Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà
Nguyễn thị Thảo An
.
Những hình ảnh yêu quý
trong QLVNCH .
Không biết những người
lính trong những tấm hình này giờ ở đâu ?
Mong mọi điều bình an
và may mắn đến với các anh.
Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một
thể chế hính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được
gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung
của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không
dung dưỡng một chế độ xấu.
Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam
với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những
nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân.
Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao
thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.Người thanh niên tuổi trẻ Việt
Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho
tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã
trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương.
Người lính
với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền
trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn
nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi
kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với
những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính
đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng
cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam.
Ðất nước hai mươi năm chiến
tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy
ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai
mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi
năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.Tiếng mưa bom đạn réo bên
mình.
Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh
mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu
súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai
mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn.
Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời
gian khổ và đánh bạn với gian nguy.
Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh.
Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại.
Ðể cho người dân quốc gia
được sống no ấm ở hậu phương.Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia
không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy
khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương.
Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ
công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì
tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng
và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương,
yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của
người lính.Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là
đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ
Thế nên,
người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy
mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và
yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và
truyền hình.Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người
lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ
trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa.
Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống
chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng
thấy say, và càng say càng đập phá.
Người lính xuất hiện trên sân khấu thì
phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn
nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à
người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy,
thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho
cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời
những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.Ðó
là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông
kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém
đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn.
Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ.
Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc.
Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng.
Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ.
Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc.
Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng.
Ðể
anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi
và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch. Ở chiến trường,
anh đối diện với kẻ thù hung ác,ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu
anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi
bán anh để cầu lợi an thân.Những người dân của anh, những người anh hy sinh để
bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục
kích của địch quân.
Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch
thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó
không bao gồm quyền sống của anh.Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho
cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời
là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù
quáng trong định kiến. ất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử.
Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn
độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.Ngày Hoà Bình, 28 tháng
Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy,
đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà
bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu,
đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi
thảm.Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn
bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn
sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?
Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh.
Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.Người lãnh đạo anh
còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước
nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền
phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày
24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử
thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.Và
đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy
ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những
bước cuối cuộc đời.
Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên
lương tâm con người đang yên nghỉ ?Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh
chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên
qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có
nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ
vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác
và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.
Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay.
Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc?
Giã từ những hy
sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được
về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không?
Anh được đi, được sống giữa một
quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương
chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân
khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc
thương cho đời lính?Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu.
Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa
Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng
trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái
tim anh tan vỡ từ lâu.Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những
bước cuối cùng trên trái đất?
Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương
tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình.
Cả thế giới đồng thanh công nhận và
gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu
mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu
nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời
người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.Người Cộng Sản chân
chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được
trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ
dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.Khởi đầu là việc cày nát
nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà.
Người
Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng
lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền
Nam.Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người
dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối
hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử.
Vậy thì, khi ta chết trên
con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế
mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người
lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ
trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm
tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.Hai mươi năm
chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để
lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên
chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng
không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve,
lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính
mình.
Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình.
Người lính chịu số phận bi
thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh
người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.Bởi Cộng
Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm
luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được
Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo
nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang
tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người
bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể
đếm.
Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh
người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội,
không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày
đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn
ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời
gian.Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng
xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa
rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự
chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng
minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.Từ
trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu,
để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian.
Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)
Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.
Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử
Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh
hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có
dịp vinh danh.Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia.
Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo
chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền
trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt
Nam.Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người
lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia.
Có phải giờ đây, chúng
ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu
gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có
ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh
trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với
đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu
người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính
chúng ta.
Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong
những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên
mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã
xuống hôm nào.Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về
trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời
với đất nước lúc hồi sinh.Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng
lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản".
Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân
cho người lính ? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ
ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng
được một xã hội đáng gọi là nhân bản.
Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà... Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai...
Nguyễn thị Thảo An
Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến ?
LÍNH MỸ RA TAY CỨU DÂN
VIỆT, MỘT GIỐNG DÂN KHÁC GIỐNG NÒI VỚI MÌNH..
A PICTURE
SAYS A THOUSAND WORDS
Hình Dung Lịch Sử và Tình Người Trong Cuộc Chiến Ý Thức Hệ
Hình Dung Lịch Sử và Tình Người Trong Cuộc Chiến Ý Thức Hệ
Người
lính Hoa Kỳ tại Miền Nam Việt Nam: tay súng …
…tay bồng
… những
nạn nhân chiến tranh
Người lính
Hoa Kỳ tại Miền Nam Việt Nam [1965-1973] …
… tay
súng, tay bồng những nạn nhân chiến tranh
… những nạn nhân chiến
tranh
… những nạn nhân chiến
tranh
… những nạn
nhân chiến tranh
… kể cả
khi PFC. John Stananback cõng trên lưng người lính Việt cộng đến một trạm Y tế
cấp cứu gần Bàu Bàng
A PICTURE
SAYS A THOUSAND WORDS
Hình Dung Lịch Sử và Tình Người Trong Cuộc Chiến Ý Thức Hệ
tại Miền Nam Việt Nam
Hình Dung Lịch Sử và Tình Người Trong Cuộc Chiến Ý Thức Hệ
tại Miền Nam Việt Nam
Trong khi đó,
VC thì lại ra tay.. giết hại dân Việt, cùng một chủng tộc giống nòi với mình!
|
Năm
1965: 2 photos này là diễn biến cuộc khủng bố của Việt cộng bằng bom mìn cài
trong chiếc xe hơi rồi cho nổ. Hiện trường là trước tòa nhà Quốc Hội của miền
Nam Việt Nam (nay là nhà hát Sài Gòn). Bên kia đường là thương xá TAX, nơi có
đông đảo dân Sàigòn đi dạo để mua sắm. Bao nhiêu nạn nhân là dân thường, đàn
bà con nít điều đó không quan trọng. Trọng tâm của quân khủng bố VC là gây
tiếng vang nhằm tạo sức ép với Thế giới và ngay cả chính quyền Sàigòn, kể cả
khủng hoảng tinh thân người dân miền Nam.
Việt Cộng đặt mìn để giết
dân Việt cùng màu da
Việt cộng khủng bố, dân
lành lãnh đủ.
Cộng sản .... những tên
khủng bố độc ác .... giết dân mình
On Christmas Eve 1964
(24.12.1964), Vietcong terrorists bombed a hotel in Saigon.
Thành
phố Huế,
các nạn nhân của Tết Mậu Thân 1968 Huế đang tìm thân nhân trong 1 hố chôn các
nạn nhân Tết Mậu Thân! Việt cộng lừa gạt bộ đội miền Bắc đi cứu nhân dân miền
Nam như thế này sao? Kẻ nào âm mưu hòa hợp hoà giải với Việt cộng là phản bội
nhân dân và Tổ quốc!!!
Nạn
nhân bị trói trước khi bị hạ sát ở Huế! Việt cộng lén lút xâm nhập miền Nam.
Để không bị lộ, Việt cộng giả bộ mẹ mẹ con con... Bản chất ác quỷ đã lộ ra
trong sự xảo trá cho dân ăn Tết Mậu Thân 1968 như thế này đây!
Các
bộ đội Việt cộng trẻ cũng bị xích chân vào xe tăng trong lúc ra trận, để bắt
buộc chỉ có đánh nếu hy vọng sống sót... Việt cộng phục vụ cho chủ nghiã vô
sản Quốc tế coi mạng dân chúng như cỏ rác (Biển người trong trận Charlie).
Three
years earlier, the Viet Cong terrorists told civilians living in the Duc Duc
Refugee Village that a March 4, 1968 attack on Duc
Duc was to force the people to return across the river to the Arizona
area and grow rice. Since the people of Duc Duc never listened to the Viet
Cong terrorists, the village was burned to ashes on March
30, 31
|
From: Hoangyen Nguyen
Kính dâng lên Hồn Thiêng Đất
Nước , Anh Linh các Anh Hùng Tử Sĩ Việt Nam
lòng tôn kính và biết ơn cuả
một con dân đất Việt .
Kính ,
Những gì có lợi
cho cộng sản
HY
Bài rất ý nghĩa xin giới thiệu.
Đã đến lúc chúng ta cùng Vận động một Hiến Pháp Tự Do Dân Chủ cho Việt Nam. Một Hiến Pháp tòan dân sẽ đứng chung "BÊN THẮNG CUỘC". Sẽ chia sẻ cùng bạn đọc trong bài tới "Hiến Pháp Đổi Mới Hay Thay Thế".
Chúc mọi người một cuối tuần vui vẻ.
Thân
Nguyễn Quang Duy
Những
ai thuộc “BÊN THẮNG CUỘC”?
Võ
Phương
Không
biết những người lính trong những tấm hình này giờ ở đâu ?
Mong
mọi điều bình an và may mắn đến với các anh.
Tôi
không đọc cuốn “Bên thắng Cuộc” của tác giả, nhà báo Huy Đức nên không dám có ý
kiến. Tôi chỉ đọc lời khen/tiếng chê trên các diễn đàn internet.
Từ giữa Tháng
12/2012 đến nay, đã có khá nhiều lời khen/tiếng chê nhưng tôi chỉ chú ý đến
phát biểu của một số người mà tôi biết rất rõ. Trong số này, phần lớn là những
người đã một thời làm lính. Tôi tin là lính nói thật.
Lính đúng nghĩa, chứ
không phải “lính kiểng”. Những năm đầu của thập niên 1960, là thời điểm mà thế
hệ của những người tôi sắp nói đến, một khi đã chấp nhận đời lính thì không
được phép hoạt động chính trị.
Trong ý nghĩa đó, lính trong Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa chỉ biết bảo vệ Tổ Quốc, không được phép phục vụ lợi ích của bất kỳ
đảng phái nào. Họ chiến đấu vì lý tưởng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Những
gì họ phát biểu đều dựa vào Danh Dự của một người lính chuyên nghiệp, chỉ biết
nói sự thật. Trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam , họ đã chiến đấu cho lý tưởng
của họ, cũng là lý tưởng của quân đội và quyết bảo vệ danh dự của người lính
cho đến khi không còn sức.
Trước hoàn cảnh oan nghiệt của ngày 30-4-1975, một
số người đã gục ngã, số còn lại, bằng cách này hay cách khác, đã bị bắt đi tù,
sống như tù binh chứ không phải hàng binh như những đồn đãi lấy lòng Bên Thắng
Cuộc. Tôi chỉ muốn nhắc đến sự thật này, và nhân tiện đây, muốn nêu một câu
hỏi: Những ai thuộc Bên Thắng Cuộc?
Tôi xin nhấn mạnh đến “những ai” vì biết
chắc rằng, cộng sản Hanoi không thể đơn độc thuộc về Bên Thắng Cuộc được. Trước
khi bàn đến “Những ai thuộc Bên Thắng Cuộc?”, tôi nghĩ đến những chiến binh đã
phát biểu liên quan đến những sự kiện được mô tả trong “Bên Thắng Cuộc” của nhà
báo Huy Đức.
“Hùm
thiêng khi đã sa cơ cũng hèn”
Là
câu thơ trong truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, có lẽ chỉ đúng cho một số trường
hợp. Nhưng cho dù trong trường hợp nào cũng chẳng ai chê trách cái “hèn” của
những người bị “sa cơ lỡ vận”. Trong cuộc chiến vừa qua có nhiều người đã chọn
cái chết, trước khi hoặc sau khi bị “sa cơ”. Có nhiều người không phải là “hùm
thiêng”, bị “sa cơ” mà vẫn không “hèn” sau “Tháng Tư Nghiệt Ngã”.
Cả hai trường
hợp, đều rất đáng khâm phục. Trong trường hợp thứ hai, đã có nhiều chiến binh
trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị “sa cơ” mà vẫn không “hèn” và đã được nhiều
người nhắc đến. Trong số những chiến binh ấy, qua phát biểu của họ, tôi biết có
liên quan đến những sự kiện được diễn tả trong cuốn “Bên Thắng Cuộc” của Huy
Đức, nhưng tác giả đã không nhắc đến. Dĩ nhiên, những thiếu sót của một
nhà báo là chuyện không thể tránh, không đáng trách nếu vô tình. Nhưng dù thế
nào, bài báo sẽ giảm giá trị.
Ở đây, tôi chỉ nhắc đến lý do tại sao anh Lê
Quang Liễn lại được chú ý hơn những người khác có cùng hoàn cảnh như anh.
Trước hết, tôi xin tóm tắt vài sự kiện theo sự hiểu biết của mình:
- Anh Phạm Cang, anh Phạm Văn Tiền và anh Nguyễn Văn Sử đã bị bắt ở cửa biển Thuận An cùng với anh Lê Quang Liễn. Đơn vị của các anh đã chiến đấu trong tuyệt vọng, không được tiếp tế lương thực, đạn dược. Hoàn cảnh này đã được mô tả trong nhiều tài liệu, sách báo trước đây. Có một điều chắc chắn là các đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến tham gia mật trận này đều bị bắt làm tù binh chứ không phải hàng binh như ông Huy Đức đã viết.
- Anh Nguyễn Văn Nghiêm và anh Nguyễn Trọng Nhi thuộc Tiểu Đoàn 12 Nhảy Dù đã làm chủ tình hình - nơi có chiếc cầu nối liền đường Phan Thanh Giản- Saigon đến Xa Lộ Biên Hòa - cho đến giờ phút khi các anh nghe lệnh đầu hàng của ông Dương Văn Minh. Tại đây, cả hai anh đều nắm rất vững tình hình lúc bấy giờ, không hề có một đơn vị nào của Việt Cộng xuất hiện, thì làm gì có chuyện VC bảo vệ chiếc cầu như Huy Đức đã viết.
- Anh Phạm Văn Hồng biết rất rõ người Mỹ, Gerald Kosh, một trung uý của Lực Lượng Đặc Biệt mũ xanh đã cùng đi trong chiếc Ford Falcon với anh đến bến cảng Đà Nẵng, rồi cùng xuống chiếc Tuần Dương Hạm HQ16 với nhiều quân nhân khác đến quần đảo Hoàng Sa. Tại đây anh Phạm Văn Hồng đã bị giặc Tàu bắt làm tù binh cùng với nhiều chiến binh khác. Trong một cuộc phỏng vấn với ông Huy Phương trên đài SBTN, anh Hồng đã tiết lộ khá nhiều chi tiết thú vị. Ông Huy Đức chẳng biết gì về chuyện này cả, nên đã diễn tả sai lệch trong cuốn sách của ông.
- Anh Vương Mộng Long thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân - đã được nhắc đến trong cuốn e-book Comrades In Arms, tác giả là một cựu chiến binh Mỹ đã từng tham dự cuộc chiến Việt Nam, tiến sĩ Roger Canfield - liên quan đến mặt trận Long Khánh vào những ngày sau cùng của cuộc chiến, tức những ngày sau cùng trong “chiến dịch Hồ Chí Minh” là một trong 4 chiến dịch đánh chiếm miền Nam của Việt Cộng.
- Trong suốt trận này, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long là đơn vị trấn giữ cổng Tòa Hành Chánh và sân bay Long Khánh. Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã đánh tan một trung đoàn Cộng Sản, và bắn cháy gần hết số chiến xa VC đi theo yểm trợ đơn vị này khi chúng tiến sát vòng đai hướng đông của tòa hành chánh tỉnh. Chính Thượng Tướng VC Hoàng Cầm đã phải thú nhận thảm bại này trong hồi ức "Chặng Đường Mười Nghìn Ngày" của y. Huy Đức đã sai lầm khi trích dẫn lời Chủ Tịch Nước Lê Đức Anh huênh hoang rằng, "Quân VC đã cắm cờ trên nóc Tòa Tỉnh Long Khánh".
Trường
hợp Lê Quang Liễn
Riêng
trường hợp của anh Lê Quang Liễn đã bị ông Huy Đức khai thác kỹ hơn, nhưng
những gì ghi trong sách “Bên Thắng Cuộc” của ông, nhiều bạn cho biết, hoàn toàn
bịa đặt. Sự thật như thế nào? -Trong một cuộc phỏng vấn với ông Dương Phục trên
đài Saigon Houston 900AM, anh Liễn đã cho biết, ở trang 52 của cuốn sách nêu
trên, dưới tựa đề “Ngụy Quân”, ông Huy Đức đã dựa vào một bài báo của
Phan Xuân Huy viết cho tờ Tin Sáng của Ngô Công Đức, là tờ báo thuộc thành phần
“thiên Cộng” ở miền Nam trước đây, để hạ nhục binh chủng Thuỷ Quân Lục Chiến
của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và hạ nhục cá nhân anh. Sau 40 năm anh mới biết
chuyện này.
Anh Liễn cho biết, tất cả chỉ là điều tưởng tượng được gọt dũa cho
phù hợp với nghị quyết 36. Ông Huy Đức đã xin lỗi anh Liễn trên facebook, đồng
thời đã hứa là sẽ sửa chữa và lùi lại ngày phát hành cuốn sách “Bên Thắng Cuộc”
của ông. Anh Liễn đã ghi nhận và lưu lại làm bằng chứng.
Tôi
nghĩ, còn rất nhiều người khác nữa là những nhân chứng của nhiều trận đánh hoặc
các biến cố xã hội trước khi có lệnh đầu hàng của ông Dương Văn Minh, đã được
mô tả trong “Bên thắng Cuộc”, nhưng tác giả Huy Đức đã không hề biết đến sự
thật. Chỉ riêng trường hợp của anh Lê Quang Liễn được nhắc đến khá chi tiết
nhưng cũng sai sự thật như vừa nêu trên. Tại sao vậy? -Lẽ dễ hiểu, khi tác giả
Huy Đức từ Bắc vào Nam, ông chỉ “vồ” được một bài báo “nịnh Việt Cộng” của nhà
báo Phan Xuân Huy, con rể của ông Dương Văn Minh, viết láo lếu về đơn vị và cá
nhân anh Lê Quang Liễn nhằm “nâng bi” Việt Cộng. Còn những trường hợp khác, đã
không có nhà báo miền Nam nào đề cập đến, cho nên ông Huy Đức đã không có cơ
hội “vồ” được, thì lấy gì để viết. Chuyện đơn giản chỉ có thế!
Tình
“Huynh Đệ Chi Binh”
Về
trường hợp của ông Dương Văn Minh, nhiều người gọi ông là “hèn tướng”, “đần”,
“nhiều lần cờ đến tay không biết phất”, nhưng dù có hèn cũng không đáng chê
trách vì như trên đã nói, ông là người đã nhiều lần bị “sa cơ lỡ vận” có lẽ
cũng tại “đần”. Và vì đã một thời “khoác chiến y”, bây giờ đối với “cách mạng”
ông là người “có tội”, nên phải hèn, nhưng ông không bị đi tù như các thuộc cấp
của ông. Nếu có đáng chê trách chăng, thì chỉ đáng chê trách khi ông hèn đến độ
không dám mở miệng, trong lúc ông có thể yêu cầu Bên Thắng Cuộc “nương tay” đối
với các chiến binh đã một thời làm việc dưới quyền ông. Lời yêu cầu có thể
chẳng đi tới đâu nhưng thể hiện được tình “huynh đệ chi binh”, một thứ tình
thiêng liêng trong quân ngũ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Anh
Lê Quang Liễn đã thể hiện được thứ tình thiêng liêng này khi anh đem xác
người em ruột - trong lúc cùng đoàn người dân di tản ra khỏi vùng đất đang giao
chiến, đã bị một viên đạn vô tình gây tử thương - lên một chuyến tàu để chuyển
về Saigon. Nhưng không xong, lúc ấy con tàu bắt buộc phải lùi xa bờ để tránh
những làn mưa đạn pháo của địch. Anh Liễn còn kẹt trên tàu nhưng quyết định
nhảy xuống nước, bơi vào bờ, trở lại đơn vị để cùng chịu chung số phận “bị bắt”
ở cửa biển Thuận An với đồng đội của mình. Một hành động như thế vào những ngày
cuối cuộc chiến, hầu như không ai làm được. Về chuyện này, tờ Thời Báo Houston số 321 phát
hành ngày 4 tháng 1 năm 2013 đã mô tả chi tiết hơn, như sau: (xin trích nguyên
văn)
“Một số thường dân chạy theo lính đã trúng
đạn chết, trong đó có sinh viên Lê Quang Thể 19 tuổi là em ruột ông Liễn. Sáng
hôm sau, một quân vận đĩnh LCM vào gần bờ
đón thương binh, TĐ trưởng Cang phân nhiệm cho TĐ phó Liễn
hướng dẫn anh em đưa thương binh và tử sĩ của đơn vị xuống tàu tản thương. Dưới
trận mưa pháo dày đặc của địch, tàu kéo cửa và lùi ra khơi trong khi Liễn còn
kẹt trên tàu, chưa kịp mang xác em trai mình lên. Để thoát nạn, ông Liễn chỉ
việc ở lại trên quân vận đĩnh với
đồng đội bị thương, nhưng tiểu đoàn phó đã quyết định nhảy xuống nước, lội vào
bờ, để tiếp tục chiến đấu với đồng đội. Trên đường vừa đánh vừa rút xuôi Nam về
phía cửa Tư Hiền, quân nhân TQLC lần lượt bị bắt sau khi hết đạn, không có
chuyện đầu hàng như Phan Xuân Huy dựng đứng. Ngoài ra, khi nói lính TQLC “đã bị tên
tướng ngụy Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An”, Phan Xuân Huy tự chứng tỏ mình
không có cả khái niệm sơ cấp nhất về hệ thống quân giai: các đơn vị TQLC triệt
thoái không thành công khỏi cửa Thuận An là những người lính thuộc quyền của
trung tướng Lâm Quang Thi, tư lệnh Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Quân đoàn 1 tại Huế.”
Nhà
báo Phan Xuân Huy không phải là người “sa cơ”, ông là người “thời cơ”, ông không
phải là người Bên Thua Cuộc, thế mà ông vẫn hèn. Ông viết báo để nịnh “cách
mạng”, nói đúng hơn là nịnh Việt Cộng, bẻ cong ngòi bút, thay trắng đổi đen.
Dưới ngòi bút của ông, trại tù đã biến thành trại hè, tù nhân đã biến thành
người đi nghỉ hè. Thật hết sức lố bịch! Cách biến hóa rất độc đáo này của một
nhà báo “thời cơ”, thật rất đáng khinh bỉ! Nhà báo Huy Đức đã đưa sự kiện độc
đáo này vào tác phẩm “Bên Thắng Cuộc” của mình và sau đó đã xin lỗi, như vừa
nêu ở trên.
Một
phê phán khác
Ngoài
những phê phán có chứng cớ rất hiển nhiên của các chiến binh như tôi vừa nêu
trên, cũng còn một phê phán khác đáng chú ý.
Cho
đến nay thì mọi người đã biết rõ “Bên Thắng Cuộc” là cuốn sách mà nếu nói về
hình thức thì không phải là hồi ký, bút ký, tạp chí, tiểu thuyết hay truyện
ngắn, và chắc chắn không phải là cuốn sử ký. Theo blog BS Ngọc cho rằng, đây chỉ là cuốn sách nói về “hậu
trường chính trị của chế độ Việt Nam theo chủ nghĩa xã hội, hay cộng sản”. Tôi
nghĩ, ý kiến này chính xác. BS Ngọc cho biết thêm: “Huy Đức không
phải là người đầu tiên ghi lại những biến cố đau thương sau 1975.
Trước Huy Đức
đã có cụ Nguyễn Hiến Lê viết lại cẩn thận những sự kiện và biến cố làm cho miền
Nam suy sụp sau ngày ‘giải phóng’ trong tập Hồi Ký nổi tiếng nhưng bị nhà xuất
bản cắt xén khá nhiều.” BS Ngọc đã trích nhiều
đoạn quan trọng trong tập Hồi Ký này để cống hiến bạn đọc và cho biết Huy Đức
chỉ là người “cho chúng ta chứng từ để giải thích cho những nhận xét của cụ
Nguyễn Hiến Lê”. Những trích đoạn được ghi nhận dưới các tiểu đề như: Kẻ
“thắng trận” muốn biến miền Nam nghèo như miền Bắc.- Trong cùng lúc ra tay hành
hạ dân miền Nam.- Trong khi đó bản thân những kẻ “thắng cuộc” thì ăn hối lộ và tham
nhũng.- Họ tạo nên một xã hội trong đó con người mất hết nhân phẩm.- Tình trạng
phân chia Nam Bắc càng nặng; bởi vì một trong những nguyên nhân là: người miền
Bắc coi người miền Nam là ngụy…
Như
vậy, nếu nói riêng về thực trạng xã hội miền Nam sau ngày 30-4-1975, Huy Đức
viết trong “Bên thắng Cuộc” chẳng có gì mới mẻ, và thiếu sót quá nhiều nếu so
sánh với Hồi Ký của cụ Nguyễn Hiến Lê. Những ai ra đi khỏi nước trước ngày
30-4-1975, nhất là những người dân miền Bắc và những ai được sinh ra sau ngày
này, thì lầm tưởng rằng những gì Huy Đức viết là những điều “trung thực” về
thực trạng miền Nam sau ngày “giải phóng”.
Nhưng thực ra Huy Đức chỉ nói
được một phần nhỏ sự thật. Còn nhiều dữ kiện đã viết sai sự thật, hoặc
chỉ đúng với những bài báo “nịnh” chế độ sau khi VC chiếm được Saigon, chưa kể
đến rất nhiều điều quan trọng không được nhắc đến. Những ai còn kẹt lại ở miền
Nam sau ngày 30-4 và càng kẹt lâu thì càng thấy rõ những gì Huy Đức viết sai
hoặc thiếu sót, sau khi đọc Hồi ký của cụ Nguyễn Hiến Lê.
Cụ đã cho thấy đảng
cộng sản, người Bên Thắng Cuộc đã “đần độn” đưa đất nước xuống vực thẳm sau
ngày “giải phóng”. Còn những chuyện: “đằng sau hậu trường chính trị” do
Huy Đức phỏng vấn các cán bộ Việt Cộng hoặc những người liên can với cán bộ,
thì liệu có tin được không?
Những
ai thuộc “Bên Thắng Cuộc”?
Phải
xác định ngay: Đảng Cộng Sản Tàu và Đảng Cộng Sản Việt Nam là những người
Bên Thắng Cuộc. Còn toàn Dân Việt Nam là những người Bên
Thua Cuộc và đã thua đậm trong cuộc chiến kéo dài suốt 20 năm. Cuộc
chiến vừa chấm dứt vào ngày 30-4-1975 thì lại rơi ngay vào các cuộc chiến khác,
đưa đến hậu quả là toàn dân đã thua lại càng thua, vì mất mạng sống, mất đất,
mất biển, mất hải đảo. Hậu quả ấy vẫn chưa hết, hiện nay, mặt trận Biển Đông
vẫn còn đang nóng bỏng, toàn dân vẫn còn đang tiếp tục bị thua trên mặt trận
này, chưa biết đến bao giờ mới hết thua và đang làm nhức nhối những con tim yêu
nước. Nhiều bạn cho biết, câu nói của Nguyễn Duy: “Suy cho cùng trong mỗi
cuộc chiến tranh Bên nào thắng thì nhân dân đều bại” đã tổng quát
hóa ý nghĩa “Bên Thua Cuộc”.
Kể
từ khi loài người xuất hiện trên mặt địa cầu, không biết có bao nhiêu cuộc
chiến lớn/nhỏ đã xảy ra ở khắp mọi nơi. Nhưng sau mỗi cuộc chiến, ít ai để ý
đến ý niệm Thắng/Thua dai dẳng như sau cuộc chiến Việt-Nam. Đặc biệt,
cuộc chiến Nam-Bắc nước Mỹ (American Civil War) kéo dài 4 năm, làm chết hàng
triệu người; thế mà khi buông súng đầu hàng, bên thua cuộc lại được đón
tiếp trọng thể và được vinh danh nhiều hơn bên thắng cuộc, đã là
nguyên nhân của sự “hòa giải” và “hòa hợp” giữa hai bên, thật sự đã đưa đến
thành công lớn trong việc xây dựng nước Mỹ, mặc dầu là một nước đa chủng tộc,
đa văn hóa. Đó là nhờ tính quảng đại của Bên Thắng Cuộc đã giúp toàn dân cùng
đứng về Bên Thắng Cuộc.
Không
ai mong đợi tính quảng đại từ phía cộng sản Hanoi , chỉ hy vọng là họ sẽ không
trả thù Bên Thua Cuộc. Nhưng rốt cuộc, như mọi người đã thấy, hy vọng đã trở
thành thất vọng. Bên Thắng Cuộc không những chỉ trả thù người còn sống mà cả những
xác chết Bên Thua Cuộc. Vì thế, sau cuộc chiến Việt Nam, mặc dầu cùng chủng
tộc, cùng văn hóa, đã 38 năm không còn nghe tiếng súng trên quê hương nhưng ý
niệm về thắng/thua vẫn còn nguyên vẹn. Đó chính là nguyên nhân của sự
chia rẽ, càng ngày càng trở nên trầm trọng. Chỉ vì người bên thắng cuộc đã
quá tự đắc, kiêu ngạo, tự cho mình là “đỉnh cao trí tuệ” nhưng u tối đến
nỗi không tìm thấy nguyên nhân căn bản gây ra sự chia rẽ. Hoặc có thể thấy,
nhưng đó không phải là cứu cánh của Bên Thắng Cuộc, mà nếu như thế thì lại càng
u tối hơn nữa.
Nhiều
dữ kiện lịch sử đã chứng minh, sau cuộc chiến Việt Nam, Giặc Tàu có lợi nhiều
nhất vì một phần đất quan trọng phía Bắc, các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và
Biển Đông đã từ lâu thuộc chủ quyền của Việt Nam thì nay thuộc về nước Tàu. Kế
đến là Đảng Cộng Sản Việt Nam có lợi vì giành được toàn bộ Quyền Tư Hữu và
Quyền Lãnh Đạo đất nước dưới sự bảo trợ của giặc Tàu.
Toàn
Dân Việt Nam thua vì mất Quyền Tư Hữu, mất Nhân Quyền và mất Quyền Yêu Nước,
tất cả những quyền ấy đã thuộc về tay Đảng Cộng Sản Việt Nam . Tổ Quốc Việt Nam
thua vì mất đất, mất biển, mất hải đảo, cơ đồ do tiền nhân gây dựng lâu đời thì
nay đã thuộc về tay giặc Tàu.
Tuy
chính quyền Mỹ có tham dự một phần vào Bên Thắng Cuộc, sau cuộc chiến Việt Nam
họ đã đánh sập được đối thủ Liên-Sô và các nước CS Đông Âu, nhưng không ai lên
án Mỹ, mà chỉ trách chính sách ngoại giao không đồng nhất của họ đã bỏ rơi đồng
minh trong cuộc chiến giữa lúc quân/dân miền Nam đang trên đà chiến thắng.
Ông
Ted Gunderson, cựu nhân viên đặc nhiệm ở Los Angeles và Washington DC đã nói gì
về việc Cộng Sản Hanoi đầu hàng Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa vào đầu năm 1973, nhưng
ngay sau đó, chiến lược của Mỹ đã thay đổi như thế nào? Xin quý vị đem link
dưới đây vào Google search để nghe họ nói gì:
http://www.youtube.com/watch?v=hwvXyzo7MjM
Những
nhà báo viết theo “lề phải” tức những nhà báo Bên Thắng Cuộc thì chắc chắn
không biết chuyện ông Ted Gunderson, vì họ không cần biết hoặc không được phép
biết.
Mọi
người lên án giặc Tàu vì ý đồ xâm lăng Việt Nam đã được nuôi dưỡng từ khi Mao
Trạch Đông cầm quyền ở Hoa Lục, cho đến năm 1974 là thời điểm thuận lợi tiến
chiếm Việt Nam. Mỹ và giặc Tàu đều hành động vì quyền lợi tối cao của quốc gia
họ là chuyện đương nhiên. Thế còn Đảng Cộng Sản Việt Nam hành động theo
quyền lợi của ai? Ngay từ buổi bình minh của cuộc chiến, nếu không có sự giúp
sức của Nga, Tàu và ngay cả Mỹ sau này, thì liệu Đảng CSVN có thuộc về Bên Thắng
Cuộc được không? Đó mới là điều cần biết rõ để rút kinh nghiệm cho
thế hệ sau (hoặc ít ra là muốn nghe lời bình luận thẳng thắn) hơn là những thứ
lẩm cẩm“đằng sau hậu trường chính trị của chế độ cộng sản”.
Chắc
quý vị đều đồng ý rằng, bất cứ cuộc chiến nào rồi cũng đến hồi kết thúc và có
một Bên Thắng Cuộc. Hiện nay, trong cùng một lúc, toàn dân Việt Nam đang phải
đương đầu với hai cuộc chiến cực kỳ khó khăn: -Cuộc chiến chống chế độ Mafia
trong nước; và -Cuộc chiến chống giặc ngoại xâm đến từ phương Bắc. Điều
mong đợi, sau khi hai cuộc chiến này đến hồi kết thúc, toàn dân ta sẽ cùng đứng
chung trong một Bên Thắng Cuộc. Thế nhưng, ngay bây giờ phải bắt đầu bằng cách
nào?
Võ
Phương
Tháng
2-2013
{Sưu tầm & Chia sẻ}
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét