai chữ này diễn tả một truyền thống kéo dài hơn 2,000 năm, ít nhất kể từ thời Mã Viện. Tất nhiên nói như vậy vẫn chỉ là người Việt nói cho người Việt nghe cho sướng tai; giống như nói chuyện kiện cáo mà không dám đưa đơn kiện, không đụng tới lông chân mấy anh chị Ðại Hán ở Trung Nam Hải. Một bước đi xa hơn nữa là trên tờ báo lề phải còn đăng bài biện minh rằng bức công hàm của Phạm Văn Ðồng ký năm 1958 đồng ý các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh hải Trung Quốc là không có giá trị. Bài báo này có vẻ nhắm đến dư luận quốc tế, trong đó có cả Trung Quốc; chứ không chỉ nhắm người Việt nói với nhau. Nhưng lập luận của bài báo đó cũng không có giá trị nào cả. Muốn chống lại chiến dịch xâm lấn Biển Ðông của Trung Cộng, người Việt Nam phải dùng biện pháp khác, triệt để hơn.
Chế độ cộng sản ở Hà Nội hiện nay là thừa kế chính thức của chính phủ Phạm Văn Ðồng. Cho nên, khi họ xác định rằng bức công hàm do ông Phạm Văn Ðồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 là vô giá trị, đó là một bước thoái lui có ý nghĩa. Bởi vì đây là lần đầu tiên đảng Cộng Sản Việt Nam xác định chính quyền Việt Nam Cộng Hòa có giá trị pháp lý. Từ năm 1954, Việt Cộng không bao giờ công nhận điều đó. Họ gọi chính quyền miền Nam là “ngụy,” nghĩa là “giặc.” Bây giờ họ chính thức thừa nhận chính quyền Sài Gòn làm chủ các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cho nên, họ biện minh, ông Phạm Văn Ðồng, thủ tướng chính phủ Hà Nội, không có quyền hành nào trên các quần đảo đó. Vì vậy, ông Ðồng không thể đem trao cho Trung Cộng, dù ông ta muốn cống hiến. Nói cách khác, Việt Cộng bây giờ đồng ý rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ hợp pháp; công nhận chế độ đó làm chủ một nửa nước Việt Nam. Thật đáng tiếc, hồi đó họ lại chủ trương đánh chiếm miền Nam để cùng “tiến lên chủ nghĩa xã hội!” Họ lờ đi không nói rõ ông Ðồng có ý nhường các đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng hay không, dù ông ta không có quyền! Tội nghiệp ông Ðồng, ông chỉ ký tên vào bức thư đã được tất cả Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận, vì thế mà riêng ông mang tội bán nước.
Nhưng dùng lối phủ nhận này không phải là thứ lý luận đứng vững trong cuộc đối đầu với Trung Cộng, cũng như trong ý định biện minh cùng dư luận thế giới.
Thứ nhất, bởi vì sau khi nước ta bị chia đôi năm 1954, chính quyền cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam trong thời gian đó đều tự coi mình nắm chủ quyền trên toàn thể nước Việt Nam. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa, từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, đều khẳng định lãnh thổ Việt Nam kéo dài từ Nam Quan đến Cà Mau; mà Hiến Pháp miền Bắc cũng vậy. Khi chính phủ Phạm Văn Ðồng giao thiệp với Trung Cộng, họ nhân danh cả nước Việt Nam, chứ không riêng gì miền Bắc vĩ tuyến 17; mà Bắc Kinh cũng công nhận điều đó. Ông Ðồng ký bức công hàm theo nội dung này. Bây giờ nói đi nói lại, rằng ông Ðồng chỉ nhân danh một nửa nước Việt Nam thôi; Bắc Kinh sẽ bác bỏ luận điệu đó một cách dễ dàng, rất khó cãi lại.
Tập Cận Bình và tập đoàn thống trị ở Ðông Nam Hải còn có thể nêu ra rất nhiều bằng cớ chứng tỏ ông Ðồng và tất cả đảng Cộng Sản Việt Nam đã công nhận Trung Cộng làm chủ Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm Phạm Văn Ðồng viết cho Chu Ân Lai nói rằng chính phủ của ông “ghi nhận và tán thành” bản tuyên bố của Trung Cộng ngày 4 tháng 9 năm 1958 về lãnh hải Trung Quốc. Trong văn bản đó, Trung Cộng nói rõ ràng Tây Sa và Nam Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, ông Ðồng và cháu chắt ông ta không thể chối cãi rằng họ hiểu lầm được. Một bằng chứng hiển nhiên khác mà Trung Cộng có thể nêu ra là các sách giáo khoa vẫn được sử dụng ở miền Bắc. Năm 1964, cuốn sách “Tập Bản Ðồ Việt Nam” do Cục Ðo Ðạc và Bản Ðồ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành đã dùng địa danh “Tây Sa” và “Nam Sa” theo cách gọi của Trung Cộng chứ không gọi là “Hoàng Sa” và “Trường Sa” theo cách của người Việt Nam. Với bằng chứng đó, khó cãi với họ lắm.
Hơn thế nữa, năm 1974 khi Trung Cộng tấn công chiếm Hoàng Sa, chính quyền Hà Nội không hề lên tiếng phản đối. Khi phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa thưa kiện Trung Cộng về vụ này, cả chính phủ miền Bắc lẫn đám bù nhìn của họ ở miền Nam đều không đồng ý. Tại hội nghị La Celle Saint Cloud, được mời cùng đứng tên phản đối hành động xâm lăng Hoàng Sa, họ cũng từ chối. Bây giờ làm sao nói ngược lại được? Gần đây, phóng viên Xuân Hồng của đài BBC có phỏng vấn bà Bảy Vân, vợ của cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn. Bà Bảy Vân xác nhận: “Phạm Văn Ðồng có ký văn bản. Ngụy nó đóng ở ngoài đó (Hoàng Sa). Cho nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa.” Người Tàu họ có thể đọc được tiếng Việt, sẽ vin vào các bằng cớ đó mà xác định rằng Bắc Việt đã đồng ý trao Hoàng Sa cho Trung Cộng từ năm 1958!
Tất cả luận điệu của đảng Cộng Sản Việt Nam chối bỏ bức công hàm của Phạm Văn Ðồng trở thành vô giá trị khi ra trước công luận thế giới. Vậy chúng ta có cách nào xóa bỏ mối nhục bán nước đó hay không?
Có một cách. Là toàn thể dân chúng Việt Nam, từ Bắc chí Nam, bây giờ cùng nhau khẳng định rằng chính phủ Phạm Văn Ðồng là một chính quyền vô giá trị, không bao giờ làm đại diện cho dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, đó là một chính quyền ngụy tạo, mạo nhận, không chính đáng.
Người Việt Nam có thể làm công việc đó ngay bây giờ, bằng một cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng sẽ xóa bỏ tất cả cơ cấu quyền hành từ thời Phạm Văn Ðồng tới ngày nay; thay thế bằng một chính thể mới, do người dân Việt Nam tự do bỏ phiếu lựa chọn.
Ðảng Cộng Sản Việt Nam có thể làm công việc đó. Giống như đảng Cộng Sản Bulgaria đã làm năm 1989. Một ngày sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Bộ Chính Trị Cộng Sản Bulgaria đã họp nhau, tự xóa bỏ độc quyền lãnh đạo trong Hiến Pháp và xóa luôn tên đảng cộng sản. Họ tổ chức bầu cử, viết một Hiến Pháp mới, và chính quyền mới (cũng do các người trong đảng cộng sản cũ cầm đầu) tuyên bố tất cả các hiệp ước với Liên Xô đều vô giá trị.
Trên thế giới, nhiều nước đã xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng với nước ngoài bằng cách đó. Chính quyền Phạm Văn Ðồng chịu công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc, đó là một thứ thỏa hiệp bất bình đẳng. Trung Cộng đã đưa ra 16 chữ vàng: “Sơn thủy tương liên, lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan.” Ðảng Cộng Sản Việt Nam diễn tả thành ra 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.” Bây giờ là lúc dân Việt Nam chấm dứt mối quan hệ bất bình đẳng này, do áp lực của Trung Cộng qua chủ nghĩa cộng sản. Người Việt Nam có quyền xóa bỏ một chế độ sai lầm, xây dựng lại đất nước,
Trả lời cuộc phỏng vấn của nhật báo Người Việt, Ðức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã nói rằng vụ giàn khoan 981 “là một sự kiện rất đau thương, nhưng rất có thể đó cũng là một cơ hội đặc biệt tạo ra cái đổi mới, cái khởi đầu nào đó cho Việt Nam. Nhiều người hy vọng rằng, biết đâu nhờ biến cố đặc biệt đó mà Việt Nam lấy lại cái thế chủ quyền độc lập của mình, thoát khỏi vòng tay Trung Cộng.” Người Việt trong nước hiện đang nôn nóng đòi thi hành một chính sách đối ngoại “Thoát Trung.”

Muốn thoát Trung, phải thoát Cộng. Không chấp nhận “lý tưởng tương thông” thì mới thoát được cái gọng kìm “vận mệnh tương quan.” Dân Việt phải tự quyết định, tự mình làm một “cái khởi đầu nào đó” cho nước Việt Nam. Ðó là cách tốt nhất để xóa mối nhục bán nước năm 1958.
Ngô Nhân Dụng

 Nguồn: Facebook 
 

Thế cờ đang ở trong tay Trung Quốc'


Thế cờ đang ở trong tay Trung Quốc'

Cập nhật: 09:38 GMT - thứ sáu, 30 tháng 5, 2014

 

Phái đoàn Việt Nam đứng trước nhiều thách thức tại Đối thoại Shangri-la năm nay
Giáo sư Carl Thayer, người đang có mặt tại Singapore để tham dự một diễn đàn an ninh cấp khu vực, cho rằng Việt Nam đứng trước nhiều thách thức tại hội nghị năm nay.
Sang dự Đối thoại Shangri-la, dự kiến sẽ diễn ra trong ba ngày từ 30/5-1/6, Việt Nam cử một phái đoàn gồm 20 quan chức, dẫn đầu bởi Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh và có cả Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh.

Giáo sư Thayer cho rằng bài phát biểu của tướng Thanh ngày 31/5 sẽ "không có bất cứ ảnh hưởng nào đến tình hình hiện nay trên Biển Đông".
"Tôi đã nói chuyện với nhiều chuyên gia về Hoa Kỳ và Trung Quốc từ khi đến Singapore".
"Tất cả bọn họ đều cho rằng đây là một cuộc chơi mà Trung Quốc nắm chắc lợi thế và Bắc Kinh đang có những bước tính toán rất chính xác.
"Giới chức Việt Nam thường có thói quen nói chung chung và không đi vào cụ thể"
Giáo sư Carl Thayer
"Giới chức Việt Nam thường có thói quen nói chung chung và không đi vào cụ thể,
"Tướng Thanh có thể sẽ than phiền về một số hành động trên Biển Đông của Trung Quốc và đề cập tới khả năng mở đường dây nóng giữa hai nước, tăng cường trao đổi giữa các phái đoàn cấp cao và tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho tranh chấp hiện nay, ví dụ như kêu gọi sớm đi đến một Bộ quy tắc ứng xử (COC) trên Biển Đông".
"Tuy nhiên, tôi không cho rằng ông ta sẽ đi xa hơn thế", ông nói với BBC qua điện thoại từ Singapore vào ngày 30/5.
Giáo sư Thayer cũng cho rằng ông Thanh rơi vào thế bất lợi khi phải xuất hiện trong cùng phiên họp với các bộ trưởng quốc phòng từ Úc David Johnson và Indonesia Purnomo Yusgiantoro:
"Cùng lắm Úc sẽ lặp lại quan điểm ủng hộ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Ðông, Indonesia cũng vậy. Đây không phải là một nhóm mạnh để công khai hậu thuẫn Việt Nam".
Theo lịch làm việc được đăng tải trên trang web của Viện Nghiên cứu Chiến lược (IISS), đơn vị tổ chức hội nghị, Tướng Phùng Quang Thanh sẽ có bài phát biểu trong phiên họp toàn thể vào lúc 12:00 trưa ngày 31/5 với chủ đề 'Kiểm soát căng thẳng chiến lược'.
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ ngày 29/5, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được truyền thông trong nước dẫn lời nói "Về giải pháp đấu tranh pháp lý, chúng ta đã chuẩn bị hàng chục năm nay, còn thời điểm nào hợp lý thì Bộ Chính trị sẽ quyết định."

'Đổi trắng thay đen'

 

Bà Phó Oánh được xem là người hùng biện và hiệu quả hơn nhiều quan chức khác của TQ.
Trong khi đó, giáo sư Thayer cảnh báo rằng Trung Quốc đã cử một phái đoàn rất mạnh đến Đối thoại Shangri-la năm nay, tiêu biểu là cựu Thứ trưởng Ngoại giao Phó Oánh, Chủ tịch Uỷ ban Đối ngoại Quốc hội Trung Quốc, người nổi tiếng cứng rắn và có tài hùng biện.
"Tôi đã quan sát bà Phó phát biểu nhiều lần. Người phụ nữ nhỏ con này có thể sử dụng lời lẽ để đẩy văng bất cứ ai ra khỏi Trái Đất," ông nói.
Ông dự đoán rằng phía Trung Quốc sẽ tìm cách "đổi trắng thay đen" và đổ lỗi cho Việt Nam là nước chủ động gân hấn.
Năm nay, nhiều sự chú ý cũng được cho là sẽ tập trung vào nỗ lực tiến đến một vai trò lớn hơn trong nền an ninh toàn cầu và khu vực của Nhật Bản, nước cũng đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên Biển Hoa Đông.
Giáo sư Thayer cho rằng điều này sẽ được Việt Nam "hết sức hoan nghênh".
"Tôi đã nói chuyện với một số chuyên gia về Việt Nam và họ cho rằng Hà Nội càng thắt chặt quan hệ với Nhật Bản và Philippines bao nhiều sẽ càng khiến Trung Quốc phải dè chừng bấy nhiêu," ông nói.
"Bắc Kinh lúc đó sẽ phải xem xét liệu gây hấn với Việt Nam khi nước này đang thắt chặt quan hệ với các đồng minh thân cận của Hoa Kỳ có khiến Washington phải vào cuộc hay không."

'Đôi bên cùng bị hủy diệt'

Trung Quốc tăng cường sức mạnh hải quân trong nhiều năm qua.
Trong bài viết trên Bấm Tạp chí Diplomat vào ngày 28/05, Giáo sư Carl Thayer cho biết Việt Nam đã thực hiện cách tiếp cận “rất thận trọng” và “ôn hòa” để giải quyết khủng hoảng với Trung Quốc.
Trước tiên là đảm bảo sự hiện diện liên tục của các tàu phòng vệ và cảnh sát biển ở gần giàn khoan, tuy nhiên cách ly tàu ngầm và tàu chiến ra khỏi vùng tranh chấp.
Thứ hai là đề xuất các giải pháp ngoại giao: đề nghị một cuộc gặp cấp cao giữa Tổng bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng và lãnh đạo Trung Quốc, mở đường dây nóng giữa lãnh đạo hai bên, giao thiệp giữa quan chức ngoại giao, và đối thoại với đại diện của Bắc Kinh bên lề các cuộc họp quốc tế.
"Về giải pháp đấu tranh pháp lý, chúng ta đã chuẩn bị hàng chục năm nay, còn thời điểm nào hợp lý thì Bộ Chính trị sẽ quyết định"
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
“Tuy vậy Trung Quốc đã khước từ tất cả các tiếp cận đó, và đối thoại giữa hai bên vẫn hết sức lạnh nhạt,” ông Carl Thayer nói.
Trước thất bại của các động thái song phương, có vẻ như Việt Nam sẽ cân nhắc những chiến lược dài hạn để kiềm tỏa các hành động khiêu khích của Trung Quốc, theo GS Thayer.
Tuy vậy, GS Carl Thayer cảnh báo rằng nếu xung đột với Việt Nam leo thang tới miệng hố chiến tranh, rất có thể Hà Nội sẽ sử dụng chiến lược “đôi bên cùng bị hủy diệt”, nhằm phá hủy nền kinh tế Trung Quốc bằng cách tạo tâm lý bất ổn và đẩy giá bảo hiểm tăng cao, khiến nhà đầu tư nước ngoài tháo chạy.
Theo đó, Việt Nam sẽ tập trung tấn công các tàu thương mại và chở dầu của Trung Quốc qua biển Đông, cũng như căn cứ hải quân ở Hải Nam và đảo Phú Lâm, những vị trí nằm trong tầm bắn của tên lửa đạn đạo bờ biển Việt Nam.
“Một vài chiến lược gia Việt Nam còn cho rằng nước này có thể mua cấp tập số lượng lớn các tên lửa đạn đạo có đủ khả năng tấn công Thượng Hải hoặc thậm chí là Hong Kong. Khi xung đột vũ trang nổ ra, các thành phố này có thể là mục tiêu để làm rối loạn kinh tế Trung Quốc. Nó sẽ gây ra ảnh hưởng toàn cầu, và các chuyên gia Việt Nam kì vọng điều đó sẽ khiến các cường quốc can thiệp để ngăn cản Bắc Kinh gây hấn,” Ông Thayer viết trên Diplomat.

Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2014

Mỹ công khai giúp lập CP lưu vong cho VN

 Mỹ công khai giúp lập CP lưu vong cho VN

Đây là tin từ phía Pháp, Mỹ, chứ không phải từ ông Cù Huy Hà Vũ, Dân Biểu Cao Quang Ánh, hay từ Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng. 
Theo nguồn tin, bộ 3 ông này sẽ được Mỹ công khai giúp lập Chính Phủ lưu vong cho VN. Phe Pháp cũng ủng hộ nhưng một cách tế nhị và khéo léo hơn. 
Và tôi có viết rằng nếu được LS Đinh Việt, Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh tham gia vào thì càng tốt.
Rất nhiều việc đang được ráo riết thực hiện, vì CHIẾN CUỘC đang rất căng thẳng.
--------------
Trung Cộng đang có hơn 100 tàu chiến xung quanh vùng biển Hoàng sa, cách VN chỉ vài trăm hải lý, đang khi cách Trung quốc hàng ngàn hải lý.
Rõ ràng đây là hành động xâm lấn QUÂN SỰ, chứ 1 cái giàn khoan chỉ là cái cớ, và vùng này KHÔNG có dầu hoả, theo chính cơ quan năng lượng Hoa kỳ.
Mỹ lo ngại, vì theo đà này TC có thể đặt "giàn khoan" tại nhiều vùng phía NAM Hoàng sa, tức càng ngày càng gần Phi, Singapore, Mã lai, Indonesia.
Mỹ không vì VN, thì cũng vì các quốc gia kia.
Các quốc gia kia lại không có cớ để tranh chấp, duy chỉ có VN vì vùng này thuộc đặc quyền khai thác KT của VN, chưa kể cả vùng Hoàng sa trước kia thuộc về VN, do đó nếu VN mạnh lên thì có thể TÁI CHIẾM cả vùng HS, đẩy TC trở về phía Bắc hàng ngàn hải lý.
--------------
Do đó, Mỹ cần 1 CP triệt để chống TC bành trướng, mà theo tính toán thì CP CSVN sẽ KHÔNG làm điều này, mà CP này luôn tìm đủ cách hoà hoãn, chia quyền lợi, nịnh bợ TC.
Nói khác đi, Mỹ muốn có CP VN nào đó chống TC mạnh mẻ hơn, và phe ông Vũ trong và ngoài nước rơi đúng vào địa vị này.
Trong nước, ông Vũ được nhiều cán bộ dân sự và quân đội ủng hộ, do ông ta thuộc phe XÉT LẠI (revisionism), chống lại phe CS giáo điều thân TC hiện đang nắm quyền.
Nói xa 1 chút thì ông ta như là 1 Yeltsin của Nga, thậm chí là 1 Putin.
KHÔNG THUỘC PHE DÂN CHỦ TỰ DO, nhưng ông ta ở vào địa vị có nhiều người ủng hộ ngay tại các cấp lãnh đạo VN, và cơ may để ông ta thành công thì cao hơn hẳn phe dân chủ tự do.
Đây là tình hình THỰC TẾ, chứ không phải do ai ước muốn.
--------------
Mỹ đương nhiên muốn phe DÂN CHỦ TỰ DO nắm chính quyền, nhưng phe này hiện không có ai làm lãnh đạo, vả lại cơ may thành công quá thấp vì không được QUÂN ĐỘI, CÔNG AN VN ủng hộ.
Do tình hình quá cấp bách, Mỹ không có nhiều sự lựa chọn, và ông Vũ nếu cộng thêm ông Thắng, ông Ánh, thì CP này không thuộc phe tả, cũng không quá cực hữu, do đó cơ may thành công RẤT LỚN, có thể nói là lớn nhất kể từ 1975.
Phe này có thể được chính CSVN chấp nhận để họ nhượng quyền, do nay CSVN không còn cường quốc nào ủng hộ, nếu Mỹ ép Kinh tế thì chắc chắn CSVN không thể tồn tại cho dù họ muốn.
Nói ví dụ, Mỹ sẽ dễ dàng ép Samsung rút ra khỏi VN, ép ngưng kiều hối. Chỉ 2 điều này sẽ gây tai hại rất lớn cho KT CSVN.
Nay chính Nga cũng không ủng hộ CSVN, bằng chứng là Putin đi thăm TC rất thân tình ngay vào lúc TC xâm lăng VN.
CSVN sẽ thấy rằng tiếp tục cai trị sẽ đi vào đường chết cho chính họ, và quốc gia sẽ bị TC xâm lăng, chính họ sẽ bị đời đời nguyền rủa.
Do đó, Mỹ có thể mở sinh lộ cho họ, bằng cách họ nhượng quyền lại cho 1 CP sẽ không lên án họ, không truy cứu, truy thu, truy tố sau này. Ông Vũ từng nói sẽ công nhận sự tồn tại của CSVN sau này.
--------------
Điều này không khác chính Yeltsin cũng chưa từng muốn dẹp ĐCS Nga, và đảng này nay vẫn tồn tại cho dù không được 1 ghế trong quốc hội, và chẳng có sức mạnh gì.
Như vậy, ông Vũ sẽ có rất ít kẻ thù tại VN, và rất nhiều bạn bè tại đó, tại Paris, tại Washington.

1 bước, VN không thể nhảy vọt từ CS qua Dân chủ, mà phải có 1 buớc chuyển tiếp nào đó, trong thời gian nào đó. Người Mỹ tính chiêu này phải nói là RẤT HAY, lúc đầu tôi không ủng hộ chút nào nhưng sau đó nhận ra, thôi thì thay vì cứ mơ ước mãi, thì thà là chấp nhận 1 SỰ THẬT tàm tạm còn hơn là ẢO TƯỞNG đẹp trong 39 năm qua. Bên cạnh ông này còn có ông Thắng, ông Ánh, thì CP mới sẽ không đến nổi nào, vả lại đã có MỸ chống lưng, thì lo gì các việc logistics do Mỹ có hàng trăm cơ quan lo các việc thế này.
CP ông Diệm khi đó còn không có mấy ai ra giúp, vẫn thành công đó thôi.
Nay trong giới VK tại Mỹ mà thôi thì nhân tài vô số, muốn tìm ra vài trăm người giúp CP mới thì không khó lắm đâu.
--------------
Thời thế đã như vậy, ngồi đây chống ông ta làm gì, vì có gì khác tốt hơn đâu, có CP nào, có lãnh đạo nào tranh với ông này?
Nói bình dân thì quý vị có chiếc xe quá dỏm, cần đem liệng. Ai đó cho chiếc xe tốt hơn, cho dù không phải loại thật tốt như quý vị mong muốn, thì vẫn hơn chiếc xe hiện nay.
Chứ quý vị cứ chê bai chiếc xe người ta cho, thì quý vị chỉ có chiếc xe cần đem liệng mà thôi.
Mỹ công khai giúp lập CP lưu vong cho VN

Đây là tin từ phía Pháp, Mỹ, chứ không phải từ ông Cù Huy Hà Vũ, Dân Biểu Cao Quang Ánh, hay từ Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng.
Theo nguồn tin, bộ 3 ông này sẽ được Mỹ công khai giúp lập Chính Phủ lưu vong cho VN. Phe Pháp cũng ủng hộ nhưng một cách tế nhị và khéo léo hơn.
Và tôi có viết rằng nếu được LS Đinh Việt, Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh tham gia vào thì càng tốt.
Rất nhiều việc đang được ráo riết thực hiện, vì CHIẾN CUỘC đang rất căng thẳng.
--------------
Trung Cộng đang có hơn 100 tàu chiến xung quanh vùng biển Hoàng sa, cách VN chỉ vài trăm hải lý, đang khi cách Trung quốc hàng ngàn hải lý.
Rõ ràng đây là hành động xâm lấn QUÂN SỰ, chứ 1 cái giàn khoan chỉ là cái cớ, và vùng này KHÔNG có dầu hoả, theo chính cơ quan năng lượng Hoa kỳ.
Mỹ lo ngại, vì theo đà này TC có thể đặt "giàn khoan" tại nhiều vùng phía NAM Hoàng sa, tức càng ngày càng gần Phi, Singapore, Mã lai, Indonesia.
Mỹ không vì VN, thì cũng vì các quốc gia kia.
Các quốc gia kia lại không có cớ để tranh chấp, duy chỉ có VN vì vùng này thuộc đặc quyền khai thác KT của VN, chưa kể cả vùng Hoàng sa trước kia thuộc về VN, do đó nếu VN mạnh lên thì có thể TÁI CHIẾM cả vùng HS, đẩy TC trở về phía Bắc hàng ngàn hải lý.
--------------
Do đó, Mỹ cần 1 CP triệt để chống TC bành trướng, mà theo tính toán thì CP CSVN sẽ KHÔNG làm điều này, mà CP này luôn tìm đủ cách hoà hoãn, chia quyền lợi, nịnh bợ TC.
Nói khác đi, Mỹ muốn có CP VN nào đó chống TC mạnh mẻ hơn, và phe ông Vũ trong và ngoài nước rơi đúng vào địa vị này.
Trong nước, ông Vũ được nhiều cán bộ dân sự và quân đội ủng hộ, do ông ta thuộc phe XÉT LẠI (revisionism), chống lại phe CS giáo điều thân TC hiện đang nắm quyền.
Nói xa 1 chút thì ông ta như là 1 Yeltsin của Nga, thậm chí là 1 Putin.
KHÔNG THUỘC PHE DÂN CHỦ TỰ DO, nhưng ông ta ở vào địa vị có nhiều người ủng hộ ngay tại các cấp lãnh đạo VN, và cơ may để ông ta thành công thì cao hơn hẳn phe dân chủ tự do.
Đây là tình hình THỰC TẾ, chứ không phải do ai ước muốn.
--------------
Mỹ đương nhiên muốn phe DÂN CHỦ TỰ DO nắm chính quyền, nhưng phe này hiện không có ai làm lãnh đạo, vả lại cơ may thành công quá thấp vì không được QUÂN ĐỘI, CÔNG AN VN ủng hộ.
Do tình hình quá cấp bách, Mỹ không có nhiều sự lựa chọn, và ông Vũ nếu cộng thêm ông Thắng, ông Ánh, thì CP này không thuộc phe tả, cũng không quá cực hữu, do đó cơ may thành công RẤT LỚN, có thể nói là lớn nhất kể từ 1975.
Phe này có thể được chính CSVN chấp nhận để họ nhượng quyền, do nay CSVN không còn cường quốc nào ủng hộ, nếu Mỹ ép Kinh tế thì chắc chắn CSVN không thể tồn tại cho dù họ muốn.
Nói ví dụ, Mỹ sẽ dễ dàng ép Samsung rút ra khỏi VN, ép ngưng kiều hối. Chỉ 2 điều này sẽ gây tai hại rất lớn cho KT CSVN.
Nay chính Nga cũng không ủng hộ CSVN, bằng chứng là Putin đi thăm TC rất thân tình ngay vào lúc TC xâm lăng VN.
CSVN sẽ thấy rằng tiếp tục cai trị sẽ đi vào đường chết cho chính họ, và quốc gia sẽ bị TC xâm lăng, chính họ sẽ bị đời đời nguyền rủa.
Do đó, Mỹ có thể mở sinh lộ cho họ, bằng cách họ nhượng quyền lại cho 1 CP sẽ không lên án họ, không truy cứu, truy thu, truy tố sau này. Ông Vũ từng nói sẽ công nhận sự tồn tại của CSVN sau này.
--------------
Điều này không khác chính Yeltsin cũng chưa từng muốn dẹp ĐCS Nga, và đảng này nay vẫn tồn tại cho dù không được 1 ghế trong quốc hội, và chẳng có sức mạnh gì.
Như vậy, ông Vũ sẽ có rất ít kẻ thù tại VN, và rất nhiều bạn bè tại đó, tại Paris, tại Washington.
1 bước, VN không thể nhảy vọt từ CS qua Dân chủ, mà phải có 1 buớc chuyển tiếp nào đó, trong thời gian nào đó. Người Mỹ tính chiêu này phải nói là RẤT HAY, lúc đầu tôi không ủng hộ chút nào nhưng sau đó nhận ra, thôi thì thay vì cứ mơ ước mãi, thì thà là chấp nhận 1 SỰ THẬT tàm tạm còn hơn là ẢO TƯỞNG đẹp trong 39 năm qua. Bên cạnh ông này còn có ông Thắng, ông Ánh, thì CP mới sẽ không đến nổi nào, vả lại đã có MỸ chống lưng, thì lo gì các việc logistics do Mỹ có hàng trăm cơ quan lo các việc thế này.
CP ông Diệm khi đó còn không có mấy ai ra giúp, vẫn thành công đó thôi.
Nay trong giới VK tại Mỹ mà thôi thì nhân tài vô số, muốn tìm ra vài trăm người giúp CP mới thì không khó lắm đâu.
--------------
Thời thế đã như vậy, ngồi đây chống ông ta làm gì, vì có gì khác tốt hơn đâu, có CP nào, có lãnh đạo nào tranh với ông này?
Nói bình dân thì quý vị có chiếc xe quá dỏm, cần đem liệng. Ai đó cho chiếc xe tốt hơn, cho dù không phải loại thật tốt như quý vị mong muốn, thì vẫn hơn chiếc xe hiện nay.
Chứ quý vị cứ chê bai chiếc xe người ta cho, thì quý vị chỉ có chiếc xe cần đem liệng mà thôi.

Nguồn:  https://www.facebook.com/vantuyen.net/posts/10202438021894947:0