Thứ Ba, 20 tháng 3, 2012

SỐNG ĐỂ CHIẾN TRANH…CHẾT CHO HÒA BÌNH!!!{6}…!!! {5}}


    SỐNG ĐỂ CHIẾN TRANH…CHẾT CHO HÒA BÌNH…!!!{5}
Tiếp theo...

Vượt Biển Tìm Tự-Do

THẢM CẢNH VƯỢT BIÊN

Nguyễn Hà Tịnh


<= Xin đừng quên cái giá của TỰ DO và những OAN HỒN trên biển Đông đang chờ bạn tiếp tay giải mối oan khiên.

Hy vọng, qua những dòng chữ được viết bằng máu và nước mắt của chính những người trong cuộc, qúy độc giả, với tấm lòng xót xa và những giọt nước mắt đau đớn của những người tỵ nạn cộng sản cùng cảnh ngộ, sẽ hiểu được,...Tội ác của chánh phạm CSVN đằng sau muôn ngàn bi kịch rùng rợn của người vượt biển.


VỤ THỨ NHẤT 87 người bị giết

NHÂN CHỨNG Bà Nguyễn Thị Thương 36 tuổi, tốt nghiệp Đại Học Hoa Kỳ, tu nghiệp tại Paris, Pháp. Trước 1975 Bà là Giáo sư Đại Học Bách Khoa Thủ Đức. Bà Thương vượt biển cùng chồng là Giáo sư Trần Quang Huy, phân khoa trưởng Văn Khoa Đại Học Saigon, cùng với Mẹ ruột, cậu, 2 em trai, 2 em dâu, 4 cháu gái và một con gái nhỏ 3 tuổi. Nhưng chỉ còn Bà, con gái nhỏ của bà, một người em trai của Bà và một em gái của chồng sống sót.
Ghe mang số SS0646 IA dài 13 m 5, chở 107 người khởi hành từ Rạch Giá ngày 01 tháng 12 năm 1979. Ra khơi được 3 ngày, thuyền chạy về hướng Thái Lan, khi đã gần tới đất liền thì gặp bọn cướp biển vào ngày 03121979. Hai tàu cướp ThaiLan cặp hai bên hông thuyền tị nạn, bọn cướp đã ùa sang với súng và dao. Vì ghe thuyền Việt Nam quá chật hẹp, bọn hải tặc đã lùa 27 người sang tàu của chúng cho dễ lục soát vàng bạc của cải.

80 người còn lại bị khám xét cướp hết vàng bạc, vật qúy. Sau đó bọn cướp buộc giây vào ghe Việt Nam vào đuôi tàu của chúng và kéo chạy. Chúng xả hết tốc lực, chạy lượn vòng qua lại làm ghe tị nạn nghiêng chìm như một trò chơi. Dân tị nạn la khóc, lạy van cho tới khi ghe chìm hẳn. Bọn cướp biển cắt giây nối và chạy bỏ mặc 80 người vùng vẫy tuyệt vọng, trong khi 27 người tị nạn trên tàu của chúng vật vã khóc ngất nhìn xuống biển chứng kiến người thân đang dãy dụa chết chìm.

Bọn hải tặc chạy thẳng về đảo sào huyệt KO KRA của chúng mang theo 27 người mà chúng đã tách đem lên thuyền chúng trước đó. Nhưng gần tới đảo, chúng xô đẩy tất cả đàn ông xuống biển, buộc họ bơi vào đảo. 7 người dàn ông này đều bị chết đuối vì không đủ sức bơi hoặc không biết bơi để có thể vào đến bờ, trong số này có Giáo sư TRẦN QUANG HUY. Còn lại 20 người sống sót sau cùng đã bị bọn cướp đưa lên đảo và lập tức chúng lại lục soát, sờ nắn khắp thân thể để tìm kiếm vật quý con cất giấu trong người. Bà BTD (xin viết tắt, giấu tên) 26 tuổi có con 4 tuổi, bị dẫn ngay vào bụi hãm hiếp mặc dù Bà đang mệt lả không đứng dậy nổi vì đói khát, kinh hoàng.

Sau đó, trong suốt 8 ngày liền bị giam giữ trên đảo, 20 thuyền nhân còn lại này đã bị quần thảo hành hạ bởi nhiều toán cướp biển khác nhau hàng ngày đổ bộ lên đảo. Các phụ nữ, cô gái phải chạy vào rừng hoặc leo lên hốc ẩn tránh. Nhưng vẫn không thoát khỏi tay bọn dâm tặc. Một lần Bà BTD quá mệt mỏi không còn sức chạy trốn nổi, đang nằm ngất ngư và được mọi người săn sóc thì bọn hải tặc lại ùa đến, đuổi tất cả mọi người chung quanh đi chỗ khác và 4 tên Thái man rợ luân phiên hãm hiếp tàn nhẫn ngay tại chỗ, khiến bà ta bị kiệt lực nằm im lìm không nhúc nhích được nữa.

Đến ngày thứ 3 trên đảo, một tàu Thái, bên hông có ghi chữ POLICE số 513 tới đảo. Bọn cướp rút lui, chạy tàu ra xa. Chiếc tàu Cảnh Sát neo sát bờ biển, họ chỉ nhìn vô bờ nhưng không lên đảo. Những người tị nạn Việt Nam mừng rỡ tưởng được cứu thoát, một thanh niên tị nạn bơi ra mang theo một lá thư cầu cứu bằng tiếng Anh để gởi cho giới chức Cao Ủy Liên Hiệp Quốc. Nhưng chưa bơi tới nơi đã bị tàu Cảnh Sát Thái nổ súng bắn xuống biển cảnh cáo. Anh ta hoảng hốt bơi quay trở vào bờ. Sau đó mọi người lại đề cử một thiếu niên 15 tuổi liều mình bơi ra cầu cứu lần nữa. Cậu này đã được Cảnh Sát cho lên tàu, nhưng chỉ cho vài gói mì và đuổi xuống biển ngay. Cuối cùng tàu Cảnh Sát này bỏ đi. Sau này mới biết họ đã không hề báo tin vào đất liền.

Ngay sau khi tàu Cảnh Sát bỏ đi bọn hải tặc lại lên đảo và tình trạng tồi tệ tiếp tục diễn ra. Đến ngày thứ năm, một tàu Hải Quân Thái Lan đi ngang qua đảo, nhóm người tị nạn chạy ra sát bờ vẫy gọi, làm hiệu và lần này chiếc tàu Hải Quân đã cho người lên đảo tiếp xúc và nhận bức thư nhờ chuyển về cho Cao Ủy Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan. Ngày thứ tám, Ông SCHWEITZER Đại diện Liên Hiệp Quốc tại TháiLan ra đón họ vào đất liền.

Không lâu sau đó Bà NGUYỄN THỊ THƯƠNG sinh thêm đứa con gái út trong trại tị nạn Song Khla và Bà sống tại đó với một đứa con gái 3 tuổi và người em trai của Bà và một em gái của Ông TRẦN QUANG HUY. Lúc bắt đầu rời Việt Nam Bà THƯƠNG đã có thai gần 9 tháng, chính nhờ vậy trong những ngày trên đảo KO KRA, Bà đã không bị hải tặc hãm hiếp.

Bà NGUYỄN THỊ THƯƠNG kể lại câu chuyện trên rồi khóc lặng lẽ và nói Chồng tôi và tôi đã đoán trước những thảm cảnh có thể xảy ra trên biển. Nhưng chúng tôi vẫn chấp nhận ra đi vì chúng tôi đã nghĩ rằng, dù thế nào cũng ít tệ hại hơn là sống dưới chế độ Cộng sản. Nhưng những đau khổ tôi đang phải chịu đã vượt qua dự đoán của chúng tôi.


VỤ THỨ HAI 70 thuyền nhân Việt nam tị nạn bị giết

NHÂN CHỨNG Ông Vũ Duy Thái 44 tuổi, đi cùng vợ là Bà Đinh Thị Bằng 40 tuổi cùng 4 con và 2 cháu. Hiện chỉ còn mình Ông sống sót.

Ghe VNKG 0980 dài 14 m, bề ngang 2 m 2 chở 120 người khởi hành từ Rạch Giá ngày 29 tháng 12, 1979. Lúc 7 giờ sáng ngày 31121979 gặp tàu hải tặc Tháilan. Tàu này sơn màu đỏ cam, mang số 128 ở đầu mũi, gồm 12 tên cướp võ trang súng dài và dao, búa, rìu. Tàu của chúng phóng tới húc vào làm nứt bể mũi ghe tị nạn. Bọn hải tặc nhảy qua và lập tức phá máy ghe làm thủng thêm vết nứt, nước bắt đầu tràn vào. Bọn chúng lục soát chụp giựt đồng hồ, nhẫn vàng v.v... trong lúc nước nước tràn vào ghe của người tị nạn càng nhiều hơn và bắt đầu bị chìm dần sau khoảng 1 tiếng đồng hồ.

Khi ghe chìm hẳn, đàn bà, trẻ con la khóc hoảng hốt níu kéo lẫn nhau. Bọn cướp nhảy xuống biển và chỉ chọn lựa cứu các cô gái trẻ đẹp. Lúc đó tàu của bọn hải tặc neo đậu cách đó 50 m. Bọn cưới đã lôi kéo về tàu chúng 5 cô gái. Một số đàn ông và thiếu niên tị nạn biết bơi cũng lội về phía tàu của chúng và bám leo lên. Nhiều người bị xô đẩy xuống, nhưng vì chúng ít người nên cuối cùng còn 50 người sống sót leo lên được tàu của chúng kể cả 5 cô gái được chúng cứu trước đó. Những người này đã chứng kiến trước mắt 70 người còn lại bị chết chìm dần dần. Mọi người nhìn thấy những bàn tay chới với ngoi lên khỏi mặt biển rồi mất hút.

Ông Vũ Duy Thái rời Việt Nam cùng vợ và 4 con, 2 cháu. Riêng Ông trong lúc hỗn loạn đã bơi bám vào tàu hải tặc và níu được vợ và một đứa con. Còn 3 đứa con khác và 2 cháu thì bị chết chìm. Tuy nhiên vợ và đứa con còn lại của Ông đã bị uống nước quá nhiều, khi kéo lên được thì không còn nhúc nhích. Ông hi vọng dùng phương pháp hô hấp nhân tạo sẽ cứu sống được, nhưng bọn hải tặc đã quăng vợ và con Ông xuống biển trở lại cho chết luôn.
Anh Phạm Việt Chiêu, 26 tuổi là tài công kể lại chính anh và một số đàn ông khác còn khoẻ đã vớt được một số người chưa chắc đã chết hẳn mà có thể chỉ mới bị ngất xỉu nhưng bọn hải tặc đã bắt bỏ họ xuống biển lại. Sau đó tàu hải tặc trực chỉ đảo KO KRA và chúng giam giữ nạn nhân trên đảo.

Ngày 1.1.1980, một chiếc tàu Hải quân Thái mang số 18 đến đảo vào ban đêm có võ trang vũ khí. Mọi người mừng rỡ tưởng được cứu thoát. Nhưng những người lính Hải quân chẳng chút thương tâm đoái hoài đến dân Việt tị nạn đang lâm cảnh khốn cùng, họ chỉ lo việc khám xét bằng cách bắt tất cả mọi người lột bỏ quần áo trần truồng kể cả đàn bà con gái rồi bỏ đi.

Ngày 2.1.1980 một tàu Hải quân Thái khác mang số 17 lại tới đảo. Lính Thái lại ùa lên lục soát. Tất cả phụ nữ bị lột truồng không còn mảnh vải che thân công khai trước đám đông để bọn lính này sờ nắn khám xét như để tìm vũ khí kẻ nào có giấu diếm. Sau đó, chúng rút về tàu đậu gần bờ biển và đến trưa ngày 411980 mới bỏ đi.

Trong thời gian hải quân Thái làm việc, bọn cướp vắng mặt nhưng ngay sau khi lính Thái vừa bỏ đi thì lập tức 4 chiếc tàu hải tặc tràn người lên đảo. Bọn cướp lại lục soát thêm nhiều lần nữa. Dĩ nhiên những nạn nhân VN khốn khổ chẳng còn gì để chúng cướp bốc nữa. Chúng luân phiên nhau hãm hiếp phụ nữ tại chỗ giữa ban ngày.Chúng chẳng cần tìm chỗ nào kín đáo để làm hành động thú tính này. Năm em gái Việt Nam KH 15 tuổi, BT 17 tuổi, AH 12 tuổi, NY 11 tuổi và MT 15 tuổi bị chúng cưỡng hiếp tập thể ngay trước mắt mọi người.

Lẽ ra, thảm kịch còn kéo dài chưa biết đến ngày nào chấm dứt, nếu không may mắn được vị cứu tinh là Ông SCHEITZER Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc xuất hiện kịp thời cứu giúp và kết thúc thảm ác trạng này. Ông đã đến đảo KRA trên một chiếc tàu Cảnh Sát Thái lan.


VỤ THỨ BA Hải tặc Thái bắt gái VN bán vô ổ điếm

NHÂN CHỨNG Nguyễn Thị Ánh Tuyết 17 tuổi đi cùng chị là Bà Nguyễn Thị Năm bà này đã bị hải tặc giết trước đó và Công Huyền Tôn Nữ Mỹ kiều 17 tuổi.

Ghe không số, dài 10 m, chở 78 người, khởi hành tại NhaTrang ngày 08121979. Ra khơi được 3 ngày thì hết nhiên liệu và thực phẩm, thuyền lênh đênh trên biển trong 10 ngày. Thời gian này có 12 trẻ em đã bị chết vì đói khát. Thi thể các em phải bỏ xuống biển. Đến ngày 21121979 gặp 2 tàu hải tặc Tháilan. Bọn cướp buộc giây vào ghe VN với tàu của chúng, dùng vũ khí ép buộc tất cả mọi người qua tàu chúng để lục soát.

Bà Nguyễn Thị Năm 33 tuổi đang mang thai 5 tháng, đi cùng chồng là Ông Lê Văn Tư và 3 đứa con 9 tuổi, 5 tuổi và 3 tuổi. Cả 3 đứa trẻ này đã chết trong thời gian 10 ngày ghe bị trôi lênh đênh trước đó. Bà NĂM quá đau khổ và mệt mỏi không còn đủ sức leo qua tàu hải tặc khi chúng ra lịnh. Bọn cướp đã xốc nách Bà lên nhưng Bà vẫn nằm im, một tên cướp liền dùng xẻng xúc cá đập túi bụi vào đầu Bà NĂM. Bà đã bị nứt sọ chết ngay tại chỗ và chúng xô xác Bà xuống biển.

Mọi người kinh hoảng vội leo sang tàu hải tặc để cho chúng có chỗ trống lục soát, phá phách, xét quần áo, thân thể tìm đồ qúy. Sau đó tất cả đàn ông bị bắt nhốt vào hầm nước đá, đàn bà chúng cho ở trên sân tàu để sờ mó nghịch ngợm. Rồi chúng lùa thuyền nhân tị nạn qua trở lại chiếc ghe đã thủng nát. Khi đến ghe thì một người đàn ông đã chết vì đã bị giam giữ trong hầm nước đá lạnh cóng. Chiếc ghe tị nạn lại tiếp tục thả trôi lênh đênh trong nỗi tuyệt vọng cùng cực của mọi người.

Ngày hôm sau, hai chiếc tàu hải tặc khác lại đuổi theo, tới gần vùng đảo KO KRA chúng lại lên ghe lục soát cướp bốc. Lần này 3 thiếu nữ xinh đẹp nhất bị chúng bắt đem đi. Con thuyền tị nạn lại tiếp tục trôi trong tình trạng vô cùng bi đát. Máy ghe bị hư hỏng, không thức ăn, nước uống và ghe thì đã ngập nước vì lúc đó tất cả đàn ông đã quá đói khát không còn đủ sức tát nước nữa. Không ai biết số phận 70 người còn lại trên chiếc ghe khốn cùng đó, lúc này ra sao

Hai chiếc tàu hải tặc chia nhau 3 cô gái VN. Hai cô N.T. Ánh Tuyết và Mỹ Kiều bị chiếc tàu của tên SAMSAC làm chủ bắt giữ. Còn chiết tàu kia bắt Cô LAN 17 tuổi mang đi mất hút, cho tới bây giờ không còn nghe tin tức gì về Cô ấy nữa. Hai cô ÁnhTuyết và Mỹ Kiều bị bọn SAMSAC mang vào đất liền, nhốt trong một khách sạn tại Songkhla. Chúng tách rời hai cô ở phòng riêng khác nhau. Ánh Tuyết bị một tên, được nghe gọi là BÍT canh chừng. Còn Mỹ Kiều thì ở chung phòng với tên SAMSAC.

Ánh Tuyết kể lại là Cô đã la hét kêu ầm lên khi tên BÍT định cưỡng hiếp Cô, khiến mọi người ở các phòng chung quanh cùng khác sạn đa số là người Tây Phương đổ xô tới xem và tên BÍT đã bỏ chạy. Riêng tên SAMSAC ở phòng gần đó nghe tiếng ồn ào vội đem Mỹ Kiều đi giấu trong một khách sạn khác ở tỉnh Haadyai cách Songkhla hơn 30 Km. Khi cảnh sát đến điều tra, chính cô Ánh Tuyết đã dẫn CảnhSát đến bến tàu Songkhla, nơi có chiếc tàu của bọn SAMSAC vẫn còn đậu đó và các thủ phạm hải tặc đã bị bắt kể cả tên SAMSAC mà Cảnh sát đã tìm thấy hắn sau đó cùng với Cô Mỹ Kiều tại khách sạn nói trên.

Tại Ty Cảnh Sát chúng đã khai là định bán hai Cô gái này cho một đường giây chuyên buôn gái cho các ổ điếm.

Trên đây, chúng tôi chỉ đưa ra một vài vụ điển hình thuyền nhân Việt Nam bị thảm nạn hải tặc Tháilan hành hạ, giết chóc xảy ra trong tháng 12-1979 tại đảo KO KRA. Tưởng cần nhắc lại rằng tệ nạn hoành hành của hải tặc THÁI không phải vào thời gian này mới xuất hiện. Trong mấy năm trước 1979 khi ở Việt Nam khởi sự có làn sóng Thuyền Nhân VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO thì người Việt tị nạn của chúng ta đã trở thành những con mồi ngon cho bọn hải tặc THÁI.

Báo chí trên thế giới cũng đã nhiều lần đề cập đến thảm kịch kinh hoàng mà BOAT PEOPLE đã phải chịu khổ nạn. Tuy nhiên kể từ khi các ngư phủ THÁI nhận thấy việc cướp bóc Thuyền Nhân sẽ làm cho họ trở nên giàu có mau chóng hơn là đánh cá thì số ngư dân Thái kiêm thêm nghề hải tặc đã ngày trở nên đông đảo, đưa tới hậu quả là người VN đi tị nạn bằng đường biển càng ngày càng bị rơi vào mạng lưới của bọn cướp biển dày đặc bủa vây trong khắp vùng Vịnh Thái lan.

Nguyễn Hà Tịnh
__________________
TÙ BINH CHIẾN TRANH- CỘNG SẢN.

Tôi Đi Cải Tạo!
« Trả lời #30 vào lúc: Tháng Chín 25, 2009, 05:58:47 AM »


Anh hùng lỡ vận thất cơ
Qua sông nín thở để chờ ngày mai
Thức đêm mới biết đêm dài
Bao năm tù ngục mới hay tấm lòng
Sĩ phu tâm địa trắng trong
Cho dù bần tiện vẫn không gian tà
Đường đời thường lắm phong ba
Thử người hào kiệt có là cao nhân
Ai vì quyền lợi bản thân
Thì quên danh dự vong ân bội thề
Ai vì say đắm đam mê
Dễ sa cạm bẫy ê chề tiếng tăm
Đời người ngắn ngủi trăm năm
An hòa thanh thãn đêm nằm thãnh thơi
Có bao nhiêu chuyện trên đời
Không cần kể rõ với lời kém thanh
Người xưa đã dạy rành rành
Phan Trần chớ đọc Kiều Vân chớ gần
Cho nên câu chuyện ái ân
Biến thiên hồi ký thành dâm thư rồi
Xem qua góp ý mấy lời
Kính chúc Minh Cảnh an vui tuổi già.


Nam Bản Hoàng Trường
Friday, 25 September 2009, 0047

« Trả lời #31 vào lúc: Tháng Chín 25, 2009, 04:26:34 PM »


Thân ái chào Nam Bản Hoàng Trường,

Cám ơn những lời góp ý của bạn nhé . Smiley

Minhcanh
***************************

(Hồi ký, tiếp theo)

5.28. Bộ ba “cải thiện”

Miền Nam trước 1975 cũng xài chữ “cải thiện” với một nghĩa nguyên thủy của nó là làm cho cái gì đang có trở nên tốt hơn. Sau khi Việt Cộng chiếm Miền Nam, chữ “cải thiện” vẫn được dùng nhưng ý nghĩa của nó thì đã biến đổi. Họ thường dùng nó với ý nghĩa xấu nhiều hơn. Nhất là ở trong trại tù thì hai chữ “cải thiện” ghép thêm với “linh tinh” thành ra một thành ngữ mới là “cải thiện linh tinh” - đồng nghĩa với lượm lặt những gì có thể ăn được hoặc ăn trộm, lấy cắp (khoai, sắn… của trại). Ít khi chúng tôi hoặc bọn Việt Cộng dùng cả bốn chữ, mà chỉ gọi ngắn gọn là “cải thiện” thôi.

Để chuẩn bị nhổ sắn (khoai mì) trộm của trại, bọn ba người chúng tôi lập thành một nhóm, mỗi người một nhiệm vụ. Cả ba phải hoàn thành nhiệm vụ của mình ngon lành thì mới không bị bể kế hoạch. Nếu bị phát giác thì sẽ bị cùm chân trong nhà đá như chơi, giá tối thiểu là một tuần lễ, và nếu không may bị trại nâng lên thành tội “phá hoại tài sản Xã Hội Chủ Nghĩa” thì có thể phải nằm nhà đá cả tháng không chừng. Bộ ba gồm có Nguyễn Văn Vượng (Vượng sún) được giao cho nhiệm vụ làm tiền sát viên, đứng canh chừng và ra dấu tiến lùi; Nguyễn Văn Dũng (Dũng khấc) có nhiệm vụ đi thâu lượm “chiến lợi phẩm”, đem về dấu nơi kín đáo để lấy ra ăn dần mỗi ngày; tôi phụ trách công tác xung kích (nhổ trộm sắn cho vào bao rồi ém vào một chỗ để Dũng khấc tới lấy).

Nhà lô của đội tôi được cất dưới chân đồi sắn. Cửa nhà lô nhìn ra khắp khu vực canh tác của đội. Vách sau nhà lô không có cửa sổ. Vào giữa buổi lao động, đội được nghỉ giải lao 15 phút. Vì không có đồng hồ cho nên Quản giáo thường co giãn giờ giải lao, thường là 30 phút mới làm việc lại. Trong giờ giải lao, chúng tôi xúm lại chỗ nấu nước để hút thuốc lào, nghỉ ngơi hoặc tán gẫu với nhau. Còn quản giáo và hai tên công an bảo vệ thì vào nhà lô để tránh nắng, hút thuốc lào và tán gẫu với nhau cho đến khi nào hết giờ giải lao mới ra khỏi nhà lô vì chúng tin rằng ở ngoài đã có đội trưởng cùng ngồi giải lao với chúng tôi rồi.

Thời gian này, tôi thấy đồi sắn sau nhà lô đã có củ lớn. Tôi quan sát để biết thói quen của bọn Việt Cộng, sau đó bàn với Dũng khấc (phụ trách nấu nước uống cho đội) đem nồi niêu xoong chảo và đặt bếp nấu nước phía trước và cách nhà lô chừng 50 mét (hơn 150 ft), chọn vị trí nào mà từ bếp có thể nhìn thấy cửa nhà lô. Vượng sún cũng phải chọn một tảng đá nào gần ngay bếp, cũng phải nhìn rõ hoạt động trước cửa nhà lô và cũng để cho người trên đồi có thể thấy rõ mình. Tôi chuẩn bị sẵn một bao tải (loại đựng gạo 100 lbs) để hành sự.

Ngày hành sự, sau khi vừa có lệnh nghỉ giải lao, Vượng sún và tôi lẹ làng tới bếp uống nước và hút thuốc lào rồi ngồi chờ dăm ba người khác kéo đến bao quanh bếp. Tôi làm bộ vác cuốc đi cầu (chúng tôi đi cầu bằng cách tìm chỗ khuất, dùng cuốc đào một cáí lỗ đề ngồi trên đó, khi xong việc thì dùng cuốc lấp hố lại; giấy vệ sinh là bất cứ thứ lá gì ở gần chỗ mình ngồi, nếu không may gặp phải thứ lá ngứa thì ráng chịu, phải chờ đến khi nghỉ việc xuống suối tắm rửa may ra mới hết). Vượng sún làm bộ kéo bất cứ ai đó trong đội ra chỗ “đài quan sát” đã lựa sẵn, giả vờ nói chuyện với anh ta (mà chính anh ta cũng không biết rằng mình đang là cái bình phong cho Vượng sún). Miệng nói chuyện nhưng mắt Vượng sún phải luôn luôn quan sát nhà lô. Nếu thấy tên công an nào ra khỏi nhà lô thì Vượng sún chỉ cần bỏ nón xuống. Khi nào vô sự thì Vượng sún lại đội nón lên đầu. Tôi cũng luôn luôn nhìn Vượng để biết khi nào an toàn, khi nào không. Sau khi tôi rời bếp, tới chỗ mà không ai ở bếp còn thấy tôi, tôi leo lên gần đỉnh đồi phía sau và ở bên kia nhà lô. Tôi dùng tay bẻ gẫy thân cây sắn, chừa lại đoạn gốc dài chừng hai gang tay để có chỗ cầm mà nhổ gốc sắn lên. Bẻ xong một gốc, tôi từ từ đưa cây sắn sang bên cạnh và hạ nó xuống đất, đồng thời dùng sức ấn mạnh thân cây sắn xuống đất. Làm như vậy, người đứng ở xa khó có thể nhận biết có người đang hoạt động ở đấy. Rồi, tôi dùng cuốc cào cào lớp đất cứng bao quanh gốc sắn, sau đó lấy tay lay lay gốc sắn cho lỏng ra và nhổ cả chùm củ sắn lên. Đất đồi sắn không cứng và còn mầu mỡ cho nên mỗi gốc sắn có nhiều củ lớn. Cứ thế tôi nhổ chừng 5 gốc là đã được 2/3 bao tải. Nói thì lâu nhưng làm thì phải rất lẹ mới kịp. Tôi quyết đinh ngưng, cột miệng bao tải để chuyển xuống dưới. Thấy Vượng sún vẫn đứng nói chuyện bình thản, đó là dấu hiệu an toàn. Tôi kéo bao xuống chân đồi, dấu vào một lùm cây và đánh dấu để cho Dũng khấc làm phận sự của mình. Tôi vác cuốc trở về bếp mà không ai nghi ngờ gì cả. Chỉ có một người nói đùa, “Thằng cha Thái hôm nay táo bón hay sao mà đi lâu dữ vậy?” Tôi đáp lại, “Đúng là bị táo bón, bạn nào còn thuốc táo bón cho xin vài viên kẻo ngày mai mà còn bị nữa thì chắc là lòi dom ra luôn.” Vượng sún cũng bỏ “đài quan sát” trở lại bếp hút gỡ một bi thuốc lào trước khi trở ra làm việc. Tôi là người sau chót rời bếp lửa để còn chỉ chỗ ém sắn cho Dũng khấc. Cả đội trở lại chỗ làm để tiếp tục công việc bỏ dở. Công an quản giáo và bảo vệ cũng đi ra theo. Lúc này là lúc Dũng khấc hành sự (một cách ung dung). Chàng thu dọn nồi niêu xoong chảo cho gọn ghẽ, chỉ để đống lửa cho đội hút thuốc lào. Xong xuôi, chàng quẩy quang gánh đi kiếm củi như thường lệ để dùng cho ngày hôm sau. Tuy nhiên, lần này chỉ có vài cọng củi để ngụy trang, còn bên dưới hai sọt là sắn mà tôi vừa nhổ lên. Chàng đem về dấu vào một nơi kín đáo để lấy ra ăn dần. Mỗi ngày Dũng khấc lấy ra mấy củ, lột vỏ, bỏ vào lon gô luộc sẵn. Tôi và Vượng sún, tùy theo tình hình, tới bếp lấy ra ăn. Một lần nhổ trộm như vậy có thể ăn được vài ba tuần lễ cho cả ba người bọn tôi. Mà, đây cũng là lần duy nhất. Chúng tôi không dám tiếp tục vì rất nguy hiểm như câu tục ngữ ta thường nghe, “Đi đêm lắm thì thế nào cũng có lần gặp ma.”


5.29. Những ngày chót ở Vĩnh Quang B


Thấm thoắt chúng tôi đã ở Vĩnh Quang B được hơn hai năm rồi, đã trải qua nhiều cảnh sống tù đầy ở đây, đau khổ và buồn phiền nhiều hơn là vui. Chúng tôi cũng đã “lì đòn” rồi, cứ để cho con tạo xoay vần, lúc nào đùa giỡn được với bạn bè thì cứ đùa giỡn, không còn ngày đêm trông mong ngày về với gia đình như vài ba năm đầu nữa. Chúng tôi cũng thừa biết rằng Việt Cộng không bao giờ giam giữ tù ở một chỗ nào lâu vì chúng sợ rằng ở lâu một nơi sẽ tạo cho tù nhân quen biết nhau, quen đường đi nước bước thì dễ có những vụ trốn trại hoặc chống đối v.v…Thời gian hơn hai năm đã đủ để chúng chuyển chúng tôi đi nơi khác với mục đích xào xáo lại để tách rời những mối liên hệ chặt chẽ đã hình thành trong chúng tôi.

Chừng một tháng trước ngày chuyển trại, chúng tôi thấy đã có những dấu hiệu đó rồi: Đội làm mộc (thường hay có những cán bộ nhờ đóng đồ riêng cho cá nhân mình như tủ nhỏ, bàn, ghế, rương) bỗng nhiên nhận được những yêu cầu làm cho xong càng sớm càng tốt, trễ lắm là vào ngày D. Đội nhà bếp thì kho gần hết gạo mà không thấy chở đến thêm. Đội trồng rau (Việt Cộng gọi là rau xanh) thì không thấy kế hoạch trồng thêm những thứ mà lẽ ra đã tới thời vụ phải trồng, chỉ phải vun bón tưới tắm cho những thứ đang có mà thôi. Các đội canh tác cũng vậy, chỉ còn phải lo công việc làm cỏ, vun xới cho những loại cây đang trồng, thỉnh thoảng một đội được giao công tác đào sắn về cho trại ăn. Những anh có hoa tay, thường hay được nhờ vả cưa/đục/khắc những con rồng, con phượng trên những cái lược, cái vòng đeo tay, cũng bị hối thúc làm cho xong trước ngày D. Ngoài ra, qua những câu chuyện mà chúng tôi bất chợt nghe được từ bọn công an nói với nhau, chúng tôi đoán rằng sẽ có chuyển trại nhưng không biết đi đâu.

Còn chừng một tuần lễ trước khi chuyển trại thì sự việc dường như đã công khai. Chúng tôi chuẩn bị để di chuyển. Đa số chúng tôi bây giờ đồ đạc, nồi niêu xoong chảo khá rủng rỉnh vì có thăm nuôi, do đó chúng tôi phải chuẩn bị đòn gánh để gánh, chứ không thể đeo trên lưng một cái ba lô như trước đây. Riêng tôi ít đồ nhưng vì có cái rương phải mang theo cho nên cũng phải gánh chứ không thể đeo rương sau lưng được. Đội tôi đi lao động ở ngoài nên kiếm đòn gánh rất dễ. Anh Vũ Đức Giang (thày dạy Anh Văn cho tôi) thuộc đội trồng rau, anh chỉ làm việc bên ngoài hàng rào trại cho nên không thể kiếm đòn gánh được. Anh Giang nhờ tôi kiếm cho anh một cái đòn gánh để chuẩn bị lên đường. Tưởng cũng nên nói thêm là nhờ có anh Giang mà tôi luôn được ăn một vài loại rau thơm mà anh trồng riêng. Và, nhất là thời gian trại trồng rau diếp, tôi không phải ăn rau diếp tưới phân người còn tươi với đầy giòi bọ bám trên lá/kẽ lá mà nhà bếp rửa không kỹ. Anh Giang trồng riêng mấy cây rau diếp và chỉ tưới bằng nước suối thôi. Cứ vài ngày anh lại đưa về một ít đủ để hai thày trò/anh em ăn với nhau.

Một buổi sáng mà chúng tôi chờ đợi đã tới. Sau kẻng tập họp đi lao động, thay vì chúng tôi ra sân ngồi chờ xuất trại thì chúng tôi thấy bọn áo vàng, cả quản giáo và bảo vệ, xuống ngay trước cửa từng buồng và ra lệnh “mang hết đồ đạc ra kiểm kê” (chúng tôi thường gọi là bầy hàng). Đây là dịp chót để cho những tên quản giáo có lòng tham (mà hầu hết là tham) hốt hụi chót: Gặp những cái lược, cái vòng có trạm trổ rồng phượng, mà một vài anh làm để tặng vợ con, chúng tịch thu với lý do, “Đây là đồ kim khí, các anh không được phép giữ.”

Khám đồ xong, chúng đọc danh sách, những người nào có tên thì đứng riêng ra một bên. Danh sách cũng khoảng ½ nhân số của bọn tôi. Chúng ra lệnh cho những người đó xếp thành hàng và dẫn ra khỏi trại, đi đâu không biết. Phân nửa còn lại, chúng phân chia tạm thời thành từng đội và chỉ định mỗi đội vào một buồng. Tôi thuộc thành phần ở lại nhưng biết rằng chúng tôi cũng sẽ đi trong một vài ngày sắp tới.

Và đúng như dự đoán, một buổi sáng, hai ngày sau, chúng tôi được lệnh chuẩn bị di chuyển, lần này không có khám đồ nữa. Khi đã sẵn sàng, chúng tôi được dẫn ra khỏi trại, không có xe chở mà phải đi bộ. Do đó chúng tôi đoán rằng chúng tôi được đưa ra trại Vĩnh Quang A vì trại Vĩnh Quang A chỉ cách chúng tôi gần một giờ đi bộ. Thôi nhé vĩnh biệt Vĩnh Quang  B.

Chương 6
Trại Vĩnh Quang A, huyện Tam Đảo,
tỉnh Vĩnh Phú 
6.1. Những ngày đầu ở Vĩnh Quang A

Trại Vĩnh Quang có ba phân trại, được đặt tên là A, B, và C. Tôi có nghe bọn tù hình sự nói với nhau về Trại C một vài lần nhưng chưa nghe bọn công an chính thức nói ra điều ấy. Hiện nay chỉ còn lại hai Trại A và B mà thôi.

Trong hai trại thì A là trại chính, cơ quan đầu não của trại nằm tại đây. Ai muốn xin giấy tờ xác nhận điều gì, phải tới Trại A để lấy chữ ký và con dấu của trại mặc dù chồng con đang bị giam giữ ở Trại B. Ngày vợ tôi ra Trại B thăm tôi, cần xin chữ ký và con dấu xác nhận trên đơn “Đồng ý cho bán nhà” của tôi, Trại B không có quyền ký và chỉ dẫn cho vợ tôi phải mang đơn ra Trại A. Vì vợ tôi chỉ đi có một mình và cũng không biết đường đi Trại A nên đành bỏ cuộc.

Trại A nằm trên một khu đất rộng, nhà cửa xây bằng gạch và mái lợp ngói. Xung quanh trại có tường gạch cao 2 mét (7 ft). Xung quanh mỗi buồng nhốt tù cũng có tường gạch cao 2 mét. Trại A cũng vừa có chừng một nửa nhân số chuyển đi nơi khác. Nhóm Trại B của chúng tôi tới đây để lấp vào chỗ trống đó. Chúng tôi được chia ra thành từng đội, mỗi đội ở vào một buồng. Đội tôi hơn 90% là dân Trại B chuyển sang, chỉ vài ba người cũ của Trại A nhập chung vào mà thôi, trong số đó tôi chỉ nhớ được một người là anh Ng. Q. Ngọ. Anh Ngọ được trại giao cho làm đội trưởng.

Ngọ là thiếu tá, thuộc loại chịu chơi. Ngọ được chọn làm đội trưởng một cách ngẫu nhiên, không dựa theo tiêu chuẩn nào cả. Bọn Việt Cộng đã có kế hoạch đưa hết tù Miền Nam đi nơi khác một ngày gần đây cho nên chúng không cần phải tuyển lựa những “thành phần tốt” để giao chức vụ. Anh Ngọ nằm trong số đó. Ngay buổi tối đầu tiên sinh hoạt đội, anh Ngọ nói với mọi người rằng, “Anh em mình cùng cảnh ngộ, nên đùm bọc nhau mà sống, xin đừng ai đâm sau lưng chiến sĩ, ở đội này không có đất sống cho mấy cây ăng ten đâu.” Chừng tuần lễ sau, Ngọ bị trại gọi lên hạch hỏi về lời tuyên bố của anh trước đội. Ngọ trả lời rằng, “Tôi không kêu gọi ai chống đối nhà nước cả, mà chỉ nhắc nhở anh em đoàn kết với nhau để có hoà khí trong đội, tôi nghĩ tôi không có lỗi gì cả, nếu cán bộ thấy tôi bất lực thì xin thay người khác.” Rồi Ngọ trở về đội tiếp tục công việc và chẳng thấy trại cho ai thay thế cả. Sau này Ngọ tìm ra người báo cáo là X. heo. Tôi cũng không hiểu tại sao mà đi đâu tôi cũng gặp X. heo, từ hồ Thác Bà, tới Vĩnh Quang B, rồi bây giờ Vĩnh Quang A.

Anh Ngọ hiện giờ ở cách tôi 15 phút lái xe. Ngọ có cái hay là biết rất nhiều chuyện để nói, nói hoài không hết,  nhờ vậy mà chúng tôi “mua vui cũng được một vài trống canh” (Nguyễn Du). Ngọ đang nghỉ hưu và thú vui hằng ngày là lên internet kiếm những hình ảnh đẹp và lạ để chuyển cho bạn bè cùng thưởng thức. Tôi cũng là một khách hàng thường xuyên của Ngọ, có ngày nhận cả 6-7 e-mail xem mệt nghỉ.

Ngoài ra, anh Ngọ rất chịu khó tập bơi để giữ gìn sức khỏe. Ngọ cho biết mỗi ngày phải dành ra hai giờ để tập bơi. Đấy là nói về “bơi nước”, còn “bơi cạn” thì sức mấy mà tôi dám hỏi, lãnh cái búa sao? Nói theo kiểu Việt Cộng, thì sẽ bị anh Ngọ phang cho một câu, “Xen vào nội bộ của các nước khác” ngay. Thôi, “em chả” là an toàn xa lộ nhất, trừ khi anh Ngọ “thành thực khai báo với Cách Mạng.” Sau này về Nam Hà, tôi cũng ở cùng buồng với anh  một thời gian.

Vài tuần lễ đầu, đội tôi làm mấy công việc lặt vặt, chủ yếu là đi làm cỏ ở mấy đồi chè (trà) nằm phía trước mặt trại. Trại có một đội chuyên môn sao trà để kinh doanh. Tôi được chỉ định phụ tá cho anh Hiếu “hòn” nấu nước uống cho đội ở ngoài bãi. Công việc của tôi là đi kiếm củi, nhân tiện hái (thoải mái) ít lá chè đem về nấu nước uống cho đội.

Những năm tháng trước đây chúng tôi thường dùng lá chùm bao nấu uống thay cho trà. Bây giờ có chè tươi để nấu uống thì khoái lắm. Tôi đã từng có kinh nghiệm về việc uống nước chè tươi vì là dân “Bắc Kỳ ri cư 54” cho nên tôi chỉ uống ít thôi. Trong thời gian sinh sống tại Miền Nam, tôi vẫn được mẹ tôi cho uống nước chè tươi mà bà cụ hãm để uống hằng ngày. Hãm chè khác với nấu nước chè. Để hãm nước chè, mẹ tôi rửa sạch một ít lá chè tươi đủ cho một bình tích, sau đó vò nát lá chè ra rồi cho vào bình tích, nấu nước sôi đổ vào bình tích chừng 1/3 dung tích của bình rồi lắc lắc cho đều, sau đó gạn bỏ hết số nước ấy đi, công việc này gọi là làm lông chè, sau đó mới đổ nước sôi vào bình cho đầy và ủ trong một cái giỏ đan bằng tre có lót bông để giữ nhiệt. Ủ chừng 15-20 phút là có thể rót ra ly uống được rồi. Chè hãm uống ngon hơn chè nấu nhiều nhưng phải tốn công một chút. Tôi báo động cho những bạn người Nam, chưa có kinh nghiệm uống nước chè tươi, là không nên uống nhiều trong lúc bụng đói kẻo bị say đấy. Nhưng các bạn ấy gặp nước chè ngon, cứ uống thả giàn cho đã thèm mà không cần nghe lời báo động. Chỉ một lúc sau khi uống là mấy anh bị say ngất ngư, có anh còn bị ói mửa nữa vì buổi sáng bụng còn đói mà uống nhiều thì tránh sao khỏi say. Từ lần thứ hai trở đi, không còn ai bị say nước chè nữa. Tôi và Hiếu “hòn” có ý nấu cho thật đầy thùng để các bạn có thể chứa vào lon gô đem vào trại dùng.

Sau khi kiếm củi đủ dùng cho một ngày nấu nướng, tôi vẫn làm bộ đi kiếm củi nhưng đúng ra là lên đồi chè, hái những búp chè non đem về bếp, sao cho khô để dùng cho những ngày sau này. Trà tôi sao không đúng phương pháp cho nên ít thơm ngon như trà sao ở trong trại. Tuy nhiên, có còn hơn không, những ngày nghỉ cũng có trà để nhâm nhi cho quên sầu đời.

Thời gian ở Vĩnh Quang A, chúng tôi còn được uống trà móc câu, trà đá lửa, do đội sao trà sản xuất. Muốn có trà chỉ cần móc nối với một người trung gian (tù hình sự) qua việc đồi chác quần áo, thuốc tây, hoặc mua bằng tiền là có ngay. Trại A, có một người tù hình sự (có lẽ được sự chấp thuận ngấm ngầm của cán bộ trại) chuyên lo về việc giao dịch đổi chác đồ đạc của tù với dân chúng sống gần trại. Vì thế chúng tôi muốn gì có nấy miễn là có tiền hoặc có đồ đạc hoặc thuốc tây.

Uống trà vào những ngày nghỉ lao động cũng là một cái thú, một cách quên đi tình trạng tù đầy của mình, ít là trong chốc lát. Buổi sáng sớm ngày nghỉ việc, bắn một bi thuốc lào ba số tám (888) rồi chiêu một hớp nước trà nóng thì hết sẩy. Có nhiều anh phê quá, sùi bọt mép, lăn kềnh ra nền nhà. Nhưng vậy mà vẫn không chừa đâu, vì thế mới có câu, “Nhớ em như nhớ thuốc lào, đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.”




6.2. Người khách lạMột buổi xế trưa ngày chủ nhật đầu tiên ở Vĩnh Quang A, một anh thuộc nhóm người cũ của Trại A đến buồng tìm gặp tôi. Tôi chưa từng quen biết anh này cho nên cũng hơi thắc mắc. Chắc anh cũng biết vậy cho nên anh lên tiếtrước, sau cái bắt tay xã giao:- Tôi là cháu họ xa của anh PBV và gọi anh V. bằng chú, xin lỗi có phải anh là Thái, bạn của anh V. không?- Đúng rồi, có chuyện gì liên quan đến anh V. không?
- Chả là, khi anh V. còn ở đây với tôi, anh rất hay nói về anh và tỏ ra quí anh lắm. Tôi thắc mắc không hiểu anh có cái gì đặc biệt mà anh V. lại thích anh như vậy. Tôi vừa mới biết là anh có mặt trong nhóm người mới tới cho nên tôi muốn đến gặp anh để xem mặt mũi anh ra làm sao, thế thôi.
- Bây giờ thì anh mãn nguyện rồi chứ? Tôi cũng có đầy đủ đầu, mình và chân tay như người ta thôi mà.
- Tôi còn có một thắc mắc nữa là, tại sao hồi đó anh không tặng cho cô H. (em gái anh V.) một cái ba lô đeo trước ngực là mọi chuyện xong xuôi ngay. Tôi chắc chắn là ông già cô ấy còn phải năn nỉ để anh cưới con gái ổng.
- Đối với đàn bà con gái, tôi là loại thỏ đế anh ạ, chưa gì đã đỏ mặt lên rồi. Vả lại, với H. thì tôi nghĩ rằng mình nên giữ gìn cho nàng, chờ đến ngày cưới cũng chẳng muộn gì cơ mà.
- Nếu như anh cưới cô ấy thì bây giờ cô ấy đâu phải cảnh goá bụa!

Nói xong, anh với tay lấy cái điếu cày, chuẩn bị bắn một bi thuốc lào.

Một khúc phim dĩ vãng hiện ra trong đầu tôi…

Ngày ấy, nhà tôi và nhà V. ở gần nhau. V và tôi thường đi đá banh với nhau. Chúng tôi học ngang lớp nhưng khác trường và khác ban. Anh V. ban A, tôi ban B cho nên môn toán của tôi trội hơn V. Vì thế tôi thường được em gái anh V. nhờ giải cho những bài toán khó. Cứ thế riết rồi chúnh tôi thân nhau. Mẹ tôi và mẹ H. thấy vậy cũng muốn cho hai đứa nên vợ nên chồng. Ngày tôi sắp ra trường, mẹ tôi muốn cho chúng tôi làm đám cưới trước khi ra đơn vị. Mẹ tôi bảo, “Đi đâu có vợ có chồng, chứ cứ độc thân mãi rồi mày theo bè theo bạn hư thân đi.”  Tôi cũng đồng ý vì lúc đó H. cũng vừa đậu xong Tú Tài 2. Một hôm về phép, tôi được biết là bố của H. không muốn cho chúng tôi cưới sớm vì “Nó chưa có công danh sự nghiệp gì, lấy gì mà ăn?”  Tôi bị chạm tự ái nên tôi “nghỉ chơi” luôn.

Bắn xong bi thuốc lào, sảng khoái rồi, và anh thấy đã thoả mãn sự tò mò rồi, anh bắt tay từ giã. Từ đó chẳng bao giờ tôi có dịp gặp lại anh vì chúng tôi ở hai buồng cách nhau rất xa. Vả lại, thời gian tôi ở Vĩnh Quang A chỉ chừng sáu tháng thôi. Thậm chí, lúc anh về, tôi cũng quên chưa hỏi tên anh là gì nữa. Chắc chắn anh cũng về Nam Hà cùng chuyến với tôi nhưng phân tán mỗi người mỗi buồng cho nên chúng tôi cũng quên nhau luôn.

Anh ta đi rồi, dòng hồi tưởng của tôi lại tiếp tục. Mẹ H. và H. tự nhiên thấy tôi thay đổi thái độ thì rất thắc mắc, muốn biết rõ lý do thì tôi cho biết thẳng là vì bố của H nói như thế…như thế… Gần ba năm sau tôi cưới vợ, còn H thì lấy chồng sau khi con gái đầu của tôi đã được một tuổi. Lúc chưa cưới, thỉnh thoảng cô vẫn ghé nhà tôi, bồng ẵm con gái tôi. Tôi rất mừng khi nghe tin cô lấy chồng và người chồng của cô lại hơn tôi đủ mọi mặt, từ kiến thức đến cấp bậc và chức vụ. Bây giờ thì tôi biết chắc tôi hơn chồng của H. có một cái, đó là sống dai. Chồng của H. đã bị coi như là mất tích trong lúc di tản năm 1975. Vì thế mà người cháu họ anh V. mới nói, “Nếu như anh cưới cô ấy thì bây giờ cô ấy đâu phải cảnh goá bụa!”

Tôi được thả, chừng một tháng sau thì H. biết tin. Vì thế cô nhờ thằng cháu chở đi “thăm mộ song thân” nhân tiện ghé thăm tôi (đường vào nghĩa trang đi ngang qua nhà tôi mà). Sau đó chừng một tháng, tôi được tin mấy mẹ con H. đã vượt biển, tới Phi bình an.

Năm 1996 (?), anh V. cho tôi biết là H. đã tái giá. Một lần nữa tôi lại mừng cho H. vì bây giờ cô lại có người cùng chia sẻ vui buồn của cuộc sống.


6.3. Chăn trâu
Ai bảo chăn trâu là khổ,
Chăn trâu sướng lắm chứ...

Bài ca dao “Chăn trâu” mà tôi, và chắc là nhiều người nữa, đã thuộc nằm lòng. “Sướng” có thể là đúng với bọn trẻ mục đồng thời xưa cơ, nhưng không đúng với một người tù đi chăn trâu cho trại. Chả thế mà anh Phạm Dư Chất đã tỏ ra không thích khi bị chỉ định đi chăn trâu.

Sau vài tuần lễ làm công việc tạp dịch thì đã tới thời vụ trồng lúa nước cho trại. Đội tôi lãnh nhiệm vụ này, đội lập ra một tổ cầy bừa. Cầy bừa thì phải có trâu. Mỗi buổi sáng, một người trong tổ cày bừa đi lãnh trâu tại chuồng, đem ra ruộng làm việc. Buổi trưa, người và trâu được nghỉ. Cả đội về trại ăn cơm, còn trâu thì được trao cho một người dẫn đi ăn cỏ. Lúc này là lúc làm việc của người chăn trâu.

Trước giờ nghỉ chừng 15 phút, người chăn trâu báo cáo ra cổng, tới chỗ đội đang làm việc, chờ khi đội nghỉ thì tới nhận trâu và dắt nó đi ăn cỏ trên những bãi cỏ gần trại, trong khoảng bán kính chừng 1,5 km. Tới giờ làm việc buổi chiều, khi đội ra tới nơi thì giao trâu cho tổ cày bừa và trở vào trại nghỉ. Buổi chiều khi gần tới giờ nghỉ, người chăn trâu lại báo cáo ra cổng, tới chỗ đội đang làm việc, nhận trâu từ tổ cày, dắt trâu đi ăn chừng 30-45 phút rồi đưa trâu về chuồng nhốt lại là xong một ngày làm việc của người chăn trâu.

Người chăn trâu không có giấc ngủ trưa. Vì thế mà qua một ngày chăn trâu, anh Chất tỏ vẻ chán nản, hỏi xem có ai muốn đổi việc này với anh không. Tôi nhận lời đổi việc với anh vì tôi không có thói quen ngủ trưa. Ngoài ra, tôi nghĩ, một mình ở ngoài đồng buổi trưa cũng có cái lợi cho tôi: Vừa tránh phải lội xuống ruộng để bị đỉa cắn; đỉa ở đây nhiều như rươi mà tôi lại sợ đỉa mặc dù thời nhỏ cũng đã từng sinh sống ở miền quê; vừa có thời giờ đi kiếm rau cỏ để tăng cường cho bữa cơm trong ngày. Lại có thời giờ ngồi đọc báo mà không bị quấy rầy bởi những tiếng ồn xung quanh. Việc đổi công tác với nhau không gặp trở ngại. Anh Ngọ (đội trưởng) đồng ý miễn là có người phụ trách chăn trâu thôi. Tôi bắt đầu nhận công tác vào ngày hôm sau.

Buổi trưa đầu tiên, không có gì trục trặc nhưng buổi chiều thì có chuyện ngay. Nhận trâu xong, tôi cho nó ăn cỏ chừng 30 phút, sau đó dắt nó về chuồng. Trên đường đi, có vài cái ao nhỏ, con trâu vụt chạy ngay xuống giữa ao và đầm mình ở đó. Tôi làm đủ cách nó vẫn không lên. Con trâu dang nắng cả ngày, bây giờ gặp nước thì nó thèm đầm mình dưới nước là phải. Tôi dùng những cục đất ném nó, chẳng khác gì gãi ngứa cho nó. Nó còn ngoảnh đầu lại nhìn tôi như thách thức. Lội xuống ao đuổi nó thì phải cởi bỏ quần áo, và tôi lại sợ đỉa cắn, mà đã chắc gì nó lên bờ cho. Tôi đành chịu thua nó, chờ cả gần một tiếng, khi cu cậu đã đủ đô, tôi mới dùng đất ném để thúc nó lên. Cuối cùng thì tôi cũng đưa được nó về chuồng nhốt lại. Tôi thở phào nhẹ nhõm vì cũng còn kịp giờ về trại ăn cơm trước khi khóa cửa buồng. Những lần sau, rút kinh nghiệm, khi dắt trâu về chuồng, tôi phải cho nó đi đường vòng, tránh đi gần mấy ao nưóc.

Một hôm, tôi gặp một thằng bé nhà ở gần chỗ tôi thả trâu. Tôi gọi nó tới, cho nó bắn một bi thuốc lào ba số tám, đợi cho cu cậu hết phê, tôi đem chuyện con trâu “ba gai” (ba gai là tiếng Pháp đã Việt hoá từ lâu; pagaille =hỗn độn nhưng dùng như tiếng lóng trong quân đội Liên Hiệp Pháp thì có nghĩa là bướng bỉnh, vô kỷ luật) ra kể và hỏi xem nó có đòn phép nào trị trâu không. Nó bảo rằng, “Dễ thôi nhưng chú phải cho cháu hút thuốc lào thì cháu mới nói.” Con nít ở vùng quê ngoài Bắc, cỡ 10 tuổi là biết hút thuốc lào rồi, nhìn nó ngồi hút thuốc lào còn sành điệu hơn cả bọn tôi nữa. Tôi bảo nó, “Gì chứ thuốc lào thì được, mỗi ngày ra gặp chú, chú sẽ cho hút, chứ không cho cháu mang về nhà đâu.” Tôi nói vậy là có ý dụ nó ra gặp tôi mỗi ngày để có thể nhờ vả nó mua dùm đồ ăn cho tôi hoặc cho các bạn của tôi khi cần. Nó nghe tôi nói vậy, chịu liền và bảo tôi, “Chú phải làm thế này…, thế này…là trị được nó ngay.”  Tôi hứa, “Sau hai ngày mà chú trị được trâu thì chú sẽ thưởng cho cháu mười bi thuốc lào ngay một lúc, sau đó mỗi ngày chú cho cháu hút một bi nữa.”

Buổi chiều ngày hôm sau, khi đi ra nhận trâu, tôi kiếm một cái gậy tre to cỡ bằng cái cán cuốc thay vì cái roi tre nhỏ như thường lệ. Cho trâu ăn chừng 30 phút rồi dẫn trâu về chuồng. Dĩ nhiên là tôi vẫn phải cho nó đi đường vòng để tránh xa mấy cái ao. Cho trâu vào chuồng xong, tôi cột sợi dây dắt trâu
cho cái mũi nó gần sát với cột để tránh cho nó phá chuồng chạy ra ngoài.

Các cụ ta ngày xưa đã tài tình khám phá ra một điểm yếu của trâu, bò. Đó là cái vách ngăn giữa hai lỗ mũi của chúng. Một khi bị đụng vô cái vách ngăn đó, trâu/bò cảm thấy đau đớn. Vì thế các cụ mới xỏ dây dắt trâu/bò qua cái vách ngăn mũi, nếu trâu đi theo sự điều khiển của người dắt thì nó không bị đau. Ngược lại, người chăn trâu chỉ việc giật giật sợi dây cho nó đi theo hướng mình muốn. Con trâu không muốn bị đau thì phải đi theo sự điều khiển của người chăn. Vì thế sau này mới có thành ngữ “bị xỏ mũi” để chỉ mấy ông chồng bị vợ điều khiển.

Cột trâu xong xuôi, đứng ngoài chuồng, cầm cây gậy đánh vào sừng trâu, lần lượt từ sừng nọ sang sừng kia. Mỗi lần đánh, tôi hô đủ cho trâu nghe thôi “Chết nghe mày”. Tôi không dám hô lớn vì chuồng trâu ở gần nhà lô của quản giáo đội tôi. Tôi nện cho mỗi sừng chừng vài chục cái rồi trở về trại. Sừng trâu tuy cứng nhưng sức đánh của cậy gậy dội xuống chân sừng (chỗ giáp với xương sọ) làm cho nó đau đớn. Cứ thế tôi đánh nó hai ngày liền.

Sang chiều ngày thứ ba, tôi muốn thử xem kết quả của hai ngày huấn luyện ra sao. Hôm nay, chỉ sau 5 phút cho ăn cỏ, tôi dẫn nó về chuồng trên đường đi qua mấy cái ao. Tôi cho nó ăn cỏ 5 phút vì phải trừ hao, sợ rằng nó lại phóng xuống ao, đầm mình, thì khi nó trở lên bờ về chuồng, tôi vẫn không phải vào trại trễ như lần trước. Đi ngang qua ao, cu cậu có vẻ như muốn phóng xuống ao, tôi cầm dây giật giật cho mũi nó hướng xa ao nước và miệng tôi hô “chết nghe mày”. Chỉ cần nghe tiếng “chết nghe mày” là nó bỏ ngay ý định phóng xuống ao và ngoan ngoãn đi về chuồng. Tuy hôm nay không ba gai nhưng tôi vẫn nện thêm cho nó một trận như hai hôm trước rồi mới trở vào trại.

Thấy cách dậy trâu có kết quả, trưa hôm sau gặp thằng bé, tôi cho nó 10 bi thuốc lào như đã hứa. Tôi nói:

- Chú chưa biết tên cháu là gì nhưng điều đó không cần. Kể từ nay chú gọi tên cháu là thằng cu Đinh.
- Huh
- Thằng cu có nghĩa là thằng bé, Đinh là tên của cháu vì chú coi cháu như là con cháu của vua Đinh Tiên Hoàng của ta hồi xửa hồi xưa ấy mà. Cháu có biết vua Đinh Tiên Hoàng không?
- Cháu không biết.
- Thế cháu có biết ông Đinh Bộ Lĩnh không?
- Cháu không biết.
- Thế cháu học lớp mấy rồi?
- Cháu học lớp 4
Tôi nghĩ thầm, nó học lớp bốn mà chẳng biết gì về Vua Đinh Tiên Hoàng thì cũng chẳng lạ vì bây giờ “bác và đảng” chỉ chú tâm nhồi nhét vào đầu bọn trẻ cái chủ nghĩa Cộng Sản chết tiệt, Các Mác – Lê Nin và các anh hùng tưởng tượng như Lê Văn Tám v.v…mà thôi.

Tôi bèn giảng cho nó rằng ông Đinh Bộ Lĩnh hồi còn nhỏ đi chăn trâu, ông thường dùng bông lau làm cờ và chia bọn trẻ ra làm hai phe đánh trận giả. Ông và các bạn của ông đều cỡi trâu xung trận. Do đó ông có tài dậy trâu lúc nào tiến, lúc nào lùi, lúc nào húc phải, lúc nào húc trái và kết luận, “Cháu cũng biết cách dậy trâu như đã chỉ cho chú, vậy thì cháu xứng đáng làm con cháu của vua Đinh Tiên Hoàng rồi đó, nhớ từ nay chú gọi cháu là thằng cu Đinh nghe chưa?” Nó hỏi:
- Thế tên chú là gì?
- Chú chăn trâu thì cháu cứ gọi chú là chú Trâu nghe chưa?

Thằng cu Đinh có vẻ ghiền thuốc lào ba số tám của tôi rồì. Trưa nào nó cũng phải ra gặp tôi để được hút một điếu thuốc lào. Xin đừng kết án tôi là dụ dỗ con nít vào đường nghiện ngập, thì oan cho tôi lắm. Con trai miền quê ngoài Bắc, cỡ 9-10 tuổi là đứa nào cũng biết hút thuốc lào rồi. Người ta coi đó là chuyện hiển nhiên thôi, chứ không như ở Mỹ bây giờ dưới 18 tuổi là không được phép hút thuốc.

Một buổi trưa, khi cu Đinh thấy tôi dắt trâu ra ăn cỏ, nó đi về hướng tôi và dường như nó đang kéo một vật gì hơi nặng theo nó. Khi tới cách tôi khoảng 50 mét (chừng 160 ft), nó nói lớn, “Chú Trâu lại đây xem cái này này.” Tôi đi tới gần nó thì mới biết nó kéo một con rắn dài hơn một sải tay, mình rắn lớn bằng cái cán cuốc. Tôi không biết nó là loại rắn gì nhưng biết nó là thứ không độc vì tôi còn nhớ hồi còn nhỏ học khoa học thường thức, được dậy cách phân biệt rắn độc và rắn không độc bằng cách nhìn mấy hình tam giác trên đầu rắn. Rắn độc có hình tam giác nhỏ, còn loại không độc thi có hình tam giác lớn. Mà, độc hay không độc cũng chẳng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó, cứ chặt bỏ đi khúc đầu chừng 10 cm (4 inches) là an toàn rồi vì hạch nọc độc của rắn nằm dưới chân răng nanh của nó. Cu Đinh bảo tôi:

- Cháu mới đánh được nó lúc nãy, cháu cho chú đấy, chú ăn được thịt rắn không?
- Thịt quỉ chú còn ăn được, chứ đừng nói rắn. Để đấy cho chú, bây giờ làm một điếu thuốc lào cho lại sức rồi nói chuyện sau.

Gì chứ hút thuốc lào là cái mà nó đang thèm nhỏ dãi ra, làm gì có chuyện từ chối. Nó hút xong, tôi bẹo thêm cho nó độ chừng mươi bi nữa để trả công đánh rắn cho tôi.

Khi tới giờ làm buổi chiều, tôi dắt trâu lại giao cho đội rồi đem rắn về trại. Hôm nay ở buồng còn có anh Trần Thái Đẹp nghỉ bệnh. Anh Đẹp thấy con rắn thì sáng mắt ra vì anh là dân Miền Nam chính hiệu và anh lại mê ăn thịt rắn. Anh Đẹp nói với tôi, “Tôi có đậu xanh với một ít gia vị, để tôi nấu cháo rắn mình ăn nghe.” Tôi bằng lòng ngay và giao rắn cho anh làm. Phải công nhận anh Đẹp thật là tay thiện nghệ làm thịt rắn. Mới quay đi quay lại là đã thấy con rắn bị lột da trắng hếu rồi. Chúng tôi đồng ý với nhau là đợi khi nào vào buồng thì mới đem cháo rắn ra để nhóm tụi tôi (bốn, năm người) cùng ăn. Anh Đẹp còn cẩn thận hâm cho nồi cháo nóng lên trước khi bưng vào buồng, chờ giờ khoá cửa.

Đây là lần đầu tiên (mà cũng có thể là duy nhất) trong đời, tôi được ăn cháo rắn. Mà lại ăn trong tình trạng bụng đói, cơ thể đang thiếu nhiều chất dinh dưỡng cho nên tôi có cảm giác là hương vị thơm ngon tuyệt vời. Bây giờ nếu có ai mời ăn cháo rắn, chưa chắc tôi đã dám ăn. Đúng là “no ra (kiêu) ngạo” như trước đây mẹ tôi thường la mỗi lần tôi chê món ăn nào mà tôi không thích.

Năm 2000, tôi có số điện thoại của anh Đẹp khi anh đang ở Denver. Tôi đã nói chuyện với anh được một lần. Sau này anh đổi số điện thoại thì mất liên lạc. Mới đây, tháng 12/2008, khi nói chuyện với anh Dương Ngọc Phú (cách nhà tôi chừng 25 phút lái xe), anh Phú cho biết là anh mới gặp anh Đẹp ở Houston. Anh Đẹp vẫn ở Denver nhưng về Houston chơi mươi ngày. Vì thế tôi lại có số điện thoại mới của anh và tôi gọi ngay cho anh. Hai chúng tôi chuyện trò với nhau rất lâu. Giọng nói của anh vẫn còn đầy đủ công lực. Anh cho biết tóc anh mới chỉ lốm đốm vài sợi bạc thôi; răng cỏ vẫn còn y nguyên. Qua cuộc chuyện trò, tôi thấy anh vẫn còn yêu đời lắm, không có dấu gì là bi quan yếm thế cả. Cũng mừng cho anh.

Nhân tiện, tôi xin nhắc lại vài kỷ niệm với anh Đẹp:

Ngày còn ở Vĩnh Quang B, khi vợ anh ra thăm, tôi nhờ anh chuyển lậu một lá thư cho vợ tôi. Nhờ anh nói với chị là khi về Sài-Gòn thì bỏ thư vào phong bì gửi cho vợ tôi. Anh vui vẻ nhận thư mặc dù anh thừa biết rằng, khi ra ngoài cổng trại, nếu bị phát giác là có mang thư lậu thì anh sẽ lãnh hậu quả. Nhẹ, thì bớt giờ gặp thân nhân. Nặng, thì không được gặp mặt mà chỉ được nhận đồ tiếp tế thôi.

Khi tôi được thả về, vợ tôi kể lại là vợ anh Đẹp, mặc dù ở xa nhà tôi nhưng đã tới tận nhà gặp vợ tôi mà trao thư, chứ không gửi qua bưu điện như tôi đã dặn. Chị còn cho biết địa chỉ và dặn khi nào có thời giờ ghé nhà chị để biết ngày nào chị ra thăm anh Đẹp lần sau, chị sẵn sàng mang dùm cho một ít đồ. Vài tháng sau vợ tôi ghé nhà thì hỡi ôi, chị đã qua đời vì bạo bệnh!

Ở trong trại, ít tháng sau, anh Đẹp cũng được tin vợ anh qua đời nhưng tôi không thấy anh biểu lộ sự đau buồn gì cả. Tôi sực nhớ có một câu nói của ai đó, rằng “Đời người đàn ông có hai lần vui: một lần là khi cưới vợ và một lần khi vợ chết”. Xin quí vị nữ lưu nếu có đọc bài này thì đừng chửi tôi là phường “thất nhân thất đức” nhé. Tôi không sáng chế ra câu này đâu. Có lẽ câu này do một người nào đó có vợ thuộc loại bà chằn chế ra. Đó là ở Việt Nam thời xưa cơ, còn bây giờ, nhất là ở Mỹ, nếu không chịu được nhau thì đưa nhau ra tòa là xong ngay, đâu cần phải đợi đến khi vợ chết. Mà, tôi chắc chắn là vợ anh Đẹp không phải loại đàn bà đó rồi. Có thể là anh Đẹp mang cùng một tâm trạng như tôi khi tôi được tin mẹ chết: Buồn khổ quá, không còn có thể khóc được.

Mẹ tôi chết tháng sáu năm 1977, mãi tới tháng chín tôi mới nhận được thư báo tin trong lúc đang nằm nghỉ lấy sức trên đồi nứa ở hồ Thác Bà (Hoàng Liên Sơn). Tôi buồn quá nhưng tôi không khóc được. Tôi nghĩ rằng có lẽ chẳng bao lâu nữa tôi cũng sẽ gặp mẹ tôi ở dưới suối vàng thôi vì không thấy có chút hy vọng gì vào ngày trở về cùng gia đình mà sức khỏe thì càng ngày càng tồi tệ! Tôi miên man nghĩ về mẹ. Mẹ tôi trở bệng nặng hơn hai tháng trước khi qua đời. Trong thời gian đó chắc hẳn mẹ tôi luôn luôn nghĩ đến ba đứa con trai đang trong cảnh tù đầy và buồn lắm. Không biết mẹ tôi có còn nhớ đến một câu “tiên tri” của bà hàng xóm ngày mới di cư vào Nam khi đang ở Xóm Mới, Gò Vấp? Bà hàng xóm biết coi tướng nhưng không phải là dân chuyên nghiệp. Một hôm bà sang chơi, bà cầm tay mẹ tôi lật qua lật lại, rồi nhìn kỹ lên mặt mẹ tôi một lúc và nói “Bà hiện giờ có bốn người con trai nhưng khi bà chết chẳng có gậy nào đâu.”  Chữ “gậy” để chỉ người con trai vì theo phong tục Việt Nam thì khi mẹ chết, con trai phải chống gậy vông (gậy tre dùng cho đám tang cha) đi giật lùi trước quan tài mẹ. Khi bà về rồi, mẹ tôi bảo, “Làm gì có chuyện lạ như vây; không lẽ cả bốn đứa đều chết trước tao sao?” Bây giờ nhớ lại tôi thấy đúng là một câu nói tiên tri. Anh tôi chết vì tai nạn năm 1956. Còn ba anh em tôi đang bị tù thì làm sao mà hiện diện trong đám tang mẹ!

Đang miên man suy nghĩ thì anh Lương Văn Quang hỏi “Thư có gì lạ không?” Tôi trả lời, “Mẹ tôi chết rồi.” Ngoài anh Quang ra, không ai trong đội biết tôi có tang lớn.

Kỷ niệm thứ hai là, một hôm anh Đẹp đưa cho tôi một bộ đồ tù còn mới tinh vì anh không cần xài. Anh nhờ tôi đem đổi lấy mắm tôm. Giá bình thường là 2 kg mắm tôm cho một bộ đồ tù. Công việc trao đổi với thằng cu Đinh xong xuôi, tôi dắt trâu tới chỗ đội đang cầy dở buổi sáng, đồng thời đem mắm tôm cho anh Đẹp. Vừa thấy tôi anh Đẹp vội chạy lại hỏi tôi đã đổi bộ đồ của anh chưa. Anh cho biết hồi sáng có người dân lén tới khu làm việc của đội và đồng ý đổi 3 kg mắm tôm lấy bộ đồ. Tôi tiếc ngẩn ngơ, và anh thì còn hơn thế nữa vì như thế là mất tiêu nó 1 kg mắm chứ ít sao! Cả hai chúng tôi đều lắc đầu, ngán ngẩm cho cái thân tù tội mà còn gặp xui!

Năm 2000, tôi nói chuyện với anh thì được biết anh sang đây với bà vợ kế, cưới trước khi nạp hồ sơ xuất cảnh. Mấy đứa con riêng của anh cũng đi theo anh. Lúc đầu ở Cali, các con anh đều đã có gia đình và ở riêng rồi. Tội nghiệp mấy đứa con anh, khi mẹ chết là chúng phải lo tự lực cánh sinh để chờ ngày về của bố. Hai anh chị dời về Denver vì muốn ở gần với mấy người bạn thân cho có bạn nhậu những khi rảnh rỗi.




.2. 6Người khách lạ

Một buổi xế trưa ngày chủ nhật đầu tiên ở Vĩnh Quang A, một anh thuộc nhóm người cũ của Trại A đến buồng tìm gặp tôi. Tôi chưa từng quen biết anh này cho nên cũng hơi thắc mắc. Chắc anh cũng biết vậy cho nên anh lên tiếng trước, sau cái bắt tay xã giao:

- Tôi là cháu họ xa của anh PBV và gọi anh V. bằng chú, xin lỗi có phải anh là Thái, bạn của anh V. không?
- Đúng rồi, có chuyện gì liên quan đến anh V. không?
- Chả là, khi anh V. còn ở đây với tôi, anh rất hay nói về anh và tỏ ra quí anh lắm. Tôi thắc mắc không hiểu anh có cái gì đặc biệt mà anh V. lại thích anh như vậy. Tôi vừa mới biết là anh có mặt trong nhóm người mới tới cho nên tôi muốn đến gặp anh để xem mặt mũi anh ra làm sao, thế thôi.
- Bây giờ thì anh mãn nguyện rồi chứ? Tôi cũng có đầy đủ đầu, mình và chân tay như người ta thôi mà.
- Tôi còn có một thắc mắc nữa là, tại sao hồi đó anh không tặng cho cô H. (em gái anh V.) một cái ba lô đeo trước ngực là mọi chuyện xong xuôi ngay. Tôi chắc chắn là ông già cô ấy còn phải năn nỉ để anh cưới con gái ổng.
- Đối với đàn bà con gái, tôi là loại thỏ đế anh ạ, chưa gì đã đỏ mặt lên rồi. Vả lại, với H. thì tôi nghĩ rằng mình nên giữ gìn cho nàng, chờ đến ngày cưới cũng chẳng muộn gì cơ mà.
- Nếu như anh cưới cô ấy thì bây giờ cô ấy đâu phải cảnh goá bụa!

Nói xong, anh với tay lấy cái điếu cày, chuẩn bị bắn một bi thuốc lào.

Một khúc phim dĩ vãng hiện ra trong đầu tôi…

Ngày ấy, nhà tôi và nhà V. ở gần nhau. V và tôi thường đi đá banh với nhau. Chúng tôi học ngang lớp nhưng khác trường và khác ban. Anh V. ban A, tôi ban B cho nên môn toán của tôi trội hơn V. Vì thế tôi thường được em gái anh V. nhờ giải cho những bài toán khó. Cứ thế riết rồi chúnh tôi thân nhau. Mẹ tôi và mẹ H. thấy vậy cũng muốn cho hai đứa nên vợ nên chồng. Ngày tôi sắp ra trường, mẹ tôi muốn cho chúng tôi làm đám cưới trước khi ra đơn vị. Mẹ tôi bảo, “Đi đâu có vợ có chồng, chứ cứ độc thân mãi rồi mày theo bè theo bạn hư thân đi.”  Tôi cũng đồng ý vì lúc đó H. cũng vừa đậu xong Tú Tài 2. Một hôm về phép, tôi được biết là bố của H. không muốn cho chúng tôi cưới sớm vì “Nó chưa có công danh sự nghiệp gì, lấy gì mà ăn?”  Tôi bị chạm tự ái nên tôi “nghỉ chơi” luôn.

Bắn xong bi thuốc lào, sảng khoái rồi, và anh thấy đã thoả mãn sự tò mò rồi, anh bắt tay từ giã. Từ đó chẳng bao giờ tôi có dịp gặp lại anh vì chúng tôi ở hai buồng cách nhau rất xa. Vả lại, thời gian tôi ở Vĩnh Quang A chỉ chừng sáu tháng thôi. Thậm chí, lúc anh về, tôi cũng quên chưa hỏi tên anh là gì nữa. Chắc chắn anh cũng về Nam Hà cùng chuyến với tôi nhưng phân tán mỗi người mỗi buồng cho nên chúng tôi cũng quên nhau luôn.

Anh ta đi rồi, dòng hồi tưởng của tôi lại tiếp tục. Mẹ H. và H. tự nhiên thấy tôi thay đổi thái độ thì rất thắc mắc, muốn biết rõ lý do thì tôi cho biết thẳng là vì bố của H nói như thế…như thế… Gần ba năm sau tôi cưới vợ, còn H thì lấy chồng sau khi con gái đầu của tôi đã được một tuổi. Lúc chưa cưới, thỉnh thoảng cô vẫn ghé nhà tôi, bồng ẵm con gái tôi. Tôi rất mừng khi nghe tin cô lấy chồng và người chồng của cô lại hơn tôi đủ mọi mặt, từ kiến thức đến cấp bậc và chức vụ. Bây giờ thì tôi biết chắc tôi hơn chồng của H. có một cái, đó là sống dai. Chồng của H. đã bị coi như là mất tích trong lúc di tản năm 1975. Vì thế mà người cháu họ anh V. mới nói, “Nếu như anh cưới cô ấy thì bây giờ cô ấy đâu phải cảnh goá bụa!”

Tôi được thả, chừng một tháng sau thì H. biết tin. Vì thế cô nhờ thằng cháu chở đi “thăm mộ song thân” nhân tiện ghé thăm tôi (đường vào nghĩa trang đi ngang qua nhà tôi mà). Sau đó chừng một tháng, tôi được tin mấy mẹ con H. đã vượt biển, tới Phi bình an.

Năm 1996 (?), anh V. cho tôi biết là H. đã tái giá. Một lần nữa tôi lại mừng cho H. vì bây giờ cô lại có người cùng chia sẻ vui buồn của cuộc sống.


6.3. Chăn trâu
Ai bảo chăn trâu là khổ,
Chăn trâu sướng lắm chứ...Bài ca dao “Chăn trâu” mà tôi, và chắc là nhiều người nữa, đã thuộc nằm lòng. “Sướng” có thể là đúng với bọn trẻ mục đồng thời xưa cơ, nhưng không đúng với một người tù đi chăn trâu cho trại. Chả thế mà anh Phạm Dư Chất đã tỏ ra không thích khi bị chỉ định đi chăn trâu.

Sau vài tuần lễ làm công việc tạp dịch thì đã tới thời vụ trồng lúa nước cho trại. Đội tôi lãnh nhiệm vụ này, đội lập ra một tổ cầy bừa. Cầy bừa thì phải có trâu. Mỗi buổi sáng, một người trong tổ cày bừa đi lãnh trâu tại chuồng, đem ra ruộng làm việc. Buổi trưa, người và trâu được nghỉ. Cả đội về trại ăn cơm, còn trâu thì được trao cho một người dẫn đi ăn cỏ. Lúc này là lúc làm việc của người chăn trâu.

Trước giờ nghỉ chừng 15 phút, người chăn trâu báo cáo ra cổng, tới chỗ đội đang làm việc, chờ khi đội nghỉ thì tới nhận trâu và dắt nó đi ăn cỏ trên những bãi cỏ gần trại, trong khoảng bán kính chừng 1,5 km. Tới giờ làm việc buổi chiều, khi đội ra tới nơi thì giao trâu cho tổ cày bừa và trở vào trại nghỉ. Buổi chiều khi gần tới giờ nghỉ, người chăn trâu lại báo cáo ra cổng, tới chỗ đội đang làm việc, nhận trâu từ tổ cày, dắt trâu đi ăn chừng 30-45 phút rồi đưa trâu về chuồng nhốt lại là xong một ngày làm việc của người chăn trâu.

Người chăn trâu không có giấc ngủ trưa. Vì thế mà qua một ngày chăn trâu, anh Chất tỏ vẻ chán nản, hỏi xem có ai muốn đổi việc này với anh không. Tôi nhận lời đổi việc với anh vì tôi không có thói quen ngủ trưa. Ngoài ra, tôi nghĩ, một mình ở ngoài đồng buổi trưa cũng có cái lợi cho tôi: Vừa tránh phải lội xuống ruộng để bị đỉa cắn; đỉa ở đây nhiều như rươi mà tôi lại sợ đỉa mặc dù thời nhỏ cũng đã từng sinh sống ở miền quê; vừa có thời giờ đi kiếm rau cỏ để tăng cường cho bữa cơm trong ngày. Lại có thời giờ ngồi đọc báo mà không bị quấy rầy bởi những tiếng ồn xung quanh. Việc đổi công tác với nhau không gặp trở ngại. Anh Ngọ (đội trưởng) đồng ý miễn là có người phụ trách chăn trâu thôi. Tôi bắt đầu nhận công tác vào ngày hôm sau.

Buổi trưa đầu tiên, không có gì trục trặc nhưng buổi chiều thì có chuyện ngay. Nhận trâu xong, tôi cho nó ăn cỏ chừng 30 phút, sau đó dắt nó về chuồng. Trên đường đi, có vài cái ao nhỏ, con trâu vụt chạy ngay xuống giữa ao và đầm mình ở đó. Tôi làm đủ cách nó vẫn không lên. Con trâu dang nắng cả ngày, bây giờ gặp nước thì nó thèm đầm mình dưới nước là phải. Tôi dùng những cục đất ném nó, chẳng khác gì gãi ngứa cho nó. Nó còn ngoảnh đầu lại nhìn tôi như thách thức. Lội xuống ao đuổi nó thì phải cởi bỏ quần áo, và tôi lại sợ đỉa cắn, mà đã chắc gì nó lên bờ cho. Tôi đành chịu thua nó, chờ cả gần một tiếng, khi cu cậu đã đủ đô, tôi mới dùng đất ném để thúc nó lên. Cuối cùng thì tôi cũng đưa được nó về chuồng nhốt lại. Tôi thở phào nhẹ nhõm vì cũng còn kịp giờ về trại ăn cơm trước khi khóa cửa buồng. Những lần sau, rút kinh nghiệm, khi dắt trâu về chuồng, tôi phải cho nó đi đường vòng, tránh đi gần mấy ao nưóc.

Một hôm, tôi gặp một thằng bé nhà ở gần chỗ tôi thả trâu. Tôi gọi nó tới, cho nó bắn một bi thuốc lào ba số tám, đợi cho cu cậu hết phê, tôi đem chuyện con trâu “ba gai” (ba gai là tiếng Pháp đã Việt hoá từ lâu; pagaille =hỗn độn nhưng dùng như tiếng lóng trong quân đội Liên Hiệp Pháp thì có nghĩa là bướng bỉnh, vô kỷ luật) ra kể và hỏi xem nó có đòn phép nào trị trâu không. Nó bảo rằng, “Dễ thôi nhưng chú phải cho cháu hút thuốc lào thì cháu mới nói.” Con nít ở vùng quê ngoài Bắc, cỡ 10 tuổi là biết hút thuốc lào rồi, nhìn nó ngồi hút thuốc lào còn sành điệu hơn cả bọn tôi nữa. Tôi bảo nó, “Gì chứ thuốc lào thì được, mỗi ngày ra gặp chú, chú sẽ cho hút, chứ không cho cháu mang về nhà đâu.” Tôi nói vậy là có ý dụ nó ra gặp tôi mỗi ngày để có thể nhờ vả nó mua dùm đồ ăn cho tôi hoặc cho các bạn của tôi khi cần. Nó nghe tôi nói vậy, chịu liền và bảo tôi, “Chú phải làm thế này…, thế này…là trị được nó ngay.”  Tôi hứa, “Sau hai ngày mà chú trị được trâu thì chú sẽ thưởng cho cháu mười bi thuốc lào ngay một lúc, sau đó mỗi ngày chú cho cháu hút một bi nữa.”

Buổi chiều ngày hôm sau, khi đi ra nhận trâu, tôi kiếm một cái gậy tre to cỡ bằng cái cán cuốc thay vì cái roi tre nhỏ như thường lệ. Cho trâu ăn chừng 30 phút rồi dẫn trâu về chuồng. Dĩ nhiên là tôi vẫn phải cho nó đi đường vòng để tránh xa mấy cái ao. Cho trâu vào chuồng xong, tôi cột sợi dây dắt trâu
cho cái mũi nó gần sát với cột để tránh cho nó phá chuồng chạy ra ngoài.

Các cụ ta ngày xưa đã tài tình khám phá ra một điểm yếu của trâu, bò. Đó là cái vách ngăn giữa hai lỗ mũi của chúng. Một khi bị đụng vô cái vách ngăn đó, trâu/bò cảm thấy đau đớn. Vì thế các cụ mới xỏ dây dắt trâu/bò qua cái vách ngăn mũi, nếu trâu đi theo sự điều khiển của người dắt thì nó không bị đau. Ngược lại, người chăn trâu chỉ việc giật giật sợi dây cho nó đi theo hướng mình muốn. Con trâu không muốn bị đau thì phải đi theo sự điều khiển của người chăn. Vì thế sau này mới có thành ngữ “bị xỏ mũi” để chỉ mấy ông chồng bị vợ điều khiển.

Cột trâu xong xuôi, đứng ngoài chuồng, cầm cây gậy đánh vào sừng trâu, lần lượt từ sừng nọ sang sừng kia. Mỗi lần đánh, tôi hô đủ cho trâu nghe thôi “Chết nghe mày”. Tôi không dám hô lớn vì chuồng trâu ở gần nhà lô của quản giáo đội tôi. Tôi nện cho mỗi sừng chừng vài chục cái rồi trở về trại. Sừng trâu tuy cứng nhưng sức đánh của cậy gậy dội xuống chân sừng (chỗ giáp với xương sọ) làm cho nó đau đớn. Cứ thế tôi đánh nó hai ngày liền.

Sang chiều ngày thứ ba, tôi muốn thử xem kết quả của hai ngày huấn luyện ra sao. Hôm nay, chỉ sau 5 phút cho ăn cỏ, tôi dẫn nó về chuồng trên đường đi qua mấy cái ao. Tôi cho nó ăn cỏ 5 phút vì phải trừ hao, sợ rằng nó lại phóng xuống ao, đầm mình, thì khi nó trở lên bờ về chuồng, tôi vẫn không phải vào trại trễ như lần trước. Đi ngang qua ao, cu cậu có vẻ như muốn phóng xuống ao, tôi cầm dây giật giật cho mũi nó hướng xa ao nước và miệng tôi hô “chết nghe mày”. Chỉ cần nghe tiếng “chết nghe mày” là nó bỏ ngay ý định phóng xuống ao và ngoan ngoãn đi về chuồng. Tuy hôm nay không ba gai nhưng tôi vẫn nện thêm cho nó một trận như hai hôm trước rồi mới trở vào trại.

Thấy cách dậy trâu có kết quả, trưa hôm sau gặp thằng bé, tôi cho nó 10 bi thuốc lào như đã hứa. Tôi nói:

- Chú chưa biết tên cháu là gì nhưng điều đó không cần. Kể từ nay chú gọi tên cháu là thằng cu Đinh.
- Huh
- Thằng cu có nghĩa là thằng bé, Đinh là tên của cháu vì chú coi cháu như là con cháu của vua Đinh Tiên Hoàng của ta hồi xửa hồi xưa ấy mà. Cháu có biết vua Đinh Tiên Hoàng không?
- Cháu không biết.
- Thế cháu có biết ông Đinh Bộ Lĩnh không?
- Cháu không biết.
- Thế cháu học lớp mấy rồi?
- Cháu học lớp 4
Tôi nghĩ thầm, nó học lớp bốn mà chẳng biết gì về Vua Đinh Tiên Hoàng thì cũng chẳng lạ vì bây giờ “bác và đảng” chỉ chú tâm nhồi nhét vào đầu bọn trẻ cái chủ nghĩa Cộng Sản chết tiệt, Các Mác – Lê Nin và các anh hùng tưởng tượng như Lê Văn Tám v.v…mà thôi.

Tôi bèn giảng cho nó rằng ông Đinh Bộ Lĩnh hồi còn nhỏ đi chăn trâu, ông thường dùng bông lau làm cờ và chia bọn trẻ ra làm hai phe đánh trận giả. Ông và các bạn của ông đều cỡi trâu xung trận. Do đó ông có tài dậy trâu lúc nào tiến, lúc nào lùi, lúc nào húc phải, lúc nào húc trái và kết luận, “Cháu cũng biết cách dậy trâu như đã chỉ cho chú, vậy thì cháu xứng đáng làm con cháu của vua Đinh Tiên Hoàng rồi đó, nhớ từ nay chú gọi cháu là thằng cu Đinh nghe chưa?” Nó hỏi:
- Thế tên chú là gì?
- Chú chăn trâu thì cháu cứ gọi chú là chú Trâu nghe chưa?

Thằng cu Đinh có vẻ ghiền thuốc lào ba số tám của tôi rồì. Trưa nào nó cũng phải ra gặp tôi để được hút một điếu thuốc lào. Xin đừng kết án tôi là dụ dỗ con nít vào đường nghiện ngập, thì oan cho tôi lắm. Con trai miền quê ngoài Bắc, cỡ 9-10 tuổi là đứa nào cũng biết hút thuốc lào rồi. Người ta coi đó là chuyện hiển nhiên thôi, chứ không như ở Mỹ bây giờ dưới 18 tuổi là không được phép hút thuốc.

Một buổi trưa, khi cu Đinh thấy tôi dắt trâu ra ăn cỏ, nó đi về hướng tôi và dường như nó đang kéo một vật gì hơi nặng theo nó. Khi tới cách tôi khoảng 50 mét (chừng 160 ft), nó nói lớn, “Chú Trâu lại đây xem cái này này.” Tôi đi tới gần nó thì mới biết nó kéo một con rắn dài hơn một sải tay, mình rắn lớn bằng cái cán cuốc. Tôi không biết nó là loại rắn gì nhưng biết nó là thứ không độc vì tôi còn nhớ hồi còn nhỏ học khoa học thường thức, được dậy cách phân biệt rắn độc và rắn không độc bằng cách nhìn mấy hình tam giác trên đầu rắn. Rắn độc có hình tam giác nhỏ, còn loại không độc thi có hình tam giác lớn. Mà, độc hay không độc cũng chẳng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó, cứ chặt bỏ đi khúc đầu chừng 10 cm (4 inches) là an toàn rồi vì hạch nọc độc của rắn nằm dưới chân răng nanh của nó. Cu Đinh bảo tôi:

- Cháu mới đánh được nó lúc nãy, cháu cho chú đấy, chú ăn được thịt rắn không?
- Thịt quỉ chú còn ăn được, chứ đừng nói rắn. Để đấy cho chú, bây giờ làm một điếu thuốc lào cho lại sức rồi nói chuyện sau.

Gì chứ hút thuốc lào là cái mà nó đang thèm nhỏ dãi ra, làm gì có chuyện từ chối. Nó hút xong, tôi bẹo thêm cho nó độ chừng mươi bi nữa để trả công đánh rắn cho tôi.

Khi tới giờ làm buổi chiều, tôi dắt trâu lại giao cho đội rồi đem rắn về trại. Hôm nay ở buồng còn có anh Trần Thái Đẹp nghỉ bệnh. Anh Đẹp thấy con rắn thì sáng mắt ra vì anh là dân Miền Nam chính hiệu và anh lại mê ăn thịt rắn. Anh Đẹp nói với tôi, “Tôi có đậu xanh với một ít gia vị, để tôi nấu cháo rắn mình ăn nghe.” Tôi bằng lòng ngay và giao rắn cho anh làm. Phải công nhận anh Đẹp thật là tay thiện nghệ làm thịt rắn. Mới quay đi quay lại là đã thấy con rắn bị lột da trắng hếu rồi. Chúng tôi đồng ý với nhau là đợi khi nào vào buồng thì mới đem cháo rắn ra để nhóm tụi tôi (bốn, năm người) cùng ăn. Anh Đẹp còn cẩn thận hâm cho nồi cháo nóng lên trước khi bưng vào buồng, chờ giờ khoá cửa.

Đây là lần đầu tiên (mà cũng có thể là duy nhất) trong đời, tôi được ăn cháo rắn. Mà lại ăn trong tình trạng bụng đói, cơ thể đang thiếu nhiều chất dinh dưỡng cho nên tôi có cảm giác là hương vị thơm ngon tuyệt vời. Bây giờ nếu có ai mời ăn cháo rắn, chưa chắc tôi đã dám ăn. Đúng là “no ra (kiêu) ngạo” như trước đây mẹ tôi thường la mỗi lần tôi chê món ăn nào mà tôi không thích.

Năm 2000, tôi có số điện thoại của anh Đẹp khi anh đang ở Denver. Tôi đã nói chuyện với anh được một lần. Sau này anh đổi số điện thoại thì mất liên lạc. Mới đây, tháng 12/2008, khi nói chuyện với anh Dương Ngọc Phú (cách nhà tôi chừng 25 phút lái xe), anh Phú cho biết là anh mới gặp anh Đẹp ở Houston. Anh Đẹp vẫn ở Denver nhưng về Houston chơi mươi ngày. Vì thế tôi lại có số điện thoại mới của anh và tôi gọi ngay cho anh. Hai chúng tôi chuyện trò với nhau rất lâu. Giọng nói của anh vẫn còn đầy đủ công lực. Anh cho biết tóc anh mới chỉ lốm đốm vài sợi bạc thôi; răng cỏ vẫn còn y nguyên. Qua cuộc chuyện trò, tôi thấy anh vẫn còn yêu đời lắm, không có dấu gì là bi quan yếm thế cả. Cũng mừng cho anh.

Nhân tiện, tôi xin nhắc lại vài kỷ niệm với anh Đẹp:

Ngày còn ở Vĩnh Quang B, khi vợ anh ra thăm, tôi nhờ anh chuyển lậu một lá thư cho vợ tôi. Nhờ anh nói với chị là khi về Sài-Gòn thì bỏ thư vào phong bì gửi cho vợ tôi. Anh vui vẻ nhận thư mặc dù anh thừa biết rằng, khi ra ngoài cổng trại, nếu bị phát giác là có mang thư lậu thì anh sẽ lãnh hậu quả. Nhẹ, thì bớt giờ gặp thân nhân. Nặng, thì không được gặp mặt mà chỉ được nhận đồ tiếp tế thôi.

Khi tôi được thả về, vợ tôi kể lại là vợ anh Đẹp, mặc dù ở xa nhà tôi nhưng đã tới tận nhà gặp vợ tôi mà trao thư, chứ không gửi qua bưu điện như tôi đã dặn. Chị còn cho biết địa chỉ và dặn khi nào có thời giờ ghé nhà chị để biết ngày nào chị ra thăm anh Đẹp lần sau, chị sẵn sàng mang dùm cho một ít đồ. Vài tháng sau vợ tôi ghé nhà thì hỡi ôi, chị đã qua đời vì bạo bệnh!

Ở trong trại, ít tháng sau, anh Đẹp cũng được tin vợ anh qua đời nhưng tôi không thấy anh biểu lộ sự đau buồn gì cả. Tôi sực nhớ có một câu nói của ai đó, rằng “Đời người đàn ông có hai lần vui: một lần là khi cưới vợ và một lần khi vợ chết”. Xin quí vị nữ lưu nếu có đọc bài này thì đừng chửi tôi là phường “thất nhân thất đức” nhé. Tôi không sáng chế ra câu này đâu. Có lẽ câu này do một người nào đó có vợ thuộc loại bà chằn chế ra. Đó là ở Việt Nam thời xưa cơ, còn bây giờ, nhất là ở Mỹ, nếu không chịu được nhau thì đưa nhau ra tòa là xong ngay, đâu cần phải đợi đến khi vợ chết. Mà, tôi chắc chắn là vợ anh Đẹp không phải loại đàn bà đó rồi. Có thể là anh Đẹp mang cùng một tâm trạng như tôi khi tôi được tin mẹ chết: Buồn khổ quá, không còn có thể khóc được.

Mẹ tôi chết tháng sáu năm 1977, mãi tới tháng chín tôi mới nhận được thư báo tin trong lúc đang nằm nghỉ lấy sức trên đồi nứa ở hồ Thác Bà (Hoàng Liên Sơn). Tôi buồn quá nhưng tôi không khóc được. Tôi nghĩ rằng có lẽ chẳng bao lâu nữa tôi cũng sẽ gặp mẹ tôi ở dưới suối vàng thôi vì không thấy có chút hy vọng gì vào ngày trở về cùng gia đình mà sức khỏe thì càng ngày càng tồi tệ! Tôi miên man nghĩ về mẹ. Mẹ tôi trở bệng nặng hơn hai tháng trước khi qua đời. Trong thời gian đó chắc hẳn mẹ tôi luôn luôn nghĩ đến ba đứa con trai đang trong cảnh tù đầy và buồn lắm. Không biết mẹ tôi có còn nhớ đến một câu “tiên tri” của bà hàng xóm ngày mới di cư vào Nam khi đang ở Xóm Mới, Gò Vấp? Bà hàng xóm biết coi tướng nhưng không phải là dân chuyên nghiệp. Một hôm bà sang chơi, bà cầm tay mẹ tôi lật qua lật lại, rồi nhìn kỹ lên mặt mẹ tôi một lúc và nói “Bà hiện giờ có bốn người con trai nhưng khi bà chết chẳng có gậy nào đâu.”  Chữ “gậy” để chỉ người con trai vì theo phong tục Việt Nam thì khi mẹ chết, con trai phải chống gậy vông (gậy tre dùng cho đám tang cha) đi giật lùi trước quan tài mẹ. Khi bà về rồi, mẹ tôi bảo, “Làm gì có chuyện lạ như vây; không lẽ cả bốn đứa đều chết trước tao sao?” Bây giờ nhớ lại tôi thấy đúng là một câu nói tiên tri. Anh tôi chết vì tai nạn năm 1956. Còn ba anh em tôi đang bị tù thì làm sao mà hiện diện trong đám tang mẹ!

Đang miên man suy nghĩ thì anh Lương Văn Quang hỏi “Thư có gì lạ không?” Tôi trả lời, “Mẹ tôi chết rồi.” Ngoài anh Quang ra, không ai trong đội biết tôi có tang lớn.

Kỷ niệm thứ hai là, một hôm anh Đẹp đưa cho tôi một bộ đồ tù còn mới tinh vì anh không cần xài. Anh nhờ tôi đem đổi lấy mắm tôm. Giá bình thường là 2 kg mắm tôm cho một bộ đồ tù. Công việc trao đổi với thằng cu Đinh xong xuôi, tôi dắt trâu tới chỗ đội đang cầy dở buổi sáng, đồng thời đem mắm tôm cho anh Đẹp. Vừa thấy tôi anh Đẹp vội chạy lại hỏi tôi đã đổi bộ đồ của anh chưa. Anh cho biết hồi sáng có người dân lén tới khu làm việc của đội và đồng ý đổi 3 kg mắm tôm lấy bộ đồ. Tôi tiếc ngẩn ngơ, và anh thì còn hơn thế nữa vì như thế là mất tiêu nó 1 kg mắm chứ ít sao! Cả hai chúng tôi đều lắc đầu, ngán ngẩm cho cái thân tù tội mà còn gặp xui!

Năm 2000, tôi nói chuyện với anh thì được biết anh sang đây với bà vợ kế, cưới trước khi nạp hồ sơ xuất cảnh. Mấy đứa con riêng của anh cũng đi theo anh. Lúc đầu ở Cali, các con anh đều đã có gia đình và ở riêng rồi. Tội nghiệp mấy đứa con anh, khi mẹ chết là chúng phải lo tự lực cánh sinh để chờ ngày về của bố. Hai anh chị dời về Denver vì muốn ở gần với mấy người bạn thân cho có bạn nhậu những khi rảnh rỗi.





6.7. Thăm nuôi lần thứ hai


Ở Vĩnh Quang A được gần ba tháng (mùa thu năm 1982), tôi được trại thông báo có gia đình thăm nuôi. Cùng được thăm nuôi một lượt với tôi là anh Phạm Dư Chất. Anh Chất thì biết rõ người thăm nuôi là vợ anh vì anh đã có thư báo trước. Còn tôi thì chưa biết ai vì tôi chắc là vợ tôi không thể ra thăm tôi lần này.

Trại A không có cái màn nhắc nhở tù phải ăn mặc chỉnh tề, đầu tóc phải gọn ghẽ thì mới được ra gặp thân nhân như ngày còn ở Trại B. Tôi nhớ lại, khi còn ở Trại B, anh Võ Tấn Tài có lần được thăm nuôi, khi ra tới cổng trại bị tên sĩ quan An Ninh Trại hạch hỏi:
- Tại sao anh ra gặp thân nhân mà không cạo râu?
Tài nói:
- Ủa, tôi cạo râu rồi mà.
Tên sĩ quan an ninh chỉ vào ria mép của Tài:
- Thế này mà anh bảo là cạo rồi à?
- Thưa cán bộ, cái này đâu phải là râu. Tôi đã theo lệnh trại cạo râu đàng hoàng rồi, còn đây là ria của tôi, tôi không nghe trại nói gì thì tôi cho là được phép vì thế tôi không cạo.
Anh Tài nhìn quanh, thấy hôm nay thăm nuôi cũng đến 5-6 người, Tài bèn tố thêm vì biết chắc hắn không thể chờ lâu được:
- Nếu cán bộ muốn tôi cạo ria thì cho tôi trở về buồng, tôi cạo xong rồi ra.
- Thôi được rồi, bận này tôi cho anh ra gặp thân nhân nhưng bận sau anh đừng có “ní sự ninh tinh” nữa đấy. Ria với râu thì cũng như nhau chứ khác gì.
Thế là Tài thoát nạn.

Trở lại chuyện hôm nay, trại chỉ có hai người là tôi và anh Chất được thăm nuôi. Tới nhà thăm nuôi, tôi mới biết người thăm tôi là anh K. (anh rể tôi). Cán bộ phụ trách thăm nuôi cũng dễ dãi, hắn để chúng tôi và thân nhân nói chuyện thả dàn trong nhà tiếp tân, còn hắn thì đi đâu không biết. Tôi nói chuyện với anh K. chán chê rồi mới thấy hắn trở lại hỏi xong chưa, xong rồi thì vào trại. Còn anh Chất thì được ở lại qua đêm với vợ và đứa con gái lớn, sáng hôm sau mới vào trại.

Anh K. cho biết, chú em tôi vượt biển cùng hai thằng con trai giữa năm 1981 và sang định cư ở Mỹ tháng 4 năm 1982. Tiền thăm nuôi tôi là do chú em mới gửi về nhờ anh K. đi tiếp tế cho tôi. Chú em tôi mới ở tù ra được vài tháng thì vượt biển. Chú ấy cũng bị mấy bà chị “tuyên truyền xuyên tạc” về vợ tôi cho nên không tin tưởng vợ tôi, mà gửi tiền cho mấy bà chị lo việc tiếp tế. Thậm chí đi ra Bắc thăm tôi mà cũng dấu, không cho vợ con tôi biết! Đồ tiếp tế cho tôi lần này cũng chẳng nhiều nhặn gì, chỉ hơn hai chục ký thôi nhưng cũng làm cho tôi vui mừng vì của một đồng công một nén mà. Điều tôi mừng nhất là em tôi đã thoát khỏi hiểm nguy đang rình rập nếu chú ấy còn ở Việt Nam. Bọn chính quyền xã ấp vẫn còn căm thù em tôi vì thế khi em tôi mới ra khỏi tù thì chúng đã nói bắn tin rằng chúng sẽ tìm cách bắt lại em tôi.

Vợ anh Chất tuy còn trẻ nhưng tóc đã bạc ¾ đầu rồi. Trước khi rời nhà thăm nuôi, tôi chào chị Chất và nói đùa, “Anh Chất có giọng hát truyền cảm lắm đấy, tối nay chị bắt anh ấy hát vài bài cho chị nghe nhé.”  Trong buồng tôi, những buổi tối ngày nghỉ, anh Chất thường hay ca những bản nhạc tiền chiến giúp vui cho bạn tù, giọng ca của anh rất khỏe.

Ngày hôm sau vào trại, anh Chất cho biết, vợ anh nhất định không nhuộm tóc đen cho đến khi nào anh ra khỏi tù. Từ hôm đó tôi và Ngọ thường gọi là “Nàng tiên tóc trắng” khi nói về vợ anh Chất, riết rồi cả đội cùng gọi theo như vậy.

Anh Chất kể với tôi rằng trước đây khi anh chị cưới nhau đã bị trục trặc về vấn đề tôn giáo, anh đạo Phật, chị đạo Công Giáo. Mẹ anh lại không cho anh cải đạo. Thời đó chưa có Công đồng Vaticano II cho nên muốn hợp lệ phải làm đơn xin phép Toà Thánh Vatican, khó khăn lắm. Bây giờ anh vẫn đạo Phật và chị vẫn Công Giáo. Sau cuộc đổi đời, anh cảm thấy gia đình bên vợ đối xử với anh rất tốt vì thế anh nói, “Sau khi ra tù, món quà quí giá tôi dành để tặng mẹ vợ tôi là tôi sẽ theo đạo Công Giáo.”  Và, anh đã giữ đúng lời hứa. Khi ra tù được ít lâu, anh đã học đạo và chịu phép rửa. Nếu tôi nhớ không lầm thì thân phụ của anh Nguyễn Phan Đệ làm cha đỡ đầu cho anh Chất. Theo tôi biết thì hiện giờ gia đình anh Chất đang ở Cali.

“Nàng tiên tóc trắng” mua cho chồng được một trái mít tại nhà một người dân gần trại. Trái mít khá to, tương đương với một cái thùng đựng dầu hôi loại 20 lít (5 gallons), và đã có mùi thơm. Anh Chất ráng để dành mít đến ngày Chủ Nhật mới “làm thịt” để nhiều người cùng thưởng thức.

Sáng Chủ Nhật nhóm bạn của anh Chất, trong đó có tôi, qui tụ lại khá đông ở sân buồng ngủ. Tôi không nhớ rõ là Nguyễn Phán hay Nguyễn Phan Đệ đóng vai đồ tể xẻ trái mít ra. Mùi mít chín bay ra thơm lừng cả một khu sân. Có lẽ vừa do mùi mít thơm sẵn, vừa do thần kinh khứu giác của chúng tôi lâu ngày chưa được tiếp cận với mùi mít, mà chúng tôi dễ cảm nhận được mùi thơm của mít chăng.

Đầu tiên chúng tôi ăn múi mít. Sau đó đến xơ; hết xơ đến cùi. Trái mít đã chin mùi (kỹ) cho nên cùi mít vàng ra đến tận vỏ. Chúng tôi gọt cùi sát đến tận gần lớp vỏ gai ở ngoài mới chịu thôi. Cuối cùng là đến hạt mít. Nguyễn Phán lượm hết hạt mít lại để luộc cho buổi chiều ăn.

Buổi chiều, số người tham dự ăn hột mít luộc không đông đủ như buổi sáng, giảm đi 2/3 nhân số. Ăn được nửa chừng, có người nào đó nói lớn, “Ăn hột mít thế nào cũng bị đánh rắm đấy nhé, các bạn phải cẩn thận để khỏi làm phiền lòng người hàng xóm.”

Bữa tiệc mít làm tăng thêm không khí vui nhộn, làm cho chúng tôi quên đi một ngày tù của kiếp tù không có bản án. Sự chia sẻ một chút đồ ăn cho nhau trong những ngày khốn đốn đã trở nên một chất keo dính kết tình thân ái giữa chúng tôi với nhau để, cho đến bây giờ, sau 33 năm trôi qua, chúng tôi vẫn không quên được nhau mỗi khi hồi tưởng lại những ngày tháng tù đày cay đắng này.

Không hiểu anh Chất có còn nhớ rõ diễn tiến của buổi ăn mít này không? Nếu anh đọc và thấy có gì thiếu sót thì xí xoá cho nhé.


6.8. Chuẩn bị chuyển trại


Trước ngày chuyển trại chừng một tháng, cán bộ trại đem tới cho toán làm lò rèn một bao lớn trong đó đựng toàn là còng số tám. Hắn chỉ thị cho toán lò rèn phải ngưng hết công việc thường ngày (rèn cuốc, xẻng, dao…) mà chú tâm vào việc làm thêm và sửa chữa còng số tám. Lệnh cho toán lò rèn là phải tu sửa lại tất cả những còng mà hắn vừa đem tới, sau đó phải làm thêm cho đủ số là hai trăm còng (gồm cả cũ và mới).

Tin này được loan đi rất nhanh. Ngày hôm sau là cả trại tù đều biết. Bọn tù hình sự thì chẳng để ý gì đến chuyện này nhưng bọn chúng tôi thì rất quan tâm đến nó. Trong lúc rảnh rỗi như nghỉ giải lao hoặc ngày nghỉ việc, chúng tôi thường nhỏ to bàn tán và suy luận về nó. Rút cuộc là cùng đi đến một kết luận: sẽ có chuyển trại nay mai dựa vào những yếu tố sau đây:

Tổng số tù (sĩ quan và công chức Miền Nam) vào khoảng gần bốn trăm người. Một cái còng số tám dùng cho hai người, tay người này còng chung với tay người kia. Số còng trại dự trù là hai trăm, nếu dùng hết thì đủ cho bốn trăm người. Như vậy lần này đi là đi hết cả trại, ngoại trừ tù hình sự.

Nếu đi gần, chẳng hạn như trước đây từ Trại B ra Trại A, chúng tôi đi bộ và không phải còng tay, chúng tôi gồng gánh thoải mái. Lần này còng tay có nghĩa là sẽ đi xa và không đi bộ mà bằng xe hơi. Còn đi tới đâu thì chưa ai biết.

Từ ngày toán lò rèn nhận lệnh làm còng, các đội canh tác cũng thấy quản giáo lơ là trong việc đốc thúc công việc. Chúng tôi đi ra ngoài làm cho có lệ. Chẳng ai bảo ai, người nào cũng à ới cho hết giờ rồi về. Một vài người nhát đảm hoặc đấu óc không bén nhậy thì vẫn giữ thái độ “lao động tốt” nhưng nhìn qua nhìn lại, thấy hầu hết mọi người đều à ới nên cũng tự động thay đổi thái độ lao động của mình.

Toán lò rèn biết rằng họ làm còng để còng “phe ta” cho nên họ cố tình làm cái còng có đường kính rộng rãi để tù nhân có thể rút tay ra được mà không cần phải mở khóa. Toán lò rèn đã đạt được mục đích của họ. Khi thực sự bị còng, hầu hết chúng tôi tự động rút tay ra được.
Qua mấy tháng ở Trại Vĩnh Quang A, tôi thấy không khí ở Trại A dễ chịu hơn ở Trại B rất nhiều. Tôi chưa bao giờ thấy Trại Trưởng hoặc Trại Phó xuất hiện trong trại. Mọi việc đều do tên sĩ quan An Ninh Trại điều hành hết. Phụ tá cho tên sĩ quan An Ninh Trại là một người tù “phe ta” tên là Nguyễn Thành Th. (đại úy Bộ Binh) với chức vụ là Trật Tự Trại. Mặc dù “phe ta” nhưng hắn chẳng có phe ta chút nào cả. Từ ngày còn ở Trại B, Th. đã cố gắng lấy điểm với bọn cai tù để dần dần đi từ đội trưởng, rồi tới trật tư trại ở Trại B một thời gian ngắn trước khi ra Trại A. Khi ra tới Trại A thì hắn lại tiếp tục được làm Trật Tư Trại cho đến ngày chuyển trại. Th. là loại người sử dụng cơ bắp nhiều hơn là bộ óc.

Mặc dù các trại tù đều có nội quy na ná như nhau nhưng sự thoải mái hay không còn tùy thuộc vào cá tính của trại trưởng và quản giáo của đội. Trại nào gặp trại trưởng tử tế thì tù nhân đỡ khổ một chút. Khi chúng tôi còn ở Trại B đã nghe nói là cuộc sống của tù ở Trại A dễ thở hơn nhiều so với B.

Thêm vào đó, có lẽ là do tình hình bên ngoài chi phối: Chúng tôi sẽ không bị nhốt ở Trại A bao lâu nữa, thời gian ở Trại A được coi như là thời gian chờ đợi để chuyển tiếp, cho nên công việc lao động không bị cưỡng bức như trước kia nữa. Những tin tức phấn khởi từ các đài phát thanh ngoại quốc, do thân nhân tù cung cấp, cũng giúp cho chúng tôi lên tinh thần rất nhiều. Chúng tôi tin tưởng rằng một ngày nào đó chúng nó sẽ thả bọn tôi ra và được về sống với gia đình, chứ không giống như số phận những sĩ quan/công chức của chính quyền Quốc Gia Việt Nam hồi năm 1954 không di cư vào Nam vì một lý do nào đó. Những người này, sau một thời gian “cải tạo” thì được thả ra nhưng phải đem gia đình lên các vùng thượng du/trung du (Lào Cai, Yên Bái) để sinh sống mà bọn Việt Cộng gọi là “chỉ định cư trú”. Đây là một hình thức đầy ải cả gia đình “tên phản động” đi sống ở những nơi rừng thiêng nước độc cho mà chết dần chết mòn!


6.9. Ngườì bị biệt giam nhiều lần


Người đó là bác sĩ Lê Thiện Điền. BS Điền bị đi ở tù vì trước đây là Dân Biểu trong Hạ Nghị Viện của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Ông được hầu hết mọi người biết đến vì thành tích nằm nhà kỷ luật (biệt giam) rất nhiều lần. Cứ ra khỏi nhà biệt giam ít bữa, lại trở vào nằm tiếp. Cho đến lúc tôi ra Trại A, thì thời gian ông ăn cơm nhà biệt giam nhiều hơn thời gian ông ăn cơm ở ngoài nhà tù chung như chúng tôi.

BS Điền là một người bất khuất, dù bị cùm chân trong nhà biệt giam, ông vẫn không tỏ ra sợ sệt bọn Việt Cộng. Ông không thể nén giận mà âm thầm chịu đựng những cái chướng tai gai mắt. Ông thường nói một cách công khai trong chỗ đông người thì làm sao tránh khỏi tai mắt của mấy tên ăng ten của trại. Dĩ nhiên trại sẽ biết.

Ông không bao giờ dùng chữ “Cách Mạng” để gọi bọn Cộng Sản Việt Nam. Ông bảo “cách mạng” là một danh từ chung để chỉ một hành động phá bỏ đi cái gì cũ mà xấu để thay thế bằng một cái gì mới và tốt đẹp hơn. Thử hỏi “cái hiện giờ” (chế độ Cộng Sản) có tốt đẹp hơn “cái trước đây” (Việt Nam Cộng Hòa) không? Lại nữa, bây giờ bọn chúng lại biến danh từ (chung) “cách mạng” thành danh từ (riêng) “Cách Mạng”, viết hoa, để chỉ chính quyền/quân đội Cộng Sản. Chúng thường hay nói “Các anh phải biết ơn Cách Mạng” hay “Cách Mạng đã khoan hồng cho các anh khỏi phải tội chết” v.v.

Ông Điền còn luôn luôn đánh giá thấp những bác sĩ, y sĩ do Cộng Sản đào tạo: Hầu hết (không phải tất cả) tụi nó có hơn gì y tá của Miền Nam trước đâu. Tụi nó ít có đứa nào được đào tạo một cách chuyên môn như Miền Nam trước đây, mà chỉ là bọn sống lâu lên lão làng. Có đứa chỉ làm lao công trong bệnh viện rồi được nâng đỡ cho đi học mấy khóa tu nghiệp là cũng thành y sĩ rồi. Chúng tôi ai mà chả biết khả năng chữa bệnh của các y sĩ Việt Cộng nhưng chúng tôi không nói điều đó công khai giữa chốn đông người. Trái lại, BS Điền cứ nói tỉnh bơ. Vì thế mà ông bị biệt giam.

Từ ngày tôi chuyển ra Trại A cho đến ngày tôi được thả về từ Trại Nam Hà, BS Điền không được “tụi nó” cho làm ở bệnh xá của trại. Ở Vĩnh Quang. A, bọn Việt Cộng chỉ dùng một cựu đại úy (Sĩ Quan Trợ Y/ QLVNCH) làm phụ tá cho một tên y sỉ Việt Cộng. Cả hai trại Vĩnh Quang và Nam Hà đều coi BS Điền như một tù nhân bình thường. Và, cũng từ ngày tôi biết ông thì ông không bị biệt giam thêm lần nào nữa. Có lẽ vì tình hình bên ngoài đã chuyển biến, bọn Việt Cộng đã có chính sách mới với bọn tôi, chúng không còn thái độ sắt máu đối với chúng tôi, kể cả BS Điền nữa.

Về tinh thần chống Cộng thì phải nói BS Điền là một người bất khuất, không chịu khuất phục Cộng Sản dù thân xác có bị hành hạ dã man tàn tệ. Đó là điểm mà tôi khâm phục ông. Tuy nhiên, về phương pháp chống Cộng của ông đúng hay sai thì tôi xin miễn bàn vì tôi không có đủ khả năng trong lãnh vực này.

Người thứ hai bị giam lâu ngày là anh Phạm Kiến Chương, chúng tôi thường gọi anh là Chương hói vì đầu anh bị hói. Có người gọi anh là Chương mập vì người anh hơi thiếu thước tấc mà lại có da có thịt cho nên trông anh mập hơn mọi người. Lại có người gọi anh là Chương địa vì anh có dáng dấp như Ông Địa. Riêng nhóm năm ba người bọn tôi thì gọi anh là Chương còm với ý dí dỏm và thân ái dành cho anh.

Anh Chương là đại úy Cảnh Sát, là người cũ của Trại A. Tôi chỉ mới biết Chương qua sự giới thiệu của anh Vũ Cao Hiến sau khi chuyển ra Trại A.

Chương hói người Miền Nam, tính tình anh hiền hoà và nói năng nhỏ nhẹ, miệng lúc nào cũng như muốn nở một nụ cười với người đối diện. Nếu không quen biết thì không thể nghĩ rằng trong con người ấy ẩn tàng một nghị lực phi thường.

Khi còn ở Trại Vĩnh Quang B, không ai biết là Chương hói đã từng bị giam ở Trại B. Chỉ mấy người làm nhà bếp là biết mặt Chương nhưng không biết Chương từ trại nào tới. Anh Võ Tấn Tài ở đội nhà bếp Trại B, cho tôi biết rằng trong khu nhà bếp có một cái giếng nước nhỏ, mỗi tuần một lần, Tài thấy công an dẫn một người tù ra giếng tắm. Khi phạm nhân này tắm, tất cả mọi người phải tránh xa, không ai được phép lại gần trò chuyện. Tài nói, “Mặc dù bị biệt giam lâu ngày trong nhà đá nhưng dáng vẻ đi đứng của hắn vẫn tỏ ra hiên ngang. Hắn không đi được nhanh vì chân yếu sau thời gian dài bị cùm nhưng mặt vẫn ngẩng cao nhìn trời nhìn đất như không có sự gì đáng quan tâm. Sau khi hắn tắm xong và được dẫn trở lại nhà giam thì tụi tôi mới được ra giếng làm việc lại. Ai dè hắn lại là Chương hói.”
Chương hói bị biệt giam vì tội liên lạc thư từ với vợ mình bằng “hóa chất”. Chương hói thuộc ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Có lẽ khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tan hàng, Chương dấu đươc một ít bút viết mà chữ không hiện hình trừ khi soi lá thư lên ngọn đèn thì mới đọc được. Vợ chồng Chương đã từng dùng hình thức này để qua mặt bọn cai tù nhiều lần rồi. Cuối cùng thì Chương cũng bị nghi ngờ vì “ăng ten” báo cáo. Chương không biết ai là người báo cáo vì rất nhiều người bị nằm trong danh sách nghi ngờ: hai người nằm bên cạnh trái và phải, bảy tám người nằm dãy giường đối diện với Chương.

Mỗi khi nhận thư của vợ, Chương đọc thư bình thường như mọi người khi trời còn sáng. Đợi đến tối, trước khi đi ngủ, Chương thắp một ngọn đèn dầu (tự chế bằng cách cắt phần dưới của một cái chai thủy tinh trong, ở giữa gắn một cái tim đèn, châm dầu vào đó là đã có một cái đèn rồi). Chương ngồi trong mùng đọc lại thư của vợ bằng cách soi thư lên đèn. Ai tinh ý một chút thì sẽ đánh dấu hỏi là tại sao thằng cha này đọc thư mà lại để ngọn đèn ở phía sau tờ giấy, tờ giấy che mất ánh sáng đèn thì làm sao mà đọc. “Ăng ten” đã nhận ra điều này và đi báo cáo.

Mỗi khi đọc thư xong, Chương đốt lá thư trong lúc giả bộ đi cầu. Vì thế, dù bị báo cáo, Chương cũng không bị bắt quả tang. Bọn cai tù tra hỏi nhưng Chương không chịu khai gì cả. Chúng nghi ngờ vì Chương là Cảnh Sát Đặc Biệt thì phải biết rõ những phương pháp viết thư tín bằng hoá chất. Chúng còn nghi ngờ rằng Chương được CIA cài ở lại để lấy tin tức. Theo suy nghĩ của riêng tôi, thì có lẽ chúng khám xét và bắt được cây bút đặc biệt của Chương cho nên chúng mới tìm mọi cách để khai thác tin tức nơi Chương nhưng Chương không chịu khai gì. Vì thế chúng mới nhốt Chương vào nhà kỷ luật một lèo gần một năm mới thả ra. Nhốt ở Trại A chán, chúng lại đưa tới Trại B nhốt tiếp để uy hiếp tinh thần của Chương. Nhưng chúng đã chịu thua nghị lực của Chương. Tôi nói “Có lẽ…” vì Chương không bao giờ xác nhận với bọn tôi là Chương có loại bút đặc biệt đó, điều này cũng thông cảm cho Chương vì khi còn nằm trong vòng cương tỏa của Việt Cộng thì Chương phải cảnh giác chứ.
Nói về thời gian ăn cơm tại nhà biệt giam thì BS Điền nhiều hơn Chương. Nhưng nói về sự khủng khiếp và khổ sở liên tục thì Chương vượt xa BS Điền. Bọn Việt Cộng đánh giá ông Điền thấp, cho ông nằm nhà đá một vài tháng rồi thả. Nếu như ông Điền biết giữ mồm giữ miệng thì đâu có bị nhốt tiếp nữa. Chỉ vì khi ra khỏi nhà giam, ông lại tiếp tục nói xấu “Cách Mạng” mới ra nông nỗi.

Tôi gặp Chương hói vào một buổi chiều ngày Thứ Bảy. Chương đi cùng với Vũ Cao Hiến đến chơi vớì tôi vì Hiến và tôi rất thân nhau. Sau màn giới thiệu của Hiến thì tôi mới biết đây chính là Chương, người mà tôi đã nghe về thành tích nằm nhà biệt giam lâu nhất trại. Chương lúc này có dáng dấp như một chú Ba Tầu Chợ lớn. Tôi không ngờ chỉ mới được ra khỏi nhà biệt giam có mấy tháng mà Chưong đã lấy lại phong độ quá nhanh. Chúng tôi không bị biệt giam, ở bên ngoài, còn đi kiếm chác những thứ có thể ăn được, thế mà không có da có thịt như Chương đâu. Tôi chắc là nhờ có ý chí kiên cường và tinh thần vững mạnh, mà Chương không bị suy sụp về thể chất.

Hiến nói với tôi:

-   Chương có tài về tướng số, tử vi đấy, anh Thái cho biết ngày sinh để Chương lấy cho anh một lá số tử vi xem sao.

Chương nói đùa:

-   Thày này chỉ cần lấy công một ly cà phê thôi, bảo đảm không sai không lấy tiền.

Tôi cười:

-   Gì chứ cà phê thì có ngay. Cà phê của tôi là loại nguyên chất cơm cháy rang đấy.

Cả ba chúng tôi cùng cười và chúng tôi ngồi nói chuyện, hút thuốc lào chừng một tiếng thì giải tán, ai về buồng đó. Trước khi về, Chương ghi ngày sinh và giờ sinh của tôi. Tôi không rõ giờ sinh của tôi cho nên tôi nói rằng: “Mẹ tôi cho biết tôi sinh vào buổi tối mà không rõ giờ nào cả.”




Khoảng hai tuần lễ sau, Chương đi một mình tới gặp tôi vào buổi trưa ngày Chủ Nhật. Hai chúng tôi kéo nhau ra ngoài sân, chỗ có bóng mát ngồi nói chuyện. Chương móc trong túi ra hai tờ giấy vẽ chằng chịt trên đó. Tôi biết đó là lá số tử vi mà Chương đã làm cho tôi. Chương bảo tôi cho hắn xem đỉnh đầu để xác định cái xoáy đầu của tôi. Xem xong, Chương lựa ra một lá số không cần tới, bỏ vào túi. Chương nói: “Tôi làm cho anh hai lá số có giờ sinh khác nhau, một cái giờ Dậu (tức là từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối), một cái giờ Tuất (tức là từ 7 giờ tối đến 9 giờ tối). Tôi vừa xem xoáy đầu của anh thì anh phải sinh vào giờ Tuất mới đúng, do đó tôi bỏ lá số giờ Dậu đi.”

Chương dùng ngón tay dò đi dò lại trên tờ số tử vi một lúc rồi ngẩng đầu nhìn tôi:

- Anh thuộc loại cứng đầu.
- -?Huh
- Không, nói đúng hơn, anh thuộc loại cao số.
- Huh?
- Cái ông anh mới ra thăm anh tuần trước, chắc chắn không phải là anh ruột của anh. Có thể ông ấy là anh bà con hay gì gì đó, chứ không phải anh ruột.
- Sao anh biết?
- Lá số của anh cho thấy anh có số “làm trưởng”. Nếu như anh có các anh trai, thì bằng cách nào đó, các ông ấy cũng phải ra đi để có chỗ cho anh lên làm trưởng. Lúc này chắc chắn là anh đang “làm trưởng” rồi đấy, chịu chưa, tôi nói tiếp?
Tôi gật đâu xác nhận:
- Tôi có cả thảy 5 ông anh trai nhưng các ông ấy đã rủ nhau ra đi hết rồi, bây giờ thì đúng là tôi đang là con trai trưởng mặc dù tôi đứng thứ mười trong gia đình.
- Trong gia đình thì vậy, còn ở ngoài đời cũng tương tự thôi. Trong quân đội, mặc dù đôi khi anh giữ chức phó của một đơn vị nào đó, thì, có thể vì ông đơn vị trưởng kém tài hoặc vì ông đơn vị trưởng hoàn toàn tin tưởng nơi anh, mà trao phó cho anh điều hành mọi công việc trong đơn vị. Còn các ông ấy chỉ ngồi làm vì ( ngồi chơi) mà thôi.

Chuyển sang phần vợ con, Chương nói:

- Lá số này cho thấy bà xã anh có sao Tử Vi chiếu mệnh, rất tốt, bản mệnh bà ấy rất vững; dù hoàn cảnh thế nào thì bà ấy vẫn vững vàng chống đỡ.

Chương còn nói rất nhiều về lá số tử vi của tôi nhưng tôi không kể ra ở đây, phần vì thấy không cần thiết, phần vì lâu ngày rồi nên tôi không nhớ hết.

Chúng tôi ngồi tán dóc với nhau rất lâu đồng thời thưởng thức cà phê mà tôi mới được tiếp tế, không phải uống cà phê tự làm bằng cơm cháy rang như mọi khi nữa. Từ đó hai chúng tôi càng ngày càng thân tình. Ngày tôi ra phi trường Tân Sơn Nhất đi Hoa Kỳ, Chương và mấy người bạn nữa đi tiễn tôi, gồm có Trần Cao Chánh, Nguyễn Phan Đệ, và Bình bốt. Tôi còn giữ được tấm hình chụp 5 người tụi tôi lúc đứng ở phi trường (Xem hình ở cuối sách). Từ đó đến nay đã hơn 17 năm rồi (1991-2008), tôi chưa gặp lại ai trong số 4 người bạn này, nhưng vẫn hy vọng…Quả đất tròn mà.


6.10. Đánh cho chừa cái tội kiếm điểm

Chuyện này bắt đầu từ Trại Vĩnh Quang B và chấm dứt sau khi chúng tôi ra Trại A được vài tháng. Những nhân vật chính có liên quan đến chuyện này gồm có các anh Võ Tấn Tài (Thuỷ Quân Lục Chiến), Trần Hữu Thành (Lực Lượng Đặc Biệt), TCT * (Khóa 19 Võ Bị Đà lạt), và Hải “mập” (Lực Lượng Đặc Biệt).

* TCT đã chết bệnh sau khi sang định cư ở Hoa Kỳ, vì thế tôi không muốn nêu rõ tên anh.

Gọi là Hải “mập” để phân biệt với Hải “nháy”, Hải “đen”, và Hải “tặc”. Cái hình dung từ “mập” đã gợi cho ta mường tượng ra vóc dáng đầy đặn của Hải. Hải mập là khóa đàn em của Trần Hữu Thành.

Cả bốn người này đều làm ở đội nhà bếp khi còn ở Vĩnh Quang B. TCT làm Đội phó nhà bếp ( Trần Duy Phố là Đội Trưởng), Trần Hữu Thành bổ củi, Võ Tấn Tài phụ dịch, và Hải mập cũng làm phụ dịch. Những người trên đây đều đã được tôi nhắc đến đôi ba lần trong những bài viết trước đây. Có những sự kiện tôi đã nói đến sơ qua, tuy nhiên trong bài này tôi vẫn sẽ viết lại để cho bài viết có tính liên tục và chi tiết hơn. Trong chuyện này thì Hải mập là đối tượng của màn “Đánh cho chừa…”

Câu chuyện bắt đầu từ một buổi sáng ở Vĩnh Quang B. Mười người có nhiệm vụ gánh nước từ suối lên, đổ vào bể ở nhà bếp (Trong khu nhà bếp cũng có một cái giếng nhưng chỉ đủ nước dùng để rửa ráy chút ít thôi, vì thế phải dùng nước suối). Toán gánh nước vừa xong nhiệm vụ, chưa kịp nghỉ thì đã bị anh TCT giao cho nhiệm vụ kéo rác đi đổ. Anh Võ Tấn Tài nói nhỏ với TCT rằng: “Mày phải để cho anh em nghỉ chút rồi hãy giao việc mới, sức đâu mà làm liên tục được.”  TCT chỉ ậm ừ cho qua nhưng không theo lời đề nghị của Tài. Thế rồi, vừa đổ rác xong thì TCT lại giao cho công tác nhặt rau muống để nấu canh cho kịp cơm trưa. Anh Tài thấy vậy không dằn được tức giận, nói lớn với TCT: “Lúc nãy tụi tao đã ‘thi hành trước,’ bây giờ tụi tao ‘khiếu nại sau,’ làm liên tục như thế này ai mà chịu nổi?”  Tài nói lớn là có ý để cho tên quản giáo ngồi trong phòng cùng nghe luôn, để tránh sau này đội trưởng có thể sẽ báo cáo sai sự thực. Tài vừa nói xong thì TCT xông tới đấm cho Tài một cú vào mặt, Tài nhỏ con cho nên té nhào xuống đất vì cú đấm. Ngay lập tức, Tài chộp lấy một con dao bếp dự định chém TCT. Mấy người đứng ngoài can gián, bầu khí trở lại bình thường và mọi người bắt đầu nhặt rau bằng tay thay vì bằng dao như mọi khi (dao đã bị thu lại sau vụ đụng độ). Rau muống cho tù ăn rất già và dai, còn tệ hơn rau cho heo ăn ở Miền Nam, nếu nhặt rau bằng tay thì không thể kịp giờ cho chảo canh buổi trưa, vì thế Đội Trưởng Phố bắt buộc phải đưa lại dao cho toán nhặt rau muống. Khi vừa nhận được con dao, Tài vung dao chém ngay vào vai TCT. Rất may là lúc đó mùa lạnh, TCT mặc hai ba lớp áo dày cho nên không bị xẻ thịt. TCT bỏ chạy và Tài đuổi theo vòng quanh bờ giếng. Chỉ có anh Lộc (bạn thân của Tài) mới dám chạy ra ôm lấy Tài. Lợi dụng lúc Tài bị ôm, Hải mập tới dùng một thế võ khóa tay của Tài ra sau lưng và lấy lại con dao (Các sĩ quan LLĐB người nào cũng biết võ). Anh Tài và TCT được đưa vào phòng của quản giáo để giải quyết. Quản giáo hỏi Tài:
- Anh Tài, anh có biết dùng dao chém người như thế là tội nặng lắm không? Nếu bây giờ tôi ra lệnh cho anh chém anh TCT, anh có dám làm không?

Tài trả lời:

- Thưa cán bộ, cán bộ cũng nhỏ con như tôi, nếu như cán bộ bị người ta ỷ mạnh mà ăn hiếp cán bộ, thì cán bộ sẻ xử trí ra sao? Nếu chạy là hèn, tôi chắc cán bộ không chạy. Vậy thì cán bộ sẻ dùng súng hoặc dao để đánh lại đối thủ. Tôi đây cũng vậy, tôi đã nói lớn để cán bộ có thể nghe biết, nhưng tôi đợi mãi không thấy cán bộ làm gì do đó bắt buộc tôi phải hành động. Nếu cán bộ cho tôi chém anh TCT thì tôi làm liền, tôi được phép của cán bộ mà.

Trong khi Tài đang nói thì Hải mập đem con dao “tang vật” đặt lên bàn quản giáo. Tên quản giáo bảo Hải mập để dao ở đó rồi trở ra làm việc lại. Suy nghĩ một chút, tên quản giáo nói với Tài:

- Thôi, lần này rút kinh nghiệm, lần sau tôi sẽ cùm anh vào nhà kỷ luật đấy. Anh về viết tờ kiểm đìểm ngày mai đem nộp cho tôi.

Tài ra khỏi phòng quản giáo chừng 10 mét thì thấy TCT chạy theo. Tới nơi, TCT ngồi xuống ôm chân Tài, ngẩng mặt lên và nói:

- Tài, đây mặt tao đây, mày muốn đánh bao nhiêu thì đánh cho đã cơn tức đi. Mày đừng có để tâm thù oán tao nữa, mày có đồng ý như thế không?
- Bây giờ mày nói như vậy thì tao hết tức giận rồi, nhưng hứa với mày thì tao không hứa, cái đó còn tùy thái độ của mày sau này.
Tài trở về buồng, ngồi viết tờ kiểm điểm. Ngồi cắn bút mãi, chưa biết phải bắt đầu ra sao thì Lâm (cùng toán bổ củi với Thành) từ bếp chạy về buồng gặp Tài:

- Anh Tài, Quản Giáo bảo anh viết rằng anh cầm bó rau muống đuổi theo anh TCT nhưng anh TCT tưởng là anh cầm dao rượt anh ấy.

Nói xong Lâm trở lại bếp làm việc. Tài thắc mắc, tại sao lại có chuyện như vậy, Tài chưa hiểu, đang phân vân thì TCT vào buồng và nói:
- Tài, thằng quản giáo bảo rằng tao với mày phải khai giống nhau, rằng trong khi mày đang cầm bó rau để nhặt thì tao tới lời qua tiếng lại với mày và mày tức giận cầm bó rau đánh tao, tao lại tưởng là mày cầm dao cho nên tao chạy, mày đuổi…Tao sẻ viết bản kiểm điểm trước rồi đưa cho mày để mày đọc và viết cho ăn khớp.

Tài đợi cho TCT viết xong, sau đó dựa vào bản của TCT để viết bản kiểm điểm của mình. Viết xong, Tài trao cả hai bản kiểm điểm cho TCT đem nạp Quản Giáo.

Tài nghĩ, có lẽ Quản Giáo muốn cho việc này chìm xuồng, không muốn làm lớn chuyện để trại biết. Hắn bảo viết kiểm điểm như vậy để thủ thân, lỡ ra có ai báo cáo chuyện này lên Ban Chỉ Huy trại thì hắn đã có hai bản kiểm điểm của Tài và TCT để cho trại thấy đây là chuyện nhỏ, không đáng quan tâm. Hắn làm vậy không phải là thương gì hai thằng tù, mà là để bảo vệ cái chức vụ béo bở (quản giáo đội nhà bếp) của mình thì mới có cơ hội chấm mút; giàu nhà kho, no nhà bếp mà.

Chuyện gây gổ giữa Tài và TCT đến đây coi như xong, và cũng không bao giờ tái diễn nữa vì TCT biết rằng mình đụng phải thứ dữ, “người ruồi gây máu lửa.” Tuy nhiên, từ đó mới đưa đến mối căm tức của Tài đối với Hải mập.

Tài và Thành là cặp bài trùng, làm gì cũng có nhau. Hai người thường ngồi ăn cơm chung với nhau. Sau vụ này, Tài nói với Thành:

- Thằng Hải mập cà chớn, tôi phải trừng trị cho nó về cái tội kiếm điểm với quản giáo. Lúc tôi bị thằng Lộc ôm tôi, thay vì nó đến gỡ con dao trong tay tôi là xong, đâu có còn gì xảy ra nữa. Đằng này, nó lại dùng thế võ bẻ quặt tay tôi, khóa lại sau lưng rồi đẩy tôi vào phòng thằng quản giáo để ra cái điều là mình đã ra tay ngăn chặn được một sự việc đáng tiếc.  Nó còn làm tôi bực bội khi thấy nó mang con dao “tang vật” đặt lên bàn quản giáo trong khi quản giáo đâu có bảo nó mang dao vào. Tôi phải cho nó “biết thế nào là lễ độ.” 

Thành nói:

- Thôi anh Tài, chuyện đó để tôi làm cho. Nó là đàn em của tôi thì tôi phải dạy nó. Tôi hứa là tôi phải làm nhưng chưa làm bây giờ được. Mình phải kiên nhẫn đợi thời cơ để khi mình trừng trị nó mà mình không phải vào nằm nhà kỷ luật mới là hay.

Thời gian trôi dần, công việc nhà bếp vẫn diễn tiến bình thường, duy có điều là Hải mập càng ngày càng lộ liễu thái độ xun xoe kiếm điểm để mong được cất nhắc lên làm một chức vụ gì đó trong đội hoặc trong trại. Điều này càng làm cho Tài nóng mặt và hối thúc Thành phải giải quyết cho nhanh. Mỗi lần như vậy thì Thành đều nói là chưa thuận tiện, “Mình đánh nó lúc nào chả được, nhưng vội vã quá là mình sẽ nằm nhà đá mệt nghỉ đấy.”

Đến ngày toàn bộ tù (Sĩ Quan QL/VNCH) phải chuyển ra Trại A, tưởng rằng khó có dịp để Hải mập lãnh nhận “bài học lễ độ.”  Tài và Thành không còn ở chung một đội (buồng) nữa. Thành về đội cầy bừa với tôi mà đội trưởng là Nguyễn Quang Ngọ. Tuy ở khác buồng nhưng đến giờ ăn cơm, Tài mang phần cơm của mình sang buồng tôi để cùng ngồi ăn chung với Thành.
Hải mập được sự giới thiệu của Trại B cho nên bây giờ sang Trại A, được cho làm đội trưởng nhà bếp, thay thế cho đội trưởng cũ (của Trại A) đã chuyển trại.

Làm đội trưởng nhà bếp Trại A được chừng vài tháng, Hải mập tìm cách kiếm điểm với trại trưởng bằng một báo cáo. Mà, báo cáo này lại nhắm vào ngay quản giáo đội nhà bếp. Báo cáo rằng quản giáo đã ưu đãi bọn “đầu gấu” (*), rằng trong những ngày lễ lớn có giết heo hoặc trâu, bọn đầu gấu được lấy riêng một ít ra xài, trước khi đem nấu món ăn cho cả trại, và rằng quản giáo cho tụi nó lấy gạo xài thoải mái làm cho sút giảm tiêu chuẩn gạo của tù v.v…

(*)“Đầu gấu” là tiếng dùng để chỉ mấy tên tù hình sự ở tù lâu năm và được sự tin tưởng của trại, cho chúng đi lao động tự giác (ra ngoài không có công an bảo vệ đi theo canh gác). Thường thường “đầu gấu” là mấy tên chúa trùm của đám tù hình sự và được bọn tù hình sự cung phụng đủ thứ. Người nào có thăm nuôi, tiếp tế mà không nộp “thuế” cho chúa trùm là sẽ bị ăn đòn mập mình ngay.
« Trả lời #36 vào lúc: Tháng Mười 02, 2009, 04:56:50 PM »


(tiếp theo đoạn 6.10)

Quản giáo bị trại trưởng gọi lên hạch hỏi. Dĩ nhiên là quản giáo chối nhưng trại trưởng đưa tờ báo cáo của Hải mập cho hắn coi. Hắn hết đường chối cãi và bị làm kiểm điểm. Sau đó hắn bắt đầu tìm cách đì (làm khó dễ) Hải mập và kiếm cớ để không cho Hải mập làm  đội trưởng nhà bếp nữa.

Chỉ chừng một tuần lễ sau, Hải mập mất chức đội trưởng, phải chuẩn bị bàn giao cho người khác. Việc Hải mập báo cáo tội của quản giáo đã được bọn đầu gấu loan truyền cho cả trại biết. Vì thế đội nào cũng không muốn nhận Hải mập vào đội của mình.

Nhân cơ hội này, anh Thành nói với Đội Trưởng Ngọ rằng: “Đội mình đang thiếu người cầy, mà thằng Hải nó to con, anh nên xin nó về đội mình cho nó đi cầy với tôi, anh xếp chỗ nằm của nó bên cạnh tôi để tôi trị nó cho anh vì nó là đàn em của tôi.”  Anh Ngọ đồng ý ngay và xin Hải mập về đội tôi một cách dễ dàng; có ai giành đâu mà không dễ.

Hải mập sau khi bàn giao xong thì mang đồ đạc về đội tôi vào một buổi trưa trong lúc đội vừa ở ruộng về. Hải mập vừa được Ngọ chỉ định chỗ nằm thì Thành đi kiếm một cái đèn dầu tự chế bằng phần dưới của một chai thủy tinh. Vì đã có chủ đích cho nên Thành lựa cái đèn nào làm bằng thủy tinh nội hoá mỏng. Thành đem về chỗ nằm của mình làm bộ hút thuốc lào. Hút xong, Thành bắt đầu chửi Hải mập: “Đ.M., mày đã thấy nhục chưa? Mày là đứa lừa thày phản bạn. Mày phản bạn còn chưa đủ lại còn phản cả thằng xếp của mày nữa cho nên bây giờ mới ra nông nỗi.”  Lúc đầu Hải mập còn ngồi chịu trận cho “đàn anh” xỉ vả nhưng bị chửi lâu trong khi có sự hiện diện của cả đội, Hải mập tự ái chửi lại. Anh Thành chỉ chờ có vậy là đánh Hải mập liền. Hải mập cũng nhường đòn “đàn anh” mấy chiêu nhưng vì bị đau quá hóa liều, Hải mập đánh lại (LLĐB ai cũng học võ, không ít thì nhiều). Thành để cho Hải mập đá trúng một đòn để có thêm cớ đánh Hải mập.

Bây giờ là lúc Thành sử dụng cái đèn dầu mà Thành mới đem về khi nãy. Thành cầm cái đèn dầu lên, đồ hết dầu ra nền nhà, rồi dùng răng cắn bể mấy miếng thủy tinh và nhai xào xạo trong miệng. Không những thế, tiện tay, Thành còn dùng cái đèn dầu bề, cắt mấy vệt trên môi cho máu chảy ra để hớp hồn Hải mập. Thành dự tính rằng nếu Hải mập không biết “lễ độ” thì Thành sẽ phun những miếng thủy tinh (đang ngậm trong miệng) vào mặt Hải mập cho hắn đui hai con mắt và dùng cái đèn dầu bể, gạch thêm mấy đường trên mặt Hải mập “cho nó chết cha nó luôn.” Hải mập không ngờ “đàn anh” có ngón đòn độc nên đâm ra hoảng, bèn quì xuống ôm chân Thành và xin tha thứ.

Ngón đòn độc này anh Trần Hữu Thành học từ ngày còn đang học lớp Đệ Nhất (lớp 12) trường Chasseloup Laubard ở Sài-Gòn. Một hôm, anh tới uống bia tại một quán bán bia ở gần chợ Thái Bình. Khi đang ngồi uống, anh thấy một xe xích lô máy chở ba người lính Nhảy Dù tới quán bia. Ba người lính này đầu trọc lốc, mặt mũi đỏ gay, dường như đã uống rượu ở đâu trước khi tới đây. Họ kêu bia uống và hơi ồn ào. Khách uống bia từ từ rút lui hết vì sợ mấy người này gây chuyện – tránh voi chẳng xấu mặt nào. Cuối cùng chỉ còn lại Thành và ba người lính. Anh Thành ở lại vì tự tin rằng mình đã có một bản lãnh võ thuật khá cao, có thể đối chọi với ba người lính này. Thành nghĩ rằng dù họ có võ cũng không sợ vì bây giờ họ đang say, chân nam đá chân xiêu, thì còn đánh đấm gì. Về phía ba người lính, có lẽ, họ thấy Thành không có dáng gì là du đãng và mặt mũi còn non choẹt cho nên họ coi như không có gì và tiếp tục uống.

Anh Thành vừa uống vừa quan sát họ. Một lát sau, một trong ba anh lính cầm cái ly bia đang uống, cắn bể mấy miếng thủy tinh của miệng ly rồi nhai rột rột và “nuốt” đi luôn. Thành cảm thấy phục tài anh lính và định bụng sẽ về nhà thực tập ngón nghề này. Uống hết chai bia, Thành ra về một cách bình thường, không có sự gì đáng tiếc xảy ra với ba anh lính Dù.

Thành về nhà, ra tiệm mua mấy cái ly thủy tinh. Anh chọn thứ ly nội hóa và thật mỏng để dễ thực tập. Mới đầu mà đã cắn ly loại cứng thì khó vô cùng. Nhà anh không có phòng riêng, tập ở nhà sẽ bị cha mẹ biết và rầy la. Thành đem mấy cái ly vào vườn Tao Đàn, chọn một chỗ vừa khuất vừa có bóng mát và ngồi thực tập. Thành bắt chước anh lính Nhảy Dù, cắn bể miệng ly, nhai nhỏ ra rồi nuốt luôn vào bụng. Cũng may cho Thành là anh mới nuốt vào bụng hai lần thì có người bạn Ấn Độ (học cùng lớp) đi ngang qua, gặp Thành:

- Ê Thành, mày ngồi làm gì ở đây mà có mấy cái ly bể bên cạnh vậy?
- Tao thấy có người cắn bể miệng ly rồi nhai và nuốt đi, hôm nay tao ra đây thực tập chơi.
- Không được đâu, nuốt thủy tinh vào rồi bị đứt ruột thì sao? Tao không nghĩ là người ta nuốt đâu, mà họ có xảo thuật gì đó mà mình không biết. Mày đã nuốt nhiều chưa?
- Mới có hai lần nhai thôi.
- Ngưng lại ngay và đi theo tao. Tao dẫn mày tới gặp sư phụ của tao để xem ông ấy có giúp được mày không.

Hai người tới nhà sư phụ của anh Ấn Độ và trình bầy cho ông biết mọi sự. Ông nói: “Nhai thì được nhưng nuốt không được đâu, mình nhìn thấy họ nuốt nhưng thực ra là họ dấu nó vào khóe miệng để dùng nó như là một vũ khí để phun ra, làm cho đối thủ mù mắt, hết thấy đường thì làm sao tấn công mình được nữa.”  Ông thày cho Thành uống một loại thuốc để trục hết những mảnh chai đã nuốt vào bụng mà không làm hư hại đến bộ phận tiêu hóa. Sau đó ông thày chỉ cho Thành biết cách nhai và ém mảnh vụn thủy tinh trong khóe miệng.

Trước đây, Thành tưởng rằng nhai và nuốt thủy tinh chỉ là để biểu diễn cho thiên hạ coi, tương tự như một trò xiếc. Bây giờ, Thành mới hiểu rằng “nuốt” là động tác giả để dấu “vũ khí” trong miệng mà thôi. Thành tiếp tục rèn luyện ngón nghề này mỗi ngày cho tới khi thành công mới ngưng. Bắt đầu thì cắn những ly mỏng và dòn. Dần dần tiến tới ly dầy hơn, cứng hơn. Khi ở Lưc Lương Đặc Biệt, thỉnh thoảng Thành cũng biểu diễn cho đồng đội coi, Thành nói: “Chưa bao giờ tôi phải cắn một cái ly có bề dầy ngang với bề dầy của cái đèn dầu hôi tự chế, nhưng hôm đó tôi đang giận và say máu nên làm tới luôn.‘

Đánh nhau xong, anh Thành ra bể nước bên ngoài đầu buồng phía sau, rửa mặt cho sạch các vết máu trên môi, miệng, và kín đáo phun hết những mảnh chai ém ở trong miệng ra ngoài rồi trở vào buồng thay quần áo sạch sẽ, ngồi chờ Tài sang ăn cơm.

Anh Tài, như thường lệ, lãnh phần cơm xong thì mang sang buồng tôi. Khi vừa bước qua cổng (không phải cửa) vào khu buồng tôi, Tài thấy Hải mập đang đứng chờ ở phía trong cổng với cái mặt sưng húp. Hải nói:

-Anh Tài, từ trước đến nay, tôi đối xử với hai anh rất tốt mà sao anh lại xúi anh Thành đánh tôi như thế này. Tôi không biết là tôi đã làm gì mất lòng anh, anh có thể cho tôi biết được không để tôi còn biết đường mà tránh?

Tài không dám nhắc lại cái vụ Hải mập cướp dao của Tài. Trước đây Tài và TCT đã làm kiểm điểm rằng Tài cầm bó rau muống đuổi TCT, nếu bây giờ nhắc lại vụ bị giật dao thì lại lòi ra cái vụ làm kiểm điểm láo, Tài nói:

- Mày cứ nhớ lại tất cả những việc mày làm từ khi còn ở Trại B thì sẽ rõ. Tao không cần phải nói lại làm chi cho tốn sức. Nói xong, Tài bỏ Hải mập và đi vào trong buồng với Thành. Vừa thấy Tài vào tới, Thành đứng lên, vừa đập tay vào ngực mình liên tục vừa nói:

- Thằng Thành này đã hứa là phải làm. Thằng này không bao giờ hứa lèo với ai cả. Bạn đã thấy mặt mũi thằng Hải mập chưa?
- Thấy rồi, sao?
- Từ mấy tháng nay tôi biết rằng bạn luôn luôn cho tôi là thằng hứa cuội cho xong chuyện. Bây giờ là lúc trả lời cho sự nghi ngờ của bạn đấy.

Thế rồi hai người ngồi ăn cơm và Thành kể lại diễn tiến của sự việc cho Tài nghe không sót một chi tiết.

Ba ngày đã qua đi mà không thấy cán bộ của đội cũng như của trại có một phản ứng nào về vụ Hải mập bị đánh mặc dù chuyện này đã được bọn “đầu gấu” loan truyền đi rất nhanh. Bọn đầu gấu rất có ảnh hưởng đối với các cán bộ quản giáo của chúng vì chúng là nguồn cung cấp đủ thứ nhu cầu cho tụi cán bộ. Trong sự loan truyền tin tức này, chúng cũng gián tiếp ca tụng anh Thành đã ra tay “trừ gian diệt bạo” giùm cho chúng. Công việc “làm ăn” của chúng đang suôn sẻ thì Hải mập lại thọc gậy bánh xe, đi tố cáo lên trại trưởng những việc làm của chúng. Có lẽ, trong thâm tâm bọn cán bộ đều có chung một ý nghĩ rằng để mặc kệ nó, “cho nó đáng đời.”  Vì thế mà Thành chẳng bị hỏi han gì cả. Điều quan trọng nhất là Đội Trưởng Ngọ không báo cáo gì lên cho quản giáo. Còn X. heo thì thấy cái mặt sưng húp của Hải mập, sợ rằng rồi cũng sẽ tới phiên mình cho nên không dám ho he gì cả.
Thành thấy mọi sự êm xuôi, mới nói với Tài:
-Bạn thấy chưa? Mình làm gì cũng phải lựa thời cơ thì mới được. Mình đánh nó mà mình vẫn phây phây không phải nằm nhà kỷ luật, như thế mới ngon chứ?
- Tôi chịu bạn rồi.

Mấy bữa sau, một buổi trưa trong lúc anh Thành đang ngủ, một thằng xếp sòng bọn đầu gấu tới lay chân Thành dậy:

- Anh Hai, dậy đi, em muốn nói chuyện này một tí.
- Có chuyện gì không mà tôi đang ngủ lại tới hỏi chuyện?
- Mấy bữa trước anh Hai chơi đẹp quá! Tụi em đang tìm cách nện cho nó (Hải mập) một trận mà anh Hai đã chơi trước tụi em rồi, tụi em mừng lắm.
- Vậy hả? Thôi về đi để tôi còn ngủ chứ.
- Anh Hai, em đã từng là dân dao búa ở Miền Bắc này nhiều năm, em chưa thấy ai có ngón nghề nhai thủy tinh rồi nuốt luôn. Nếu em có nghề này thì dân dao búa cả Hà Nội phải tôn em làm trùm đấy. Xin anh Hai chỉ cho em, bù lại, anh Hai muốn bất cứ thứ gì bọn em cũng cung cấp đầy đủ.
- Tôi chẳng có nghề gì đâu. Lúc đánh nhau, cùng quá thì tôi làm liều vậy thôi. Không có nghề thì làm sao truyền cho cậu em được.
- Anh Hai cứ dấu tụi em, nhất định là anh Hai phải có nghề thì mới dám nuốt thủy tinh vào bụng chứ.
- Thôi cậu ơi, để khi nào rảnh mình nói chuyện, bây giờ tôi phải ngủ để còn đi làm buổi chiều nữa.

Tên đầu gấu ra về. Cứ vài ba ngày, hắn lại tới gặp Thành vào buổi trưa và không quên mang theo, lúc thì ít thuốc lào ngon, lúc thì ít đường, khi thì ký mắm tôm v.v… Anh Thành vẫn nhận nhưng lúc nào cũng chối rằng mình không biết nghề gì cả. Sự việc cứ thế tiếp diễn cho đến ngày chuyển trại.

Ghi chú: Chuyện Hải mập bị đánh, tôi viết theo lời kể của anh Võ Tấn Tài (một nhân vật trong chuyện). Trong lúc sự việc xảy ra, tôi đang chăn trâu ở ngoài đồng. Khi cả đội ra ruộng thì tôi mới trở về buồng. Tôi chỉ biết có đánh nhau giữa Thành và Hải mập, thế thôi.


6.11. Cặp bài trùng ở bệnh xá

Vĩnh Quang A có bác sĩ Lê Thiện Điền nhưng ông này không được trại cho làm ở bệnh xá vì ông vào nhà kỷ luật như cơm bữa vì tội chửi “Cách Mạng” và chê bai bọn y sĩ Việt Cộng. Đây là cái cơ may cho X. Trại cho X được lên làm ở bệnh xá, phụ tá cho tên y sĩ Việt Cộng. Tên y sĩ này tin tưởng ở X cho nên đã trao toàn quyền “sinh sát” trong tay X. Ngoài ra, còn có Y (thiếu tá) cũng làm ở bệnh xá. Vì X có gốc là Sĩ Quan Trợ Y cho nên Y phải ở dưới quyền của X. Hai người này hợp thành một cặp bài trùng, tung hoành ở bệnh xá.

Một người bạn tôi, anh C. nói rằng anh biết X ngay từ ngày đầu đi trình diện “cải tạo” ở Sài Gòn và cùng chung trại với nhau một thời gian. Anh C. cho biết sau này gặp lại X, thấy anh ta có thái độ đối xử với bạn bè khác hẳn. Tôi ở Vĩnh Quang A chừng sáu tháng nhưng chưa bao giờ lên bệnh xá khai bệnh, và tôi cũng chưa bao giờ nói chuyện với X vì thấy X có thái độ kẻ cả với đa số (đa số chứ không phải tất cả) anh em trong trại.

Vế thứ hai của câu tục ngữ “Giầu đổi vợ, sang đổi bạn” đem áp dụng cho X thì không sai tí nào. Tự cho mình là thành phần “trí thức”, X thường kết thân với những người có bằng cấp văn hóa cao như luật sư, kỹ sư, giáo sư. Còn những người như bọn tôi đều bị coi là loại võ biền và bị nhìn bằng nửa con mắt, không đáng để X kết bạn. Buồng tôi chỉ có một người là Ch. được X kết thân vì anh Ch. trước đây đã từng là giáo sư và là thẩm phán; trong quân đội, anh Ch. là Ủy Viên Công Tố tòa án quân sự. Đôi khi tôi cũng thấy X nói chuyện với anh đội trưởng đội tôi, nhưng không tỏ ra thân thiết, vì anh đội trưởng là cựu thiếu tá (cấp tá họa chăng mới được là bạn của X).

Câu “Lương y như từ mẫu” hoàn toàn không đúng với trường hợp của X. Ở bệnh xá ít khi có thuốc chữa bệnh, giỏi lắm là mấy viên xuyên tâm liên mà thôi. Công việc chính của X hàng ngày là khám bệnh, không phải để cho thuốc trị bệnh, mà là để quyết định ai được nghỉ và ai phải đi làm. Bệnh xá của trại nào cũng đều đề ra một tỉ lệ nghỉ bệnh mà y sĩ phải tuân theo, không được vượt quá tỉ lệ đó. Nếu là người có công tâm thì X sẽ cho những người bệnh nặng được nghỉ. Trên thực tế thì ngược lại, X dành ưu tiên nghỉ bệnh cho bạn bè và phe nhóm dù bệnh nặng hay nhẹ. Bao giờ còn chỗ trống thì mới đến lượt những người khác. Do đó số người ưa X (phe nhóm) cũng có, nhưng số người không ưa (phải nói là căm tức mới đúng) vẫn là đa số. Một người trong nhóm thứ hai này là anh Võ Tấn Tài.

Anh Tài bị bệnh “nước ăn chân”, da ở mấy kẽ ngón chân lở choè choẹt làm cho ngón chân dính lại với nhau, đi lại rất là khó khăn. Đi giầy không được (mà giầy đâu mà mang!). Tù đi làm thường mang dép râu (loại dép làm bằng vỏ xe hơi), đất cát tự do lọt vào trong hai kẽ chân. Mỗi lần bàn chân đụng đậy, những hạt cát này cọ xát vào da thịt kẽ chân làm cho chủ nhân của nó đau rát vô cùng.

Tài lên bệnh xá khai bệnh với hy vọng rằng dù không có thuốc thì cũng được nghỉ một vài ngày cho chân bớt đau. Nhưng hy vọng đó bị tiêu tan khi nghe X và Y nói rằng “Không sao, về đi làm,” sau khi hai vị “lương y” coi chân Tài. Tài nói với tôi:

“Tôi thấy có nhiều người dáng dấp còn khoẻ mạnh, mặt mũi vẫn tươi tỉnh không có dấu gì là bệnh nặng mà lại được nghỉ. Sau này tôi mới khám phá ra rằng mấy người đó thuộc phe nhóm của X. và Y.”

Tài vẫn kiên nhẫn, thử đi khai bệnh vài lần nữa nhưng đều bị từ chối như lần đầu. Tài tức giận lắm và từ đó cho đến khi chuyển về Trại Nam Hà, Tài không thèm ngó tới bệnh xá nữa.

Năm 1992, Tài tình cờ gặp Y tại một cửa tiệm ở Houston mà chủ nhân là người Việt Nam. Tài hỏi hắn:

- Có phải anh là Y, trước đây làm ở bệnh xá Trại Vĩnh Quang A? Anh có còn nhớ tôi không? Tôi tên là Tài nè, và đã từng bị anh và X. không cho tôi nghỉ bệnh mặc dù chân tôi đi muốn không nổi. Không ngờ mình lại gặp nhau ở đây nhỉ? Nghĩ cũng nực cười.”

     Y thấy Tài nói như vậy, sượng mặt, chỉ ú ớ mà không biết trả lời sao cho ổn, mà cũng không thể lánh mặt Tài đươc vì lúc đó Y đang làm thư ký cho cái tiệm mà Tài vừa vào. Ít lâu sau, Tài nghe bạn bè nói lại là Y đã chết vì bệnh.
6.13. Đi khỏi Vĩnh Quang A

Ngày chờ đợi đã đến. Một buổi sáng tháng 11/1982, trời sáng đẹp, chúng tôi đang chuẩn bị đi làm công việc thường ngày thì có lệnh của trại do “Trật Tự Trại” (Nguyễn Thành Th.) đi từng buồng thông báo:

- Đội cho người xuống nhà bếp lãnh cơm sáng và cơm trưa luôn. Ăn sáng “khẩn trương” (lẹ lên) rồi tất cả mang hành trang ra sân lớn của trại để kiểm tra.

Mọi người nhao nhao lên:

- Chuyển trại rồi, chuyển trại rồi.

Tôi nói với anh Diện:
- Có gì cần giấu thì giấu trong người, kiểm tra xong là nó sẽ không cho vào buồng cũ của mình nữa đâu.

Diện bảo tôi:
- Mình có gì đâu mà giấu với diếm, có mỗi một “cái cần giấu” thì lúc nào chả lủng lẳng trong quần.

Cả hai chúng tôi cùng cười và thu dọn đồ đạc bỏ vào túi đeo lưng (loại tự chế, chứ không phải ba lô nhà binh), vội vàng ăn sáng rồi mang ba lô ra sân trại.

Tôi có một cái ghế xếp bằng gỗ do một người bạn cho tôi khi anh được thả ra, ngày còn ở Trại Vĩnh Quang B. Tôi cũng lấy làm lạ là tôi chỉ biết anh chứ không chơi thân với anh. Lẽ ra cái ghế này anh phải cho những người bạn khác của anh, nhưng anh đã không làm như vậy. Vì không phải là bạn thân và anh cũng chẳng phải là người có hành vi gì nổi bật trong trại cho nên giờ này tôi không còn nhớ tên anh là gì nữa.

Cái ghế làm bằng một loại gỗ rất chắc, không phải là gỗ lim hay gỗ gõ nhưng tôi không biết nó là loại gì. Có lẽ một người nào trước đây làm ở đội mộc, đóng cho anh, chứ tôi biết anh không phải là thợ mộc. Tôi rất thích cái ghế này vì nó rất gọn, khi xếp lại nó chỉ dầy độ 4cm (chưa tới 2 inches) và có hình chữ nhật cạnh 25cm x 20cm (10” x 8”), lại có tay cầm giống như một cái hộp gỗ nhỏ. Cái ghế không dùng bất cứ một cái đanh nào (trại tù làm gì có đanh!) mà chỉ ghép với nhau bằng mộng thôi. Tôi định bụng sẽ giữ gìn cái ghế này để khi ra khỏi tù, đem theo về nhà làm vật ghi nhớ cuộc đời tù tội của tôi. Trên mặt ghế tôi sẽ ghi tất cả tên các trại tù và thời gian tôi ở từng trại. Mặc dù lệnh đã ban ra là phải gọn nhẹ, mỗi người chỉ được phép đeo một ba lô sau lưng, tôi vẫn nghĩ là cái ghế này sẽ không hề gì vì nó nằm gọn trong ba lô của tôi. Nhưng…

Chúng tôi đứng vào từng đội, “bày hàng” ở trước mặt để cán bộ An Ninh Trại (trung úy Công An) và Trật Tự Trại (tù nhân Nguyễn Thành Th.) đi khám từng người. Bất cứ cái gì mà chúng thích là chúng có lý do để tịch thu mặc dù nó không cồng kềnh, choán chỗ. Gương lược do tù tự tạo để làm quà kỷ niệm cho vợ con thì chúng bảo là đồ kim khí, không được phép giữ. Cái ghế của tôi thì chúng bào là cồng kềnh không thể mang theo, chúng không cần biết mặc dù tôi đã biểu diễn bỏ cái ghế vào túi đeo lưng cho chúng coi. Nhiều người buồn bực vì gương lược đã thoát nhiều lần kiểm kê mà hôm nay hết thoát nổi. Tới lúc này, chúng tôi mới vỡ lẽ ra là chúng cố làm một chuyến tầu vét, vét được bao nhiêu hay bấy nhiêu vì từ đây không bao giờ còn có tù (Sĩ Quan QL/VNCH) bị giam tại trại này nữa. Diện nói nhỏ với tôi:

- Chắc lại có thằng chó chết nào “vẽ đường cho hươu chạy” đây.
- Chứ còn gì nữa.
- Anh nghĩ tên nào vậy?
- Khó mà xác định nhưng người đáng nghi nhiều nhất là thằng “Trật Tự Trại”.
- Tôi cũng nghĩ vậy.


Sau khi xét đồ xong, chúng xáo trộn các đội và chia ra từng nhóm mới, mỗi nhóm 25 người (đủ cho một xe Molotova). Chúng tôi ngồi chờ xe sau khi đã chia nhóm xong. Khoảng sau 12 giờ trưa thì xe tới, chúng tôi lần lượt lên xe theo chỉ dẫn của An Ninh Trại. Còng số tám được đem ra dùng.

Một còng dùng cho hai người, tay trái người này còng với tay phải người kia. Vì số người là 25 (số lẻ) cho nên anh nào xui, dính vào số 25 thì bị còng vào thành xe. Trong số còng này, đa số là do toán lò rèn làm, vì thế cặp nào hên thì gặp còng tự chế, vòng còng rộng rãi (do sự cố ý của lò rèn) có thể tự mình rút tay ra khi nào muốn, không cần phải chìa khoá. Cặp nào xui, dính phải còng đúc thì hết đường cựa quậy, muốn đi tiểu thì hoặc là cả hai cùng đi, hoặc là phải xin công an bảo vệ mở khóa cho.

Anh Phạm Dư Chất và tôi còng chung một còng. Anh Nguyễn Quang Ngọ là người thứ 25 cho nên anh bị còng vào thành xe. Xui xẻo cho Ngọ là anh dính phải loại còng đúc cho nên anh không thể tự rút tay ra được. Vì thế khi ngừng dọc đường cho tù xuống đi tiểu, anh Ngọ không thèm kêu công an mở khóa, mà anh cứ đứng ngay tại chỗ trên xe và mở khoá “vòi nước” cho nó chảy xuống đường.

Sau khi đã kiểm kê và chắc chắn không còn sót ai, trưởng đoàn xe cho lệnh khởi hành. Trên ca bin mỗi xe, ngoài tài xế ra còn có một công an dẫn giải. Đoàn xe từ từ lăn bánh ra khỏi cổng trại. Thường thì khi di chuyển tù, bọn cộng sản dùng xe bít bùng, người ngồi trong xe không thể nhìn ra ngoài cho đến khi nào tới nơi; người ở ngoài cũng không biết là trên xe chở cái gì. Lần này chúng để xe mui trần, chúng tôi tha hồ nhìn ngắm cảnh vật trên trời dưới đất. Nhất là hôm nay thời tiết ở vào cuối Thu - đầu Đông cho nên rất dễ chịu. Lần ra đi này, riêng tôi có cảm giác vui vui vì nghĩ rằng những ngày tháng sắp tới sẽ không còn đáng sợ như trước đây nữa. Xe đi một lúc thì hết còn nhìn thấy Vĩnh Quang nữa. Thôi nhé, từ biệt Vĩnh Quang, từ biệt Vĩnh Quang!

Xe ra lộ chính thì nhắm hướng Đông – Nam chạy tới. Chúng tôi đoán là sẽ đi về Hà Nội nhưng chưa rõ điểm đến đích thực là đâu. Trại Hà Tây chăng? Nếu là trại Hà Tây thì “tốt nhất” vì nó ở gần Hà Nội. Chúng tôi nghe những người tới thăm nuôi nói rằng trại Hà Tây là trại tù có không khí thoải mái nhất vì nơi đây được dùng làm nơi trình diễn với thế giới bên ngoài về chế độ nhốt tù của Việt Cộng. Nhờ vậy mà tù nhân được hưởng nhiều dễ dãi hơn các trại tù khác. Công việc trình diễn để che mắt các phái đoàn thăm viếng ngoại quốc là “nghề của chàng (vc)” mà.

Trên xe tôi có anh Vũ Cao Hiến, nổi hứng hát lên những bản tình ca cho mọi người thưởng thức. Anh Hiến có máu nghệ sĩ trong người. Anh đã từng sáng tác một ít bản tù ca trong những ngày tháng trước đây. Hiện giờ anh Ngọ và một số bạn của Ngọ vẫn còn giữ được CD thâu một số bản tù ca của Hiến.

Chẳng mấy chốc, xe chở chúng tôi đi ngang Hà Nội. Bọn công an cho đoàn xe ngừng tạị phố Hàng Chuối (*) để chúng vào các quán bên đường uống nước. Chúng tôi không được phép xuống xe, mà chỉ ngồi trên xe nhìn ngắm cảnh trí Hà Nội. Tôi không phải là dân Hà Nội cho nên không có gì bồi hồi xúc động. Những người trước đây đã từng sống tại Hà Nội, có lẽ không ít thì nhiều, cũng có chút ít bồi hồi xúc động khi nhớ lại thời niên thiếu của họ ngày xưa.

(*) Anh Nguyễn Quang Ngọ, trước năm 1954 đã từng sống ở Hà Nội, cho biết chỗ chúng tôi đang ngừng xe là phố Hàng Chuối.

Dân chúng dưới đường nhìn lên chúng tôi, thấy chúng tôi không bị nhốt trong xe bít bùng, và chúng tôi không lộ vẻ gì là buồn bã, mà trái lại là khác. Họ tưởng rằng chúng tôi được tha. Một bà bán hàng rong, cỡ tuổi trung niên, nhìn tôi và hỏi: “Các ông được tha về hả?”  Tôi không trả lời mà giơ cái tay bị còng chung với anh Chất cho bà ta coi. Bà nói: “Vậy hả?” Thế rồi bà đi truyền miệng cho những bạn hàng xung quanh. Chỉ một lúc sau mọi người đều biết là “tù miền Nam chuyển trại.” Chúng tôi được họ quẳng lên xe cho những thứ gì họ đang bán, như thuốc lá, thuốc lào, kẹo v.v…

Không phải tất cả mọi người dân Hà Nội đã thay đổi thái độ, từ căm ghét khi chúng tôi mới ra Bắc, chuyển sang có thiện cảm như bây giờ đâu. Đó đây vẫn còn lẻ tẻ những cá nhân chưa hết hận thù. Điển hình là, một anh đang đánh xe bò đi ngược về hướng đậu xe chở chúng tôi. Anh ta cho xe bò đi sát lại đoàn xe, và bất thình lình, anh ta dùng roi đánh bò quất mạnh một cái lên xe mà anh Võ Tấn Tài đang ngồi. Đầu roi quất ngang mặt một bạn tù, làm thành một lằn roi nằm ngang má. Nếu chẳng may mà đầu roi đập vào mắt anh thì chắc là anh đã lên “Ông Một” rồi. (Ngày còn quân đội Liên Hiệp Pháp, người Miền Bắc gọi thiếu úy là Quan Một, trung úy là Quan Hai, và đại úy là Quan Ba bởi vì cấp thiếu úy mang một vạch vàng, cấp trung úy hai vạch vàng, và cấp đại úy ba vạch vàng trên cầu vai).

Ăn uống chừng 30-45 phút, bọn công an đi ra và cho xe chạy tiếp. Đoàn xe ra khỏi Hà Nội và càng lúc càng xa Hà Nội chạy về hướng Nam. Bây giờ thì chúng tôi biết chúng tôi sẽ không tới Hà Tây mà đoán là trại Nam Hà. Trời về chiều, gió hiu hiu thổi, tôi nhìn ra hai bên đường đã thấy những bác nông phu đang dẫn trâu về chuồng sau một ngày “lao động là vinh quang.”  Tôi mong cho chóng tới đích để còn được nghỉ ngơi sau nửa ngày ngồi gò bó trên xe, trong lòng vẫn hoang mang, chẳng biết đích đến có phải là Nam Hà không, hay là còn đi tiếp?




Chương 7
Trại Nam Hà A và C7.1. Đoàn xe vào Nam Hà

Đoàn xe chạy thêm một lúc nữa thì bắt đầu quẹo phải hướng về phía bến phà Phủ Lý. Vài anh “Bắc Kỳ  ri cư 54” tỏ vẻ sành sỏi:

- Qua phà Phủ Lý là đi vào Trại Nam Hà, chứ không còn sai vào đâu được nữa.

Lòng tôi mừng thầm vì sắp thoát khỏi cảnh ngồi gò bó trên xe từ trưa đến giờ. Đoàn xe tới bến phà thì dừng lại và lần lượt xuống phà qua sông. Biện pháp an toàn khi qua phà là mọi hành khách phải xuống khỏi xe, để lỡ có chìm phà thì tránh được nguy hiểm. Nhưng, biện pháp an toàn này không áp dụng cho chúng tôi: tù mà, có chết thì càng khoẻ cho “Cách Mạng” chứ sao! Chúng tôi phải ngồi luôn trên xe khi phà qua sông.

Khi xe tôi đã ở trên phà, tôi lẳng lặng rút tay mình ra khỏi còng. Anh Chất nhìn tôi như muốn hỏi tại sao. Tôi nói nhỏ đủ để anh nghe: “Rút tay ra trước để lỡ có gì thì mình khỏi bị chết chùm với nhau ở dưới sông.” Anh Chất tủm tỉm cười nhưng không nói gì. Tôi đoán, chắc anh đang nghĩ tôi là thằng nhát gan. Mặc kệ, nhát gan cũng đúng thôi. “Bơi trên cạn” thì chưa chắc ai đã ăn thằng này, nhưng ở dưới nước thì tôi bơi rất dở, tôi bơi tối đa là một lần chiều dài của cái hồ tắm mà tôi thường tắm ở suối Lồ Ồ trên đường đi Biên Hoà. Khả năng tôi như vậy thì làm sao bơi vào bờ khi phà bị đắm. Tôi còn cẩn thận hơn nữa cơ, tôi tuột sẵn đôi dép râu ra khỏi chân, sau đó mở ba lô lấy ra tấm ni lông và phủ sẵn nó lên cái ba lô trên đùi tôi. Nếu có chuyện gì là tôi bọc tấm ni lông bên ngoài cái ba lô để biến nó thành một cái phao bơi. Chuẩn bị xong xuôi, tôi mới an tâm ngồi nhìn dòng nước chảy lững lờ bên dưới. Lòng thầm nghĩ: Nước sông chảy đi và đi luôn, chứ không bao giờ chảy trở lại nơi nó xuất phát. Thời gian cũng thế, quãng thời gian quí giá nhất của đời tôi và các bạn tôi đã và đang bị bọn Cộng Sản gian ác cướp đi mất rồi, chẳng biết chừng nào chúng tôi mới được thả ra đây? Nếu chúng có thả ra thì cũng chẳng bao giờ chúng tôi lấy lại được những năm tháng quí nhất của đời mình đã trôi qua, bất giác, lòng tôi chùng xuống!

Phà cập bến, xe chạy từ phà lên bờ và đậu thành hàng dọc, đợi cho tất cả đoàn xe lên đủ rồì mới lăn bánh chạy tiếp. Xe càng lúc càng lên dốc, cuối cùng thì chúng tôi nhìn thấy một cái cổng trại, bên trên cổng có hàng chữ “Trại Nam Hà”. Tôi nghe lao xao mấy tiếng của một bạn nào đó cùng xe nói: “Nó đây rồì, cuối cùng thì bọn tao cũng bắt được mày, mày chạy đâu cho thoát hả Nam Hà?” Hầu như bọn tôi ai cũng hiểu hàm ý diễu cợt của người vừa nói câu trên với một tâm trạng vui vui.

Chúng tôi được lệnh xuống xe, ngồi sắp hàng trên một bãi cỏ rộng bên ngoài cổng trại. Công an dẫn giải lần lượt đi mở còng cho từng cặp để lấy lại còng đem về trại. Chúng tôi chờ khoảng nửa giờ thì có một tên công an từ trong trại đi ra, nhận bàn giao đủ số tù nhân mới đến và hướng dẫn chúng tôi vào trại. Trong trại có một cái sân tập họp khá rộng, chúng tôi tập họp tại đó, vẫn giữ đội hình như khi lên xe (nhóm 25 người). Cán bộ trực trại chỉ định từng hai nhóm một, tức là 50 người vào một buồng, sau đó bảo nhóm cử người để hắn dẫn xuống nhà bếp lãnh phần cơm chiều. Chúng tôi lãnh cơm, chia cơm cho nhau xong thì tới giờ đánh kẻng vào buồng. Phải đợi sau khi đã vào buồng và cửa buồng đã khóa, chúng tôi mới có thì giờ ăn cơm. Người nào cũng ăn vội vàng cho xong để còn lo chỗ ngả lưng cho khoẻ cái đã. Chuyện ngày mai, mai lo.

Tôi đi vào giấc ngủ lúc nào không biết. Khi tỉnh giấc thì cũng là lúc nghe kẻng báo thức. Mọi người đồng loạt thức dậy, gom đồ đạc cho gọn rồi chờ công an trực trại đến mở cửa buồng, ra sân sắp hàng điểm đầu người, báo cáo xong thì lo làm vệ sinh cá nhân. Bây giờ là lúc cán bộ trại xáo trộn và sắp xếp lại nhân sự mà Việt Cộng gọi là “biên chế”. Mỗi buồng vẫn là 50 người nhưng người thì từ buồng khác tới, người thì mang ba lô đi các buồng khác cứ nhặng xị cả lên. Cán bộ quản giáo của đội tôi tới. Hắn chỉ định một người làm Buồng Trưởng, một người làm Đội Trưởng. Xong việc, hắn bỏ đi. Buồng Trưởng và chúng tôi tự lo liệu sắp xếp chỗ nằm với nhau.


7.2.   Trại Nam Hà


Trại Nam Hà (*) trước kia được gọi là Trại Đầm Đùn, do người Pháp thiết lập từ trước năm1945 để nhốt tù . Sau tháng 7/1954, Việt Cộng cai trị Miền Bắc, thì được đổi tên thành Trại Ba Sao.

Sau này, năm 1976 khi có tù Miền Nam chuyển ra, nó đổi tên là Trại Nam Hà. Từ 1979 nó được đổi tên lần nữa, gọi là Trại Hà Nam Ninh

Trại nằm trong phần đất của tỉnh Hà Nam. Việt cộng gom ba tỉnh Hà Nam, Nam Định, và Ninh Bình thành một tỉnh mới, lấy tên là tỉnh Hà Nam Ninh. Do đó trại tù của tỉnh thì mang tên của tỉnh, tức là trại Hà Nam Ninh.

Khi chúng tôi tới trại (1982) thì tỉnh vẫn còn được gọi là Hà Nam Ninh nhưng sau này 1997) nó lại tách ra và trở lại tên cũ là Hà Nam.

Tuy nhiên, cái tên thông dụng để gọi trại là Nam Hà. Trại tù Nam Hà có 6 phân trại (*), gồm có A, B, C, D, E, và trại Mễ (vì trại nằm gần chợ Mễ).

(*) Viết theo Tạ Quang Hoàng, “Chuyện tù kể từ trại Nam Hà,” 2008.


Trại D,E, và trại Mễ đã bị dẹp bỏ trước khi chúng tôi tới Nam Hà.

Trại B bị dẹp bỏ sau khi chúng tôi tới Nam Hà chừng vài tháng. Do đó, cuối năm 1982, Nam Hà chỉ còn lại hai phân trại là A và C.

Nam Hà A là trại chính cho nên nó được xây cất rất kiên cố, và khang trang. Trại nằm trên đỉnh một ngọn núi mà đá nhiều hơn là đất. Hình thức xây cất cũng tương tự như Vĩnh Quang A. Ngoài cùng là bức tường bằng đá vôi cao hai mét (hơn 6 ft). Bên trong có nhiều buồng, mỗi buồng lại được quây kín bằng một bức tường đá cũng cao hai mét, chỉ để một cổng ra vào nhỏ để đi lại. Chỉ khác với Vĩnh Quang A là, cầu tiêu không xây liền với buồng ngủ, mà xây rời ra, cách tường buồng ngủ phía sau là 1 mét (hơn 3 ft). Cầu tiêu kiểu này sẽ tránh cho tù nhân không phải hít thở không khí hôi thối khi ở trong buồng ngủ.

Trong khu vực buồng ngủ, phía sát tường rào đều có trồng các luống hoa. Buồng nào khéo chăm sóc thì có các luống hoa đẹp. Lại còn có thêm hồ cá kiểng và núi non bộ nữa trông cũng bắt mắt lắm.

Tuy nhiên, không phải tất cà các buồng đều có vườn cảnh, luống hoa đâu. Chỉ có 6-7 buồng nằm phía ngoài, là nơi mà bọn Việt Cộng thường đưa các phái đoàn ngoại quốc ghé xem thì mới được o bế cẩn thận. Số buồng còn lại thì xập xệ hơn nhiều.

Thời gian chúng tôi tới trại (1982), trại có tổng cộng 18 buồng, đánh số từ 1 đến 18. Ngoài ra, còn có một buồng không đánh số, dùng làm bệnh xá của trại.

Từ cổng trại đi vào, trước mặt là một sân khá rộng; mặt sân nhiều đá dăm hơn là đất; ấy vậy mà tù vẫn dùng làm sân đá banh vào những ngày nghỉ. Ai không cẩn thận, bị té thì không tránh khỏi trầy trật chân tay. Ngay phía tay phải, gần cổng là một cái giếng hoàn toàn là đá vôi; thành giếng, vách giếng, và đáy giếng đều là đá vôi; không có một chút gì là đất hay bùn cả; vì vậy nước giếng rất trong, có thể thấy mọi thứ dưới đáy giếng. Nước dưới giếng không nhiều, chỉ sâu chừng 1 mét (hơn 3 ft), nước giếng chảy ra từ các mạch nhỏ ở đáy. Bờ thành giếng được xây bằng xi măng; phía ngoài bờ thành giếng cũng được tráng xi măng rộng thêm ra phía ngoài độ 2 mét (hơn 6 ft), tạo thành một cái hình vành khăn, và là nơi lý tưởng để đứng tắm.

Hai bên sân banh (mà cũng là sân tập họp) là các dẫy buồng ngủ. Một dẫy buồng ngủ nữa, nằm ngang ở phía cuối sân, tạo thành hình chữ U bao quanh sân. Ở cuối sân, ngay phía trước dẫy nhà ngang, còn có một phòng đọc sách. Phòng này chỉ để trình diễn khi có phái đoàn ngoại quốc tới thăm. Bọn Việt Cộng sẽ cho ban Văn Nghệ ra đó tập ca hát trong khi có khách. Lúc khách ra về thì ban Văn Nghệ cũng dẹp tiệm luôn.

Tôi nghe nói, trước đây có một phái đoàn Canada (*) đến thăm trại. Trong phái đoàn có hai linh mục mà một ông có tên là Gagnon (tên Việt Nam là Nhân). Cha Nhân có quốc tịch Canada nhưng gốc là người Pháp. Cha Nhân đã từng ở Việt Nam hành đạo nhiều năm trước khi bị chính quyền Việt Cộng đuổi về nước cho nên ông rất giỏi văn chương Việt Nam. Khi đứng trước mấy hòn non bộ, ông nổi hứng đọc:
center]Một đèo, một đèo, lại một đèo.
Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo![/center]

Có lẽ khi đọc câu thơ này, ông muốn ám chỉ rằng chính bọn Việt Cộng là người đã tạo ra nhiều cảnh cheo leo khốn khó cho những người của chế độ Việt Nam Cộng Hòa trước đây.

(*) Viết theo Tạ Quang Hoàng, “Chuyện tù kể từ trại Nam Hà,” 2008.



7.3. Người về bằng tầu Việt Nam Thương Tín (VNTT)


Trong ban Văn Hóa trại, có một chàng trẻ tuổi và vui tính; thỉnh thoảng tôi có gặp anh và nói chuyện qua lại với nhau. Tên anh là Đức, thiếu uý Không Quân (không nhớ tên họ). Đức kể nguyên do đi tù của Đức như sau:

Một ngày cuối tháng 4/1975, Đức và một người bạn, cũng thiếu úy, vào phi trường Tân Sơn Nhất, tìm xem còn phi cơ nào bay được thì lái đi trốn. Hai người tìm hoài, cái thì hết xăng, cái thì bể bánh hoặc lủng bình xăng vì bị pháo kích, nhưng hai người vẫn không nản. Cuối cùng thì cũng tìm được một chiếc Caribou (loại vận tải nhẹ và chỉ cần một bãi đáp ngắn) còn đủ xăng để bay ra đảo Phú Quốc. Hai anh lên thử và máy nổ tốt. Thế là hai anh cho máy bay ra phi đạo, vọt lên không trung, nhắm hướng Phú Quốc bay tới. Máy bay đáp xuống phi trường Phú Quốc an toàn. Hai người ra khỏi phi cơ và nhập vào đoàn người di tản đang có mặt tại đó.

Đức sang Mỹ và được một người Mỹ nhận đỡ đầu cho nên được ra ngoài đi làm rất sớm. Người bảo trợ kiếm cho Đức một chân “Họa Viên Kỹ Thuật” vì Đức có khiếu về ngành này khi còn học ở Trung Học Kỹ Thuật Cao Thắng, Sài-Gòn. Công việc làm đang suôn sẻ thì nghe người ta nói đang có một nhóm người di tản biểu tình đòi về lại Việt Nam. Nghe vậy Đức mừng quá vì lúc này Đức đang nhớ vợ mới cưới. Đức nghĩ, nếu không về thì biết đến bao giờ mình mới gặp được vợ. Đức quyết đinh xin nghỉ việc và xin trở về Việt Nam. Người chủ Mỹ của Đức biết tin này, ông hết sức can ngăn, phần vì ông tiếc mất một nhân viên giỏi, phần vì ông biết chắc khi Đức về đến Việt Nam sẽ lành ít dữ nhiều. Ông khuyên bảo cách nào, Đức cũng không nghe và ông đành chịu thua.

Đức được chở tới nơi tập trung chờ ngày lên đường. Nhóm người trở về gồm đủ mọi thành phần, lớn bé già trẻ, dân sự, quân đội đều có đủ. Trong khi chờ đợi, một số thì lo viết sẵn những khẩu hiệu ca tụng “bác và đảng”, một số thì tập vài bài hát của Việt Cộng (những bài hát thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trước năm 1954, vì họ chưa biết những bài hát mới của Việt Cộng sau khi Miền Nam thất thủ) để kiếm điểm với chính quyền Cộng Sản khi về tới Việt Nam.

Chiếc tầu VNTT đã chuẩn bị xong; phải nói là người Mỹ rất chu đáo: thực phẩm và xăng dầu đã được trang bị không những đủ cho một chuyến đi mà còn cho chuyến trở lại Mỹ nếu những người trên tầu thay đổi ý kiến vào giờ phút chót, khi sắp vào hải phận Việt Nam.

Ở Guam, tất cả mọi người được gọi lên gặp riêng từng người, một hình thức giống như “con chiên vào toà giải tội để xưng tội với linh mục” để họ có thể thật lòng nói ra ý muốn của mình mà không sợ ai biết. Nhân viên phỏng vấn hỏi đi hỏi lại là anh/chị/ông/bà có bị ai ép buộc phải trở về Việt Nam hay tự ý xin về. Nếu tự ý thì cho biết nguyên do. Nếu bị ép buộc hay đe dọa thì chính phủ Hoa Kỳ sẽ bảo vệ cho, đừng có lo gì cả. Đồng thời họ cũng giải thích những khó khăn nguy hiểm sẽ gặp phải khi về Việt Nam. Đức vẫn giữ ý định về để gặp lại vợ.

Sau khi đã thẩm vấn xong, mọi người được cho lên tầu. Lối lên tầu có hai nhánh, giống như dạng một chữ Y viết hoa. Tất cả mọi người đi lên tầu từ chân chữ Y, khi đến ngã ba, nếu còn thay đổi ý đinh thì đây là môt cơ hội cuối cùng để thực hiện; một nhánh có mũi tên chỉ vào hai chữ Việt Nam, một nhánh có mũi tên chỉ vào chữ U.S.A. Đức nói, cũng có dăm ba người đã thay đổi ý định khi đến ngã ba của chữ Y này.

Tầu về tới Nha Trang nhưng không được cập bến ngay, phải đợi ở ngoài khơi mất một hai ngày (không nhớ) thì được phép cập bến. Lên khỏi bờ, mọi người được lệnh đứng riêng đàn ông một bên, đàn bà một bên. Nhóm cầm biểu ngữ và nhóm ca hát thấy thái độ đằng đằng sát khí của công an thì đâm ra sợ sệt, cụt hứng, hết dám ho hoe. Lệnh ban ra là đàn ông con trai phải lột bỏ hết quần áo ra, chỉ mặc quần đùi, đồng hồ và vàng bạc cũng phải tháo ra hết để cho công an khám xét, sau đó chúng cho mặc quần áo lại nhưng tiền bạc, đồng hồ và quí kim thì để “cách mạng giữ giùm” mà không có ngày trả lại.

Sau đó Việt Cộng chuyển những người này đi các trại giam. Đàn bà và trẻ em thì được thả ra dần dần sau mấy tháng giam giữ. Thanh niên và đàn ông thì bị giam kỹ hơn; đa số bị đưa ra các trại ở Miền Bắc vì Việt Cộng nghi ngờ trong số người này có một ít người do CIA cài vào để trở lại Việt Nam hoạt động. Mặc dù chúng biết rằng hầu hết những người trở về đều là dân lương thiện, nhưng chúng vẫn giam giữ tất cả cho chắc ăn. “Giết lầm còn hơn bỏ sót” là đường lối hành động của Việt Cộng từ trước đến nay mà! Vì thế, có anh chỉ là trung sĩ thông dịch viên mà vẫn còn bị giam ở Trại Nam Hà A khi tôi được phóng thích (8/1984).

Khi tôi tới Trại Nam Hà A thì Đức đã đang ở đó rồi. Chẳng hiểu Đức đã trải qua những trại tù nào trước khi tới Nam Hà A. Đức được thả ra cùng đợt với tôi. Vài tuần sau khi về nhà, tôi có ghé thăm Đức một lần. Nhà Đức ở gần rạp hát Huỳnh Long trên đường Bạch Đằng, gần chợ Bà Chiểu. Chắc hẳn giờ này, Đức và gia đình đang sống nơi nào đó trên đất Mỹ này. Tuổi Đức còn trẻ và rất tháo vát, chắc hẳn bây giờ hoàn cảnh của Đức cũng khấm khá, chứ không đến nỗi tệ như bọn già tụi tôi đâu.



7.4. Không chịu vào buồng

Mấy tháng sau khi chúng tôi về Nam Hà thì Trại Hà Tây không còn giam giữ tù Việt Nam Cộng Hòa nữa. Tất cả được chuyển đi nơi khác, trong đó có một số các vị tướng và đại tá được chuyển về Trại Nam Hà A và ở riêng thành 3 – 4 buồng. Cho đến khi tôi được thả ra (8/1984) thì những vị này vẫn còn ở đó. Từ đây, Nam Hà A sẽ thay thế Trại Hà Tây để đóng vai trò trình diễn mỗi khi có phái đoàn ngoại quốc thăm viếng. Vì vậy không khí trại tù trở nên dễ thở hơn.

Ngày đầu tiên, khi cấp đại tá và cấp tướng về Nam Hà, có một chuyện sau đây xảy ra:

Tới kẻng điểm đầu người (không điểm danh) để vào buồng cho cai tù khóa cửa. Các vị tướng tá này cứ quen như ở Trại Hà Tây trước đây, không xếp hàng trước, mà cứ lang thang trong khu sân, trước cửa buồng. Khi thiếu úy Công An (tên Lực) tới, chưa thấy ai vào xếp hàng, hắn nổi giận, bắt trưởng buồng (một vị trung tướng, quên tên) tập họp đội lại ngay và xỉ vả:

- Các anh là cấp lớn trong quân đội ngụy, các anh phải biết kỷ luật chứ? Giờ này mà các anh còn đứng túm tụm lại nói chuyện, không xếp hàng chờ đợi báo cáo vào buồng. Các anh coi thường nội qui của trại, các anh phải rút kinh nghiệm để lần sau không được tái phạm nữa.

Vị tướng trưởng buồng đứng im lặng chịu trận. Trong khi đó thì cụ Trần Trung Dung đang ở trong hàng, giơ tay xin có ý kiến. Tên Lực cho cụ nói.

Đại ý, cụ nói rằng nhóm sĩ quan (Trại Hà Tây) mới đến đây lúc buổi chiều, chưa có cán bộ nào đem nội qui trại tới giải thích cho họ. Vả lại, trong khu vực của buồng cũng không thấy có dán bảng nội qui của trại. Như vậy làm sao họ biết nội qui của trại mà bảo rằng họ coi thường nội qui trại?
Nói xong, cụ quay ra hỏi cả đội rằng cụ nói như vậy có đúng không. Cả đội đều trả lời “Đúng.”

Cụ quay lại tên Lực, cho hắn biết rằng cụ và các bạn cùng buồng sẽ không vào vào buồng. Tất cả sẽ đứng ở ngoài sân, chờ cán bộ trại trưởng xuống giải quyết.

Thế là cả đội đứng đó, Buồng Tưởng cũng không hô nghiêm nghỉ báo cáo mà chờ Trại Trưởng xuống giải quyết. Tên Lực biết đụng phải thứ dữ nên xuội lơ và đi buồng khác. Cuối cùng thì Trại Trưởng phải xuống tận nơi xin lỗi và hứa sẽ rút kinh nghiệm. Quân ta đã thắng một bàn ngoạn mục!


7.5. Điếc “thời cuộc”

Tổ chức nhân sự ở mỗi buồng gồm có buồng trưởng, đội trưởng, người làm vệ sinh, và người phụ trách căng tin (là chữ Pháp đã được Việt Cộng Việt hoá, cantine = quán ăn trong trại lính/trường học; ở đây Việt Cộng dùng nó với ý nghĩa là quầy mua bán thực phẩm của trại). Buồng trưởng là chức vụ nhàn nhã nhất, không phải đi ra ngoài lao động, chỉ quanh quẩn ở trại để nhận và chuyển lệnh của trại, mỗi ngày báo cáo số người lúc mở cửa buồng và lúc vào buồng. Đội trưởng có trách nhiệm dẫn đội đi ra ngoài lao động. Người làm căng tin thì mỗi sáng lo lập danh sách và đi mua hàng cho đội ở căng tin của trại, mang về và phân phối lúc đội trở về buồng. Người làm vệ sinh lo sạch sẽ trong khu vực buồng và nặng nhất là gánh nước rửa cầu tiêu mỗi buổi sáng.

Đến bây giờ, tôi không còn nhớ tên của Buồng Trưởng và Đội Trưởng. Tôi chỉ nhớ tên người làm căng tin là anh Thảo (thiếu tá, khóa 4 Thủ Đức). Người làm vệ sinh là tôi, việc này ít có ai ham làm vì sợ dơ dáy, chẳng ai nhận thì tôi nhận. Xin nói thêm, công việc lấy phân đi đổ đã có một đội khác phụ trách cho cả trại (có lẽ là đội tù hình sự).

Thời gian này, trời bắt đầu vào mùa Đông nhưng chỉ kéo nước và gánh vài ba đôi là thấy hết lạnh ngay. Từ cổng trại đi vào độ 30 mét (100 ft), ở phía bên phải có một cái giếng nước hoàn toàn bằng đá, vách đá, đáy cũng đá, nước rỉ ra ở mấy mạch dưới đáy giếng. Nước giếng rất trong, nhìn rõ từng hòn đá dưới đáy giếng, mực nước chỗ sâu nhất độ chừng 1 mét (3 ft) nhưng không khi nào cạn nước. Đường kính miệng giếng rộng khoảng 6 mét (20 ft). Xung quanh miệng giếng được xây thành gờ cao cỡ 50 cm (20 inches). Bờ giếng tráng xi măng rộng rãi, tha hồ mà tắm.

Mỗi buổi sáng, sau khi ăn sáng xong, tôi đem quang gánh ra giếng kéo nước và gánh về buồng chùi rửa cầu tiêu, quét dọn xung quanh buồng cho sạch sẽ, xong, đi tắm, thay quần áo sạch rồi nghỉ. Công việc này, tôi làm tối đa là hai tiếng đồng hồ. Thời giờ còn lại là của tôi. Anh Thảo thì cũng làm xong việc trong khoảng thời gian như tôi, nhưng đến chiều anh còn phải làm tiếp công việc phân phối hàng cho mọi người. Tôi nằm cách anh Thảo hai người ( vào khoảng hơn một mét – 4 ft). Lúc đội đi làm, hai người kia vắng mặt, thì coi như hai chúng tôi nằm cạnh nhau. Anh Thảo giết thì giờ bằng những cuốn tiểu thuyết tiếng Pháp vì anh rất giỏi Pháp Văn. Tôi giết thì giờ bằng những cuốn truyện viết bằng tiếng Anh. Mục đích của tôi là đọc để học, còn anh Thảo đọc để giải trí; hai người hai mục đích khác nhau. Anh Thảo rất hiền lành và đạo đức. Có lẽ anh hiền quá cho nên anh chỉ lên được tới thiếu tá trong lúc những người cùng khóa hoặc khóa sau anh đã là tướng rồi. Lần chót tôi gặp anh là năm 1988, lúc hai chúng tôi đi ngược chiều nhau trên cầu Thị Nghè, Sài-Gòn. Việc làm sạch sẽ quanh buồng có một chuyện làm tôi nhớ mãi, được kể dưới đây.

Buồng tôi có một anh cấp bậc đại úy (tôi quên tên), gốc là Công Binh nhưng sau này anh lấy được bằng Cử Nhân Luật, anh xin chuyển qua ngành Quân Pháp. Chẳng hiểu anh làm Ủy Viên Công Tố hay gì nữa. Anh là người không phải từ Vĩnh Quang A chuyển sang. Mấy người đã từng sống chung và nay cũng cùng buồng với anh nói rằng: “Thằng cha đó điếc đặc, mình có chửi nó, nó cũng chẳng biết đâu.”  Vì điếc cho nên anh chẳng có bạn bè gì, cứ lủi thủi một mình. Hơn nữa, cách sống ích kỷ của anh cũng làm cho mọi người không ưa anh. Anh điếc (cứ gọi là anh điếc cho tiện bề sổ sách) mỗi buổi đi lao động đều mang về buồng một bó củi, toàn là cành cây khô mà lại không bó lại cho gọn ghẽ như những người khác. Khu vực để củi của mọi người là xung quanh nhà cầu, mỗi người tự chiếm một khoảnh. Củi của anh điếc để bừa bãi nhất, ngày nào tôi cũng phải dẹp lại cho gọn ghẽ. Thỉnh thoảng, anh Buồng Trưởng cũng nhắc nhở; ai làm thì làm, chứ anh điếc không làm, điếc mà làm sao nghe Buồng Trưởng nhắc nhở. Riêng tôi, qua vài tuần sống chung và nhất là nhìn ánh mắt của anh điếc, tôi không nghĩ là anh thực sự điếc. Tôi mới bàn với Buồng Trưởng để thử xem anh có điếc thực không.

Một buổi chiều, khi đội vừa vào tới buồng, công việc đầu tiên là phải đem củi vào “kho” cất đi. Tôi và Buồng Trưởng giả bộ tới xem anh em cất củi, hai người cố tình đứng sát chỗ anh điếc đang làm việc. Tôi nói nhỏ với Buồng Trưởng:

- Thằng cha điếc này bừa bãi quá, nhiều người kêu mà nó cứ tỉnh bơ, sáng mai mà tôi thấy nó còn bừa bãi như thế này, tôi sẽ lấy hết củi của nó đem chia đều cho mấy đống củi nào còn ít.

Anh Buồng Trưởng thêm vào:

- Anh làm như vậy được đấy, để cho nó tởn (sợ), bận sau hết dám bừa bãi.

Sáng hôm sau, tôi ra kiểm soát chỗ chất củi, tôi thấy củi của anh điếc đã xếp gọn ghẽ, có khi còn gọn hơn cả mấy người khác. Tôi gọi Buồng Trưởng tới xem, anh buông một câu:

- Đúng là thằng điếc thời cuộc.


7.6. Gặp lại thày cũ

Tôi đã ở Trại Nam Hà được hai tuần lễ và vẫn đang tiếp tục công việc chùi rửa cầu tiêu mỗi ngày. Công việc tuy có chút dơ dáy và hôi hám nhưng bù lại, tôi chỉ làm một lúc buổi sáng và sau đó hoàn toàn nghỉ ngơi. Ngoài việc đọc truyện, tôi còn đi hết buồng này đến buồng nọ, trò chuyện với những người quen mà họ nghỉ bệnh ở nhà. Nhờ vậy tôi nghe nói có Giáo Sư Nguyễn Ngọc Diễm đang ở cùng buồng giam với mấy vị cấp đại tá. Tôi hỏi thêm thì được biết GS Diễm đúng là Nguyễn Ngọc Diễm, trước đây từng dạy Pháp Văn tại các trường Trung Học Chu Văn An và Trường Sơn ở Sài-Gòn.. Như vậy ông đúng là thày cũ của tôi rồi. GS Diễm có dạy Pháp Văn tại trường Trung Học Trần Lục một năm và tôi đã học Pháp Văn năm đó với Giáo Sư Diễm. Những ai học trung học ở Sài-Gòn vào những năm cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, có lẽ, đã nghe nói đến tên GS Nguyễn Ngọc Diễm.
     
Khi biết chắc như vậy rồi, tôi định bụng sẽ tới gặp GS Diễm nhưng tôi chưa thực hiện ngay ý định này. Việc đầu tiên tôi làm là dò la tin tức để xem GS Diễm có còn là GS Diễm của thời tôi học, hay là thời thế đã làm cho tính tình của ông thay đổi rồi. Mong rằng ông vẫn còn giữ được phong cách tốt đẹp như xưa. Hai tuần lễ đã qua mà tôi chưa thấy có ai nói điều gì không tốt về ông. Tôi quyết định sang gặp ông vào một buổi trưa ngày Thứ Bảy.

Lúc tôi sang, ông cũng vừa ăn cơm trưa xong và đang nằm nghỉ trên chỗ nằm của mình. Tôi chào ông và tự giới thiệu vì biết rằng trò nhớ thày, chứ ít có trường hợp thày nhớ trò, nhiều trò quá làm sao mà nhớ nổi. Tôi mở đầu:

- Chào thày, em là Thái, học trò của thày hồi còn ở Trung Học Trần Lục. Hồi đó thày dạy Pháp Văn, còn thày Doãn Quốc Sĩ dạy Việt Văn, bà Phạm Thị Côn thì dạy Anh Văn.

- Đúng rồi đấy. Em mới ở Vĩnh Phú đến phải không? Em đi những trại tù nào trước khi đến đây?

Tôi kể sơ lược các trại tù tôi đã đi qua cho ông nghe. Tuy nhiên cả hai vẫn còn một chút e dè, chưa dám bộc lộ hết tâm tư thầm kín cho nhau được. Sống với Cộng Sản và nhất là trong những trại tù Cộng Sản thì việc dè dặt khi mới gặp nhau là chuyện thường thôi. Bọn chúng đã tạo cho người ta phải có thái độ như vậy để mà sống còn. Tôi hỏi ông:

- Thày không phải quân nhân, vậy thày bị tù vì lý do gì?

- Trước 30/4/1975, tôi làm tại Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa với chức vụ là Giám Đốc Nha Âu Châu. Họ (Việt Cộng) xếp loại giám đốc nha/sở tương đương với cấp đại tá, vì thế tôi đang ở cùng buồng với các ông đại tá đây.

- Thày ở Bộ Ngoại Giao với chức vụ đó, chắc thày phải biết Miền Nam sẽ mất chứ?

- Tôi biết chứ, nhưng vì tự ái dân tộc mà ngày 15/4/75 tôi lên máy bay từ Bangkok trở về Việt-Nam.

- Thày nói rõ thêm cho em hiểu.

- Tháng 4/1975, tôi đang đi công tác ở ngoai quốc; tôi thấy báo chí ngoại quốc có một cái nhìn không mấy thiện cảm với những người Việt-Nam di tản. Họ viết những bài báo đầy vẻ tiêu cực về những người di tản. Tôi nghĩ nếu mình ở lại xin tị nạn, thì cũng bị họ nhìn mình bằng nửa con mắt; do đó tôi quyết định về Việt-Nam mặc dù biết rằng về lúc này là lành ít dữ nhiều. Tôi thà chết chứ không chịu nhục.

Rồi ông hỏi tôi:

- Hiện giờ em làm gì trong lúc rảnh rỗi?

- Thì em đọc mấy quyển truyện tiếng Anh để chữ nghĩa khỏi bị rơi rớt dọc đường.
- Em có thích ôn lại Pháp Văn không?

- Ngày xưa, giờ học Pháp Văn và Anh Văn ngang nhau, nhưng em bỏ lâu không đụng gì đến Pháp Văn, có lẽ vốn liếng Pháp Văn của em bây giờ đong không đầy một cái lá mít. À, em nghe một vài người nói thày đã lấy được cái Tiến Sĩ Văn Chương Pháp rồi phải không?

- Chưa đâu em. Sau khi tôi lấy xong cái bằng Cao Học Văn Chương Pháp, tôi cũng đã chuẩn bị cho cái luận án tiến sĩ nhưng đang dở dang thì Miền Nam mất.

Thấy đã đủ cho cuộc tái ngộ này, tôi chào ông để đi về buồng. Ông cầm một trong những cuốn truyện tiếng Anh đưa cho tôi. Tôi nhớ hình như là một cuốn thơ của Shakespeare nhưng không nhớ tên sách. Ông bảo tôi:

- Em đem cuốn này về đọc đi, nếu có gì không hiểu thì ghi lấy rồi đem sang đây tôi giải thích cho. Khi nào xong cuốn này, em sang đổi cuốn khác, ở đây sách truyện không thiếu, chỉ sợ không có sức mà đọc thôi.

Tôi nhận cuốn sách và cám ơn ông, đi ra khỏi buồng. Tôi mừng thầm vì từ nay tôi đã có nguồn cung cấp sách cho mình rồi. Trên đường về buồng, tôi nghĩ thầm rằng ông giỏi về văn chương Pháp nhưng ông không có một bằng cấp gì về tiếng Anh, mà sao ông nói với vẻ đầy tự tin như thế. Thôi cứ để thời gian trả lời.

Tôi bắt đầu với cuốn sách ông cho mượn. Văn của Shakespeare là loại văn của thế kỷ thứ 16, văn thời trung cổ, có rất nhiều chữ cổ mà trong tự điển do nhà xuất bản Khoa Học Hà Nội không có ghi. Vả lại, vì nó là thơ cho nên thứ tự trong câu văn không theo như bình thường (Chủ từ - động từ - túc từ) cho nên rất khó hiểu. Tôi vật lộn với cuốn sách suốt một tuần lễ mà chỉ được vài ba chục trang. Trưa Thứ Bảy kế tiếp, tôi đem cuốn sách với những ghi chép các điều thắc mắc sang gặp ông. Lạ thay! Bất cứ chữ gì, câu gì mà tôi hỏi, ông đều giải thích thỏa đáng. Shakespeare lại hay dùng điển tích của người Anh (vì ông là người Anh) và điển tích trong Thánh Kinh của Thiên Chúa Giáo, ấy vậy mà GS Diễm đều giải thích được hết mặc dù GS Diễm là một Phật tử. Sau lần tiếp xúc này, sự ngờ vực về khả năng Anh Ngữ của GS Diễm đã biến mất, nhường chỗ cho một niềm tin vững chắc rằng từ nay tôi đã có thày ở bên cạnh.

Những ngày kế tiếp, tôi đến gặp thày mỗi buổi chiều sau khi cơm nước xong thay vì để dồn lại cho ngày cuối tuần. Hai thày trò ngồi với nhau cho tới khi kẻng vào buồng, tôi mới chạy về buồng mình. Tôi học như vậy cho tới ngày tôi được thả ra (8/1984), chỉ trừ đi chừng bốn năm tháng bị gián đoạn, là lúc tôi bị đổi ra trại Nam Hà C.

Dần dần, tôi mới nghiệm ra rằng tiếng Anh và tiếng Pháp đều mượn rất nhiều chữ từ tiếng La Tinh, chúng có rất nhiều chữ viết na ná như nhau, ví dụ: Pháp viết grammaire, Anh viết grammar. Khi đã có một cái vốn ngữ vựng tiếng Pháp thì học sang tiếng Anh rất dễ. Nhất là về văn phạm, một người giỏi văn phạm Pháp Văn như GS Diễm, thì văn phạm Anh Văn đối với ông chỉ là chuyện nhỏ.

GS Diễm được thả ra năm 1987 và sang Mỹ tháng 3/1991 theo danh sách H. 06. Tôi sang Mỹ sau ông ba tháng, tháng 6/1991, theo danh sách H. 07. Hai thày trò chúng tôi vẫn thường liên lạc bằng điện thoại với nhau. Lần nói chuyện nào ông cũng đều khích lệ tôi học thêm. Chính vì vậy mà tôi có sức mạnh tinh thần để học. Nếu không có những lời khích lệ của GS Diễm thì tôi đã không lấy được bằng MBA (Master of Business Administration).

Năm 1999, sau khi tôi lấy xong bằng Cử Nhân về Quản Trị Kinh Doanh (BA, Business Administration), tôi đã có ý định ngưng học để dành thời giờ cho vợ con. Tôi nghĩ, học thế là đủ rồi, “tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc” mà, cho nó đủ là nó đủ. Đủ để làm gương cho các con tôi, đủ để không bị mang mặc cảm tự ti đối với người bản xứ. Có học thêm cũng “chẳng làm vương làm tướng gì, học xong thì anh đã già rồi, ai thèm mướn anh” như lời vợ tôi thường nói. Trái lại, GS Diễm tỏ ra rất vui mừng và khích lệ tôi:

- Em học được, đang có đà em nên tiếp tục đi.
- Thày ơi, học thêm thì cũng được nhưng vợ em không vui đâu. Thời giờ học sẽ lấy đi của bà ấy thêm nhiều thời gian nữa. Em thấy tạm đủ rồi.
- Tôi không bảo em học thêm để nhờ nó mà làm ra nhiều tiền hơn, và chỉ với cái bằng BA của em cũng đủ làm gương cho con cháu của em rồi. Tuy nhiên bây giờ là lúc em học để giúp cho chính sức khỏe của em.
- Xin thày giải thích thêm.
- Qua một thời gian dài làm ở nhà thương, tôi đã gặp rất nhiều anh em cựu tù của Cộng Sản. Tôi thấy rằng hầu hết, không nặng thì nhẹ, đều mắc phải một chứng bệnh mà người Mỹ gọi là Post Traumatic Stress Disorder (tạm dịch: tình trạng hậu chấn thương về thần kinh).  Người bị nhẹ nhất thì thỉnh thoảng nằm ngủ vẫn mơ đến những cảnh mình đang ở trong nhà tù Cộng Sản. Người bị nặng thì nhiều khi hoảng hốt một cách vô cớ, nhiều khi nóng giận bất tử…(Ông còn nói nhiều nữa nhưng tôi không nhớ hết). Để tránh tình trạng này, tốt hơn hết là em phải làm cho đầu óc em luôn luôn có một cái đích để nhắm tới. Việc học sẽ giúp cho bộ não của em luôn hoạt động, não của em luôn luôn phải suy nghĩ tới bài vở nhà trường, đó là một hình thức cho não của em “tập thể dục”, trí nhớ của em vì thế mà không bị cùn đi, em cũng không còn thời giờ để mà nghĩ đến quá khứ, dù là quá khứ huy hoàng hay khốn khổ.




- Vâng, em sẽ nghe lời thày, sẽ ghi danh học tiếp.
Khi học chương trình Cử Nhân, tôi không thấy khó. Nhưng sang chương trình Cao Học, tôi thấy hơi nặng. Trước đây tôi tự tin về khả năng toán của mình, nhưng khi đụng phải mấy tín chỉ về kế toán/thống kê thì bị chới với. Với những môn này, không khi nào tôi được quá 75/100. Cũng may là nhờ những môn khác kéo lại để có thể qua được ải.

Bây giờ mới thấy rằng những lời khuyên của thày Diễm rất có lý. Xin đa tạ thày đã dầy công dìu dắt. Khi tôi học xong, có hai người mừng nhất nhưng với hai tâm trạng khác nhau. Thày, thì mừng cho học trò đã đến đích và đã không uổng công hướng dẫn của thày. Vợ, thì mừng vì từ nay có người chở đi mua sắm, đi chơi đó đây thăm con cháu và bạn bè, không còn phải nghe cái điệp khúc “Anh đang bận học” nữa.


7.7. Bác sĩ tốt nghiệp ở bên Tây

Lúc này Trại Nam Hà A có ba bác sĩ. Bác Sĩ Lê Thiện Điền mới từ Trại Vĩnh Quang A chuyển sang nhưng không được giao cho nhiệm vụ gì có liên quan tới chữa bệnh vì Bác Sĩ Điền có “thành tích chửi Việt Cộng” ở Vĩnh Quang A. Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh là BS nhãn khoa, thiếu tá Không Quân/ QLVNCH. Bác sĩ Trương Như Quýnh là cựu giám đốc một bệnh viện lớn ở Sài Gòn trước ngày 30/4/1975. Bài này tôi viết riêng về BS Quýnh.

Tôi chưa có dịp tiếp xúc với BS Quýnh trong suốt thời gian ở Nam Hà A. Những gì tôi viết ra dưới đây là do tôi nhớ lại, không hoàn toàn, lời kể của GS Nguyễn Ngọc Diễm và của một vài người bạn tôi.

Bác sĩ Trương Như Quýnh là anh ruột của ông Trương Như Tảng, tác giả cuốn “A Viet Cong Memoir” (tạm dịch là Ký Sự Của Một Người Việt Cộng). Trước khi về Nam Hà, BS Quýnh bị giam ở Trại Hà Tây, và Việt Cộng cho ông làm ở bệnh xá của trại. Trong lúc này, Luật Sư Trần Văn Tuyên cũng đang bị giam ở Hà Tây và ông đã chết. Ông là một nhân vât làm chính tri ở Miền Nam trước đây, được nhiều người biết tiếng. LS Tuyên là một trong những người đầu tiên chết trong nhà tù Hà Tây. Vì ông là người nổi tiếng cho nên bọn cai tù trình diễn xôm tụ lắm. Chúng mặc quân phục chỉnh tề và “kính cẩn” tới dự lễ mai táng LS Tuyên. Bên ngoài nhìn vào thì nhiều người nghĩ rằng bọn Việt Cộng đối xử với LS Tuyên, “kẻ phản quốc”, như thế là quá tử tế. Tuy nhiên, đừng vội vã, ta hãy nhớ lại những vụ mà Hồ Chí Minh cùng đồng bọn đã ám hại chính đồng chí của chúng, sau đó lại tới trước linh cữu của nạn nhân để nhỏ dăm ba giọt nước mắt cá sấu, rồi cho tổ chức lễ quốc táng linh đình, thì cái chuyện bọn Việt Cộng làm ở Hà Tây đối với cái chết của LS Tuyên chỉ là giả dối hoàn toàn. Chúng trình diễn để che mắt thiên hạ mà thôi.

Để đề phòng những “dư luận xấu” về cái chết của LS Tuyên, chúng chỉ thị cho BS Quýnh làm một giấy xác nhận LS Tuyên chết vì một nguyên do gì đó cho hợp lý mà không ai có thể chê trách bọn chúng được. BS Quýnh biết rõ ý đồ của bọn Việt Cộng về vụ này cho nên ông không dễ gì bị mắc lừa bọn chúng. BS Quýnh ghi trong giấy khám nghiệm là “Luật Sư Tuyên chết vì tim ngừng đập” rồi đem nạp cho chúng. Rõ chán! Ai chết mà tim chả ngừng đập? Có ai tim còn đang đập mà đã chết? BS Quýnh đã phê một câu “huề vốn” như vậy, làm cho bọn Việt Cộng ức lắm. Chúng bèn trả thù ông ấy bằng cách bắt đi ra ngoài lao động, không cho làm tại bệnh xá nữa. Lao động thì lao động, ông ấy đâu có ngán. Được vài tuần lễ, chúng lại phải đưa ông về bệnh xá làm việc. Đó là chuyện ở Hà Tây, sau đây là chuyện ở Nam Hà.

Nam hà có một thiếu úy Công An tên là Lực. Tên này phụ trách về điểm đầu người khi đóng và mở cửa buồng tù. Hắn cũng còn phụ trách khám xét những người ra gặp thân nhân thăm nuôi, ai mang lén thư từ mà bị khám phá thì mệt với hắn. Khi tù mang đồ thăm nuôi vào thì hắn khám xét rất kỹ rồi mới cho mang về buồng. Tù nhân trong trại đều không ai ưa vì tính hống hách của hắn.

Một hôm, vợ hắn sanh đứa con thứ nhì và bị băng huyết. Các y sĩ, bác sĩ Việt Cộng trên tỉnh đều bó tay. Vợ hắn chỉ chờ chết. Có người mách bảo hắn tới xin BS Quýnh chữa cho, biết đâu gặp đúng thày thì sao.

Hắn nghe lời và đưa vợ tới gặp BS Quýnh, xin ông khám và chữa bệnh cho. BS Quýnh xem xét một lúc rồi nói với tên Lực rằng bệnh này dễ chữa thôi nhưng cần phải có thuốc, ở bệnh xá này chẳng có thuốc gì ngoài mấy viên xuyên tâm liên và mấy vị thuốc dân tộc (*); không có thuốc thì chịu.  Hắn tỏ vẻ lo lắng, không biết nói sao. BS Quýnh cho hắn biết tiếp rằng hiện ở trại này có một người sẵn thuốc, người đó là Đại Tá Phạm Kim Quy. Nếu hắn được ông ấy cho thuốc, thì vợ hắn sẽ thoát chết.

   (*) Việt Cộng gọi dược thảo (herbs) là thuốc dân tộc.


Đại Tá Phạm Kim Quy mới được gia đình ở bên Pháp gửi về cho rất nhiều thuốc tây, ông phải tới nhờ Bác Sĩ Quýnh chỉ dẫn cho ông cách dùng một số thuốc mà ông chưa biết. Vì thế mà Bác Sĩ Quýnh biết Đại Tá Quy có thuốc.

Lực đem toa thuốc của BS Quýnh tới gặp Đại Tá Quy. Rất may cho Lực là Đại Tá Quy cho hắn ta thuốc, đem về cho BS Quýnh chỉ cách sử dụng. Chỉ vài ngày sau là bệnh của vợ Lực thuyên giảm, và tiếp mấy ngày nữa thì bệnh khỏi hẳn. (Xin đừng nhầm lẫn với Hoàng Kim Quy, một người nổi tiếng ở Sài Gòn trước 30/4/75, hình như ông có biệt danh là Vua Kẽm Gai?)

Kể từ sau khi vợ Lực được cứu sống, Lực thay đổi hẳn thái độ đối với tù Việt Nam Cộng Hoà. Hắn không còn hống hách như trước đây nữa. Nhiều người, trong đó có GS Diễm, khi ra gặp thân nhân thăm nuôi, Lực khám thấy có thư giấu trong người, hỏi của ai, người nào cũng trả lời là của Đại Tá Quy, Lực cho phép mang ra ngoài mặc dù biết rằng họ nói xạo, Đại Tá Quy nếu có thì cũng chỉ một hai lá thư thôi, chứ làm gì mà cả một xấp. Khi khám đồ tiếp tế cũng vậy, cái gì thuộc loại “quốc cấm”, cứ nói là của Đại Tá Quy thì xong ngay. Riết rồi, việc khám xét ra vô cổng coi như là có cũng như không.

Trước tháng 4/1975, Đại Tá Quy thế nào thì không biết, nhưng từ ngày vào tù, Đại Tá Quy là người rất tốt đối với bạn tù, không phận biệt già trẻ lớn bé, ai cũng được đối xử như nhau.

BS Quýnh là một người rất dí dỏm. Khi ai bị bệnh mà ông chữa không khỏi, ông thường nói đùa rằng bệnh không khỏi là do không có thuốc, chứ không phải là do bác sĩ đâu nhé, bác sĩ này tốt nghiệp ở bên Tây đấy.  Người nào tới khám bệnh mà có thuốc riêng thì chắc là khỏi. Người không có thuốc, chỉ nhờ mấy thứ thuốc lá cây, khó mà hết bệnh.

BS Quýnh dần dần bị đui hai mắt, mắt có cườm, chẳng nhìn thấy gì. Tuy vậy, Việt Cộng vẫn để ông làm BS chính của bệnh xá, trong khi BS Thịnh chỉ làm phụ tá thôi. Mọi công việc khám bệnh, trị bệnh đều do BS Thịnh. Còn BS Quýnh quay ra dịch truyện Kiều sang Pháp Văn để giải khuây. Ông nhờ một anh trung sĩ (Trước đây là thông ngôn, bị tù vì đi theo tầu VNTT về nước) viết giùm. Anh trung sĩ này cũng là người làm ở bệnh xá cho nên có cơ hội giúp BS Quýnh viết ra câu Pháp Văn khi nghe ông đọc.

Nhân chuyện này, tôi có một suy nghĩ như sau: Một thanh niên Việt Nam du học từ lúc 19 – 20 tuổi, khả năng Việt Ngữ của anh ta khi đó đâu có là bao. Sang tới Pháp, mọi sự từ học hành đến giao tiếp hằng ngày đều dùng tiếng Pháp. Vậy thì BS Quýnh có đủ khả năng để dịch Truyện Kiều sang Pháp Văn không? Trong Truyện Kiều có rất nhiền điển tích, nếu không hiểu điển tích thì làm sao dịch cho đúng ý của cụ Nguyễn Du. Hay là dịch theo trường phái “Biển Dâu” thì hỏng bét.

Báo chí ở Hoa Kỳ, cách đây hơn mười năm, đã dùng nhóm chữ “Trường phái Biển Dâu” để chế nhạo một vị “giáo sư” đã dùng chữ “mulberry sea” để dịch nhóm chữ “biển dâu” trong câu “Trải qua một cuộc biển dâu…” của cụ Nguyễn Du. Hoặc một vị cựu Nghị sĩ Việt Nam Cộng Hòa nào đó đã dùng nhóm chữ “Thọ Xương chicken soup” để dịch nhóm chữ “canh gà Thọ Xương” trong câu “Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.”

Vài tuần trước đây, khi nói chuyện với GS Diễm, tôi nêu ra thắc mắc trên đây về khả năng Việt Ngữ của BS Quýnh, GS Diễm không đồng ý với tôi, ông cho biết đại ý như sau:

Khi ở Nam Hà, lúc đó BS Quýnh đã mù rồi, mỗi cuối tuần GS Diễm đều tới chuyện trò với BS Quýnh một vài tiếng đồng hồ. Ông thấy BS Quýnh nói tiếng Việt rất chuẩn, tiếng Việt ông dùng thường là tiếng Việt bác học, không phải bình dân đâu. Vả lại, BS Quýnh có một trí nhớ thật là đặc biệt. Điển hình là, ông có một cuốn album dầy hơn một trăm trang, trong đó có đủ hình ảnh của gia đình ông. Ông đưa cho GS Diễm coi cuốn album, và bào ông Diễm cứ mở ra coi, trang nào có thắc mắc về hình chụp người nào thì cho ông biết số trang và vị trí dán tấm hình (phải, trái, trên, dưới), ông sẽ giải thích cho. Giáo Sư Diễm lật mấy trang và hỏi thử xem sao, thì thấy ông nhớ như là ông đang nhìn vào album vậy. Thử hỏi, với trí nhớ đó thì khi trở về Việt Nam, ông trau giồi thêm tiếng Việt đâu có khó khăn gì. Thêm một điều nữa là, ông ra khỏi tù năm 1988, GS Diễm thường tới nhà ông chơi và được nói chuyện với bà cụ thân mẫu của ông, thì được biết thêm rằng ông thuộc dòng dõi nho gia. Với cái gốc nho gia thì ông phải giỏi tiếng Việt. Do đó, GS Diễm kết luận, rằng điều mà tôi nghi ngờ, có thể đúng cho ai khác, chứ không đúng cho BS Quýnh đâu.

Sau khi ra tù, BS Quýnh mổ màng mắt và lại nhìn được rồi. Ở trong tù, mặc dù có BS Thịnh chuyên về nhãn khoa nhưng không mổ được vì thiếu dụng cụ mổ xẻ. Tới đây là hết chuyện về BS Quýnh.


7.8. Bắt phanh trần, phải phanh trần…


Bác Sĩ Quýnh có một phụ tá là Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh. BS Thịnh chuyên về nhãn khoa, là thiếu tá Không Quân ở Vùng 4 Chiến Thuật. Từ ngày BS Quýnh bị mù, BS Thịnh trở thành bác sĩ toàn khoa, trị bệnh từ ngón chân lên tới đỉnh đầu. Thỉnh thoảng BS Thịnh còn làm bác sĩ giải phẫu (lậu) nữa.

BS Thịnh là một người rất vui tính và có máu tếu trong người. Năm ba người ngồi nói chuyện với ông thì thế nào cũng có những tràng cười xen kẽ. Ông cũng giống BS Điền là, không bao giờ ông dùng hai chữ “cách mạng” nhưng khác BS Điền ở chỗ ông không nói thẳng trước mặt tụi nó. Khi nói chuyện với bạn tù, ông luôn luôn dùng những chữ “Việt Cộng, thằng Việt Cộng, con Việt Cộng” để chỉ tụi nó. Vì tính tình ông vui vẻ cho nên ai cũng quý mến ông.

Ngày xưa, Đỗ Mười làm nghề hoạn lợn, ngày nay Bác Sĩ Thịnh làm nghề thiến người (cắt ống dẫn tinh). Chả là, có một vị tướng trẻ (miễn nói tên) đoán rằng chẳng bao lâu nữa bọn Việt Cộng sẽ phải thả tù ra, dĩ nhiên có ông trong đó. Đúng là tướng có khác! Ông vẫn không quên được tác phong của một cấp chỉ huy, ông luôn luôn nhớ câu châm ngôn “Chỉ huy là tiên liệu.” Ông đã tiên liệu đến những chuyện phải làm khi được thả ra. Thế nào kỳ này về “ta sẽ phải lãnh ráp-pen cho thằng nhỏ đã đời” mới được (ráp pen là chữ Pháp được Việt hoá, thường dùng trong quân đội; rappel = truy lãnh lương bổng, lãnh một lúc mấy tháng lương vì trước đây chưa được lãnh). “Thằng nhỏ” của ông tướng đã lâu lắm rồi không được “lãnh lương”, có thể của vợ mà cũng có thể của bồ, ai mà biết được. Để đề phòng trường hợp vợ/bồ lỡ phải mang ba bô trước bụng, cách hay nhất là ông đi thiến. Tiên liệu như vậy là hết sẩy!

Ông tướng năn nỉ Bác Sĩ Thịnh cắt ống dẫn tinh cho ông. Bác Sĩ Thịnh biết rằng ông không được phép làm như vậy. Tuy nhiên, vì nể lời ông tướng, Bác Sĩ Thịnh làm liều.

Kể ra thì BS Thịnh cũng mát tay, đang hành nghề mổ mắt mà chuyển sang mổ “chim” cũng thành công mỹ mãn. Nhưng đâu có ngờ…

Sau khi mổ, bệnh nhân được căn dặn là tránh đi lại nhiều để khỏi bị bung đường chỉ may. Ông tướng vì ham vui mà “quên lời mẹ dặn”, thích tham gia vào mấy bàn mạt chược và xì phé. Ông tướng lại nằm ở tầng trên, muốn chơi bài thì phải leo xuống tầng dưới, xong thì lại leo lên tầng trên. Cứ thế ông làm liên tiếp mấy ngày thì chỉ may con chim làm sao chịu thấu. Chỉ may bị đứt, máu chảy ra, làm độc cả vùng hạ bộ. Thuốc trụ sinh cũng không khỏi trừ khi phải mổ ra khâu lại. Việc này thì BS Thịnh bó tay vì bệnh xá không đủ dụng cụ. Ông tướng được chở đi bệnh viện tỉnh cấp cứu. Thế là việc mổ lậu của BS Thịnh bị đổ bể, ông bị BS Quýnh khiển trách nặng lời. Tiếp theo là trại ký lệnh giam BS Thịnh vào nhà kỷ luật 15 ngày (?). Rất may là BS Thịnh được lòng mọi người, từ bạn tù tới bọn Việt Cộng. Trại ký lệnh giam là để đề phòng cấp trên hỏi đến thì có chứng cớ rằng trại đã áp dụng kỷ luật với đương sự. Thực tế, thì BS Thịnh không phải đi nằm nhà kỷ luật.

Trong những lúc vui bạn bè, ông thường nói đùa: “Từ ngày con cu theo mình đi ở tù, nó chỉ làm mỗi một nhiệm vụ là đi đái, còn nhiệm vụ khác thì bỏ luôn.” (Có sẵn đâu mà không bỏ luôn?). Ngoài ra, ông thường hay nhái thơ của cụ Nguyễn Du.

Thơ Nguyễn Du:    
Bắt phong trần, phải phong trần,
        Cho thanh cao, mới được phần thanh cao.
Thơ nhái của BS Thịnh:
7.9. Cụ Trần Trung Dung

Cụ Trần Trung Dung là một nhân vật mà ở miền Nam Việt Nam trước 1975 được nhiều người biết. Ở trong trại tù Cộng Sản, Cụ là một trong vài người lớn tuổi nhất nên được nhiều người nể trọng. Tôi chưa nghe ai chê trách Cụ điều gì trong thời gian tôi ở Trại Nam Hà A cùng với Cụ. Ngoại trừ một chuyện, theo như lời truyền miệng của mấy tướng lãnh cùng ở chung với Cụ, là Cụ đã “chê bai các vị sĩ quan cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa.”

Vào mùa hè 1983, gần tới tháng năm, Việt Cộng cho chiếu lại cuốn phim “Chiến Thắng Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954” của quân đội Việt Minh đối với quân Pháp. Lần chiếu này chỉ dành cho một số khán giả chọn lọc, từ hàng đại tá và giám đốc sở trở lên. Sau khi xem xong cuốn phim, chúng bắt người xem phải viết bài “thu hoạch”. Bài thu hoạnh của Việt Cộng cũng giống như là một bài kiểm tra sự tiếp thụ bài học của mỗi học viên.

Mục đích cuả chúng là muốn cho học viên phải ca ngợi “Chiến thắng thần thánh của Quân Đội Nhân Dân anh hùng.” Thần thánh cái con khỉ khô gì! Sau khi rảnh tay ở chiến trường Đại Hàn, Trung Cộng đã dồn nỗ lực giúp cho Việt Minh đánh Pháp. Ngoài việc yểm trợ vũ khí và đạn dược dồi dào, Trung Cộng còn cử Đại tướng Trần Canh và một Ban Tham Mưu sang Việt Nam, bề ngoài gọi là làm cố vấn, nhưng thực chất là chỉ huy cuộc chiến chống quân Pháp. Việt Nam chỉ được “vinh dự” đóng góp xương máu của mấy chục ngàn người vừa quân sĩ vừa dân công. Võ Nguyên Giáp chỉ là một thứ “Thiên lôi, chỉ đâu đánh đó,” Trần Canh bảo sao thì làm vậy. Ấy thế mà khi thắng trận Điện Biên Phủ, Võ Nguyên Giáp đã nghiễm nhiên trở thành người hùng Điện Biên Phủ mới là hay (vì Trung Cộng đâu có dám ra mặt nhận công trạng đó là của mình).

Hầu hết các vị tướng lãnh đều nghĩ rằng tụi nó (Việt Cộng) muốn mình “thổi ống đu đủ” thì mình cứ thổi, thổi cho nó phình bụng ra rồi nổ tung, cho chết mẹ tụi nó. Các tướng viết mỗi người dăm bảy trang giấy rồi đem nộp cho xong chuyện.

Trái lại, Cụ Trần Trung Dung thì nghĩ khác. Cụ đã viết gần hết một quyển vở 100 trang và nộp cho quản giáo. Đến ngày phê bình - kiểm điểm tại buồng, tên quản giáo chơi xỏ, khi đến bài viết của Cụ Trần Trung Dung, hắn chỉ đọc lên vài trang trong đó ghi phần nhận xét của Cụ về sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Trong phần này, Cụ chê các sĩ quan cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa đa số là bất tài, chỉ toàn là loại sống lâu lên lão làng. Khi đã có quyền bính trong tay thì lại tham nhũng hối lộ (nhưng vẫn còn thua xa Việt Cộng bây giờ, ghi chú của người viết). Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm Miền Nam mất sớm. Khi nghe đọc phần này của Cụ, các vị tướng rất tức giận. Chỉ ngày hôm sau là tin này đã được loan truyền đi các buồng, rằng Cụ Dung đã đứng về phe địch để nói xấu sĩ quan Miền Nam. Nghe tin này, tôi cũng hoang mang, sao lại có chuyện lạ như thế được? Tôi đem chuyện này nói lại với một số bạn thân của tôi để xem họ nghĩ sao. Một người bạn trong số này, mà tôi không nhớ tên, có sự quen biết với Cụ Dung, đã cho tôi biết sự việc như sau:

Đó chẳng qua chỉ là một sự hiểu lầm do ác ý của tên quản giáo gây ra. Nó muốn làm giảm uy tín của Cụ Dung, và gây chia rẽ giữa hàng ngũ chúng ta thôi. Nó chỉ đọc có mấy trang Cụ chê hàng tướng lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nhưng nó không đọc lên cái phần mà Cụ nhận định về những sĩ quan trung cấp. Cụ nói những sĩ quan trung cấp của QL/VNCH là những người đã được đào tạo chu đáo cả về quân sự lẫn văn hóa; họ có thực tài và đầy nhiệt huyết, đầy lòng yêu nước. Vả lại họ cũng chưa có tì vết gì về tham nhũng cả. Tiếc thay! Cờ chưa đến tay họ thì đã mất Miền Nam. Tên quản giáo lại càng không dám đọc những lời Cụ chê bọn Việt Cộng từ trên xuống dưới. Cụ viết dài lắm, gần một trăm trang giấy học trò bởi vì Cụ muốn nhân dịp này, Cụ viết một tác phẩm để đời, coi như là một bài viết cuối đời của Cụ để lại cho lịch sử. Trong đó, Cụ nhận định về thời thế, về quân đội của hai miền Nam-Bắc, về đường lối cai trị của đảng Cộng Sản Việt Nam, v.v… Và điểm cuối cùng, Cụ kết luận rằng nước Việt Nam muốn thoát ra khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu, muốn thoát ra khỏi nanh vuốt của bọn Tầu phương Bắc thì bắt buộc phải đi với Mỹ, phải bỏ nền kinh tế chỉ huy mà đi theo kinh tế thị trường tự do. Đó là con đường bắt buộc vì không còn con đường nào khác để chọn lựa.

Nghe được lời giải thích của người bạn, tôi yên tâm và đồng thời cũng tiếp tay để hóa giải những lời đồn thất thiệt về Cụ Dung. Câu chuyện dần dần trở nên lắng đọng.

Bây giờ, sau 25 năm (2008 – 1983) nhìn lại, thì rõ ràng lời nói của Cụ Dung không sai. Cụ đã nhìn trước được cái thế mà Việt Cộng đang cố gắng theo đuổi lúc này. Cụ Dung cũng sang Mỹ sau khi ra tù, nhưng nghe nói cụ đã qui tiên rồi!


7.10. Sợ lây bệnh cùi


Tôi làm vệ sinh ở buồng, không có dịp đi ra ngoài lao động. Những chuyện xẩy ra bên ngoài, tôi đều nghe anh em bạn tù kể lại. Câu chuyện dưới đây, tôi viết lại theo lời kể của anh Nguyễn Quang Ngọ và Võ Tấn Tài.
Khu vực lao động của đội tôi có tên là thung Gianh vì nó có rất nhiều cỏ tranh (một thứ cỏ mà người ta dùng để lợp mái nhà). Người Bắc, nhất là vùng Nam Định và Hà Nội thưòng đọc vần TR và GI như nhau. Nghe dân vùng này đọc là Gianh thì tôi viết là Gianh, có lẽ viết là Tranh thì đúng hơn. Thung là tiếng tắt chỉ cái thung lũng.

Thung Gianh ở cách trại hơn ba cây số (2 miles); trong vùng này có rất nhiều hang động vì đây là khu vực núi đá vôi. Đội của Ngọ thường vào thung Gianh trồng sắn. Ở đây có một làng cùi, phỏng độ vài ba trăm người, nặng nhẹ đều có cả. Một lần đi trồng sắn, lúc nghỉ giải lao, anh Giang (tr/tá, đã chết sau ngày ra tù) gặp một ông đứng tuổi, mặc vét đàng hoàng, hai tay bỏ trong túi quần, có lẽ ông này là trưởng ấp ở đây. Sau này được biết thêm, xóm này gọi là trại phong (cùi) Ba Sao. Anh Giang gật đầu chào thì ông này đưa tay ra bắt tay. Anh Giang cũng đưa tay ra, nhưng mới được nửa chừng thì Giang phát giác ra ông này bị cùi vì mấy ngón tay đã rụng gần hết. Anh Giang sợ quá nhưng lỡ trớn rồi thì phải liều thôi.

Nói được dăm ba câu, ông cùi mời anh Giang ghé nhà ông (gần bên) uống nước. Anh Giang, trước khi vào nhà ông thì quay lại ra hiệu cho các bạn đừng vào theo anh. Còn anh thì cũng phải lịch sự vào nhà nhưng anh không dám đụng đến thứ gì trong đó. Nói tiếp dăm ba câu nữa, rồi anh lấy cớ hết giờ nghỉ, cáo lui. Ra tới ngoài, anh kể lại cho bạn bè nghe, ai cũng ớn xương sống. Nhân vụ này, mọi người mới sực nhớ và thốt lên: “Chết mẹ rồi! thằng Huỳnh Chí Tài nó nói rằng nó mua đồ ở thung Gianh về cho anh em mình ăn, như vậy đúng là nó mua đồ ở làng cùi này, chứ còn đâu nữa. Coi chừng cả đội bị lây bệnh cùi mất thôi.”

Huỳnh Chí Tài có máu Tầu (buôn bán) trong người, cho nên đi tới đâu hắn cũng làm công việc mua bán đổi chác để kiếm ăn thêm. Tài thường vào trại phong, mua đồ ăn vì giá rất rẻ, như bánh chưng, bánh dày, chuối… Từ ngày biết đây là trại cùi, công việc làm ăn của Tài tự động dẹp bỏ.

Tôi xin kể thêm một chút về Huỳnh Chí Tài.

Tài thuộc loại nhà giàu, ở Chợ Lớn, đi đâu cũng mặc vét và có xe hơi riêng. Kẹt tuổi quân dịch, Tài xin vào làm lính kiểng của ngành Dân Sự Chiến Đấu (DSCĐ). Loại lính này do Mỹ trả lương nhưng không có số quân. Tuy nhiên, người mang thẻ DSCĐ vẫn được coi là hợp lệ tình trạng quân dịch khi bị cảnh sát hỏi giấy tờ.

Từ khi Chí Tài trở thành lính DSCĐ, Tài phét lác với chòm xóm rằng Tài làm cho CIA. Chòm xóm cũng tin như vậy vì Tài luôn luôn mặc vét và ngồi xe hơi. Thỉnh thoảng, Tài lại đi một đường ngoạn mục là, mời mấy quan lớn (Trại Trưởng LLBB và tùy tùng) về ăn nhậu um xùm gần nhà Tài để cho bà con lé mắt chơi. Chòm xóm nhìn thấy toàn là đồ rằn ri, súng M-18, xe Jeep có cần câu (ăng ten) chạy tới chạy lui thì làm gì mà chẳng nghĩ rằng Tài “làm lớn”. Vì vậy mà sau ngày 30/4/75, bọn Việt Cộng nằm vùng chỉ điểm cho “Cách Mạng” tới mời Tài đi tù.

Vào trong tù, Tài chẳng biết gì mà khai báo. Ngay cả cái tên ngành lính của mình mà Tài cũng còn ấm ớ. Đúng ra phải nói là Dân Sự Chiến Đấu, thì Tài khai là Biệt Kích Dân Sự. Việt Cộng chẳng thấy có ngành nào trong QL/VNCH gọi là Biệt Kích Dân Sự cả, thôi thì cứ nhốt cái đã, “giết lầm còn hơn bỏ sót” là đường lối của Việt Cộng mà. Đó là lý do mà Tài bị đưa ra Bắc và ở tù lâu. Khi tôi được tha (8/1984), Tài vẫn còn bị tù.
Trở lại chuyện trại cùi, Ngọ nói: “Cho đến bây giờ, bọn mình chưa thấy ai dính bệnh cùi là phúc lắm rồi. Khi khám phá ra vụ ăn uống đồ ăn do người cùi làm, tụi này có hỏi Bác Sĩ Lê Thiện Điền thì được ông giải thích rằng vi trùng cùi khi gặp ánh sáng mặt trời là nó sẽ chết. Tuy nhiên, lúc đó bọn này vẫn còn nửa tin, nửa không. Bây giờ thì yên tâm rồi.”


7.11. Tư lệnh Sư Đoàn 23 B

Trại Nam Hà A, trước khi chúng tôi tới, có một đội gọi là đội 20. Đội này nổi tiếng là quậy phá và chống đối, gồm toàn những em cỡ mười mấy, hai mươi. Những em này bị bắt vì tham gia lực lượng Phục Quốc, và bị đưa ra Bắc. Các em thường hay phản đối, không đi lao động mặc dù cũng ra sân tập họp chờ đi lao động. Các em tập họp ở sân rồi mới hô hào không đi lao động để lôi kéo toàn trại làm theo. Đức (một trong số những em đó) kể lại với tôi rằng: “Có lần tụi em làm quá, không ra khỏi buồng để phản đối lao động khổ sai; trại phải huy động toàn bộ lưc lượng, nửa đêm bất chợt mở cửa buồng chĩa súng vào tụi em trong lúc tụi em đang ngủ, tụi em không phản ứng kịp, đành chịu thua. Sau lần này, bọn em bị đưa tới giam tại Trại Nam Hà B, rồi chuyển về D.”

Chừng một tháng sau khi chúng tôi tới Trại A, các em này lại được chở về đây vì hai Trại B và D bị dẹp bỏ, Trại B bị dẹp trước, Trại D bị dẹp sau. Ở trên xe bước xuống, chúng tôi thấy không phải là người, mà là các bộ xương biết đi. Các bộ xương biết đi này được sắp xếp cho ở buồng số 9. Anh em chúng tôi, ai có gì thì giúp họ thứ ấy. Nhờ vậy mà các em này phục hồi sức khỏe rất mau chóng. Khi khỏe khoắn rồi, vào những ngày cuối tuần, các em thường tới trò chuyện với chúng tôi. Các em thật là hồn nhiên và vui tính, ai cũng thương mến. Các em đều còn độc thân, không vướng bận thê nhi, cho nên các em coi chuyện tù đầy là chuyện nhỏ, chúng tôi thua các em ở điểm này. Ngày tôi được thả, chỉ có vài ba em được thả cùng đợt với tôi, và tôi chỉ nhớ có một em tên là Tài thôi.

Lẫn trong đám các em Phục Quốc, có một anh chàng điên điên khùng khùng, cỡ 30 tuổi tính đến năm1982. Không rõ nguồn gốc anh này ra sao, chỉ biết rằng anh bị tù vì tội “làm Tư Lệnh Sư Đoàn 23 B.”  Anh luôn xưng là Thiếu Tướng Quang Trung và làm Tư Lệnh Sư Đoàn 23 B. Chả cần nói, ai cũng biết anh này điên bởi vì với cỡ tuổi đó thì làm sao anh có thể mang lon thiếu tướng được. Vả lại, trong QL/VNCH chỉ có Sư Đoàn 23 Bộ Binh, làm gì có Sư Đoàn 23 B.

Hằng ngày, vào buổi trưa, trong lúc mọi người ngủ hoặc nghỉ trưa, thì anh này đi vòng vòng bên trong bờ tường đá, nhặt sỏi rồi bọc trong một mẩu giấy và ném viên sỏi ra ngoài bờ tường. Có người hỏi anh làm như vậy để làm gì, anh trả lời là đi gửi công điện cho các đơn vị ở ngoài.

Bọn Việt Cộng cũng thừa biết những điều anh khai báo là không đúng. Và, chúng cũng thừa biết những việc anh đang làm nhưng chúng vẫn nghi ngờ có gì mờ ám bên trong. Chúng nghĩ vậy, vì cái bóng ma CIA luôn luôn ám ảnh chúng. Vì thế mà, ngày tôi và hơn tám chục người được thả, Thiếu Tướng Quang Trung, Tư lệnh Sư Đoàn 23 B, vẫn âm thầm đi gửi công điện cho các đơn vị dưới quyền của ông ấy đấy.

Một hội viên Thư Viện Việt Nam, biệt danh Transon101, bổ túc thêm về “Tư lệnh SĐ23 B” như sau:

“Cựu Tư lệnh Sư Đoàn 23 B được tha năm 1987. Anh em chăm nom hắn mọi chuyện (kể cả làm một bảng đeo vào cổ ghi địa chỉ thân nhân tại Đà Nẵng.”






7.12. Chuyển tới Trại Nam Hà C


Sau khi ăn cái tết đầu tiên ở Nam Hà A (đầu năm 1983), chúng tôi lại chuyển trại nhưng lần này vì số người ra đi không là bao so với những người còn ở lại cho nên ít được quan tâm. Chỉ có một số ít người biết trước sẽ có chuyển trại Riêng tôi thì chẳng biết gì cho đến ngày mình đi.

Một buổi sáng, sau khi tập họp ở sân, những người nào được đọc tên sẽ đứng riêng ra, sau đó được lệnh về buồng thu xếp hành trang để chuyển trại. Lần này chúng tôi được lệnh đi bộ, chúng tôi biết ngay là sẽ không đi đâu xa, chỉ dăm bẩy cây số là tối đa. Nếu đi xa thì phải có xe chở và tay bị còng; phương thức giải giao tù của bọn công an Việt Cộng là như vậy.

Chúng tôi đi đổ dốc, Nam Hà A ở trên đỉnh núi, đi đâu thì cũng phải đổ dốc. Một vài người đã ở Trại A lâu năm, tỏ ra rành địa thế, đoán rằng bọn chúng tôi sẽ xuống Trại Nam Hà C. Lời nói của họ cho thấy là đúng. Chúng tôi đi khoảng hơn một tiếng đồng hồ thì có lệnh dừng lại trước mấy căn nhà mái tôn. Ở ngoài nhìn vào không ai nghĩ rằng đây là nhà tù, mà là cơ ngơi của một hợp tác xã nào đó.

Trại gồm mấy dãy nhà tôn trên một khu đất chật hẹp, chung quanh là một hàng rào kẽm gai sơ sài, cao chừng 1 mét rưỡi (5 ft). Bên ngoài hàng rào phía sau trại là những vườn rau của trại và của dân lẫn lộn với nhau. Cổng trại cũng chẳng ra cổng, không có cả một tấm bảng tên nhỏ của trại. Vừa bước qua cổng trại, phía bên phải là một cây cổ thụ mà tôi không còn nhớ là loại cây gì, cành lá sum suê, bóng mát che kín một khoảng sân lớn (bề ngang sân cỡ chừng 20 mét – 65 ft); phiá bên tay trái là một dãy nhà tôn chạy dọc theo chiều sâu của trại (nhìn từ cổng vào). Dãy nhà này gồm có hai buồng cách nhau bằng một bức vách. Mỗi buồng chứa được một đội 50 người. Song song với dãy nhà này, ở phía sau, cũng là một dãy khác có kiến trúc tương tự. Như vậy, hai dãy nhà có tất cả là 4 buồng, nhốt được 200 tù.

Qua khỏi dãy nhà là tới một khu đất trống rất hẹp, ở giữa khu đất có một cái giếng sâu chừng 10m (hơn 30 ft) nhưng mực nước dưới giếng không sâu quá 50cm (20 inches) vào lúc có nhiều nước nhất (thường là buổi sáng sớm). Đường kính miệng giếng rộng cỡ 4m (hơn 12 ft). Nước giếng lúc nào cũng có màu hồng hồng trông giống như nước vo gạo đỏ. Khi có nhiều người múc nước cùng một lúc thì nước có thêm nhiều bùn hoà lẫn với nó, phải để nước một lúc lâu cho bùn lóng xuống rồi mới dùng được. Vì thế tù nhân thường tắm giặt ở ngoài ruộng sau giờ lao động. Nước giếng chỉ dùng để rửa mặt, rửa chén mà thôi.Bên ngoài hàng rào phía sau trại là mấy khoảnh vườn rau của trại. Mỗi ngày, một số người được cắt cử gánh nước tưới rau cho trại. Nước tưới rau lấy từ một cái ao cạn phía sau đền thờ bà Lê Chân.

Vào tới trại, chúng tôi thấy đã có một số anh em từ các trại Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú (Tân Lập có nhiều trại, mang chữ K ở đầu, như K5, K6 …) đang ở đây rồi. Như vậy là, vừa Tân Lập, vừa Nam Hà A cộng lại là khoảng 200 người. Tôi và Nguyễn Quang Ngọ ở cùng dãy nhà nhưng khác buồng. Tôi ở buồng 1 và Ngọ ở buồng 2 (gần giếng nước). Buồng 1 nằm sát ngay phía trái cổng trại. Võ Tấn Tài ở cùng buồng 1 với tôi. Bác sĩ Nguyễn văn Thịnh cũng đi cùng nhóm chúng tôi về đây nhưng không nhớ ông ở buồng nào.

Sau một vài ngày ở đây, chúng tôi được biết Trại C thuộc xã Khả Phong, huyện Kim Bảng, Tỉnh Hà Nam. Dân quanh trại cho biết sở dĩ xã này có tên là Khả Phong vì nó có nhiều thế đất linh, ai may mắn có mồ mả đặt trúng vào thế đất linh thì con cháu sau này sẽ “phát”, sẽ có danh vị trong xã hội, sẽ được nhà vua phong cho chức tước; đó là ý nghĩa của hai chữ “khả phong”. Nghe chuyện này, tôi nghĩ trong bụng rằng: “Khả phong” đâu chưa thấy, mà chỉ thấy trước mắt rằng “khả bệnh” là cái chắc; môi trường sống ở đây quá ô nhiễm, sức khỏe sẽ bị ảnh hưởng là điều đương nhiên.

Không khí, nhất là vào buổi sáng, ngột ngat mùi xú uế của phân và nước tiểu do dân chúng tưới rau xung quanh trại. Mỗi buổi sáng, tôi mong cho chóng ra khỏi trại để tránh phải hít thở cái mùi xú uế đó vào buồng phổi mình. Nước uống thì đục ngầu và đôi khi còn có mùi thum thủm do nước tưới rau ngấm xuống mạch nước. Buồng ngủ thì nóng quá hoặc lạnh quá tùy theo mùa. Mái tôn không có trần, hành hạ những người phải nằm tầng trên. Mùa lạnh thì hắt cái lạnh thấu xương xuống những tấm thân tù còm cõi; mùa hè thì hắt cái nóng dữ dội xuống họ. Vào mùa hè, người nào cũng phải chứa sẵn vài ba lon nước để trước khi đi ngủ, vào trong nhà cầu xối cho ướt từ đầu đến chân rồi lau sơ sơ cho ráo nước trước khi vào giường ngủ. Tôi nằm ở tầng trên, buổi tối trước khi khóa cửa bưồng, tôi cũng phải để dành mấy lon nước nhưng thay vì xối cho ướt người, tôi đổ nước vào cái mền cho ướt đều, rồi phủ lên nóc mùng (màn) để loại trừ hơi nóng từ mái tôn hắt xuống. Nhờ vậy mà đỡ được cái nóng rất nhiều. Còn mùng và mền thì sáng hôm sau lại khô ran như đã được phơi ngoài nắng vậy.

Cách tổ chức nhân sự ở đây cũng hệt như ở Trại A: Buồng trưởng, phụ trách báo cáo nhân số khi vào buồng buổi tối, ra buồng buổi sáng; ngoài ra thì chỉ đi lòng vòng cho hết ngày. Đây là chức vụ nhàn hạ nhất. Đội trưởng, phụ trách dẫn đội đi lao động bên ngoài. Người làm “căng-tin”, phụ trách mua đồ ăn, đồ dùng cho cả buồng. Người làm vệ sinh, phụ trách rửa ráy nhà cầu mỗi ngày; công việc này tuy có dơ dáy nhưng cũng chỉ vất vả vài tiếng đồng hồ mỗi ngày, thời giờ còn lại là của mình, làm gì tùy ý.

Buồng trưởng buồng tôi là anh Song (không nhớ họ, từ Trại Tân Lập chuyển sang). Anh Song trước đây là dân “cậu” ở Sài-Gòn, Thời gian này, Song được tiếp tế đầy đủ cho nên dáng dấp vẫn còn rất phong độ. Song cao lớn và lại có thêm bộ ria mép, trông bảnh trai lắm. Chẳng biết những năm tháng tù đầy của Song trước đây như thế nào, nhưng bây giờ thì không thấy biểu hiện gì là loại “đâm sau lưng chiến sĩ”. Song ăn nói hòa nhã và sống hoà đồng với mọi người trong buồng.

Đội trưởng là anh Kiệt, khoá 20 Võ Bị Đà Lạt. Kiệt là anh ruột của Chương còm/ Chương hói mà tôi đã đề cập trong bài viết trước đây. Kiệt cũng vậy, chỉ biết làm tròn công việc của đội trưởng mà không thấy làm điều gì khó dễ với bạn tù. Tôi chưa thấy ai than phiền về anh. Chắc hẳn giờ nay gia đình anh cũng đang sống ở đâu đó tại Hoa Kỳ.

Người phụ trách “căng-tin” là anh Trần Vệ, khoá 19 Võ Bị Đà Lạt. Vệ và Kiệt là người từ Tân Lập chuyển qua cho nên tôi không rõ quá khứ “cải tạo” của hai anh này. Mà, cho dù họ đã làm gì đi nữa thì bây giờ họ cũng chẳng dám tỏ ra là “tiến bộ” vì tình hình đã thay đổi, đã nhìn thấy “ánh sáng ở cuối đường hầm” rồi. Chỉ còn tên nào có cái đầu bằng đất sét thì mới tiếp tục “học tập để tiến bộ” mà thôi. Vì thế, trong mấy tháng ở Trại C, tôi chưa nghe ai nói đến một người nào bị phát giác là làm “ăng ten” cho Việt Cộng cả. Chúng tôi nói chuyện với nhau thoải mái hơn, không phải nơm nớp lo sợ có kẻ rình rập và báo cáo như những năm tháng trước đây.

Ngoại trừ nhóm người làm bếp, các đội không được giao cho phụ trách chuyên về một việc gì cả. Công việc của đội tôi cũng thay đổi luôn, lúc thì đi đập đá dăm, lúc thì đi làm cỏ lúa, lúc thì nhổ mạ, khi thì đi cầy ruộng, v.v…Bọn công an quản giáo cũng có vẻ à ới, giao việc cho đội trưởng xong rồi thôi, không kiểm soát gắt gao. Đội trưởng giao công tác cho từng tổ, chúng tôi cũng làm à ới, nước sông công tù mà, ngu gì mà làm nhiều chứ. Dường như ở thời điểm này, bọn cai tù đã được học tâp “Đường lối mới” đối xử với nhóm tù Việt Nam Cộng Hòa. Chúng nó không còn có vẻ căm thù chúng tôi như những năm trước nữa. Có lẽ là do hệ quả của sự điều đình giữa Đại Diện Hoa Kỳ (ông Funseth) và chính phủ Cộng Sản Việt Nam năm 1982.

Đến cuối ngày, đội trưởng báo cáo sao cũng được, chẳng thấy quản giáo phê bình là “lao động chây lười, cải thiện linh tinh, chưa đạt chỉ tiêu v.v…” như trước đây chúng tôi đã từng nghe mỗi ngày.

Tôi đã từng bị quản giáo, khi mới tới Trại Vĩnh Quang B, bắt quả tang tôi cuốc đất ăn gian; cuốc một nhát, bỏ một nhát. Vì vậy mà tôi cuốc chậm rãi nhưng vẫn theo kịp anh em trong đội. Hắn bảo tôi rằng: “Anh giơ (cuốc) lên chim đậu, bổ (cuốc) xuống mối xông.” Ý hắn nói là tôi lười, cuốc chậm, tháng năm một cuốc, tháng mười một cuốc. Lúc đó, tôi thầm nghĩ, mày muốn nói sao thì nói, nghe tai này tao cho chạy qua tai kia là xong ngay, miễn là mày đừng lấy báng súng đánh tao là được. Những lần sau, tôi không cuốc một nhát, bỏ một nhát; nhưng thay vì cuốc sâu thì tôi cuốc nông để đỡ mất sức; như thế vẫn là cuốc ăn gian; khi nào ăn gian không được thì bỏ. Vậy là tôi vẫn qua mặt nó được. Triết lý sống của tôi là phải giữ gìn sức khoẻ; bèn có câu thơ con cóc sau đây:
                          
Ra thăm, vợ đã dặn rằng
                    Lao động à ới, đừng hăng làm nhiều.
7.13. Đền thờ bà Lê Chân


Trại Nam Hà C nằm trên khu đất trước đây từng thuộc khu vực đền thờ bà Lê Chân (*). Từ sau ngày Cộng Sản cai trị Miền Bắc, khu đền thờ của Bà đã bị bọn chúng chiếm dụng. Các kiến trúc lớn đều bị phá hủy. Khi chúng tôi tới đây, chỉ còn duy nhất một cái miếu nhỏ, bên trong có tượng bà Lê Chân, được che bằng một tấm màn đỏ. Phía sau miếu có một cái giếng nông; có thể coi như một cái ao nhỏ vì nó không có thành giếng thẳng đứng, mà có bờ thoai thoải từ trên đi xuống. tất cả đều bằng đá, nước rỉ ra từ các mạch đá ở đáy giếng. Mực nước giếng chỗ sâu nhất chừng một mét rưỡi (5 ft). Nước ở đây rất trong, có thể nhìn thấy đáy giếng. Chúng tôi thường gánh nước ở giếng này về tưới rau cho trại. Khoảng cách từ trại tới giếng phỏng chừng hơn một trăm mét (hơn 300 ft).

Hằng ngày có một bà cụ trông nom hương khói ở miếu. Bà cụ này, khi được hỏi, cho biết rằng Bà (Lê Chân) rất thiêng. Kể từ ngày bọn Việt Cộng chiếm đất trong khu vực này để xây cất nhà ở và nhà tù thì năm nào cũng có một đứa bé (con của Việt Cộng) bị chết đuối ở cái giếng phía sau miếu thờ Bà mặc dù giếng không sâu. Có lẽ đây là sự trừng phạt dành cho những kẻ ngỗ nghịch, đã dám xâm phạm đến khu đất của Bà.

Thời gian đầu, đội tôi đã một vài lần ra ngồi đập đá dăm cho trại. Chúng tôi ngồi trên khoảnh đất trống, xế cửa của miếu. Chúng tôi ngồi thành hai hàng ngang đối diện nhau. Mỗi người được phát cho cây sắt vuông cạnh, giống như một cái thước kẻ, dài chừng 30cm (12 inches), vuông mỗi cạnh 2cm (.8 inch). Chúng tôi phải đập những cục đá lớn cho bể ra thành đá dăm, nhỏ cỡ đầu ngón tay trỏ.

Đập đá như vậy mà không có kiếng che mắt thì rất dễ bị đui mắt nếu chẳng may miểng đá văng trúng con ngươi. Chúng tôi chưa ai bị đui mắt nhưng bị đá văng trúng vô mặt, cánh tay, bàn chân thì rất thường. Một buổi sáng, anh Võ Tấn Tài ngồi cùng hàng với tôi và sát ngay cửa miếu Bà. Đến giờ nghỉ giải lao, Tài tới vén màn che miếu thờ và nhìn vào trong miếu khá lâu. Tôi thấy điệu bộ của Tài tỏ ra không phải là chỉ ngó xem cho biết vì Tài đứng rất ngay ngắn và không quay qua liếc lại như người khác. Sau khi hết giờ giải lao, mọi người trở lại vị trí đập đá của mình và tiếp tục công việc cho đến hết giờ.

Buổi chiều, chúng tôi tiếp tục ra đập đá. Ngồi được chừng 15 phút thì một công an Cán Bộ Trại tới chỗ chúng tôi và hỏi lớn:
- Anh nào là Võ Tấn Tài?
Tài trả lời:
- Có mặt
- Anh đi theo tôi vào trại.
Tài đứng lên và theo hắn vào trại.

Tôi thắc mắc, chẳng biết Tài bị gọi về vì lý do gì, lành hay dữ đây? Hết giờ làm việc, chúng tôi về trại thì thấy Tài vẫy vẫy tay tỏ vẻ vui thích. Sau khi cơm nước xong, chờ giờ vào buồng, Tài gặp tôi và kể:

“Bà thiêng thật! Sáng nay ngồi đập đá, tôi thấy đá văng tứ tung, tôi chỉ sợ đá văng vô mắt thì tàn đời trai, rồi tôi nghĩ tới sự linh thiêng của Bà. Đến giờ nghỉ giải lao, tôi tới vén bức màn đỏ, nhìn vào, thấy tượng Bà uy nghi trên bàn thờ, tôi khấn với Bà rằng nếu Bà linh thiêng thì xin Bà giúp tôi làm cách nào đổi công việc này cho tôi, tôi sợ đập đá lắm rồi. Lúc tôi khấn Bà, tôi phải đem hết lòng thành để mong Bà nhận lời. Và, Bà đã nhận lời khấn của tôi. Trưa nay thằng Cán Bộ Trại gọi tôi vào trại giao cho tôi bộ đồ hớt tóc, từ nay chuyên lo việc cắt tóc cho anh em trong trại. Chiều nay tôi đã cắt tóc cho một số người đang nghỉ bệnh tại trại. Khi cắt tóc cho họ, họ cho biết là trưa nay tên Cán Bộ Trại tới kiểm tra và thấy họ đều có tóc dài quá, hắn hỏi tại sao để tóc dài, họ trả lời là không có ai hớt tóc cho. Hắn cho biết, trại có sẵn bộ đồ nghề hớt tóc, và muốn biết ở đây ai biết hớt tóc thì họ trả lời là có VT Tài, vì thế hắn ra gọi tôi về trại và giao cho tôi nhiệm vụ hớt tóc. Thế là từ nay tôi khỏe re, nhờ có Bà giúp đó.”  Nghe Tài kể xong thì thắc mắc buổi sáng về điệu bộ nghiêm trang của Tài đã được giải đáp.

(*) Ghi chú: Nhân nói đến bà Lê Chân, tôi thêm phần ghi chú này, dành cho các bạn trẻ chưa hiểu rõ về lịch sử chống ngoại xâm của tộc Việt thời vua Trưng (tôi dùng chữ của Yên tử Cư sĩ Trần Đại Sỹ), năm 39 -43 sau công nguyên. Quí vị lớn tuổi, xin thông qua.

Theo Yên tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ thì:

Bà Lê Chân là một trong số 162 vị tướng của vua Trưng. Bà là một nữ tướng ở vào bậc trung thôi. So với các nữ tướng khác như các bà Trần Năng, Nguyễn Phương Dung, Phùng Vĩnh Hoa, Hoàng Thiều Hoa, Phật Nguyệt… thì bà Lê Chân còn kém xa về tài năng.
Chồng bà Trưng Trắc là ông Đặng thi Sách nổi lên đánh đuổi quân Tô Định. Ông bị trúng kế của Tô Định và bị giết. Quần hùng khi đó suy cử bà Trưng Trắc thay thế chồng, làm Giao Chỉ Vương, cầm quân tiếp tục cuộc chiến chống lại Tô Đinh. Tất cả các môn phái võ lâm của tộc Việt đều tự đặt mình dưới quyền điều động của bà. Mặc dù về tài văn võ của bà còn thua một số người khác, nhưng bà có chân mệnh đế vương cho nên ở bà toát ra một cái gì mà người đối diện cảm thấy nể phục.

Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và nhiều cuốn Việt Sử khác thì, họ của ông Sách đã bị bỏ qua, mà chỉ viết là Thi Sách, làm cho nhiều người lầm tưởng rằng họ của ông là Thi.

Sau khi đánh đuổi được quân Tô Định về Tầu và chiếm lại được toàn thể lãnh thổ cũ của tộc Việt từ Động Đình hồ trở xuống phía nam (phỏng chừng một nửa phía nam của nước Tầu hiện nay). Quần hùng suy tôn bà lên làm Hoàng Đế, lấy tên nước là Lĩnh Nam. Bà trở thành hoàng đế Lĩnh Nam (năm 39 sau Tây lịch). Và, bà Trưng Nhị thay thế bà Trưng Trắc, làm Giao chỉ vương.

Do đó chữ “Vua Trưng” để chỉ Hoàng Đế Lĩnh Nam, tức là bà Trưng Trắc.
Bà Trưng Nhị làm Giao Chỉ Vương/Trưng Vương.

Các bạn trẻ muốn tìm hiểu thêm về giai đoạn lịch sử này, xin hãy tìm đọc Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ, “Động Đình Hồ Ngoại Sử” và “Cẩm Khê Di Hận” (có đăng trong Thư Viện Toàn Cầu).

7.14. Đỉa nhiều như rươi

Thời tiết bắt đầu vào mùa hè. Đội tôi bây giờ chuyển sang nhiệm vụ trồng cấy. Trại có một số ruộng cấy lúa nước, nằm xung quanh trại, trong phạm vi bán kính chừng một cây số (2/3 mile). Nghe nói tới làm ruộng là tôi lại nghĩ đến đỉa vì hầu như luôn luôn phải đi,đứng, và làm việc ở dưới nước, mà tôi lại rất sợ đỉa. Tôi nói với anh Kiệt (đội trưởng) sắp xếp cho tôi việc gì không phải lội xuống nước. Anh Kiệt suy nghĩ một lúc rồi cắt cử tôi đi lấy củi cho anh Nguyễn Phán (khóa 24 Võ Bị Đà Lạt, hiện ở Cali). Phán lo phần nấu cơm trưa và nấu nước cho đội. Mặc dù chúng tôi làm ruộng không cách xa trại quá một cây số, nhưng chúng tôi không về trại buổi trưa, mà ở luôn cho đến chiều mới trở về trại (Việt Cộng gọi là đi làm thông tầm).

Ở Trại Vĩnh Quang A đã nhiều đỉa, mà ở đây đỉa còn nhiều hơn. Chúng tôi thường tắm giặt ở những vũng nước gần với nhà lô của đội. Đứng ở trên nhìn xuống, không thấy gì, nhưng bước chân xuống nước rửa ráy, đỉa thấy động là chúng bơi ra tấn công ngay. Mỗi khi tắm, tôi lội nhanh xuống nước nhúng cho ướt người rối phóng ngay lên bờ và đứng trên bờ kỳ cọ. Kỳ cọ xong, tôi lại phóng xuống nước lần thứ hai, nhúng người cho sạch rồi lại phóng ngay lên bờ. Mấy anh em khác, ít sợ đỉa hơn, họ không làm như tôi. Mỗi khi bị đỉa bám vào người, họ nhổ nước miếng vào mấy đầu ngón tay, rồi xoa vào chỗ đỉa đang cắn. Đỉa gặp nước miếng thì nhả miệng ra, do đó dễ dàng bị mấy ngón tay hất ra ngoài.

Tôi cẩn thận như vậy mà vẫn bị dính đấy. Có lần, khi về đến trại, chuẩn bị nhận phần cơm chiều, tôi thấy mông quần của tôi bị ướt nhẹp. Tôi tự hỏi, quần áo mình vừa thay xong, khô ráo đàng hoàng mà sao lại ướt kỳ lạ vậy. Tôi kéo mông quần hết cỡ về phía trước và cúi xuống nhìn, thì ra là máu. Tôi biết ngay là bị đỉa cắn. Chú đỉa hút máu no bụng rồì nhả miệng ra và rơi ở đâu tôi không biết, máu ở vết cắn cứ tiếp tục chảy ra làm ướt quần. Vì không biết cho nên đỡ sợ nhưng trong lòng thì tiếc hùi hụi vì phải cống hiến máu cho chú đỉa ngoài ý muốn. Phải ăn bao nhiêu cơm mới lấy lại được số máu đã mất đây! Dưới nước có đỉa là chuyện thường, trên bờ có đỉa mới là chuyện lạ.

Nhiệm vụ của tôi là đi lấy củi cho anh Phán nấu ăn. Cách nhà lô của đội tôi chừng 500 mét  (1/3 mile) đường chim bay, có vài ngọn núi đá thấp. Núi chỉ có một ít cây thân mộc lớn và ở trên cao, không thể chặt được. Ngoài ra, chỉ toàn là bụi cây thân thảo và dây leo. Ngày đầu tiên, kiếm được đủ củi cho bữa cơm trưa không phải là dễ. Khi đã đủ một bó củi cho ngày hôm đó, tôi chặt sẵn một ít dây leo để ngày hôm sau đã có một mớ củi tai tái khả dĩ nấu cơm được. Tôi cứ chặt gối đầu như thế, với số lượng nhiều gấp ba bốn lần của một ngày nấu ăn để nó có đủ thời gian khô. Nhờ vậy mà nhà bếp Phán có củi khô nấu ăn mỗi ngày.

Đường từ núi về nhà lô, phải băng qua nhiều mảnh ruộng nhỏ, ngăn cách nhau bằng những bờ ruộng phủ đầy cỏ. Có lần tôi ngồi nghỉ chân trên một bờ ruộng vì không muốn về sớm quá, sợ tên quản giáo nghĩ rằng công việc này quá nhẹ, lại bắt làm thêm cái gì nữa thì không khá được. Buổi sáng đầu mùa hè, trời trong sáng, ngồi trên bó củi, hít thở không khí trong lành đượm mùi lúa non thì cũng thú lắm. Chừng 15 -20 phút sau, tôi ngó xuống bàn chân thì rùng mình; những con đỉa nhỏ bằng que tăm và dài hơn 1cm (1/2 inch) đang lúc nhúc ở mấy kẽ ngón chân của tôi. Tôi vội vàng lột đôi dép râu ra và nhổ thật nhiều nước miếng vào mấy ngón tay, rồi cho nước miếng ở ngón tay nhểu xuống mấy kẽ ngón chân, sau đó xoa xoa thật lẹ cho mấy con đỉa văng ra khỏi chân. Rồi, tôi phải đứng hai chân lên bó củi để phủi hết mấy con đỉa còn bám ở dép râu. Xong xuôi, tôi hết dám ngồi tiếp nữa, mà đi vội về nhà lô ngồi nghỉ.

Từ nhỏ tôi đã biết đỉa, nhưng chỉ thấy đỉa ở dưới nước thôi. Đâu dè còn có cả đỉa trên bờ (ruộng) nữa. Những lần đi chặt củi kế tiếp, tôi thử đứng lại tại một vài bờ ruộng khác xem sao, thì thấy rằng bờ ruộng nào cũng vậy. Chỉ đứng lại một chút xíu là mấy chú đỉa tí hon đã mon men đến gần đôi dép râu của tôi rồi, thấy mà phát khiếp!


7.15. “Tôi theo nội qui của trại.”


Công việc đồng áng của đội tôi kéo dài vài ba tuần lễ. Mỗi buổi sáng tôi vẫn leo lên ngọn núi đá thấp lấy củi về cung cấp cho Nguyễn Phán nấu ăn. Tới giờ ăn trưa, cả đội tập trung ở nhà lô để ăn trưa. Hết giờ nghỉ trưa, ai về việc nấy, chẳng thấy ai tỏ vẻ gì là làm việc mệt nhọc cả. Không ai nói ra nhưng đều ngầm hiểu với nhau rằng bây giờ là lúc làm việc à ới, làm cho qua thời gian thôi, chẳng dại gì mà cầy như trâu, chỉ tổn sức khỏe.

Phán và tôi thì, sau bữa ăn trưa là coi như nghỉ luôn cho tới chiều, chờ đội gom dụng cụ về nhà lô, cất vào kho, rồi dẫn nhau ra mấy vũng nước gần đó tắm giặt trước khi về trại. Trong lúc chờ đợi, Phán và tôi, mỗi người mắc một cái võng vào mấy cái cột ngoài hiên nhà lô, nằm đu đưa võng, đọc báo chán thì ngủ. Tên quản giáo ít khi có mặt ở nhà lô, có lẽ hắn đi vào xóm tán gái, tới gần giờ nghỉ việc mới thấy hắn lò mò về.

Cái võng của tôi được làm bằng một cái bao gạo trăm ký. Bao gạo này do Võ Tấn Tài ăn cắp cho tôi khi anh còn làm ở đội nhà bếp Trại Vĩnh Quang B. Tôi xẻ đôi bao gạo theo chiều dọc bao, viền mép lại, thế là thành một cái võng, tuy chẳng có mỹ thuật tí nào nhưng rất hữu dụng. Nhờ nó mà khi được thả, bốn ngày ba đêm trên xe lửa, tôi dùng nó làm chỗ ngả lưng tương đối thoải mái.
Một vài lần, khi quản giáo về nhà lô sớm, hắn thấy chúng tôi đọc báo, hắn mon men đến hỏi chuyện tôi:
- Anh đọc sách tiếng nước ngoài à?
- Vâng, tôi đang đọc tờ tạp chí Liên Xô
- Anh biết tiếng Liên Xô à? Mà tôi thấy nó đâu có giống chữ Liên Xô?
- À, Nó là tạp chí Liên Xô nhưng được in bằng tiếng Anh cho “quốc tế” đọc.
- Học tiếng Anh có khó không? Liệu tôi học có được không?
- Cán bộ còn trẻ, đầu óc còn minh mẫn (chưa chắc ạ, bần cố nông ba đời thì minh mẫn sao nổi!) thì học cái gì chả được, nhưng phải có thày dạy.
- Khi nào thuận lợi, anh dạy tôi nhá?
- Vâng.

Nói xong, hắn bỏ vào trong nhà hút thuốc lào. Tôi nghĩ bụng, nếu mày có dịp nhờ tao dạy thì mày sẽ được nghe những lời “tuyên truyền phản động của bọn Mỹ-Ngụy” hơn là học chữ.

Một hôm vào lúc xế chiều, tên quản giáo từ xóm trở về nhà lô sớm. Hắn vào trong nhà lô, vài phút sau đã nghe thấy tiếng kêu ro ro của chiếc điếu cày. Hút thuốc xong, hắn ra chỗ tôi và bảo:
- Anh Thái vào đây tôi bảo.
Tôi đứng dậy và đi theo hắn vào trong nhà. Hắn chỉ cho tôi hai cái chai không và bảo tôi mang hai cái chai này đi theo hắn vào trại lãnh thực phẩm. Tôi hỏi hắn:
- Thưa cán bộ, lãnh thực phẩm cho đội hay cho riêng cán bộ?
- Lãnh cho riêng tôi thôi.
- Nếu lãnh riêng cho cán bộ thì tôi không đi.
- Tại sao anh lại không đi?
- Thưa cán bộ, nếu tôi mang chai đi lấy nước mắm cho cán bộ là tôi đã vi phạm nội qui của trại.
- Sao lại vi phạm nội qui?
- Nội qui trại có ghi rõ ràng là phạm nhân không được dùng bất cứ hình thức nào để hối lộ, mua chuộc và lấy lòng Cán Bộ Quản Giáo của mình. Việc riêng của Cán Bộ thì Cán Bộ làm lấy. Nếu tôi mang chai đi lấy nước mắm cho Cán Bộ thì rõ ràng là tôi làm để lấy lòng Cán Bộ mà thôi, chứ đâu có phải bổn phận của tôi.
- Thôi được, anh nhiều lý sự lắm, ra ngoài đi.

Tôi bỏ ra ngoài nằm võng và biết rằng thế nào chiều nay hắn cũng tập họp đội lại để phê bình thái độ của tôi.

Đúng như tôi dự đoán. Sau khi đội cất dụng cụ vào kho, hắn bảo anh Kiệt tập họp đội lại cho hắn nói chuyện trước khi đội được phép đi tắm giặt. Hắn nói vòng vo tam quốc đủ chuyện, nào là “Cách Mạng” đã khoan hồng, nào là học tập cải tạo, rồi dẫn đến việc tôi đã chây lười lao động chiều hôm nay như thế nào và chỉ thị cho tôi phải viết bản kiểm điểm nộp cho hắn ngày hôm sau. Hắn nói gì tôi chẳng quan tâm nhưng tôi chỉ áy náy trong lòng là mình đã làm cho các bạn tù mất mấy chục phút quí báu của họ.

Chắc hẳn phần lớn các bạn tù trong đội của anh Kiệt giờ này chẳng còn nhớ gì đến câu chuyện trên đây. Tuy nhiên, dù nhớ hay không, tôi cũng xin có lời tạ lỗi cùng các bạn.

Hôm sau tôi nộp cho hắn bản kiểm điểm, nội dung cũng tương tự như những câu đối đáp vừa kể trên đây. Rồi chẳng thấy có việc gì xảy ra tiếp theo nữa, nó đã chìm xuồng.

Giả như sự việc này xảy ra chừng ba bốn năm trước đó, thì sức mấy tôi dám từ chối, từ chối để ăn báng súng hay ăn nòng súng à? Bây giờ thời thế đã khác, nó không thể giết mình hoặc đánh đập mình ngoại trừ mình có những hành động quá đáng như làm loạn hoặc đánh lại chúng mà thôi. “Gặp thời thế, thế thời phải thế” là vậy.


7.16. Người láng giềng xưa


“Người láng giềng” ở đây là anh Nguyễn Tiến Hanh, thiếu tá, binh chủng Pháo Binh, thuộc nhóm đến từ Tân Lập. Xin đừng lầm với Nguyễn Tiến Hanh, đại úy, khóa 15 Pháo Binh mà tôi đã đề cập đến dăm ba lần trước đây.

Một hôm, có một người ở buồng 2 (sát vách với buồng 1 của tôi) sang buồng tôi, chuyện trò với bạn của anh. Trong câu chuyện, tôi có nghe anh nói tới Nguyễn Tiến Hạnh (có dấu nặng) nhưng tự nhiên có cái gì đó khiến tôi nhớ đến một người hàng xóm tên Nguyễn Tiến Hanh (không có dấu nặng). Tôi tới và hỏi lại anh cho chắc xem là Hạnh hay là Hanh. Anh này cho biết rằng anh tên là Hanh nhưng khi vào quân đội thì đổi thành Hạnh, có dấu nặng. Như thế là tôi nắm chắc bẩy tám chục phần trăm, anh Hanh là hàng xóm cũ của tôi khi còn ở ngoài Bắc (tỉnh Nam Định).

Chờ đến cuối tuần, tôi sang buồng 2, tìm gặp anh Hanh. Tôi chắc chắn là anh không biết tôi, nhưng tôi biết anh rất rõ. Gặp anh, tôi hỏi:
- Xin lỗi, anh có phải là Nguyễn Tiến Hanh không?
- Đúng rồi.
- Thế anh có phải là con bà Phán Thông ở Nam Định không?
Anh tỏ vẻ ngạc nhiên và hỏi lại:

- Đúng rồi, nhưng sao anh biết?
- Đừng gọi em là anh, tổn thọ chết. Anh không biết em đâu, nhưng em biết anh quá rõ. Ngày ở Nam Định, nhà em và nhà anh cùng thuê nhà của ông Đại Thành Hưng, hai nhà chỉ cách nhau một bức vách, cùng chung một sân, cùng nấu cơm chung một bếp. Em chỉ nhìn thấy anh vài lần khi gia đình anh dọn đến. Sau đó vài ba tháng anh đưa vợ mới cưới về ở, và anh đi học khóa Sĩ Quan năm 1953, chẳng biết là Đà Lạt hay Thủ Đức. Lần sau chót là lần nhìn thấy anh mặc đồ Sinh Viên Sĩ Quan về thăm nhà. Do đó tình cảm giữa anh và em coi như không có gì cả. Trái lại, bà Phán và em trai anh là Nguyễn Phan Thịnh, rồi sau này là chị Hanh thì có rất nhiều kỷ niệm thắm thiết và khó quên với gia đình em. Thịnh nhỏ tuổi hơn em và học cùng lớp em trai của em. Hồi đó, thỉnh thoảng em bắt gặp chị đứng nấu cơm ở dưới bếp, vừa nấu cơm vừa sụt sùi, chẳng hiểu chị khóc vì nhớ anh hay vì chuyện mẹ chồng nàng dâu (nghe tới đây anh tỏ vẻ xúc động vì thấy mắt anh rớm lệ).
Tôi nói tiếp:

- Mấy ngày trước khi có Hiệp Định Genève (20/7/1954), máy bay Pháp đến bỏ bom ở bến sông Nam Định vì nghi có tàu chở Việt Minh (Khi đó chưa gọi là Việt Cộng). Dân chúng sợ quá, chạy tứ tán. Nhà em thì dọn về quê, cách tỉnh 7 km (5 miles). Còn bà Phán, Chị và Thịnh chẳng biết đi đâu. Gia đình em về đến làng, vừa vào tới nhà bà bác em, thì bà bảo bố mẹ em rằng không thể ở làng được đâu, “Nó sẽ giết cả nhà cậu mợ đấy.” Thế là cả gia đình ăn cơm xong lại gồng gánh trở về Nam Định. Vào lại nhà cũ thì chẳng còn ai là hàng xóm cũ nữa. Lúc đó em có cảm tưởng rằng mình vừa bị mất mát một cái gì quí giá mà khó tìm lại được. Nhìn vào căn phòng của bà Phán, phòng trống trơn, em nhớ bà không thể tả được vì em luôn coi bà như mẹ của em. Gia đình em mướn một căn nhà khác cũng gần đó, và ở cho đến ngày di cư vào Nam (cuối tháng 8 năm 1954). Khi còn ở Trại Vĩnh Quang B, em có người bạn tên là Phạm Tất Hanh; Hanh cho biết anh là bạn thân của Nguyễn Phan Thịnh khi còn đi học. Bà Phán, Chị và Thịnh bây giờ ra sao ?

- Mẹ tôi cũng di cư vào Nam nhưng mất đã lâu rồi. Còn Thịnh thì cũng ở tù như anh em mình nhưng tôi không rõ chú ấy bị giam nơi nào. Bà xã tôi và các cháu thì dĩ nhiên là phải vất vả và cực khổ trong lúc này. Bây giờ có ai sung sướng được đâu, ngoại trừ… (anh không dám nói hết câu, để cho tôi hiểu ngầm)

Bên ngoài có tiếng nhà bếp gọi các buồng đi lãnh cơm. Chúng tôi không thể tiếp tục nói chuyện nữa. Tôi chào anh và hẹn hôm nào rảnh sẽ sang gặp anh trò chuyện tiếp. Đâu có dè chỉ mấy hôm sau là chúng tôi phải chuyển trại. Tôi và một số bạn thân như Võ Tấn Tài, Nguyễn Phán, Vượng Sún, Dụ lé, Phạm Châu Tài, Nguyễn Chánh Vi, Vũ Cao Hiến, cùng một số khá nhiều nữa, mà tôi không nhớ tên, được trở lại Trại Nam Hà A. Còn một số khác, trong đó có anh Hanh, thì tôi không biết chuyển đi đâu. Từ đó cho tới nay, anh và tôi không còn tin tức gì của nhau nữa.

Trong bữa cơm chiều sau khi gặp anh, vừa ăn tôi vừa có một ít suy nghĩ về anh như sau: Anh tỏ ra quá hiền và ăn nói từ tốn. Thảo nào mà anh ra trường từ năm 1954, tới năm 1975 là 21 năm, mới bò lên tới cấp thiếu tá. Cũng như anh Thảo, người làm “căng tin” ở Trại A mà tôi đã đề cập trước đây, hiện đang ở cùng buồng 1/Nam Hà C với tôi, khoá 4 Thủ Đức mà năm 1975 còn mang lon thiếu tá. Tôi nghĩ, những người quá hiền không thích hợp với cuộc sống quân ngũ. Theo tôi, sống trong quân đội, mình không nên bướng bỉnh (sẽ bị phạt thì làm sao thăng cấp) nhưng đôi khi cũng phải tỏ ra “ba trợn” một chút để thiên hạ đừng ăn hiếp mình.

Anh Hanh và Thịnh, nếu đọc được những dòng này, xin hãy lên tiếng để anh em mình nối lại liên lạc nhé.
7.17. Trở lại Trại Nam Hà A

Vào đầu mùa thu năm 1983, khoảng tháng 7/1983, chúng tôi được chuyển về Nam Hà A. Tôi không nhớ rõ, đợt này về Trại A bao nhiêu và đi nơi khác bao nhiêu. Về được Trại A là điều rất mừng cho riêng tôi vì từ nay không còn phải hít thở cái không khí đấy mùi xú uế ở Trại C, cái mùi làm cho tôi muốn ngạt thở. Hơn nữa, tôi lại có cơ hội chiều chiều mang sách tới gặp thày tôi (GS Nguyễn Ngọc Diễm) để học thêm Anh Văn, được nghe ông giảng giải về các tác phẩm văn chương đủ loại, thật là thú vị. Nói theo kiểu giỡn chơi của một xếp cũ của tôi thì, học tiếng Anh lúc này “không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc.”

Lần trước, tôi ở buồng 8, lần này tôi ở buồng 11. Ở cổng trại nhìn vào, phía bên phải là các buồng 8, 9, 10. Buồng 8 là buồng đầu tiên tính từ cổng vào. Phiá sau ba buồng đó là các buống 11, 12, và 13. Buồng 11 ở sau buồng 8 nhưng nền nhà thấp hơn cỡ 1 mét (3 ft) vì nó phải theo độ dốc của ngọn núi. Mỗi buồng đều được quây kín bằng một tường đá cao 2 mét (7 ft), và có lối đi riêng cho mỗi buồng. Mấy buồng ở phiá sau (11, 12, và 13) không được khang trang như mấy buồng ở phiá trước (8,9, và 10) vì nó không được trại dùng để trình diễn cho các phái đoàn ngoại quốc thăm viếng.

Đội trưởng đội (buồng) 11 là anh Thiện (*), thiếu tá Không Quân (không phải Thiện, đại úy Không Quân, ở Trại Vĩnh Quang B). Tôi được cho nằm ở đầu buồng, tầng dưới (sàn xi măng), sát vách, rồi tới Vượng sún, sau đó tới Nguyễn Phán. Anh Thiện nằm ngay chỗ cửa ra vào, tầng dưới nhưng là dãy ngoài, còn tôi ở dãy trong. Anh Thiện có vài kỷ niệm với tôi nhưng sẽ kể sau.

(*) Lúc này, buồng 11 chỉ có một đội,  anh Thiện vừa làm buồng trưởng vừa làm đội trưởng. Còn những buồng khác thì tôi không rõ.

Đội tôi được giao cho nhiệm vụ trồng cói (lát). Ruộng cói ở ngay dưới chân núi nhưng từ trại xuống tới ruộng cũng phải mất hơn nửa tiếng đồng hồ vì phải qua một cái dốc. Ra khỏi cổng trại, quẹo trái một chút là bắt đầu đổ dốc vì trại được xây cất trên đỉnh núi. Núi ở đây là núi đá vôi, không có cây lớn mà chỉ lác đác dăm ba bụi cây con. Núi có độ dốc cao, chứ không thoai thoải, gây khó khăn cho người gánh gồng. Vượng sún, mặc dù cao tới 1, 7 mét mà vẫn gặp khó khăn khi xuống núi với một gánh đồ nghề nấu nướng trên vai. Có hôm cái quang phía sau móc vào chỏm đá, làm đổ tung hết xoong nồi ra ngoài; báo hại anh nào hôm đó có lon bột Bích Chi, hay chè cháo gì đó mà nhờ Vượng sún nấu thì coi như mất tiêu; bắt đền ai bây giờ? Chỉ nhìn nhau cười trừ thôi nhưng trong lòng khổ chủ chắc cũng thấy hơi xon xót đấy.

Xuống tới chân núi là bắt đầu đi trên một con đê, bề ngang cỡ hơn năm mét (gần 20 ft), chiều dài thì khá dài, có thể hơn một cây số (2/3 mile). Đê này cũng do tù đắp, nước sông công tù mà. Con đê chia ruộng cói ra làm hai phần. Nước dưới ruộng có độ sâu ngập tới đầu gối, và dĩ nhiên là lắm đỉa. Đỉa ở đây khá lớn, thường dài cỡ 15 cm (6 inches). Khi nó bơi, ở trên nhìn xuống, nhiều khi tôi cứ tưởng là lưng của con cá mương. Ở miền quê tôi, loại cá mương này thường đi từng bầy, thân nó dài cỡ 15 – 20 cm, thịt của nó rất dở. Chúng thường quanh quẩn ở mấy cái cầu ao để chờ đồ ăn khi người ta ra cầu ao rửa ráy. Mỗi khi anh em chúng tôi giành giật nhau cái gì, mẹ tôi thường la, “lau chau như cá hau (cá mương) đớp cứt.”

Ba ngày đầu, chúng tôi chưa phải trồng cói, mà lên núi chặt cây về làm lều trú mưa nắng vì chúng tôi phải làm việc thông tầm (nói theo kiểu Việt Cộng), tức là làm một lèo từ sáng cho đến chiều mới về trại. Việc làm lều tự ai nấy lo; làm một mình một lều, hoặc hai, ba, bốn người chung nhau một lều. Tối đa là bốn người thôi vì trên núi không có cây to để dựng lều lớn. Phải kiếm mỏi mắt, trèo lên mấy mỏm đá, nhiều khi trầy trật tay chân mới kiếm được vài cây cỡ bằng cái chuôi dao để làm cột. Mái lều thì kiếm được cái gì, phủ lên cái đó. Người kiếm được tranh thì lợp tranh, kẻ kiếm được lá thì lợp lá, ai kẹt quá thì cắt cỏ phủ lên, miễn là che được mưa nhỏ và nắng buổi trưa. Tất cả lều được cất dọc theo một bên đê, trông thật buồn cười vì không cái nào giống cái nào, to nhỏ, cao thấp đủ cả.

Sang ngày thứ tư, chúng tôi phải làm một cái lều tương đối lớn cho quản giáo và vệ binh trú mưa nắng như chúng tôi vậy.

Trời bắt đầu vào thu, gió ở ngoài đồng trống thồi vào đã có mòi lạnh rồi. Giờ nghỉ giải lao, ngồi trong lều “bắn một phát bazoka” (hút thuốc bằng điếu cầy) thấy phê cách gì đâu! Có người phê quá, mắt lờ đờ, hai tay bắt chuồn chuồn (mấy ngón tay vê vê giống như đang bắt chuồn chuồn), nước miếng nhểu ra, trông chẳng giống ai. Kể cũng lạ, mấy người say như vậy mà lại không chịu ngồi yên đâu. Họ thường cố gắng cầm ống điếu treo lên cột nhưng có cầm trúng cái điếu đâu; điếu ở chỗ này mà tay lại đưa ra chỗ khác thì làm sao mà cầm trúng điếu được. Khi họ hết say, nói cho họ biết thì họ chỉ cười nhưng chứng nào vẫn tật nấy, chẳng thể bỏ được.


7.18. Tự cho mình nghỉ bệnh

Khi lều chõng đã làm xong, chúng tôi chưa trồng cói ngay được vì ruộng để lâu nên có nhiều cỏ. Mấy ngày đầu, chúng tôi dàn hàng ngang từng khu ruộng, vơ vét hết cỏ xung quanh bờ cũng như ở dưới ruộng. Công việc này đều phải lội xuống nước, ngập tới đầu gối. Để chống đỉa, tôi phải kiếm một cái quần dài, vải dày để mặc, hai ống quần được cột chặt nơi mắt cá chân bằng một sợi dây vải chắc. Cột bằng dây cao su thì vô ích vì khi xuống nước dây cao su sẽ bị dãn ra và đỉa chui vào được. Áo tôi mặc cũng phải dài tay và cột chặt nơi cổ tay. Như vậy là tương đối an toàn rồi. Hai bàn chân không được che đậy nhưng khi lội xuống ruộng thì sẽ chìm dưới bùn, đỉa cũng khó cắn. Hai bàn tay trần thì cũng dễ dàng tránh đỉa vì di động liên tục, và nếu đỉa có bám vào thì cũng dễ phát hiện. Thời gian tôi làm cỏ thì ít nhưng thời gian tôi canh chừng mấy con đỉa thì nhiều. Được cái là cỏ ở dưới nước, mình có bỏ sót thì quản giáo cũng khó phát hiện. Có lẽ người nào cũng làm như tôi nhưng chẳng ai nói ra mà thôi.
Trang bị kỹ như vậy cho nên tôi chưa bị đỉa cắn lần nào trong mấy ngày làm cỏ. Tuy nhiên, vì chân tôi ngâm nước liên tục mấy ngày nên gót chân tôi nứt ra, rất dễ bị chảy máu. Một buổi sáng sớm, gặp phải trời lạnh, gót chân phải của tôi nứt ra lớn hơn. Nhìn xuống chân, tôi thấy rướm máu và bước đi thấy đau hơn mọi khi. Tôi quyết định khai bệnh để xin nghỉ một ngày. Muốn cho chắc được nghỉ, tôi lấy lưỡi dao cạo rạch mạnh một cái ở ngay chỗ nứt, cho nó sâu hơn và rộng hơn, rồi nặn cho máu chảy thêm ra đầy gót chân.

Đội tôi hôm đó có tôi và một người nữa khai bệnh (không nhớ tên). Hai chúng tôi cầm sổ khai bệnh ra sân trại chờ khám. Mỗi buổi sáng, trước giờ đi lao động, Tên cán bộ bệnh xá và Bác Sĩ Thịnh ra sân trại khám bệnh cho những người khai bệnh. Tôi thấy anh Nguyễn Văn Diện (đại úy Pháo Binh, đã chết sau khi qua Mỹ, và tôi đã nói về anh trước đây) cũng cầm sổ khai bệnh chờ khám như tôi. Diện được gọi khám trước, khám xong Diện trở về buồng. Đến lượt tôi được gọi lên khám là gần chót. Có lẽ vì số người nghỉ bệnh hôm nay hơi nhiều nên tên cán bộ bệnh xá không cho tôi nghỉ. Người bạn cùng đội, vì được khám trước tôi nên được nghỉ. Tôi tức quá, bảo người kia rằng: “Anh đem sổ bệnh về cho anh Thiện, đừng nói gì đến tôi, để tôi tính.”

Anh bạn cùng đội mang sổ bệnh về buồng. Còn tôi thì đi tới buồng của anh Diện. Tôi không nhớ Diện ở buồng số mấy, mà chỉ biết buồng của Diện nhìn thẳng ra cổng trại. Diện được nghỉ bệnh, tôi cho Diện biết là tôi không được nghỉ nhưng cứ nghỉ bừa đi, đến đâu thì đến. Hai đứa tụi tôi nằm nói chuyện, dự tính sẽ nấu thêm cơm, ăn với nhau buổi trưa vì Diện mới được gia đình tiếp tế. Vừa nói chuyện, tôi vừa phải nhìn ra cổng trại xem đội tôi đã ra khỏi cổng chưa. Khi thấy đội tôi đã ra khỏi trại, tôi yên tâm hơn, chắc rằng mình đã nghỉ gỡ được một ngày. Đâu có dè…

Chừng hơn một tiếng sau, anh Đức (thiếu úy Không Quân, về Việt Nam theo tàu Việt Nam Thương Tín, làm ở Ban Văn Hoá của trại) vào buồng Diện. Đức thấy tôi liền nói: “Trời ơi, anh Thái! Anh làm em đi kiếm muốn chết đây. Thằng quản giáo đội anh bắt anh Thiện và em phải đi tìm anh cho bằng được. Thôi anh đi về buồng anh đi, để em đi báo cho anh Thiện biết; anh nhớ về ngay nhé.”  Tôi thấy trốn không được rồi. Tôi trở về buồng chờ anh Thiện (đội trưởng). Chừng 15 phút sau, anh Thiện vào, thấy tôi anh nói :
- Ông trốn đâu mà sao hay dữ vậy? Tôi và thằng Đức đi kiếm khắp các buồng đấy.
- Tôi ở buồng của bạn tôi, chứ tôi đâu có trốn ai.
- Thằng quản giáo coi sổ bệnh, thấy ghi là anh không được nghỉ, quân số đi làm thiếu một người, nó biết là anh trốn ở nhà. Nó bảo đội phó dẫn đội đi làm, còn tôi phải ở trại tìm anh rồi ra ruộng sau.
- Anh thấy chân tôi nứt nẻ như thế này thì ra ruộng làm cái gì đây?
- Thôi ông cứ ra ngoài đó rồi tính sau.
- Thì mình đi.

Anh Thiện và tôi cùng nhau ra ruộng. Tới nơi, tôi đứng ở ngoài, còn anh Thiện vào lều báo cáo với Quản Giáo. Anh Thiện trở ra bảo tôi vào “làm việc” với Quản Giáo, còn anh thì phải ra ruộng làm với đội.

Tôi vào gặp Quản Giáo (trung úy Công An), Hắn hỏi tôi:

- Tại sao anh bỏ không đi lao động?
- Báo cáo cán bộ, chân tôi như thế này (tôi giơ chân lên) mà bệnh xá không cho tôi nghỉ, tôi ra đây cũng chẳng làm được gì, do đó tôi tự ý nghỉ.
- Không được, anh làm như thế là vi phạm nội qui trại. Nếu trên bệnh xá không cho anh nghỉ thì anh cứ đi làm rồi tôi sẽ bố trí cho anh làm công việc thích hợp, như thế có tốt hơn không?
- Tôi chỉ sợ ra đây, tôi phải lội xuống ruộng thì gót chân tôi còn bị nặng hơn nữa. Nếu tôi biết cán bộ nương tay thì tôi đâu có trốn làm gì. Vậy tôi xin rút kinh nghiệm.
- Được rồi, anh phải rút kinh nghiệm, đừng có tái phạm nữa. Bây giờ tôi bố trí cho anh làm anh nuôi, còn anh Vượng sẽ phụ với anh nấu ăn cho đội.
- Vâng, cám ơn cán bộ.
- Anh ra gặp anh Vượng, bắt tay vào việc đi.
- Vâng.

Tôi ra bếp (cách lều quản giáo chừng hai chục mét – 65 ft), Vượng sún thấy tôi, nói nhỏ:

- Đ.M., sáng nay thằng “chèo” (tiếng lóng gọi công an) nó làm dữ. Bây giờ sao rồi?
- Bây giờ ta làm xếp của nhà ngươi chứ sao.
- Ngon dữ ta!
- Ngon chứ sao? Bây giờ tôi phải bắn một phát bazoka (hút thuốc lào bằng điếu cày) cho “phẻ” cái đã, rồi mình nói chuyện sau nghe.

Tôi đã đánh một nước bài liều, không ngờ lại đạt kết quả tốt. Tốt cho tôi mà chẳng ảnh hưởng gì tới ai. Trước đây Vượng sún làm bếp một mình, bây giờ có tôi làm bếp thì Vượng sún vẫn không mất việc. Trái lại, công việc của Vượng sún sẽ nhẹ bớt đi. Còn tôi thì hết phải lo lắng về mấy con đỉa ở dưới ruộng cói rồi.
{Còn tiếp...}







Logged







Logged



Logged

Logged












Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét