Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

Chiến công của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và trách nhiệm của những người còn sống




Chiến công của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa
và trách nhiệm của
những người còn sống
Lê Quế Lâm
Dù vai trò lịch sử của chế độ tự do ở Miền Nam đã chấm dứt từ 33 năm qua, song truyền thống của
QLVNCH với ba tín niệm: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm không đi vào quên lãng. Truyền thống
đó luôn tồn tại trong lòng những cựu chiến binh VNCH, và còn truyền lại cho thế hệ hậu duệ và con
cháu khi chế độ độc tài CS vẫn còn ngự trị ở quê hương.
Tổ quốc
của người chiến binh VNCH là Tổ quốc Việt Nam theo truyền thống dân tộc, tha thiết với độc
lập, tự do, dân chủ và chống ngoại xâm dưới mọi hình thức. Một tổ quốc đặt nặng “tình dân tộc, nghĩa
đồng bào” lấy sự thương yêu đùm bọc như “bầu với bí sống chung một dàn” làm biểu tượng, là sợi
dây keo sơn gắn bó đã liên kết dân tộc thành một khối đoàn kết trong gần năm thiên niên kỷ qua.
Danh dự
của người lính chiến là biết nhục và dám chết để bảo toàn thanh danh khí tiết. Trong những
ngày cuối tháng 4/1975, QLVNCH đã thể hiện đức tính cao đẹp này. Các tướng Nguyễn Khoa Nam,
Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú cùng nhiều chiến hữu khác đã chọn cái
chết vinh để bảo toàn danh dự quân đội VNCH. Họ tuân hành lịnh thượng cấp buông súng để đồng
bào thoát thảm họa chiến tranh, đất nước sớm thống nhất. Họ ngưng chiến đấu vì đại nghĩa dân tộc,
nhưng nhất quyết không đầu hàng bạo lực. Họ quyên sinh khi những người chiến thắng dùng bạo
lực buộc họ đầu hàng.
Trách nhiệm
của nguời lính VNCH là chiến đấu bảo vệ quê hương, để đồng bào đưọc sống trong
dân chủ tự do. Kỷ niệm ngày QLVNCH, chúng tôi xin ôn lại những trang sử hào hùng của người chiến
binh VNCH khi còn tại ngũ và ghi lại chiến công của họ đối với quốc gia dân tộc.
Chế độ tự do bị đe dọa
: Sau khi đất nước bị chia đôi (1954), chế độ Cộng hòa ra đời ở phần đất tự
do Miền Nam, Quân đội VNCH là lực lượng chủ lực chống lại các hoạt động phá hoại và khủng bố
của số cán bộ cộng sản được Lê Duẫn gài lại Miền Nam. Tháng 9/1960, đảng Lao động Việt Nam -
tiền thân của đảng CSVN, triệu tập Đại hội lần thứ III đề ra hai nhiệm vụ chiến lược: “Một là tiến hành
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hai là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc
Mỹ và bọn tay sai, thực hiện việc thống nhất nước nhà”. Hai nhiệm vụ trên, theo Hà Nội là “để thiết
thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
Để thực hiện chủ trương trên, tháng 12/1960 Bắc Việt (BV) thành lập Mặt trận giải phóng (MTGP)
Miền Nam. MTGP đưa ra chương trình hành động 10 điểm mà nội dung chính là lật đổ chính quyền
Ngô Đình Diệm mà họ gọi là “chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ”. Cũng trong thời gian này,
BV đưa 7000 quân sang Lào, hỗ trợ CS Pathet Lào hoàn tất việc sát nhập khu vực Nam Lào với hai
tỉnh ở Đông Bắc kiểm soát toàn bộ tuyến đường biên giới Lào Việt tiếp giáp ba nước Đông Dương
để mở rộng đường mòn HCM đưa người và vũ khí xâm nhập miền Nam VN. Cầu không vận của Liên
Xô công khai chuyên chở một số lớn hàng tiếp phẩm quân sự từ Hà Nội tới Hạ Lào, đặc biệt là tại
Tchépone. Nguồn quân viện này sẽ được BV chuyển vào Nam theo đường mòn HCM hầu thực hiện
việc thôn tính miền Nam bằng bạo lực quân sự.
Ngày 6/1/1961, trong diễn văn đọc tại Đại hội đồng LHQ, lãnh tụ Xô Viết Khruschev lên tiếng ủng
hộ Phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, đặc biệt tại Cuba,
Algérie và miền Nam VN. Liên Xô (LX) tự nhận việc giúp đỡ và ủng hộ các cuộc “chiến tranh giải
phóng” là nghĩa vụ quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa. Hai tuần sau, trong diễn văn nhậm chức,
TT Kennedy gián tiếp trả lời thách thức của LX: “Hoa Kỳ (HK) sẽ trả bất cứ giá nào, chịu bất cứ gánh
nặng nào, đương đầu với mọi chướng ngại, ủng hộ mọi đồng minh, đối đầu với mọi kẻ thù để bảo vệ
sự tồn tại và thành công của tự do”.
Từ 1961, chiến tranh ngày càng lan rộng, người lính VNCH đã đơn độc chiến đấu với CS khi Hà
Nội phát động cuộc chiến xâm lược miền Nam. Được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Liên Xô và Trung
Cộng, từ năm 1964 Bắc Việt tăng cường lực lượng xâm nhập, mở những trận đánh lớn ở khắp MN.
Từ cuối tháng 12/1964 đến đầu tháng Giêng 1965 tại Bình Giả (Bà Rịa) lần đầu tiên VC mở cuộc tấn
công thẳng vào một khu vực được xem là hậu cứ an toàn của quân chính phủ. Một bộ phận của Sư
đoàn Công trường 9 VC liên tiếp xa luân chiến với với 7, 8 tiểu đoàn Thủy quân lục chiến, Biệt động
quân và Nhảy dù được thiết giáp và phi pháo yểm trợ.
Cùng với sự lớn mạnh của lực lượng CS ở miền Nam VN, Trung Cộng liên kết với tổng thống
Suekarno của Nam Dương vốn là một nước trung lập, thành lập trục Bắc Kinh-Jakarta được xem là
trung tâm của các lực lượng chống đế quốc toàn thế giới. Suekarno còn xúc tiến việc thành lập quân
đội nhân dân bên cạnh quân đội quốc gia Indonesia và phát động chính sách đối đầu để tiêu diệt Mã
Lai Á mà họ gọi là bán thuộc địa của Anh Quốc.
Đầu năm 1965, trước nguy cơ sụp đổ dây chuyền của các nước Đông Nam Á vào tay CS, Hoa Kỳ
một mặt ủng hộ tướng Suharto làm cuộc đảo chánh ở Nam Dương, đồng thời vận động các quốc gia
Đồng minh gởi quân đến Nam VN yểm trợ cuộc chiến đấu chống Cộng của quân dân VNCH. Sáng
sớm mùng 7/2/1965 cộng quân mở cuộc pháo kích dữ dội vào căn cứ trực thăng và trại cố vấn Mỹ
gần phi trường Pleiku làm 8 binh sĩ chết và 108 bị thương. Đây là trận tấn công lớn nhất của VC từ
trước đến nay vào một lực lượng yểm trợ của HK ở nam VN đúng vào lúc Thủ tướng LX Kosygin
viếng thăm Hà Nội. Lúc bấy giờ, McGeorge Bundy - cố vấn An ninh Quốc gia của TT Johnson đang
có mặt ở Sàigòn. Từ bản doanh của tướng Westmoreland, ông yêu cầu Johnson có những biện pháp
trả đũa tức khắc. Bundy coi đây là lý do để mở đầu chiến dịch dội bom BV. Trở về HK, Bundy báo cáo
với Johnson: “Tình hình Nam Việt Nam đang suy sụp, nếu không có một hành động mới nào của Hoa
Kỳ, thất bại sẽ không tránh khỏi”. Ba ngày sau đặc công đặt chất nổ phá hoại cư xá Mỹ ở Qui Nhơn
làm 23 binh sĩ tử thuơng, các cuộc không tập miền Bắc lại tái diễn.
Ngày 27/2/1965, Bộ Ngoại giao HK công bố Bạch thư tố cáo chính quyền miền Bắc VN phát động
cuộc chiến xâm lược MNVN. Hành động này không những vi phạm thô bạo Hiến chương LHQ mà
còn vi phạm thoả ước Genève 1954 và 1962 trong đó có BV ký kết. Nó còn phá vỡ hòa bình ở ĐNA
và đe dọa nặng nề nền tự do và an ninh của miền Nam VN. Nhân dân Nam VN quyết tâm chống lại
sự đe dọa này và do yêu cầu của họ, HK sẽ đứng bên cạnh nhân dân Nam VN trong cuộc chiến đấu
bảo vệ sự sống còn của họ. HK khẳng định, họ không mưu tìm lãnh thổ, thiết lập căn cứ quân sự
hoặc giành địa vị ưu thế ở VN. Nhưng HK chấp nhận đương đầu với mọi hình thức xâm lược. Một
khi hòa bình được tái lập, HK cam kết sẽ giảm ngay mọi sự can thiệp quân sự ở Nam VN... Nhưng
HK không bỏ rơi bạn bè trong cuộc chiến đấu bảo vệ tự do”.
Vai trò của QLVNCH:
Đầu tháng 3/1965, do yêu cầu của tướng Westmoreland, hai tiểu đoàn TQLC
đầu tiên của Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng. Trong bối cảnh đó, Chính quyền dân sự do Quốc trưởng Phan
Khắc Sửu và TT Phan Huy Quát cầm đầu trao quyền cho Quân đội VNCH đứng ra đảm nhận trọng
trách lãnh đạo đất nước trong giai đoạn mới: giai đoạn quân đội các nước Đồng minh trực tiếp tham
chiến. Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia quyết định lấy ngày Nội các Chiến tranh ra đời 19/6 /1965 làm
ngày QLVNCH.
Trong ba năm 1965-1967, QLVNCH với sự phối hợp của các lực lượng Đồng minh mà chủ yếu là
Hoa Kỳ, Đại Hàn, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan... đã bẻ gãy mưu đồ thôn tính bằng vũ lực, buộc Hà Nội
phải ngồi vào bàn đàm phán giải quyết cuộc chiến bằng thương thuyết hòa bình. Dù chấp nhận đàm
phán, song ông HCM là một người Quốc tế CS cuồng tín, ông quyết tâm thực hiện con đường do LX
vạch ra là đánh bại chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ bằng sức mạnh của chiến tranh giải phóng. Do
đó ông ra lịnh mở cuộc Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa hồi Tết Mậu Thân 1968. Kết quả cộng quân
chịu thất bại nặng nề, theo ước tính lúc bấy giờ số thương vong của cộng quân là 80 ngàn. Nhưng
vào đầu thập niên 2000, một cán bộ cao cấp của Hà Nội tiết lộ với đài truyền hình Nhật NHK thì số
thương vong hồi Tết Mậu Thân lên đến 800 ngàn. Con số do cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mervin Laird
công bố ba năm trước đây là 289 ngàn cộng quân chết trong Tết Mậu Thân và suốt năm 1968.
Sau thất bại Tết Mậu Thân, cộng quân mất địa bàn chiến lược ở nông thôn, nhất là các tỉnh chung
quanh Sàigòn, phải rút về các mật khu ở biên giới Việt Miên. Đây là giai đoạn quật khởi của QLVNCH,
chính phủ ban hành lịnh tổng động viên, tăng cường lực lượng diện địa, quân số từng bước gia tăng
trên một triệu quân. Họ bắt đầu phản công tái chiếm các vùng bị CS tạm chiếm trước đây, đồng thời
mở cuộc tấn công vào các an toàn khu của CS ở biên giới Việt Miên (1970) và năm sau đưa quân
vào Hạ Lào triệt hạ đường mòn HCM nhằm cắt đứt nguồn chi viện của hậu phương miền Bắc cho
chiến trường MN.
Về phần đồng minh, sau khi Hà Nội chính thức ngồi vào bàn đàm phán Paris, HK bắt đầu rút quân,
thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”. QLVNCH đảm nhận trách nhiệm phòng thủ, yểm trợ
các chiến dịch Phượng hoàng và Bình định nông thôn. Từ năm 1969 đến 1971 đã có 21 ngàn cán bộ
hạ tầng CS bị giết, hơn 46 ngàn bị bắt hoặc ra hồi chánh. Tình hình an ninh ở MN được vãn hồi mau
chóng. Nông thôn được bình định, chính phủ VNCH thực hiện chuơng trình “Ngày cày có ruộng”,
trong khi đó HK xúc tiến công trình điện khí hóa nông thôn, tái thiết và canh tân hệ thống cầu cống
xa lộ toàn MN. Xa lộ nối liền Sàigòn với các tỉnh miền Trung kéo dài đến Quảng Trị. Xa lội nối liền
Sàigòn với Bình Long, Tây Ninh, Vũng Tàu và các tỉnh ở Hậu Giang đã hoàn tất. Các khu kỹ nghệ,
các công trình đầu tư xây dựng mọc lên khắp nơi. Cuộc sống của người dân bắt đầu đổ mới: máy
cày, và các loại nông cơ đã thấy nhan nhãn trong khắp đồng ruộng MN. Chỉ riêng tỉnh An Giang đã
có đến 25 ngàn máy cày đủ loại.
Hiệp định hòa bình ra đời
: Tình hình an ninh ở MN ngày càng sáng sủa thì cuộc đàm phán ở Paris
dậm chân tại chỗ vì thái độ “vừa đánh vừa đàm” của Hà Nội. Khi quân đội HK và Đồng minh rút đi gần
hết, Bắc Việt mở cuộc tấn công mùa Hè 1972. Tại vùng giới tuyến 17, BV đưa ba sư đoàn cùng với
chiến xa tiến vào phía nam khu phi quân sự, kiểm soát toàn bộ khu vực từ giới tuyến đến Cửa Việt.
Sau đó công quân áp lực mạnh khiến lực lượng trú đóng giới tuyến phải rút về cố thủ Huế. Tại Cao
nguyên, cộng quân tấn công Dakto, tràn ngập Bộ Chỉ huy tiền phương Sư đoàn 22 Bộ binh ở Tân
Cảnh. Tại Bình Định, cộng quân chiếm ba quận dọc miền duyên hải. Tại chiến trường trọng điểm bao
quanh Sàigòn, cộng quân đánh chiếm quận Lộc Ninh sau đó tiến theo quốc lộ 13 bao vây
An Lộc.
HK coi việc Hà Nội mở cuộc tấn công mùa Hè 1972 là vi phạm thỏa hiệp giữa họ với Bắc Việt hồi cuối
năm 1968: ngưng oanh tạc MB để giải quyết chiến tranh tại bàn đàm phán. Lấy cớ đó, HK tái oanh
tạc BV để áp lực Hà Nội kết thúc chiến tranh vào tháng Giêng 1973. Trong thời gian này, QLVNCH đã
gánh chịu những tổn thất nặng nề để giải tỏa áp lực ở An Lộc, Tân Cảnh, Dakto, tái chiếm ba quận ở
Bình Định và cấm lại lá cờ VNCH ở Cổ thành Quảng Trị trước khi HĐ Paris 1973 ra đời.
HĐ Paris 1973 như nhận định của Luật sư Trần Thanh Hiệp - một luật gia thành viên VNCH tại bàn
đàm phán Paris: “
Về mặt pháp lý thì đó là một văn bản có nội dung nghiêm túc. Nó đã bày tỏ
sự tôn trọng những quyền cơ bản của một dân tộc, đặc biệt nó còn minh thị công nhận cho
nhân dân miền Nam VN có quyền tự quyết và đảm bảo cho nhân dân MN được quyền hành
sử quyền này một cách dân chủ. Để ôn hòa chấm dứt xung đột, một thủ tục hòa giải giữa các
bên đã tham gia chiến tranh đã được trù liệu và một cơ cấu tập hợp đủ các bên này sẽ đứng
ra áp dụng thủ tục ấy. Sau hết, hơn 10 quốc gia trong đó có đủ 5 thành viên thường trực Hội
đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã ký vào một định ước quốc tế để đảm bảo cho việc thi hành
Hiệp định Paris 1973 được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh. Như vậy nếu các bên hữu quan
muốn tìm một giải pháp vừa chính trị vừa pháp lý để chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho
Việt Nam thì phải nói khó kiếm được một văn bản nào lý tưởng hơn Hiệp định Paris 1973
”.
Hiệp định ra đời trong bối cảnh lịch sử, không những thuận lợi cho VNCH cả ba mặt: thiên thời, địa
lợi, nhân hòa, mà còn thuận lợi ở thế địa lý-chính trị thế giới. VNCH vẫn còn giữ nguyên bộ máy chính
quyền, quân đội, cảnh sát và các định chế chính trị. Chính phủ VNCH kiểm soát trên 80% dân số và
đất đai, chỉ trừ vùng giới tuyến và Cao nguyên tiếp giáp biên giới với Miên. Với ưu thế đó, VNCH sẽ
đứng ra thực hiện những tiến trình của hiệp định như LS Hiệp đề cập ở trên. Còn HK, không những
giữ đúng lời đã hứa trong Bạch thư tháng Hai 1965: “Một khi hòa bình được tái lập, HK cam kết sẽ
giảm ngay mọi sự can thiệp quân sử ở miền Nam Việt Nam”. Mà còn đáp ứng trọn vẹn những đòi hỏi
của các phần tử phản chiến, các dân biểu, thượng nghị sĩ chủ hòa đang nắm đa số trong Quốc hội,
đòi chấm dứt sự can dự ở VN.
Cơ hội chiến thắng bị bỏ lỡ
: Trong thập niên 1960, LX và Trung Cộng (TC) yểm trợ hết mình cuộc
chiến giải phóng miền Nam của CSVN... Nhưng từ năm 1972 họ nhận thấy sự hợp tác hòa hoãn
với Mỹ có lợi nhiều hơn việc ủng hộ Hà Nội đeo đuổi chiến tranh. Họ thỏa thuận với HK cùng áp lực
Hà Nội chấm dứt chiến tranh VN và tất cả “đôi bên đều có lợi”, đồng thời góp phần bảo vệ hòa bình
thế giới.
HK dù chấm dứt sự can dự về quân sự ở VN, song mối giao tiếp với các quốc gia Đông Nam Á vẫn
còn chặt chẽ. Vòng đai bao vây Trung Cộng đã hoàn tất. Ngoài Singapore dưới sự lãnh đạo của Lý
Quang Diệu là đồng minh thân cận của Mỹ, các nước Đại Hàn, Phi Luật Tân, Đài Loan, Nam Dương,
Thái Lan và Cam Bốt đều do các tướng lãnh quân đội lãnh đạo. Các nước trong vùng luôn thay đổi
chính sách theo đường hướng chiến lược của HK. Năm 1967 họ thành lập khối ASEAN. Khi HK rút
quân khỏi VN, bắt đầu nói chuyện với LX và TC, các nước ASEAN đề ra chủ trương trung lập, tìm
sự hợp tác với Nhật để biến ĐNÁ, thành khu vực hòa bình, trung lập và phồn vinh. Hoàn cảnh địa
lý - chính trị trên là chiều hướng thuận lợi giúp VNCH định hướng tương lai. HK đã ra đi, con đường
duy nhất là VNCH hội nhập vào ASEAN và tiến hành hiệp thương với miền Bắc để thống nhất đất
nước.
Rất tiếc, VNCH đã bỏ lỡ cơ hội làm nên lịch sử. Chiến tranh Đông Dương kéo dài và cuối cùng kết
thúc ở Cam Bốt với HĐ Paris 1991 rập khuôn HĐ Paris 1973 về VN mà ba cường quốc chính dàn
xếp chấm dứt cuộc chiến này vẫn là HK, LX và TC. Hunsen dù chỉ là một Tiểu đoàn trưởng Khmer
Đỏ được Hà Nội dựng lên sau khi đưa quân vào Cam Bốt hồi cuối năm 1978, song ông ta biết cách
hành động “gặp thời thế thế thì phải thế”. Dù quân CSVN đã rút khỏi Cam Bốt, ông vẫn thực hiện cuộc
tổng tuyển cử hồi năm 1993 dưới sự bảo trợ của LHQ, để người dân Campuchia hành sử quyền tự
quyết của mình. Kết quả đảng của hoàng tử Ranaridth về nhất, đảng của Hunsen về nhì, ông ta được
chọn làm đệ nhị Thủ tướng. Với quyền lực trong tay, ông ta vẫn tiếp tục lãnh đạo Cam Bốt đến năm
1997 ông lật đổ Đệ nhất thủ tướng Ranaridth, trở thành thủ tướng duy nhất của Cam Bốt trong một
chế độ đa đảng. Cuộc tuyển cử năm nay ở Cam Bốt có 13 đảng tham dự.
Kết luận
: Suốt cuộc đời, ông Hồ Chí Minh luôn nghĩ rằng chế độ Xã hội chủ nghĩa là ưu việt. Tiếp
tục con đường của ông, trong diễn văn chào mừng Đại hội XXVI Đảng CSLX (2/1981) Tổng bí thư
Lê Duẫn tuyên bố: “
Chủ nghĩa xã hội ngày nay là vô địch. Hệ thống xã hội chủ nghĩa là không
có gì phá vỡ nổi. Không một âm mưu nham hiễm nào, không một hành động hung hãn nào
của bọn đế quốc và tay sai có thể đảo ngược được tình thế đó
”. Nhưng chỉ một thập niên sau,
Gorbachev đã đặt đảng CSLX ra ngoài vòng pháp luật, giải tán Ban chấp hành Trung ương và từ
chức tổng bí thư đảng. Ngay sau sự kiện trọng đại này, Boris Yelsin tuyên bố với đài truyền hình ABC
ở HK: “
Chủ nghĩa CS là một thảm kịch cho dân tộc chúng tôi. Kinh nghiệm lịch sử cho phép
chúng tôi kết luận một cách quả quyết rằng mô thức xã hội chủ nghĩa đã thất bại. Tôi cho rằng
đây không chỉ là một bài học đối với riêng chúng tôi mà còn cho cả các dân tộc khác nữa
”. Tại
miền Nam Việt Nam, TT Nguyễn Văn Thiệu tin rằng trong cuộc đối đầu với Quốc tế Cộng sản, HK
sẽ không bao giờ rút bỏ tiền đồn chống cộng ở ĐNÁ. Vì tính toán sai, ông tiếp tục chiến tranh trong
khi chính quyền Mỹ chấm dứt dần viện trợ, tất nhiên QLVNCH phải ngưng chiến đấu. Việc rút lui của
HK khỏi VN khiến Hà Nội và Mạc Tư Khoa tin rằng đế quốc Mỹ đã đến hồi suy sụp, thừa thắng xông
lên. Mười lăm năm sau, LX và Đông Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc, HK trở thành siêu cường
quốc duy nhất của thế giới. HK không đổ một giọt máu để thắng chiến tranh lạnh... Nhưng trước đó,
quân đội HK và QLVNCH đã đổ máu nhiều ở VN để tạo cơ hội cho chiến thắng cuối cùng này của
Thế giới Tự do.
Những sai lầm tai hại của những người lãnh đạo, khiến sự phát triển đất nước đứng khựng lai trong
một thời gian quá dài. Kinh tế tụt hậu sau Thái Lan đến 40 năm, và thua cả Cam Bốt về thể chế chính
trị. Con người không ai tránh khỏi sai lầm... Nhưng
bao che, tìm cách biện minh, thậm chí còn đề
cao những người đã khuất, để đất nước tang thương điêu đứng là hành động phản quốc.
Kỷ niệm ngày QLVNCH năm nay, có một sự kiện đáng chú ý. Cựu tướng Lý Tòng Bá và VNCH
Foundation dự tính tổ chức “Đại hội VNCH” vào cuối tháng Sáu này, hình thành lại nền Đệ nhị Cộng
hòa với đầy đủ pháp lý, chuẩn bị đưa vấn đề HĐ Paris 1973 ra trước tòa án quốc tế và LHQ. Đây là
một việc làm viễn vong, cũng như năm 1993 cựu TT Thiệu đã gởi thư yêu cầu ông TTK/LHQ Boutros
Boutros Ghali cho thi hành hiệp định này. Lịch sử dân tộc trong hơn bốn ngàn năm qua chỉ có tiến
lên mà thôi. QLVNCH đã hoàn thành trách nhiệm khi HĐ Paris 1973 ra đời, trong đó ghi đầy đủ 12
quyền tự do của người dân và thừa nhận quyền tự quyết của nhân dân là thiêng liêng bất khả xâm
phạm. Sứ mạng lịch sử của VNCH đã hoàn tất. Việc làm thiết thực của các cựu chiến binh VNCH
ngày nay là vận động Cộng đồng người Việt tự do ở hải ngoại đấu tranh đòi HK phải đặt vấn đề Dân
chủ và Tự do lên hàng đầu trong mối bang giao với CSVN, vì đó cũng là mục tiêu của HK trong cuộc
chiến VN.
Nhưng trước hết, chúng ta phải can đảm thừa nhận những sai lầm về nhận thức trong quá khứ.
Ngày QLVNCH ra đời, vai trò của người chiến binh VNCH là sát cánh chiến đấu với quân lực Mỹ và
các nước đồng minh để kết thúc chiến tranh bằng con đường thương thảo hòa bình. HĐ Paris 1973
là một thắng lợi. Điều bất hạnh, là vị Tổng Tư lịnh tối cao duy nhất của QLVNCH lại không thừa nhận
công trạng này, lại còn lên án HK phản bội đồng minh, coi HĐ Paris 1973 là văn kiện bán đứng MN
cho CS. Mong rằng các cựu tướng lãnh VNCH còn có chút “dũng khí” ở tuổi cuối đời, hãy lên tiếng.
Hàng năm kỷ niệm ngày QLVNCH để tưởng niệm các chiến hữu vị quốc vong thân cũng chưa
đủ. Phải nhắc lại thành quả, công lao của những đồng đội của mình đã vĩnh viễn nằm xuống vì lý
tưởng dân chủ tự do. Những lý tưởng cao cả đó đã đạt được hồi năm 1973 nhưng nay vẫn chưa
được thực hiện: Tổ quốc XHCN vẫn còn gắn liền với đất nước, chế độ độc tài vẫn còn tồn tại ở
quê hương. Tưởng nhớ đến ngày QLVNCH 19/6, chính là nhớ đến trách nhiệm của mình - những
người còn sống đối với những người đã chết. Đó là tình nghĩa “Huynh Đệ Chi Binh” của người cựu
chiến binh VNCH.
Lê Quế Lâm
 Nguồn:  a44df30l8/1395588300000/drive/11556229514480734827/ACFrOgCw0wiX6JpyvgXeKHKfy0u12019QzwP_-PZjgUMvF6NAYy7NqKCp6kA6HyscJgyF9Gc6vbJ0TjhMEpGRrvOFA-FjhX5b_AmaFaFlOhSqpj9d75hf6ydJzuH8y8=/tp33ulojlv890pt1f4t08lsnjvtpjpav/ph47glurbdktdjiq8fqvdgv91rihsncv/1395589725000/drive/11556229514480734827/ACFrOgCw0wiX6JpyvgXeKHKfy0u12019QzwP_-PZjgUMvF6NAYy7NqKCp6kA6HyscJgyF9Gc6vbJ0TjhMEpGRrvOFA-FjhX5b_AmaFaFlOhSqpj9d75hf6ydJzuH8y8=/tp33ulojlv890pt1f4t08lsnjvtpjpav/k7oqpd37i2d2kprl0fk1hlna37gqccl4/1395590025000/drive/11556229514480734827/ACFrOgCw0wiX6JpyvgXeKHKfy0u12019QzwP_-PZjgUMvF6NAYy7NqKCp6kA6HyscJgyF9Gc6vbJ0TjhMEpGRrvOFA-FjhX5b_AmaFaFlOhSqpj9d75hf6ydJzuH8y8=/tp33ulojlv890pt1f4t08lsnjvtpjpav/ptg44utjfm6blk0juifgk5l4hjnbuhgi/1395591075000/drive/11556229514480734827/ACFrOgCw0wiX6JpyvgXeKHKfy0u12019QzwP_-PZjgUMvF6NAYy7NqKCp6kA6HyscJgyF9Gc6vbJ0TjhMEpGRrvOFA-FjhX5b_AmaFaFlOhSqpj9d75hf6ydJzuH8y8=?hash=41hv1ib3bs88sqlcjbd0s0599ect9u0c&nonce=1bljrj1ph8rbk&user=11556229514480734827&print=true
Mai Nguyễn Huỳnh

Giới thiệu bản thân

Đại Úy Bộ Tổng Tham Mưu/Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Sĩ Quan Cải Tạo Miền Nam Việt Nam

Cung cấp bởi Blogger.

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét