TẬP THƠ:
Bài thơ yêu nước QUÊ HƯƠNG
TÀN CHINH CHIẾN!!!-Phần I
Huỳnh Mai St.8872 {Gẩy Súng Tan Hàng}
Dạ Lệ Huỳnh
AUGUST 11, 2011-5:09 PM -&-&-&-
Trần Tình
Cải Tạo:
Đời lính chiến
chúng tôi mong có ngày giả từ vũ khí,mong an bình về khắp mọi nơi trên quê
hương yêu dấu! Nhưng ngày đó! không bao giờ đến với người lính chiến Tự
Do-VNCH- mà chỉ là ngày “Gẩy Súng Tan Hàng” -Tháng Tư Đen-30-4-1975-lịch sử dân
tộc,tại Miền nam VN vốn hiền hòa,biết yêu chuộng Tự-Do,và hòa bình cùng thế giới!!!
Thơ,
Gẩy Súng Tan
Hàng!
Huỳnh-Mai st.8872
Bh Dạ lệ Huỳnh
Cuối tháng tư Saigon
chìm khói lửa,
Cháy bỏng
tình người cuộc chiến là đây,
Tình sử
ngàn đời quân dân cá nước,
Thắng bại Saigon nước cá phân ly,
Dân theo
chiến thắng quân ta chiến bại,
Trái chiều
nghịch gió cờ vàng đổi ngôi,
Thuận gió
cuồng lên sao vàng máu đỏ,
Có triệu
người vui lắm vạn người buồn,
Nhìn cây
súng gẩy bên hào chiến lũy,
Áo trận vất
ngang vương thép kẽm gai,
xox
Rồi…một
đêm âm thầm trong nước mắt!
Giã biệt Saigon không lệ tiển đưa,
Lần lùi
đoàn tù đi trong chiến bại,
Pháo hoa chiến thắng lệ mắt long
lanh,
Từ dạo
đó...dân tình trong cách biệt,
Trở lại rừng
xanh trong các trại tù,
Như hổ nhớ
rừng, hận đời chiến sĩ,
Thương cho
quê nhà sáng sắn chiểu khoai,
Hòn ngọc Viễn Đông dân tôi khổ thế!
Trả súng lại
tôi...như thưỡ ngày nào;
xox
Trong cơn
chiến bại súng không đạn nổ,
Có súng
trong tay súng gẩy cong nòng.
Đâu như
cái thưỡ anh hùng chiến trận.
Giờ là que
cũi đốt cháy tương lai,
Lặng nhìn
sản nghiệp ông cha về Bắc...
Tủi hờn
công sức, sự nghiệp bốc hơi,
Dân trắng
tay về vùng kinh tế mới,
Cài tạo
nhà tù nhốt cà hùm thiêng,
Tự-Do gẩy
cánh rơi ngoài biền cà,
Trả súng lại
tôi...ngăn máu lệ trào,
xox
Trả súng lại
tôi vì đời chiến đấu!
Cuộc chiến
nầy ai thắng...biết ai thua!?
Thua vì thế
nước dân tình hèn yếu,
Nợ nước
tình nhà đâu nở giết nhau,
Nếu không
vô tình, vô tri súng đạn!?
Lửa tham
tàn lịm tắt giữa Trường Sơn!?
Đâ còn có
cảnh chia Nam
rẽ Bắc,
Mẹ già vợ
trẻ sắn khoai thăm chồng!?
Đầu ghềnh
cuối bải châm dầu vượt biển,
Trả súng
lại tôi;...bến khỏi neo thuyền...
xox
Trả súng
lại tôi hởi người bội phản,
Đồng
minh chiến hữu rỏ mặt hại dân,
Dân chủ
Dân quyền hai viên đạn lép!
Thứ đạn
nầy Cộng Sàn bắn bằng mồm,
Mồm
to:"Xã nghỉa thiên đảng Cộng Sản"
Sự thật
Tự-Do lẽ sống con người,
Vô thần
mà nói thiên đàng nghịch lý,
Tự Do
xuyên phá quốc cộng thành trì,
Trả súng
lại cho tôi một lần cuối...
Phát
súng Tự-Do lủ cộng tan tành...
Huỳnh-Mai
[Một thời gẩy súng]
***
-&-&-&-
Thơ,
Tình
Cây Súng Gẩy!
Huỳnh Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Một thoáng quê hương chiến sĩ tạ từ!
Mùa hè rực lửa cuối ngày tháng Tư,
Chiến bào lấp kín ngỏ đường phố thị,
Súng gẩy nòng ngang dọc vất vô tư,
Cạnh lũy hào chuyến tuyến ngăn bước giặc,
Cờ vàng nhuộm đỏ thắm máu anh tươi,
Đi vào cõi chết anh hùng sa trận,
Hoa thép kẽm gai vương nhớ tình người,
Cài lên áo trận những bong hồng đỏ
Mừng vui đón giặc lại không chối từ!!!
***
Tôi đứng bẽ-bàng người vừa bỏ cuộc!
Súng trong tay súng gẩy dạn cong nồng,
Giữa tiếng khóc than trời sấm động,
Giữa tiếng cười náo nức rước giặc về!
Bao nhiêu chiến sĩ hồn buồn tan tác,
Một cõi về thất bại lẽ đương nhiên,
“Kẹt nồng” nước mắt ngược dòng uất hận,
Viên đạn cuối cùng bất nghĩa bất nhân!
Đời lính chiến Tự-Do là lẽ sống,
Không cần Dân Chủ chiến đấu cho ai!!!
***
Vết dao phản bội sau lưng chiến sĩ,
Tiền phương giết giặc hậu phương phản loàng,
Chiến hữu đồng minh trói tay trao giặc,
Cải tạo nhà tù cái giá Tự do,
Nợ nước ơn nhà vai mang phải trả,
Ân tình nghĩa cũ lỗi hẹn nước non,
Chí cả nam nhi tình cây súng gẩy,
Tất lòng thì có tất sắt thì không,
Mấy ai tìm được tất lòng yêu nước,
Chỉ thấy lợi quyền xuyên suốt Tụ-Do!!!
Huỳnh
Mai
{Mùa súng gẩy tháng Tư}
Lời trần tình:
Dù Gẩy Súng Tan
Hàng nhưng trong lòng người Chiến Sĩ Tự-Do VNCH vẫn còn một quê hương mến
yêu.Và họ đã mang theo hình ảnh này suốt trong đời cải tạo ngục tù Cộng Sản cho
tổ quốc thân thương mà họ chưa hoàn thành trách nhiệm và vinh dự tổ Quốc giao
cho!“ Chỉ Còn Là Quê Hương”
***
-&-&-&-
Thơ,
Lời Nguyền Cây Súng Gẩy!
Huỳnh Mai St.8872
Dạ Lệ
Huỳnh
Lời nguyền chí thành con xin khấn nguyện,
Máu con thắm đỏ chiến trường năm xưa,
Cho con đổi lấy hòa bình dân tộc,
Bom ngừng rơi máu ngừng đổ quê này!
Chỉ mình con chết thay cho trần thế!
Trẻ thơ thôi đừng tiếng khóc đòi cha,
Vui vẽ tung tăng mái trường nắng ấm,
Cho các cụ già Nam Bắc thăm nhau,
Cánh đồng xanh nặng trĩu mùa lúa chin,
Hội mùa dân tộc ngập tiếng hò ru,
Đất nước tôi an bình trong cuộc sống,
Dù cho súng gẩy thỏa nguyền Tự-Do,
***
Ba mươi lăm năm ước nguyền chờ đợi,
Bẻ súng cong nòng chưa thấy Tự-Do,
Tiếng kêu than khóc còn hơn súng đạn,
Chiến trường gẩy súng cũng vì vọng danh,
Ai đem vô sản không còn đất sống,
Giọt lệ anh hùng khóc nước biệt ly,
Tạ tội núi sông…con xin khấn nguyện.
Ơn trên gia hộ sức sống dân tôi,
Bùng Khởi vùng lên tự do tìm kiếm,
Công bằng dân chủ cái giá Tự-Do!
Trên cao xanh thẵm con thuyền bến đợi,
Thuyền về mau chống kẽo trời mưa giông,
Giải nguyền dân tộc yên lòng “Súng gẩy”,
Tình anh Gẩy Súng chang hòa nước-non!!!
***
Hồn thiêng sông núi quê hương đấtViệt,
Quật khởi vùng lên ánh sang Tự-Do,
Cho dân Việt bừng lên cơn tỉnh thức,
Dân chủ quyện hòa hồn nước Tự-Do,
Trở lại chiến trường thăm đồng đội cũ,
Mộ đá đơn côi thác đổ
thì thầm,
Lắng nghe ước nguyện thỏa nguyền dân tộc,
Ru anh vào cõi thiên-thu vĩnh hằng,
Cây súng gẩy rượu mời thôi tiển biệt,
Đưa anh vào cõi nhớ với mênh mông,
“Túy ngọa sa trường quân mạc vấn”
“Cổ lai chinh chiến Kỹ
nhân hồi”
Huỳnh Mai
{Mùa nổi dậy}
***
-&-&-&-
***
-&-&-&-
Thơ,
Trả
Súng Lại ChoTôi!
Huỳnh
mai St.8872
Dạ lệ Huỳnh
Cuối tháng Tư Sài gòn chìm khói lửa!
Cháy bỏng tình người cuộc chiến là đây,
Tình sử ngàn đời quân dân cá nước,
Thắng bại này nước phải cá phân ly,
Dân theo chiên thắng quân về chiến bại,
Thuận gió bùng lên máu đỏ sao Vàng,
Trái chiều nghịch gió cờ vàng đổi chủ,
Có triệu người vui cũng lắm vạn buồn,
Nhìn cây súng gẩy bên hào chiến lũy,
Áo trận vất tung vương thép kẽm gai,
***
Rồi một đêm âm thầm trong nước mắt!
Giả biệt Sài Gòn không lệ tiển đưa,
Lần lũi đoàn tù đi trong chiến bại,
Pháo hoa chiến thắng lệ mắt long lanh,
Và từ đó dân tình trong ly biệt,
Trở lại nuio1 rừng trong các trại tù,
Như hổ nhớ rừng hận đời chiến sĩ,
Thương cho quê nhà sáng sắn chiều khoai,
Hòn ngọc Viễn Đông dân tôi khổ thế,
Trả súng lại tôi như thuở ngày nào!
***
Trong cơn chiến bại súng không đạn nổ!
Có súng trong tay súng cũng cong nồng,
Đâu như cái thưở anh hùng chiến trận,
Giờ là que cũi đốt cháy tương lai,
Lặng nhìn sản nghiệp dân Nam Về Bắc,
Tũi hờn công sức sự nghiêp bốc hơi,
Dân tay trắng về đâu kinh tế mới!?
Hùm thiêng sông núi cải tạo sao cờ,
Tự-Do gẩy cáng rơi vào biển rộng,
Trả súng lại tôi ngăn máu lệ trào!!!
***
Trả súng lại tôi…vì đời
chiến đấu!
Cuộc chiến nầy ai thắng biết ai thua!?
Thua vì thế nước dân tình hèn yếu,
Nợ nước tình nhà đâu nở giết nhau,
Nếu không vô tình vô tri súng đạn,
Lủa tham tàn lịm tắt giữa Trướng Sơn,
Đâu còn có cảnh chia Nam rẻ Bắc,
Mẹ già vợ trẻ sắn khoai thăm chồng,
Đầu ghềnh cuối bải châm dầu vượt biển,
Trả súng cho tôi…xây lại cuộc đời!!!
***
Rả súng lại tôi hởi người bội phản!
Đông minh chiến hửu rỏ mặt hại dân,
Dân chủ, nhân quyền hai viên đạn lép,
Thứ đạn này cộng sản bắn bằng mồm,
Mồm to “Xã nghĩa” thiên đàng Cộng Sản,
Sự thật Tự-Do lẽ sống con người,
Vô thần với đến thiên đàng nghịch lý,
Tự-Do xuyên phá quốc Cộng thành trì,
Trả súng lại tôi…cho một lần cuối,
Phát súng Tự do lủ Cộng tan tành!!!
***
Trong chiến bại ươm mầm quật khởi!
Chiến thắng nào rồi cũng nhạt phai,
Tự-Do cái giá trả bằng xương máu,
Chiến sĩ Cộng Hòa máu đổi Tự-Do!!!
Hùynh
Mai
{Trả súng Lại tôi}
***
-&-&-&-
Thơ,
Chỉ còn là quê hương...!!!
Huỳnh-Mai.St.8872
Dạ Lê.Huỳnh
Quê hương tôi là chuổi ngày chinh chiến,
Tiếng bomb rền ru hát suốt canh đêm,
Ru con chiếc bóng chờ bên song cữa,
Đèn tàn hiu hắc mỏi bóng chinh nhân,
Khuất nẽo chiều hôm át tiếng bomb rền,
Con thơ mẹ yếu quê nhà xế bóng,
Hỏa châu soi bóng đất mẹ lối về,;
Đường hành quân vạn lối biết về đâu,
Đường về quê cũ hảo châu mờ lệ,
Chỉ là ảo mộng còn là quê hương,
xox
Chinh chiến tàn rồi gió bụi chiến tranh,
Nắng nhạt hồng phai kiếp sống mông manh,
Lối xưa nhà cũ nay đâu còn nữa,
Mộng hồn non nước thôi phải tan tành,
Quê hương réo gọi vào đời chinh chiến
Cho Tư-Do nhưng ước vọng không thành,
Cong nòng súng gẩy dập vùi chiến đấu,
TựDo gẩy cánh ta chết không đành,
Nữa hồn chinh chiến đi vào cải tạo,
Nữa mãnh sơn hà tan tác biển khơi,
xox
Bao rừng cay đắng sau hồi chinh chiến,
Bỏ lại quê này mãnh vở quê hương,
"Giải phóng Tụ-do" do tự mình chọn,
Một đời Xã Nghĩa trên cả Tự-Do,
Sáng khoai chiều sắn thỏa đời khát vọng,
Dân chủ bình quyền gái điếm tư do,
Bán thân chuộc đất lấy chồng xứ lạ,
Báo hiếu kiểu nầy nhục quốc vong gia,
"Giải phóng dục tình"nữ lưu Xã Nghĩa,
Còn gì...đâu nữa...chỉ là quê hương!!!
xox
Vì đời mà thương...đem thân chiến đấu...
Thất bại rồi...sao nở lòng nào quên…?
Quên chi những đêm nồng an giấc ngủ,
Mặc cho sương gió dạn dày chinh nhân,
Ơn anh đó tháng ngày trong lao cải,
Mai này rảnh nợ cho em lấy chồng,
"Tiếc hạnh bất phong"lấy chồng Bắc Bộ
Một đời "giải phóng" của tiền tự do,
Nữ lưu bất hạnh một thời mất nước!?
Còn lại gì một chút cho quê hương,
xox
Chuông chùa thúc giục tuần hành phật tử,
Đem Phật xuống đường cản lối Tụ Do,
Kẽng nhà thờ...Linh Mục đi hốt rác,
Xôn xao báo chí rủ nhau ăn mày,
Sinh viên trí thức những đêm không ngủ,
Mất Tự Do rồi có mất quê hương!???
Giật mình chợt tỉnh "Chân Trời Đỏ" máu,
Đêm dài...cảnh tỉnh điểm tiếng chuông chúa,
Sáng mai héo hắc... chuông nhà thờ đổ,
Đỏ cả sao trời...đỏ cả quê hương,
xox
Trời sao lấp lánh thiên đường Xã Nghĩa,
Dưới trời lệ đổ "ngục đàng'Tự DO,
Con anh quốc tế làm tròn nghĩa vụ,
Cháu anh trả nợ xung phong núi rừng,
Thế hệ tàn quân cháu con nợ máu,
Lao động công trường Xã Nghĩa cộng nô,
Bán thân nô lệ phận người dân ngụy,
Cho con Cộng Sản một thời xuất du,
Nhà lầ gái đẹp con tư bản Đỏ,
Tình người hun húc...chì còn quê hương,
xox
Rừng xanh biển rộng một màu non nước,
Thác ngàng Bản Giốc nghìn năm mất rồi,
Trấn ải Địa Đầu Nam Quan dời mốc,
Tốp teo biển vịnh "Lai khứ qui Tàu"
Hoàng -Trường-Sa Giọt lệ Việt Nam đổ,
Nước mắt tuôn tràn ngập cả biển Dông,
Trong biển lệ mẹ tìm đường vượt sóng,
Bỏ lại sau lưng mãmh
vở tương-tàn,
Biển mặn trên môi
nghe hồn chất ngất,
Ta lại nhìn ta...còn là quê hương!!!
xox
Nặng nợ quê hương vượt thuyền không thoát,
Súng đạn nầy... ta trả lại biển khơi,
Vùi Trong lòng biển ba hài cốt Mỹ,
Đồng minh chiến hữu trách nhiệm không thành,
Sống lại quê nhà lưu đày kiếp phận,
Đường đời hẹp lối ta lại... gặp ta;.
Mang thân súng gảy tủi hờn nhục quốc,
Nhìn lại chính mình xác chết Tự Do,
Trần truồng nhân thế... người đời quên lãng,
Còn gì...cho ta,chỉ là quê hươmg!
xox
Bạn bè chiến đấu bỏ đi biền biệt,
Đứa chết trong tù đứa Mỹ rướt đi,
Còn tôi ở lại trong cơn chiến bại,
Búa rìu dư luậ .người chối "TỰ-Do",
Nhiều khi bật khóc mà không thành tiếng,
Nuốt lệ vào lòng cho cõi chết Tự-Do,
Trời hởi…Tự-Do sao mà đắt thế!?
Pháo hoa chiến thắng…chôn vùi mừng vui,
Một đời chinh chiến giọt buồn biết khóc,
Tiếc thương chi...Chỉ còn là quê hương!!!
xox
Phố cũ lên đèn hoàng hôn tắt nắng,
Buồn trong kỹ niệm đếm lá me bay,
Công viên ghế đá chờ ai muôn thưỡ,
Bạc tình chi lắm hởi....thế nhân ơi!?
Đèn đường hiu-hắc nhòa trong mắt lệ,
Nhớ bóng người xưa nhớ cả chiến trường,
Đường xưa lối cũ Tự- Do khuất tất,
Để lại nơi nầy môt bóng hình ai…?
Hình ai khốn khổ...lưu đày tổ quốc,
Mang khối tình chung...chỉ là quê hương!!!
Huỳnh-Mai
[Quê hương
lưu đày]
Lời trần tình:
Tàn rồi cuộc chiến
tranh mới thấy hết tình người cho nỗi buồn thân phận nguời lính chiến VNCH.Họ bị
lãng quên của người đời trong ngục tù Cộng Sản.Chính họ là chiến sĩ dầm sương dải
nắng trên mặt chiến trường đê bảo vệ an lành cho hậu phương an lành cuộc sống.
đăng lúc 11:13:53 AM, Apr 07, 2011
* Quê hương tàn
chinh chiến…Huỳnh-Mai.St.8872
Bh.Dạ Lệ Huỳnh
Ngồi ngắm mây qua khung trời Cải-Tạo,
Lắng tiếng bomb rền…vọng tiếng rừng sâu…
Mắt lệ hỏa châu hết buồn chinh chiến,
Pháo hoa chiến thắng nhỏ lệ trong tù,
Một đời chinh chiến trọn giành tổ quốc…
Một thưỡ hòa bình cho đất nước tôi,
Mà sao cay đắng dành riêng Cải Tạo…
Góc tối tù đày phần thưởng chiến tranh,
Thương đau chấp nhận vì anh chiến sĩ,
Ngục tù cải tạo…quê hương hòa bình,
-0-
Quê hương một dảy nước non dân tộc,
Một thoáng hòa bình…phải giá đắng cay…
Đời là hạnh phúc “Thiên-đàng Cộng-Sản”
Sống đời nô cộng chịu kiếp sắn khoai…
Bắp ngô độn bửa người thành trâu ngựa…
Hòa bình êm-ả trên đồng cỏ xanh,
Đó là hạnh phúc cho người phản chiến,
Con vật tế thần chủ nghĩa cộng nô…
Đành lở rồi quê hương tàn chinh chiến,
Hòa bình không thấy…thấy toàn thương đau…?
-0-
Hởi người chiến sĩ đừng buồn cải tạo…
Quê hương mình vận nước…hãy chưa thôi,
“Hòa bình phản chiến”ý người dân muốn,
Anh phải ngồi tù…phản chiến theo dân…
“Hòa bình gảy súng” thôi đành chấp nhận,
Danh dự trách nhiệm…đâu bằng hiếu dân,
Chiến đấu hy sinh cũng vì tổ quốc…
Cải tạo tù đày chết cũng vì dân…
Dù chiến bại chí hùng anh bất khuất,
Không hổ thẹn lòng chết cũng vì dân,
-0-
Lâu lắm rồi vận nước chưa đổi thay…
Ba lăm năm chiến thắng giấc ngủ dài,
Thở ngắn than dài mình ta thức trọn…
Canh xác Tự-Do cạnh xác người say,
Người dân chưa tỉnh…Tự-Do còn chết
Đấu tranh đơn độc…hiểm nguy riêng mình,
Chiến hữu Tự-Do tìm đường xứ ngoại,
Bỏ lại mình ta chôn xác Tự-Do,
Không kèn không trống… không ai đưa tiễn,
Tù trong, tù ngoài mộ chí Tự-Do,
-0-
Ta biết tủi hờn…hồn thiêng sông nùi,
Sống chặt đời thà nát với cỏ cây,
Thấy được mình.làm phân cho hoa lá,
Tô điểm thêm đời…thiếu vắng Tự-Do,
Mất Tự-Do rồi…đời đâu nghĩa sống…?
Mồ hoang chiến sĩ…sung gảy vẫn còn,
Lưu dấu một thời hòa bình chiến đấu,
Để lại lòng người….một chút nhớ thương,
Sống chi một kiếp…đời người nô cộng…?
Quê hương tàn chinh chiến…mất Tự-Do,
Huỳnh-Mai
{Tàn chinh chiến}
Lời trần tình:
Nay người lính chiến phải bị tội tù cải tạo.Họ tội tình gì!?Phải chăng cái tội làm mất Tự-Do Dân chủ Miền Nam VN!?,khi người dân bị Công Sản Miền Bắc cho ăn khoai-sắn độn cơm hàng ngày mà người dân cứ ngở ngàng “Thiên Đàng Xã Nghĩa”.Chính nó che lấp địa ngục trần gian có những đêm dài:Sầ Đông Trong Cải Tạo”
***
-&-&-&-
Thơ,
Sài Gòn,Tháng Ngày Cải Tạo!
Huỳnh Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Thương quá sài gòn chiề nắng tắt!
Hoàng hôn ngả bóng đường chiều lá bay,
Tóc mây vương vấn bờ vai áo chiến,
Dìu em trong gió lá vàng me bay,
Đường chiều bóng ngả trên ngàn xác lá,
Gió lộng tóc thề tung gió bay bay!
Sài Gòn vắng bóng giai nhân chiến sĩ
Một trời tím tái đỏ ánh hoàng hôn,
Nhuộm sắc máu sao vàng màu cờ đỏ,
Như máu con tim thắm đỏ Sài Gòn!!!
***
Khóc chi em đời anh là lính chiến!
Buồn chi em chinh chiến đã tàn rồi,
Lãng quên vùi lắp phận người chiến sĩ,
Cuộc chiến phai tàn thương nhớ mấy ai!
Cây súng gẩy vì yêu em yêu nước,
Buông súng trận rồi…đâu trọn ôm em,
Vòng tay mở rộng trọ ôm đất nước,
Sao anh giử nổi Sài Gòn anh thương,
Xa vắng Sài Gòn lưng tròng nước mắt,
Vùi trong kỹ niệm thương đau đọa dày,
***
Giả biệt Sài Gòn không người đưa tiển!
Giọt buồn nào vương mắt lệ người đi,
Cỏ cây còn biết trách hờn sông núi,
Phận người chiến sĩ đâu hờn núi sông,
Sài Gòn thương nhớ khuất dần nẽo tối,
Bỏ lại thành đô bao nhớ mênh mông,
Đoàn xe chuyể bánh đêm hôm khuya khoắc,
Tiển người về cõi chân mây mịt mờ,
Hồn nước cuộn tròn theo xe lăn bánh!
Bỏ lại thành đô vắng bóng hình ai!!!
***
Vàng sao bóng đỏ cờ chiều tháng Tư!
Sài Gòn hoàng hôn ngập chìm sắc máu,
Quê hương đất mẹ đỏ chung màu cờ,
Nào có xá chi thường tình thắng bại,
Được mất thua còn dâu luận anh hùng,
Tù đầy đâu nhục nam nhi chí khí,
Cũi lồng đâu nhốt sông núi hùm thiêng,
Hổ nhớ rừng âm vang trong thét hận,
Tự Do ta đó thống khổ Miền nam!!!
***
Nhà tù mở rộng chứa dân Nam Việt!
Cũa cải tình người trôi sóng biển đông,
Không cữa không nhà bơ vơ kiếp sống,
Rừng lá hoang vu thử chí tang bồng,
Dâu bể tang thương anh hùng chiến trận,
Dánh trận này thiệt mất một đời tôi,
Trả lại phố buồn Sài gòn “Giải phóng”,
Tìm lại tình người …phố cũ ngày xưa,
Bơ vơ lạc lỏng dòng người phố thị,
Cũng có hoàng hôn rực đỏ màu cờ!!!
***
Sài Gòn rộng lớn chân đi không mõi!
Ta lại tìm ta địa chỉ không nhà,
Khoảng trống tội tù không ai thương tiếc,
Đâu ai thương biết dến ai bao giờ,
Sài gòn rộng lớn có vì sao lạc,
Lạc tình bạc bẽo hởi cố nhân ơi,
Nếu mai lìa đời khi tôi nhắm mắt,
Cho tôi phủ kín sắc áo mùa cờ,
Không quên lãng trong vòng tay dân tộc,
Gói trọn tình người kiếp sống Tự-Do!!!
Huỳnh Mai
{Tháng ngày cải tạo}
***
-&-&-&-
Thơ,
Tù Trong &Tù Ngoài…!
Huỳnh Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
“Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại”
Tự Do mất tại ngoại cũng thiên thu,
Niêm viễn phận tù trong ngoài nhỏ lớn,
Tù trong gian khổ tù ngoài lầm than!
***
Tù trong cải tạo những người đánh mất,
Tù ngoài lầm lở dâng hiến Tự-Do,
Nhất nhật thiên thu cũng là nô cộng,
Chung phận tù hiện tại khác chi nhau!
***
“Cách mạng” Miền Nam, tự do cải cách!
Yêu nước là yêu chủ nghĩa cộng nô,
Nhà tù cải tạo dậm dài non nước,
Ngô khoai bắp sắn đói rả đầy đồng,
***
Thương cho cải tạo một đời gẩy súng!
Như thể Tự-Do khép kín nhà tù,
Độc lập Tự-Do kẽm gai khép kín,
Cách lập dân tình mất trắng Tự-Do!
***
Gạo tiền cơm áo nhở là dân chủ!
Đem thân cầu lụy kiếm cơm tù ngoài
Chỉ biết áo cơm thiên đàng xã nghĩa,
Ngoảnh mặt tình vờ với kẻ tù trong!
***
Tù trong dáng đứng hiên ngang cải tạo!
Tù ngoài lòn cúi gạo tiền xin ăn,
Tự do đâu có cho người phản bội,
Chỉ có cho người trách nhiệm tù trong,
***
Tù ngoài cải tạo là đời xã nghĩa,
“Cạn tàu ráo máng” lạc nẽo Máu Hồng,
Hòa cùng nỗi khổ Miền nam mất nước,
Ngục tù dân tộc cách rào kẽm gai…!
Huỳnh Mai
{Xấu hổ,đâm lưng chiến sĩ Tự-Do}
****
-&-&-&-
Thơ,
Người Tù… Tự-Do!
Huỳnh Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh,
Tự-Do và tù như hinh với bóng!
Bóng đâu hình đo dáng đứng song tù,
Niêm viễn chiêm bao Tự-Do ảo vọng,
Phất phơi đâu đó mắt thép kẽm gai,
Nhìn cây súng gẩy”Xìu” trong ngục tối,
Kết thúc hành trình chiến sĩ Tự-Do,
Ta chiến bại vì Tự-Do bỏ ngỏ,
Để cộng thù lựa thế giết sau lưng,
Anh hởi Cộng Hòa dù anh có chết!
Đừng buồn chinh chiến hãy buồn hậu phương!!!
***
Lửa thù cải tạo bao năm huấn nhục!
Nuôi chí hận thù quyết phục Tự-Do,
Trong ngục tối Tự-Do là lẽ sống,
Nhục hình đói rét thần chết vượt qua,
Trong cơn bỉ cực đâu ai biết đến,
Xương máu nào là giá của Tụ-Do,
Chánh nghĩa Tự Do người đời quên lãng,
Bỏ mặc người tù chết ngất nỗi đau,
“Xã nghĩa” vạn lần hay hơn dân chủ,
Tự Do chưa cần…đâu có giàu sang!?
***
Người tù trở về, Tự Do không trở lại!
Bằng chút tình thừa thương hại người dân,
Ngậm ngùi cay đắng phận người “Nhục Sĩ”,
Cái giá Tự-Do đâu rẻ như bèo,
Một đời cải tạo không bằng thương xót,
Một trời Tự-Do cho chút tình thừa,
Tôi thấy lạc-lõng tình người xã nghĩa,
Cơm áo gạo tiền quên mất TỤ-Do,
Tự-Do hình bóng tù nhân cải tạo,
Bơ vơ sống kiếp bên lề cộng nô!!!
***
Thả tù “Tạm ứng” trải giấc cơn mê!
Cải tạo về nhà như hủi về quê,
Hình hài ốm đói thân mang bệnh tật,
Mắt ứa lệ buồn gia cảnh thãm thê,
Đất nước gia đình càng thêm thê thãm,
Bạo lực giang hồ thấy khiếp sợ ghê,
Tiến sĩ đầy đường, xe đi bống lộn,
Nhờ kẻ ăn mày xin kiếp ở thuê,
Dỉ điếm đầy đường tuôn ra phố chợ,
TỰ-DO thế đó …tù nàytái tê!!!
***
Sự thật nếu tôi không nói,
Thực tế này ai dàm nói thay tôi!!!
Huỳnh Mai
{“Tự-Do Định Hướng Xã Nghĩa”
-Cộng nô}
Thơ,
Sao Vẫn còn Thương!
Huỳnh Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Bốn vùng chiến thuật khói mù lấp kín!
Rừng núi cao…bom đạn rút quân về,
Bỏ lại chiến trường bạn bè nằm xuống,
Tay súng tay dìu con trẻ lưng mang,
Đi trong lửa đạn trọn tình dân tộc,
Con đường địa ngục trần gian phải về,
Thân chiến bại tình người không bại chiến,
Dù nát thân này sao vẫn còn thương,
Thương vì tiếng khóc trẻ thơ đòi mẹ,
Thương cho chinh phụ ngóng trông chồng về!
***
Quê hương chinh chiến tư bề khói lửa!
Súng gẩy tan hàng chiến sĩ về đâu!?
Lao tù cải tạo thay nhà phải chịu,
Một đời chinh chiến non nước là đây,
“Cách mạng Nhân dân” bọn người phản chiến,
Đem cả Sài –Thành đổi lấy sắn khoai,
Miền Nam vựa lúa nay là khoai sắn!
Người lẫn trâu bò chịu kiếp sắn khoai,
Sao vẫn còn thương cho người lầm lở,
Thiên đàng Xã- nghĩa thiếu vắng Tự-Do!!!
Vì đời Tự-Do đem thân cải tạo!
Trả lại cho đời Xã Nghiã dân kêu,
Một đời chinh chiến thôi đành chiến bại,
Bội phản lỏng người phản chiến hậu phương,
Gẩy súng tan hàng Tự Do tan vở,
Một thời chinh chiến hậu phương an bình,
Một thời cải tạo ân nhân khoai sắn,
Sơn khê lao khổ cải tạo tù đày,
Sao vẫn còn thương cũ mì nghẹn họng,
Mắt trợn trừng lặng khóc ngắm mây bay!!!
***
Người tôi thầm ghét sao vẫn còn thương!
Vì tôi không chết nên phải vấn vương,
Vào đường “Xã Nghĩa” trọn đời nuối tiếc,
Vợ chồng con cháu, một lủ cộng nô,
Cựu thù như thể tình thân cốt nhục,
Ghét đâu đành đoạn…sao vẫn còn thương,
Cộng viên ghế đá xưa kia biết thẹn,
Trai gái thiên đàng vô sản tình Tình yêu,
Mối tình khoai sắn đong đày tiếc nghĩa,
Kiếp phù sinh Xã Nghĩa chuẩ rừng xanh!!!
***
Sao Vẫn còn thương Miền Nam trăng nước!
Tiếng hò sông Cửu gạo trắng trăng thanh,
Chở quân Việt cộng công đồn đánh bót,
Thành công rồi thay tiếng khóc chơi vơi,
Trăng nước ngận ngùi, thuyền đầy khoai sắn,
Cữu Long gạo trắng uổng công nuôi cò,
Sao vẫn thương Miền Nam chùm khế ngọt,
Gái Việt Miền Nam khế bổng chua lè!
Sài Gòn mây bay trôi vào biển cả,
Xót lại trong lòng xác lá me bay!!!
***
Sao vẫn còn thương những gì còn xót lại,
Chịu kiếp lưu đày xã nghĩa lên ngôi,
Thương cụ già nhặt mót khoai lương thực,
Trai tráng trong làng xuất khẩu cộng-nô,
Gái quê sinh chồng… làm dâu xứ lạ,
Vợ bỏ chồng vào “Động đỉ” bán thân,
Chủ tịch nước phường ma cô ma cạo,
Bán rao quốc tế gái Việt lợn loài ,
Ma cô đỉ diếm thời nay nhục quốc,
Hận quốc vong gia… sao vẫn còn thương!!!
Huỳnh Mai
{Mùa quốc nhục-Cộng Sản}
***
-&-&-&-
THƠ,
SẦU ĐÔNG TRONG CẢI TẠO
{Nước Mắt…kẽm gai}
Huỳnh-Mai.St.8872
Bh.Dạ lệ Huỳnh
Mù sương trắng xóa phủ trùm láng trại!
Một màu tang tóc cỏi chết mùa đông!
Tiếng kẽng vang lên chiêu hồn sức sống,
Một đám thây ma sống cảnh vô hồn!
Chiến bào tơi-tả…lắm đầy bụi muối,
Mồ hôi hản-mã lao cải nông trường…
Nợ nước tình nhà nay vào cải tạo!
Cày xới vun trồng sỏi đá thành cơm…
Đá lên bông…vút cao miền kiêu hãnh!?
Nhìn rào kẽm thép thấy lạnh buồn thêm!
-0-
Cái lạnh Miền Nam đâ bằng rét Bắc!
Mà sao tím-tái lòng người Miền Nam!?
Gió bấc đem đông tràn vào Cải-Tạo!?
Mang theo rau muống ngập đầu bếp ăn,
Bắp ngô, khoai sắn…lẽ người chiếng thắng!
Con sâu cái kiến…cũng lẽ trời nuôi,
Rét lòng lượm nhặt tàn dư thuốc cáng!
Phì phà khói thuốc cho tù…lên hương!?
Gió đông thuốc cáng…lên đời sâu bọ!
Thuốc rê cải tạo…chịu đời đắng cay,
-0-
Mưa phùn gió bấc lạnh lòng lao cải!
Run…tiếng bomb rền vang chiến trường xưa…
Điếu thuốc lượm được! năm ba đứa hút!!!
Ấm lòng chiến sĩ trong tù gió đông,
Bắp, khoai cải tạo:”là của nhân dân!?
Không quyền nướng cắp”…no lòng tù nhân!?
Thoát cơn đói lạnh…tình người chiến bại!
Đòn thù độc ác…”thú-người “rừng xanh”,
Dù đói lạnh người tù không biết khóc!?
Để dành nước mắt khóc cho quê hương!?
-0-
Bên kia trời…nhìn qua rào kẽm thép!
Bình minh còn phủ sương đông quá dày!
Mắt thép kẽm gai…lạnh lùng nhìn cảnh báo!?
Bên ngoài rào…” chuồng trại của nhân dân”!?
Xem ra nó khổ còn hơn người tưởng!?
Bắp khoai ngô sắn….nghẹn lời khóc than!
Giọt sương đọng…nước mắt trên rào kẽm!
Tiếng hạt buồn rơi rụng…mắt kẽm gai!
Nước mắt kẽm gai vì đời đổ lệ!?
Cho người quên lãng…cho mình lãng quên!
-0-
Ngục tù cải tạo khí hùng bất khuất!
Đã quen rồi, hổ lại nhớ rừng xanh!
Nước mắt kẽm gai khóc đời chiến sĩ!
Cũng không ngăn nổi”đạn nổ trong tù!
Trong cơn đạn nổ…thấy lòng rộng mở!
Ấm lại quê hương…một chút kiêu hùng!?
Tặng lại quê hương tất lòng Cải-Tạo!?
Không còn non nước…vẫn lòng Quốc-Gia!
Trong kiếp đọa đày nào ai có biết!?
Đêm đông khóc hận nước non một mình!
Huỳnh-Mai
{Nước mắt kẽm gai}
Lời trần tình:
Có những đêm đông trong tù…! ngồi thương nhớ lại khoảng đời lính chiến cố hương xa nhà,mà thương em gái hậu phương sài gòn .
“Ai dìu bước em trong nắng mùa Đông!” khi cái lạnh se-xắc lòng người từ Bắc vào Nam bao trùm không gian “CoNex” nhà tù mà thèm chút nắng xuyên qua kẻ hở.tìm lại một chút hơi ấm tình người yêu em…!
THƠ!
SÀI GÒN MÙA ĐÔNG
CHINH CHIẾN!!!
Huỳnh-Mai.St.8872
Bh.Dạ lệ Hùnh
Đông về thành phố từng cơn buốt lạnh!
Lạnh lắm không anh cải tạo trong tù!?
Nơi đây sương lạnh một trời thiếu vắng!
Ai dìu bước em trong nắng mùa đông!
-0-
Sàigon đó anh…đông nầy lạnh lắm!!!
Cái lạnh se lòng gió Bắc vào Nam!
Me già rụng lá, lệ rơi lã chã!
Rơi trên ghế đá để sầu công viên!
-0-
Vắng anh là cả mùa đông cõi chết!
Nghe lòng buốt lạnh thiếu vắng chinh nhân,
Anh mang hơi ấm từng vùng hỏa tuyến!
Sưởi ấm lòng em lúc giá đông về!
-0-
Anh đi biền biệt mang theo nồng ấm!
Bỏ lại Sàigon…cho mặc giá đông!
Cái lạnh rừng sâu…chiến trường anh đó!
Tràn về phố thị giá buốt lòng em!
-0-
Đèn đường ngơ ngẩn thẩn thờ soi bóng!
Cúi đầu ngấn lệ sầu đông vắn-dài!
Ai đem cái lạnh từ phương Bắc đến!?
Cho kiếp má hồng khóc bạn tình xưa!
-0-
Áo ấm mùa đông, chiếc khăn choàng cổ!
Chưa kịp trao anh…dung duỗi chiến trường!
Anh có biết cái lạnh mùa đông cải tạo!?
Cái lạnh Sàigon thấu buốt tim côi!
-0-
Sàigon mùa đông phủ đầy sương trắng!
Ào ành dần lên…áo trắng học trò!
Tung bay tà áo dệt trời thơ mộng…!
Sao nay…trắng xóa khăn tang Sàigon!
-0-
Sương đông mờ ảo nhạt nhòa phố thị!
Anh đâu có biết tên đường nhà em!?
Đổi đường đổi phố đổi cả mùa đông!?
Chỉ còn giá lạnh… cái trong lòng người!?
-0-
Thành Hồ sương trắng chìm trong ảo vọng!
Lộ nét trang đài vóc dáng kiêu sa!
Nét người con gái hồng lên đôi má!
Mùa đông Sàigon khuất bóng trong mơ!
-0-
Sàigon buốt lạnh mùa đông xứ Bắc,
Không có tuyết rơi…lệ đổ ngập lòng!
Ngắm nhìn sương trắng phủ “Thành chiến bại”!
Thương “Cây súng gảy bên rào kẽm gai!
Huỳnh-Mai
{Mùa đông chinh chiến}
Lời trân tình:
Cũng có những mãnh dời ly tán tang thương của những thiếu phụ mất chồng trong tù cải tạo.Họ là những liệt nữ anh thư trong thời chiến loạn.Vì tiết hạnh khả phong,bất khuất bạo quyền cương ép mà tuẩn tiết thờ chồng,rất đáng kính một đòi nhi nữ anh hùng ngàn năm rang tiết gái phươngNam!
SUỐI Ô MAI OAN NGHIỆT-Mấn Mộ người tù Cỉa Tạo
Bật người thức giấc sau cơn ác mộng hải hung…
THƠ!
RỪNG SU BA MỘ!!!
Huỳnh-Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Rừng Su Long Khánh ngả bóng hoàng hôn,
Mộ chàng Cải Tạo thương tâm nát hồn,
Bên bờ suối vắng rừng Su vác cũi
Một thân thiếu phụ cùng con khóc chồng,
Đạo quân Cải Tạo vai mang cũi khúc,
Lặng lẽ ngang qua trước mộ chàng tù,
Thường khi vẫn thấy buồn lên ánh mắt,
Ành hình thiếu phụ Nam Sương khóc chồng,
Bên cạnh mộ đứa con còn để chõm,
Thương thương đã biết chuyện gì chiến tranh,
Mẹ khóc cha đây trò chơi đánh trận,
Cha vờ chết cho khiếp vía kẻ thù,
Bùm…chéo!!…cho kẻ thù cha gục ngả,
Con kêu bố dậy…cả nhà ăn cơm,
Mộ chàng Cải Tạo thương tâm nát hồn,
Bên bờ suối vắng rừng Su vác cũi
Một thân thiếu phụ cùng con khóc chồng,
Đạo quân Cải Tạo vai mang cũi khúc,
Lặng lẽ ngang qua trước mộ chàng tù,
Thường khi vẫn thấy buồn lên ánh mắt,
Ành hình thiếu phụ Nam Sương khóc chồng,
Bên cạnh mộ đứa con còn để chõm,
Thương thương đã biết chuyện gì chiến tranh,
Mẹ khóc cha đây trò chơi đánh trận,
Cha vờ chết cho khiếp vía kẻ thù,
Bùm…chéo!!…cho kẻ thù cha gục ngả,
Con kêu bố dậy…cả nhà ăn cơm,
***
Bẵng đi nửa tháng đoàn tù vác cũi,
Ngang qua không thấy tiều tụy dáng nàng,
Đứa bé chắc còn mê đi giết giặc,
Bỏ lại rừng su bóng lẽ mộ chàng,
Hoàng hôn chập choạng chiều hôm tắt nắng,
Bên dòng suối vắng rực đỏ rang chiều,
Lồ lộ ba ngôi gia đình xum hợp,
Nàng tìm cái chết cửa tử bên kia,
Thủy chung tình nghĩa hẹn hò nước non,
Thằng bé khóc la xác mẹ gào thét,
Suốt cả đêm trường chết lạnh rừng Su,
Trong cái chết biết đâu là sự thật,
Của trò đùa địa ngục đỏ trần gian,
Tiết hạnh khả phong má hồng chung thủy,
Rừng Su thẹn mặt núi sông cúi đầu,
Ngang qua không thấy tiều tụy dáng nàng,
Đứa bé chắc còn mê đi giết giặc,
Bỏ lại rừng su bóng lẽ mộ chàng,
Hoàng hôn chập choạng chiều hôm tắt nắng,
Bên dòng suối vắng rực đỏ rang chiều,
Lồ lộ ba ngôi gia đình xum hợp,
Nàng tìm cái chết cửa tử bên kia,
Thủy chung tình nghĩa hẹn hò nước non,
Thằng bé khóc la xác mẹ gào thét,
Suốt cả đêm trường chết lạnh rừng Su,
Trong cái chết biết đâu là sự thật,
Của trò đùa địa ngục đỏ trần gian,
Tiết hạnh khả phong má hồng chung thủy,
Rừng Su thẹn mặt núi sông cúi đầu,
***
Giờ đây rừng Su có ba ngơi mộ,
Biểu tượng gia đình dân tộc quê hưng,
Mất một cả ba đều hết nghĩa sống,
“Hòa Giải Dân Tộc” chỉ có trong mơ,
Thệ nguyện với lòng cùng non cùng nước,
Cải Tạo nầy phục nguyện với non sông,
Tù binh chiến sĩ hồn thiêng đất nước,
Quê hương nước Việt sạch bóng quân thù,
Cho anh cho tôi và cho tất cả,
Qua cơn mê thức tỉnh bởi lầm tham,
Vàng tan đá nát biết bao ly biệt,
Cho hồn phu phụ tử thê xum vầy,
Tiết hạnh khả phong anh hùng Liệt Nữ
Chí nguyện trai hùng trọn vẹn quê hương!!!
Biểu tượng gia đình dân tộc quê hưng,
Mất một cả ba đều hết nghĩa sống,
“Hòa Giải Dân Tộc” chỉ có trong mơ,
Thệ nguyện với lòng cùng non cùng nước,
Cải Tạo nầy phục nguyện với non sông,
Tù binh chiến sĩ hồn thiêng đất nước,
Quê hương nước Việt sạch bóng quân thù,
Cho anh cho tôi và cho tất cả,
Qua cơn mê thức tỉnh bởi lầm tham,
Vàng tan đá nát biết bao ly biệt,
Cho hồn phu phụ tử thê xum vầy,
Tiết hạnh khả phong anh hùng Liệt Nữ
Chí nguyện trai hùng trọn vẹn quê hương!!!
Huỳnh Mai
Lời trần
tình :
Thu nay khác với Thu xưa nhiều lắm !
Thu xưa chinh chiến, Thu nay cải tạo.mùa thu nào rồi củng mang nỗi tê tái trong
lòng...Trong không gian tiếng súng bom rền vẫn còn bóng mẹ chong đèn bên song của
đợi con về... !Thu nay mẹ già đã mất,hình ảnh mẹ hiện về qua chiếc lá thu
bay vương rào kẽm thép nhà tù trong thương nhớ ngập lòng người cải tạo !!!
Thơ,
Vàng
Xuân Liệt Nữ!
Huỳnh
Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Mai vàng rụng cánh còn ngại gió
đông!
Hoa trong thời loạn như gái chưa chồng,
Bao nhiêu xuân mộng thôi đành tan vở,
Chồng đi cải tạo luống chờ ngóng
trông,
***
Hoa Mai rụng cánh rơi bên thềm cũ!
Vàng trong nắng gió chiều thôi đưa,
Đời liệt nữ mai vàng không phai sắc,
Chết giữa xuân thì sắc áo màu cờ,
***
Dưới cội mai già nắng xế chiều hôm!
Ngắm nhìn mai rụng ngất ngây hồn,
Cách vàng lã lướt bay trong gió,
Múa khúc nghê thường tiên nữ trần
gian!
***
Đẹp sao…tiên nữ khoát cánh mai
vàng!
Hóa hồn trinh nữ giang Nam đợi chồng,
Bao năm chờ đợi sương giăng mái
tóc,
Vàng lên xuân trắng tóc hoa ngở
ngàng!
***
Chiều xuân gió cuộn mai vàng xỏa
tóc!
Lối xưa thềm cũ dưới cội mai già,
Vàng xuân bay bay vơi buồn thương
nhớ,
Mõi mắt xa vời cải tạo chờ mong!
***
Mai vàng trước ngỏ tả tơi rơi rụng!
Nước mắt đợi chồng cải tạo vượt
biên,
Hoa kẽm gai rào tù không biết khóc,
Mùa xuân Sài Gòn đẩm lệ chia ly!
***
Mấy ai lao cải qua vùng cải tạo!
Đầu xanh bạc tóc liệt nữ chung
tình,
Rả cánh mai vàng kẽm gai mắt lệ,
Xuân chỉ đẹp ngấm mai vàng rụng
rơi,!!!
***
Xuân trong thời loạn thì mai vẫn nở!
Nở trái mùa như hoa nữ thường tình,
Đời hoa liệt nữ loài haoa gảy cánh,
Rơi rụng cho đời còn có thủy chung!
Huỳnh
Mai
{Loài hoa liệt nữ}
***
-&-&-&-
Thơ,
Sắc
Vàng Không Phai!
Huỳnh
Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Bao mùa chinh chiến bao mùa rơi rụng!
Sắc hoa vàng thắm nhuộm gió tung
bay,
Trải thân lót ngỏ cho bao người bước,
Tô điểm xuân rơi rụng cánh mai
vàng!
***
Màu cờ rạng rở trên vai áo trận!
Trấn thủ lưu đồn non nước bình an,
Trời xuân mai nở đời ai biết đến!?
Gió đông phương Bắc trở trời tiếc
thương!
***
Tạ từ đời…ta đi vào quên lãng,
Bỏ lại đời bao vụn –vở quê hương,
Xuân tàn chỉ có mai vàng rụng cánh,
Chết đẹp cho đời vạn nỗi nhớ
thương!
***
Xuân chỉ đẹp khi mai vàng cuộn gió!
Màu cờ sắc thắm khi gió vàng lên,
Bay qua rào kẽm bay vào cải tạo,
Hỏa lò địa ngục sắc vàng không
phai!
***
Sắc hoa rời rả vương hoa kẽm thép!
Hận khóc cho đời giọt mắt kẽm gai,
Tự Do khóc ngất ngoài trời biể động,
Gió cuộn vào tù… màu sắc không
phai!
***
Đất nước nhà tù ươm loài hoa quý!
Cải tạo hận thù cho đá nở hoa,
Dạn dày sỏi đá một đời nghĩa sĩ,
Anh hùng, hòa kiệt thủy chung cờ
vàng!
***
Người vui khi thấy hoa đào Bắc nở!
Bõ mặc mai Nam theo thế sụ
tàn,
Nắng nóng miền nam tự do cởi áo,
Rét lạnh bắc miền tê tái lòng nhau!
***
Phương Nam khác Bắc vì gần xích đạo!
Mặt trời sớm có cho đời Tự-Do,
Bắc phương khuất bóng Trường sơn rặng
núi
Núi sông liền dãy…lờ mờ Bắc Kinh!!!
***
Ôi…! Nam Quan Ải đâu còn đất Việt!
Đầu thành rũ bóng, máu nhuộm sao cờ,
Sắc vàng hoa quý tương trưng hồn Việt,
Vàng ươm láu chin sắc màu Việt Nam!!!
Huỳnh
Mai
{Màu
cờ sắc áo không phai}
***
-&-&-&-
,
THƠ!
SÀI GÒN BUỒN TÀN THU…!
Huỳnh-Mai.St8872
Bh.Dạ Lệ Huỳnh
Gió heo
may lạnh buồn cây súng gẩy,
Giọt lệ
Thu rơi sao chảy ngập lòng!?
Lá đổ me
rơi điệp vàng ngập lối,
Trải
thãm cho đời vào cuộc lãng quên,
Nước mắt
mùa Thu tình đời tôi khóc,
Thay cho
chinh phụ bên song đợi chồng,
Tiếng
khóc đòi cha võng đưa kẽo-kẹt,
Mẹ già
chong đèn mờ mắy Thu đêm,
xox
Tiếng Thu lóc-cóc vang trong phố vắng
Gỏ nhịp"tiếu
mì"hồn nước mênh mông,
Canh Thu
khuya-khoắc im lìm tiếng súng,
Giật
mình tỉnh giất bomb nổ trong lòng,
Tháng
ngày cải tạo những đêm không ngủ,
Cho hồn đi hoang…lối cũ tìm về,
Bước
chân kỹ niệm chỉ là tan vở,
Đèn đường
vàng-vọt đếm giọt Thu rơi,
Góp bao
phiền muộn chất đầy thương nhớ,
Ảo ảnh
phai tàn mờ phù sương Thu,
xox
Thu
Saigon man-mác miền cổ kính,
Dáng Thu
yểu điệu giai nhân thẹn thùng,
Thu nay
thành Hồ chợt mưa chợt nắng,
Chợt nam
chợt nữ ghế đá công viên,
Ai biết
gì đây... dưới cội me già!
Thẹn
thùng lá úa lá phải ngừng bay,
Thu xưa
tao nhã Thu nay sở thú!?
Thành Hồ
chiếm đoạt nho xanh Saigon,
Cáo cầy
loạn đả gà nhà mất nước,
Thu về Saigon mang cả rừng xanh,
xox
Buồn Thu
tiếp nối kiếp đời cải tạo,
Thu
Saigon buồn lắm...có gì vui!?
Sấm nổ
ngang trời chợt mưa khi nắng,
Mong
manh hy vọng lại buồn trắng tay,
Ánh sáng cuối hầm không ngờ hố thẵm…!?
Hồn thu
tan tác như lá me bay...!
Đòi Thu
chết...trên ngàn cây nội cỏ,
Đời tôi
chết...trên mãnh vở qyê hương...!
Đến
không quê hương…về không tổ quốc!?
Tôi
là"vô sản"quê hương mất rồi!?...
Huỳnh-Mai
{Mùa Thu chết}
Lời trần tình:
Thu trong mắt ai!?qua thời chinh chiến!.Cuộc
chiến tàn rồi hồn nước thương đau.Áo chiến sa
trường vương rào kẽm thép.Cong nồng súng gẩy vở mãnh quê hương.
Thu trong mắt ai!?qua thời cải tạo!.Mấy ai
thương tiếc mãnh đời lính trận.Sương Thu điểm trắng bạc phơ mái đầu.Ôi quê
hương trong vắt,chìm trong ánh mắt hồ thu!
-&-&-&-
Thơ,
Thu Trong Mắt
Ai !?
Huỳnh-Mai
Dạ Lệ Huỳnh
Hồ Thu
trong vắt chìm trong ánh mắt,
Một
thoáng quê hương vương chút lệ mờ,
Chiến
trận ngày xưa bao lần không chết,
Để có
ngày nay khóc ngất quê hương,
Cuộc
chiến tàn rồi thương đau hồn nước,
Chiến lũy
hào sâu súng gẩy cong nòng,
Áo trận
chiến binh phơi mành kẽm thép,
Hồn
lính trận tan vở mãnh quê hương,
Thu úa
lá vàng màu cờ Thu úa...
Ngập hồn
ai …để buồn lên mắt ai!
xox
Heo may
gió lạnh qua miền lao-cải,
Chiến
bào tơi tả sương Thu phủ mờ,
Rừng
Thu héo úa cánh đồng cải tạo,
Trơ gốc
ngô khoai đói rả trong lòng,
Mưa buồn,
nắng cháy đất cày sỏi đá
Vắt đá
sỏi cải tạo phải thành cơm,
Đá phải
lên bong…ươm mầm nhựa sống,
Mắt
thép kẽm gai củng nở hoa đời
Trăng
Thu soi bóng lao tù Xã Nghĩa
Nữa
mãnh trăng thề thiếu vắng Tư-Do...
xox
Ghế đá
công viên chiều Thu niệm nhớ,
Mênh
mông nuối tiếc...dưới cội me già!
Phố cũ
lên đèn bóng vàng hiu hắc,
Lắng
nghe kỷ niện hòa tiếng lá rơi!
Thầm
thương chinh phụ chờ chồng biền biệt,
Xưa
nay cài tạo ít có ai về!
Mắt ai
mờ lệ pháo hoa chiến thắng
Long
lanh nước mắt ngập cả cờ sao,
Thu đến
Thu đi bao mùa rụng lá,
Quyên lãng cho đời chưa thấy đổi
thay!?
xox
Bến vắng
chiều Thu neo thuyền bến đợi…
Sương
Thu điểm trắng bạc phơi mái đầu,
Trăng
Thu soi bóng con thuyền lẽ bến,
Sóng
vổ nạm thuyền trăng nước vở tan,
Sông
Thu lạc bến thuyền không neo đậu,
Khua
động mái chèo hồn nước thương đau,
Sông
trăng bến lặng thuyền về bến đổ
Gió
Thu đưa thoảng tiếng hát câu hò,
Trăng
nước thanh bình ấm lòng lữ khách,
Xa
cánh quê hương...thấy thật là nhà!!!
Huỳnh-Mai
[Mùa trăng cải tạo]
Lời
trân tình:
Cuộc chiến tàn rồi chưa tan khói súng,mắt
lệ mờ tôi khóc mình tôi!Bên bờ chiến hào súng
đạn vắt ngổn ngang…áo trận cởi phanh vắt ngang bờ kẽm thép.Còn ai đâu dể
mà chiến đấu!?Tất cả quay lưng đón quân giặc về bỏ lại lũy hào sâu thấm đỏ máu
quê hương, tôi không trách vì tôi là kẻ thua cuộc nhưng rất buồn tất cả đều mất
quê hương và chung đồng cảnh sống người chiến bại!!!
***
-&-&-&-
Thơ,
OAN PHẬN CHIẾN TRANH!
Huỳnh
Mai St.8872
Bh.Dạ
Lệ Huỳnh
Bén hương lòng người thương tôi khóc!
Tỏa khói hương đôi mắt cay cay,
Chiên Đàn thúc giục hồn ai đó,
Hiện dần lên tâm tức người thương!
***
Nắng Sài Gòn vẫn là nắng ấm,
Đầu xuân ai đưa em lễ chùa,
Chiều Sài Gòn công viên gió lộng,
Hoàng hôn sàigon tím nhớ thương,
Anh mang thương nhớ vào chiến trận,
Mòn gót phiêu lưu khắp núi rừng,
Là chiến binh thân xác lá thu,
Trải mình cho quê hương hạnh phúc,
Ba dòng máu đỏ Nam Trung Bắc,
Đâm nét càn khôn dưới bóng cờ,
Quê hương chinh chiến tràn máu đổ,
Đỏ ngập trời Sao-Búa lưởi liềm,
***
Gió núi mây ngàng lên tiếng gọi,
Giật mình xao xác anh trăng sao,
Tiếng bom cày xé ru anh ngủ,
Giấc ngủ quê hương của chiến tranh,
Huỳnh Mai
Dạ
Lệ Huỳnh
Bình thơ:
Thơ cảm tác cho những linh hồn chiến sĩ trận vong trong cuộc
chiến tranh Việt nam,đầy bi thương và hung tráng của những anh hung đấu tranh
cho Tụ-Do dân tộc quê hương Việt nam.
Ngày 18-3-2007 là lễ “Đại Trai Đàn Giải Oan Bình Đẵng Chuẩn
Tế” của Thiền Sư Nhất Hạnh.Trong đêm tịnh thiền nhớ thương đồng đội dã hy sinh
tại ngọn đồi cao “VinKy”-Đắk-Tô{Căn Cứ Hỏa Lực 6-Kom Tum}đầy máu và lửa.Để chiếm
lại ngọn đồi…chỉ còn lại 7 đồng bạn chiến hữu tới trên ngọn đồi.xung quanh
hoang tàn đổ nát,xác bạn xác thù ngổn ngang trên rào kẽm thép;chồng chất nhau
trên miệng hâm lô cốt trong chiều hoang tím tái mặt trời.Máu loan khắp…làm đỏ cả
chiều hoàng hôn Tây Nguyên!Bi hùng tráng này,chỉ dành cho những thân phận chiến
tranh còn xót lại mặt trận chiến trường ngày ấy…khó phôi pha trong hồn chiến sĩ!!!-{Căn
Cứ Hỏa Lực 6 Đắc-Tô}. Sài Gòn.18-3-2007
Huỳnh Mai
***
-&-&-&-
Thơ,
Trần Tình Cải Tạo!
Huỳnh
Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Cứ mỗi tháng Tư tôi lại them buồn!
Gẩy súng tan hàng cho máu lệ tuôn,
Biết mình bội phản cũng đành cam chịu,
Quê hương còn đó nước mất từ đây,
Dân tôi cảm tháy tự nhiên xa lạ,
Quay lưng chiến sĩ bỏ rơi chiến hào,
Trở cờ đón giặc mừng ngày ‘Giải phóng”,
Nhẹ lòng chiến sĩ cho máu ngừng rơi,
Bẻ súng cong nòng vất tung áo trận,
Buông súng tan hàng gảy gánh giang sơn,
***
Kẻ chiến bại đọa hồn Oan tử sĩ!
Dật dờ ảo ảnh hồn nước thương đau,
Như cánh chim bằng Tự Do gảy cánh,
Rớt vào ngục tối quỷ đỏ trần gian,
Hẹn nhau gặp lại vùng kinh tế mới,,
Tự Do bay bổng lướt ngàn sóng khơi,
Chim trời bé bỏng không ai chấp cánh,
Uống nước ao tù khát vọng Tự Do,
Dân tôi mất Tự-Do, người vẫn sống!?
Buồn cho đời là”Giải phóng Tự-Do”!!!
***
Chiến sĩ như chim xa cành nhớ cội!
Mất quê hương rồi người vội lãng quên,
Người xưa phố cũ dòng đời ngược lối,
Bán phận mình “Vé số” chẵng ai mua!
Lời ca ai oán thân tàn chiến bại,
Mất cả tình người mất cả thân thương,
Vĩa hè góc phố mưa rơi đếm hạt,
Biết mấy cho vừa hồn nước thương đau,
Thương binh liệt sĩ chớ buồn trách hận,
Cuộc chiến tàn rồi, phận nước là đây!!!
***
Ba lăm năm nhìn lại buồn non nước!
Trai đi nô lệ làm thuê nuớc ngoài,
Gái điếm Miền Nam lấy chồng xứ ngoại,
Trẻ em tình dục động đỉ bán trinh,
Tập đoàn quốc cộng ma cô cạo điếm,
Nhục dân nhục quốc sống bám đàn bà,
Đỉnh cao trí tuệ đáy quần điếm thúi,
Mất nước phải rồi bè lủ Việt gian,
Ai phản quốc làm nhơ danh nước Việt,
Máu phun người”Hán Ngụy”tội tổ tông!!!
***
Dất nước tôi đâu còn chùm khế ngọt!
Tây thi gái Việt bán đứng lâu rồi!
Tơi bờ hoa lá má hồng xơ xác…!
Nhường đất bán đảo cho Tầu bắc phương,
Nhục quốc vong gia tập đoàn Cộng Sản,
Tổ quốc đâu còn khóc cái Gia… Gia!
Thế hệ cháu con mai sau ở đợ,
Ngàn năm nối tiếp xuống biể lên rừng!
Cộng sản Việt Nam đãng gian Hán Ngụy,
Lộng qyuền thái thú trị nước không dân!!!
***
Ngày xưa súng đạn chớ có vô tình!
Không còn thấy mặt việt gian bán nước,
Ngày nay phải kéo thẳng nòng súng gẩy,
Bắn thẳng kẻ thù Độc Lập -Tự-Do!!!
Huỳnh
Mai
{Lời cuối cùng cho Cải Tạo}
Thơ,
TỰ-DO LẦN CUỐI…!
Huỳnh Mai St.8872
Dạ
Lệ Huỳnh
Xin cho tôi Tự-Do một lần cuối!
Một lần cuối cùng để rồi nhớ nhau,
Tự do truyền kiếp ngàn đời cuộc sống,
Cho tôi hình bóng muôn ngàn thương nhau,
***
Bóng hình sông núi hãi hồ chinh chiến,
Niệm khúc Tự Do cho cuối cuộc đời,
Quê hương bừng sáng Tự Do ngày tháng,
Qua đau thương những tháng ngày buồn!!!
***
Tìm mãi Tự-Do lối xưa tắt nắng,
Một chiều hành quân nắng vấn vương đồi,
Tự-Do còn mãi say say mùa chinh chiến
Theo gót quân hành lính trận ngoài biên!!!
***
Buồn nhớ miên- man Tự Do lịm chết!
Giữa bầu trời sắc máu với “Sao Vàng”,
Nước mắt kẽm gai Tự Do hận khóc,
Vách đá nhà tù nào biết Tự Do!!!
***
Hồn xác Tự-Do treo đầu súng gẩy!
Gục ngả chiến hào vùi lấp Tự Do,
Mầm sống Tự Do vút cao khoai sắn,
Sỏi đá u-buồn vẫn biết Tự Do!!!
***
Tự do bay cao Tự Do cất cánh!
Bỏ lại quê nhà vổ cánh ra khơi,
Tự Do gẩy cáng nhà tù cải tạo,
Đồng hoang kinh tế lịm dòng Tự Do!!!
***
Tự-Do lặng nín bờ môi khép kín!
Nuốt lệ trào dâng những tháng năm tù,
Để sầu để nhớ lên ai nuối tiếc,
Niềm tin chất ngất Tự do cuối đời,
***
Xin là cánh chim Tụ Do lần cuối!
Đem lại muôn nơi tin báo hòa bình,
Cho dân tôi bình an non nước,
Cho tôi giấc ngủ đất mẹ an lành!!!
Huỳnh
Mai
{Niệm khúc:TỰ-DO!}
***
-&-&-&-
Thơ,
TỰ-DO TIẾNG NÓI TRÊN ĐẦU MÔI!!!
Huỳnh
Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Nguyện ước ba sinh thề tranh đấu,
Dập dềnh nghĩa địa cũng đấu tranh,
Mồ hoang dân chủ thôi lấp kín,
Tự Do bịt miệng bỡi đầu môi,
Mộ hoa dân chủ;cỏ Tự Do mọc,
Chiêu hồn chiến sĩ Cộng Hòa Việt Nam,
***
Ba mươi ba năm buồn ơi mất nước,
Giả từ vũ khí cải tạo đắng cay,
Tự Do láo khoét “Giải phóng “dân tộc,
Dâ chủ nghẹn nghào lịm chết bờ môi,
ThờI gian khuất nẽo cho hồn tranh đấu,
Tay run gói mõi mắt nhìn
nghĩa trang,
***
Mõi mòn trông đợi chàng trai lính trẻ,
Thét gào vô vọng rướm máu bờ môi,
Tự Do Dân Chủ xưa rồi Binh Lão!?
Xềnh-xoàng quyền Đãng sướng hơn dân quyền!?
Tự Do cái miệng hô hào tranh đấu,
Tét miệng dập môi Cộng sản nhà tù,
***
Kêu gọi hãi ngoại tuyệt tình Cộng Sản,
Ngàn dặm xa xôi một khúc ruột thừa,
Trở về cứu nước hái chum khế ngọt,
Tím rịm bờ môi mỹ nhâ kế lừa!
Quên tổ quốc chỉ nhìn
chùm khế ngọt,
Bầu trời Tự-Do đổ sụp chân mình,
***
Ánh mắt giai nhân dắm chìm hồn nước,
Vở tan mau sở nguyện chí trai hùng,
Lầm mưu kế giặc bác Hồ tộc vợ,
Tự do dân chủ lấp nẽo quê hương,
Run chân quơ gậy ngở ngàn vũ khí
Chống giặc bằng mồm chót lưởi đầu môi!
***
Hòa giải dân tộc kế gian Việt Cộng,
Gian thần Cộng sản bán nước cầu vinh,
Hai4i ngoại gian tế Cộng Hòa Xôi thịt,
Cùng nhau nối ruột ăn chùm khế ngọt,
Quê hương …nếu ai ngậm ngùi tiếc nhớ!
Không còn khế ngọt thấy khế chua lè!!!
Huỳnh Mai
{Tự Do trên đầu môi}
***
-&-&-&-
***
-&-&-&-
Thơ,
Sài
gòn lệ nhớ!
Huỳnh Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Sài Gòn lệ nhớ nước mắt tuôn dòng!
Cờ đỏ lệ nhòa, sắc hóa thành không,
Bao năm chinh chiến trở về tay trắng,
Hoa lệ ngọc ngà ảo vo5ngVie64n Đông!
***
Sài Gòn xây thành 300 năm cũ,
Thành đô xây dựng 3 tháng ngày qua,
Rợ Hồ đắp lũy xe tăng đại pháo,
Nước mắt nào nhỏ giọt tiếng đạn rơi!
***
Em về hiu quạnh vùng kinh tế mới!
Mong mỏi chồng về theo hứa cộng Hồ,
Anh đi biền biệt vào tù cải tạo,
Mẹ già em gái vượt sóng trùng khơi!
***
Bao năm đầy đọa trở về phố cũ!
Mái nhà xưa yêu dấu đổi thay rồi,
Bơ vơ vong quốc quê nhà lưu lạc,
Sài Gòn biến mất sài gòn cướp danh,
Huỳnh Mai
{Thương nhớ Saigon}
***
-&-&-&-
Thơ,
Chợt
nhớ khi quên!
Huỳnh Mai St.8872
Dạ
Lệ Huỳnh
Mỗi lần muốn quên là ta chợt nhớ!
Tiếng rền đạn pháo vút cao ngang đầu,
Chiến hào bốc lửa xây thành xác giặc,
Trường sơn tây bắc đường 9 Nam Lào,
Khói núi bốc cao biển mây lờ lững,
Thắng bại rồi lai láng vạn miền đau,
Biểu tình dân tộc vở tan ghềnh đá,
Mây trời gió núi quặng hồn quê hương
***
Ngồi đây cải tạo nhà tù cộng Sản!
Chiến bại phận người đày ải giang san,
Hỏa lò tù ngục rèn luyện khí phách,
Chợt nhớ quay về quên lãng hận thù,
Tình người xác cộng buồn không biết nói,
Khổ lụy hôm nay vết hận đòn thù,
Cố quên không nhớ chiến trường cải tạo,
Nhớ quên dìu dặt hồn nước thương đau!!!
***
Trả lại cho đời chiến công lính trận!
Cố quên năm tháng chiến trường ngày xưa,
“Túy ngọa sa trường quân mạc vấn,
Cổ lai chinh chiến kỹ
nhân hồi”
Sá gì cải tạo ngày về quên lãng,
Nỗi nhớ dâng tràn ngập cả lãng quên,
Ta đi cải tạo cho đời quên lãng,
Một kiếp trai nhùng chợt nhớ lãng quên!!!
***
Đâu quên quốc hận tháng Tư ngày ấy!
Kỹ niệm quay về chợt nhớ khó quên,
Hồn nước quặng đau màu cờ giặc đỏ,
Nhớ Sài gòn tím tái ánh hoàng hôn,
Hoa đăng nở rộ mừng ngày chiến thắng,
Như lệ long lanh khóc cho hận thù,
Xa rồi Sài gòn ai quên ai nhớ!?
Dĩ vãng Sài gòn chợt nhớ, chợt quên!!!
***
Lao tù cải tạo cố quên khổ nhục!
Vượt sóng trùng dương để nhớ thương đau,
Đầu ghềnh cuối bải quê hương lắp lối,
Trở lại cố hương, phố cũ đời quên,
“H.O”đâu nhớ phận người lính chiến,
Trở lại đồng hoang quên với chính mình,
Thương đau nhục quốc ta đành gánh chịu,
Chợt quên để vui, chợt nhớ để buồn!!!
Huỳnh Mai
{Chợt Quên…khi nhớ}
Thơ,
SÀI GÒN BAO GIỜ TRỞ LẠI…!
Huỳnh
Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Sài gòn ơi thương nhớ tháng ngày lao cải!
Vạn cách lòng có thấu nỗi nhớ mong,
Bao mùa thu qua bao mùa rụng lá,
Lá úa Sài Gòn biết có thay chưa,
Tìm mãi tên em giữa lòng phố thị,
Đèn đường hiu-hắc soi bóng đêm mưa,
Mơ Hồ Chí đến
bình Minh không có,
Lá me vàng rơi rụng bước chân hoang,
Vắng bóng Sài Gòn bao giờ trở lại,
Lao cải trở về thiếu vắng tri âm!!!
***
Nỗi nhớ mênh mông chập chùng ảo khứ,
Mất Sài gòn rồi kiếp sống tha phương,
Bóng xưa lệ thắm ướt dòng trang sử,
Áo trận cài hoa thắm đỏ máu hồng,
Mưa Sài Gòn buồn lên cây súng gẩy,
Lũy chiến hào giăng mắc thép kẽm gai,
Gió thét căm hờn tung bay áo chiến,
Trả lại cho đời giây phúc bình an,
Đón giặc về pháo hoa như trẩy hội,
Dân tình Hồ hởi Chí tận bình Minh,
***
Từ dạo đó Sài Gòn đi biền biệt!
Khỏi lòng người không tiển cũng không đưa,
Đi theo lính trận vào tù cải tạo,
Vươn cách hoa đời cải tạo chung tình,
Màu hoa trinh nữ chân rào thép kẽm,
Thua gì hoa thép phủ kín đầu gai,
Mưa rơi hoa khép, hoa cười nắng nở,
Tháng ngày trôi qua lệ ứa mắt mờ,
Cho tôi cho anh còn gì tất cả,
Ảo ảnh sài Gòn vút tận cao bay!!!
***
Sài Gòn xa xưa hồn nhiên diễm lệ!
Dáng đẹp yêu kiều uốn lượm dòng sông,
Đài trang nét ngọc Viển Đông Một thuở,
Ai nở… hoa lài cắm bải cứt trâu!?
Thành Hồ Chí tận
bình Minh đốt trọn,
Cũng không mĩm cười Bao Tự vu qui!
Chí tận bình Minh thành Hồ ngả bóng,
Chí tận bình Minh thành Hồ ngả bóng,
Trả lại Sài Gòn phố cựu lên đèn,
Sáng rực bừng lên hàng me nghiêng ngà,
Ru lại tình người vạn nỗi chờ mong,
Huỳnh
Mai
{Sài gòn xa vắng}
***
-&-&-&-
Thơ,
HỒN VIỆT
NƯỚC NAM!
Huỳnh
Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Hồn nước lưu đày bao nỗi vấn vương!
Trăn trở đêm dài mộng giấc quê huơng,
Đất nước non sông liền nhau một mối,
Qua đi ngày tháng mõi mòn đau thương,
***
Ru mãi ngàn năm ru hồn non nước,
Xế bóng chiều tà còn mãi chiến tranh,
Bình mimh đâu đến quê hương say ngủ,
Hồn nước thương đau khuất nẽo trong mơ,
***
Mộng hồn dân tộc bao năm vùi dập!
Lòng đau quặng thắt cuộc chiến chưa tàn,
Khói lửa lệ buồn làm cay mắt mẹ,
Tiếng bom rền thổn thức tiếng mẹ ru!!!
***
Núi rừng rực lửa hỏa châu soi sáng,
Ánh mắt lưng trời lệ đổ trong lòng,
Thắp sáng lên núi rừng hồn sông núi,
Một chút lửa lòng vụt tắt đêm đen!!!
***
Trăng sao cải tạo một trời vụn vở!
Từng cánh sao băng vở vụn trong hồn,
Khói thuốc lào bốc cao hồn đất Việt,
Nơi đây còn lại bóng say điếu cày!!!
***
Anh đi cải tạo mang theo hồn nước!
Bỏ lại Sài Gòn thương nhớ mênh mang,
Anh là mãnh vở quê hương hấp hối,
Sài Gòn ơi năm tháng buồn người đi!!!
***
Mẹ già đưa tiển chạng lòng hồn nước!
Bạc mái đầu còn khóc cảnh biệt ly,
Chinh phu chinh phụ sầu buồn xa vắng,
Con thơ bé nhỏ đổ sầu khóc cha!!!
Huỳnh
Mai
{Hồn nước Việt Nam}
***
-&-&-&-
Thơ,
Sài
gòn thương đau hồn nước!
Huỳnh
Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Tháng Tư buồn lệ tiển hồn nước Việt!
Giã từ vũ khí mất mẹ miền nam,
Nữa hồn đất nước thương đau mẹ mất,
Quê hương mẹ phủ kín đỏ màu cờ,
Sài Gòn khóc mẹ sài gòn lịm chết,
Giặc Hồ bức tử Sài gòn tiếm danh!
***
Pháo hoa vĩnh biệt Viễn Đông hòn ngọc!
Xác xơ phố thị vắng hoang thành hồ,
Rũ mình cờ đỏ mưa bay giăng mắc,
Nhà nhà đóng kín cửa sổ khép hờ,
Phố phường thưa thớt người người ra biển,
Lên rừng kinh tế dân vác ngà voi,
Lao tù vùi dập cho người cải tạo,
Một lủ nằm vùng trở mặt làm ngơ,
Cướp tình cướp cũa đạo quân phát xít,
Ngọc vở vàng tan ly tán vợ chồng!!!
***
Thôi vĩnh biệt Sài gòn trong thương nhớ!
Hồn nước tan rồi chớ trách chi nhau,
Từ đây cách biệt em theo chồng mới,
Rợ Hồ lủ giặc biết có thương em!
Diễm lệ yêu kiều Viễn Đông hòn ngọc,
Tiếc thay thằng mán thằng mường nó leo,
Nín đi em chinh chiến đã tàn rồi,
Tay buông súng trận không
tròn ôm em,
Vòng tay mở rộng trọn ôm đất nước,
Sao anh giử nổi Sài gòn anh thương!!!
***
Thương quá Sàigòn chiều mưa nắng tắt!
Hoàng hôn ngả bóng đường chiều lá bay,
Phố thị lên đèn ánh màu rực rở,
Bay bay tà áo thướt tha phố phường,
Giai nhân tao khách dìu nhau trẩy hội,
Tâm tình trăng nước bến sông Sài Gòn,
Sài gòn đẹp quá lòng thêm ngơ ngẩn,
Buông lơi tay súng cho hồn đi hoang,
Trăm năm tơ tóc xin đừng ngang trái!
Cáo Hồ hái trộm vườn nho Saigon,
***
Sài gòn mất rồi bơ-vơ hồn nước!
Bến sông Sài Gòn lẽ bóng trăng soi,
Chợ Sài Gòn không buôn son bán phấn,
Bo-bo khoai-sắn điểm tô Sài Gòn,
Nữa đêm tỉnh giấc hồn đi cải tạo,
Sau lưng hiu hắc đỏ màu thương đau!!!
Huỳnh
Mai
{Hồn Nước
thương đau}
***
-&-&-&-
Thơ,
Người
Về Chân Mây!
Huỳnh
Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Tiển nhau đi…không lấy người đưa tiển!
Giọt buồn nào vương mắt lệ người đi,
Cỏ cây còn biết trách hờn sông núi,
Phận người chiến sĩ đâu hờn núi sông,
Chân mây Sài Gòn lưng tròng nước mắt,
Sửng sờ chết lặng buâng-khuâng tình người,
Chân mây Sài gòn khuất tầm nẽo nhớ,
Vùi sâu kỹ niệm thương đau lưu đày,
Đoàn xe chuyển bánh đêm hôm khuya khoắc,
Đưa tiển người đi về cõi chân mây!!!
Huỳnh
mai
{Một trời cải tạo}
Thơ,
Sài
Gòn Tiển Người Đi…!
Huỳnh
Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Sài Gòn ơi ta quen từ hơi thở!
Nhịp chân nào ta dìu bước em đi,
Đi trong lửa đạn giặc thù nội phãn,
Máu anh rơi từng góc phố MậuThân,
Cho em yên giấc bình minh ló dạng
Sài Gòn rực rở hòn ngọc Viễn Đông,
Chiến sĩ anh đây thôi đành bất lực,
Trói tay bức tử buông súng rả hàng,
Sài Gòn diễm lệ vui cùng duyên mới,
Theo Hồ dâm tặc cưởng bức Saigon!!!
***
Trưa hè Tháng Tư ve
kêu phương đổ!
Máu đỏ con tim đẩm ướt chiến bào,
Sài gòn duyên mới em vui cùng lủ giặc,
Trở gót anh về dĩ vãng ngày qua,
Ôm bao kỹ niệm anh vào cải tạo,
Chí trai hùng hun-đúc vẫn vì em,
Mai kia phục hận anh về quê cũ,
Nối lại tỉnh xưa cho vẹn nước non,
Sai2gon ơi đừng phụ tình chiến sĩ,
Ngoảnh mặt làm nhơ khi tiển đưa người!!!
***
Phố thị Sài gòn vui men chiến thắng!
Ma cô dỉ điếm lên mặt xưa rày,
Nằm vùng tải súng gánh khoai chè đậu,
Xóm giềng chồng vợ một lủ vong tình,
Bo-bo Khoai sắn lu mờ chung thủy,
Lấy vợ của người đãng bác đào hoa,
Nước mất đâu còn gì cho tất cả!
Rợ Hồ cướp sạch phu thê nghĩa tình,
Tôi phải sống thù nhà anh phải trả,
Thù nhà non nước mãi mãi còn ghi!!!
Huỳnh
Mai
{Tiển người đi}
Thơ,
VÙNG TRỜI QUÊN LÃNG!
Huỳnh Mai St.8872
Dạ
Lệ Huỳnh
Hoàng hôn nắng tắt núi đồi hoang vu,
Gió núi xô mây loang-tỏa sương mù,
Vượn hú kêu nhau về nơi tổ ấm,
Mẹ bảo ráng đỏ trời nấu cơm chiều…!
***
Chiến địa máu hòa ráng chiều đỏ thắm,
Đồi cao núi đá chất thêm thành sầu,
“Vinsky”đồi máu một tám không sáu {1.806m}
Đắc-Tô-Ben Hét-Tân Cảnh-Hạ Lào,
Xác cộng thù vương vải đồi hoang vắng,
Chí kêu hùng ngăn bước giặc Trường Sơn,
Máu đào thắm đỏ hoàng hôn tím tái,
Chiếm dỉnh hào hùng 7 chiến sĩ ca,
Hồn thiêng sông núi còn ghi chiến sử,
Tụ-Do sông núi nước Việt Miền nam,
Ảnh tượng anh hùng Cộng Hòa lính chiến,
Vận thời đất nước một thoáng qua mau,
Chưa ghi chiến sử đã vào quên lãng,
Trở thành ảo ãnh vạn nỗi niềm đau!!!
***
Sao vàng bóng đỏ cờ chiều tháng tư,
Sài Gòn hoàng hôn ngạp chiềm sác thắm
Quê hương đất mẹ dỏ chung màu cờ,
Xa rồi phố cụ nỗi niềm da -diết,
Phân kỳ trận tuyến Cải rạo ngục Tù
Nào có xá chi thường tình thắng bại!
Được mất thua cỏn đâ luận anh hùng,
Tù đày đâu nhục nam nhi chi chí!
Củi lòng đâu nhốt sông núi hùm thiêng
Hổ nhớ rừng âm vang trong thét trận,
Tự Do ta đó th61ng khổ Miền nam,
Nhà tù mở rộng chứa dân Nam -Việt,
Cũa người thê thảm biển đông trôi dòng,
Vợ con chiến sĩ sống nơi Kinh Tế Mới!
Mau sớm trả chồng xum hợp gia đình,
Không cửa không nhà bơ vơ kiếp sống,
Rừng lá hoang vu thử chí tang bồng,
Dâu bể tang thương anh hùng chiến trận,
Đánh trận này thiệt mất một đời ta,
Lặng nhìn con đói cơn tay run cơm hẫm,
Nát lòng thấy vợ một lũ ăn mày,
Ôi thương quá vợ yêu thật cao cả,
Hy sinh cho chồng rủ nét xuân Xanh,
***
Trở lại phố phường sài Gòn “Giải Phóng
Tìm lại tình người phố cũ ngày xưa,
Bơ vơ lạc lỏng dòng người phố thị.
Cũng có hoàng hôn rực đỏ màu cờ,
Cứ ngở như mình lưu vong xứ lạ,
Bạn tù xưa cũ yến tiệt tiễn đưa,
Gặp nhau tay bắt quên người Tù cũ,
Thương đau xóa bỏ trong Diện HO,
Bỏ lại buồn thương người tù ở lại,
Phố thị lên đèn chiến thắng mừng vui,
Pkao1 hoa rực rở bầu trời xám xịt,
Như giọt lệ long lanh chiến bại đời,
Đêm buồn thao thức trăng sao chiếu đất,
Ấm lòng góc phố tìm lại tiếng Xưa,
Tiếng rao “Chè đậu” vang trong đêm vắng
Não nuột u-buồn tức tưởi khóc than,
Của bà bán chè nuôi quân “Giải phóng”
Sài gòn chè đậu biến thành chè súng,
Ba mấy năm trời tiếng rao nuối tiếc,
Hồn nước mênh mang sâu lắng Sài Gòn ơi!
Rồi mai trở gót đời kinh tế mới,
Kiếp sống lang thang Do Thái không nhà,
Cuộc đời chinh chiến dành cho tổ quốc,
Nát trận rồi không mãnh đất dung thân,
Gió trở cờ người…người ngoảnh mặt,
Rời phố buồn cờ đỏ phẩy tay đưa!!!
***
Sài Gòn rộng lớn chân đi không mõi,
Ta lại tìm ta địa chỉ không nhà,
Khoảng trống cuộc đời thay ngôi dổi chủ,
Đâu ai thương biết đến ai bao giờ!
Khoai sắn vô tình làm mờ nhân tính,
Biết nói gì đây lịh sử sang trang!
Tình xưa xóm cũ đổi hồn “Giải phóng”,
Quên lãng người đi chiến đấu cho đời,
Bạn bè chiến đấu xa rời thành phố,
Đi Mỹ đi Âu tránh cảnh nát lòng,
Sài Gòn rộng lớn có vì sao lạc,
Lạc tình bạc bẻo hởi cố nhân ơi!,
Thôi ta trả lại cho đời chiến dấu,
Vứt bỏ chiến bào lỗi hẹn non sông,
Chiến sĩ oai hùng chỉ là quá khứ,
Trên dòng dân tộc lịch sử thương đau,
Xin giử lại trong tôi Sài Gòn nỗi nhớ,
Phượng đỏ khuôn viên đại học sân trường,
Khoát áo chnh nhân hoa vàng điệp đổ,
Phượng màu sắc máu chung bóng điệp vàng,
Anh đi trong tiếng ve sầu nức nở,
Ghế đá công viên lở cuộc hẹn hò,
Buồn trong kỹ niệm tình người quên lãng,
Chinh nhân ơi nếu mai anh trở về,
Về trong chiến bại buồn lá me bay!!!
***
Một mai nhắm mắt khi tôi lìa đời!
Cho tôi phủ kín màu cờ sắc áo…
Gói trọn tình người Tự Do kiếp sống!
Dân tộc này không quên lãng vòng tay!!!
Huỳnh Mai
{Cho đời lãng quyên}
***
-&-&-&-
Thơ,
Khi
Tôi chết!
Huỳnh
mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Khi tôi chết xin thương mây khóc gió!
Gió mây nầy chiến hữu của đời tôi,
Chúng tôi đánh trận ào ào gió cuốn,
Để buồn mất nước như đ1m mây che!
***
Gió cuốn mây bay phương trời thương nhớ!
Còn lại gì đây ảo ảnh chiến tranh,
BVa5n bè tôi chết vì cây súng gảy
Bẻ súng cong nồng sống kiếp cộng nô!
***
Anh có chết xin anh đừng có khóc!
Để dành nước mắt khóc cho quê hương,
Em cho anh đó chỉ là lòng thương tiếc,
Tiếc thương đời chìm lắng buồn lãng quên!
***
Sờn vai áo trận nặng hồn chiến sĩ!
Chiến trận giang hồ gió cát mây sa,
Ngàn năm mây bay cho đời mất nước,
Biết đâu là nhà vu7o7nh vấn chân mây!
***
Mắt em buồn như giọt lệ hỏa châu!
Thương anh chiến sĩ quá đổi cơ cầu,
Ngàn tên mũi đạn sao anh không chết,
Chết vì dân mất nước nghĩa tình sâu!
***
Đời tôi chết theo tình người đã chết!
Chết cả lòng tôi cuộc chiến vẫn chưa tàn,
Ai đi chinh chiến yên lòng hậu tuyến,
Dân nước lòng người phản chiến hậu phương1
***
Có ai buông súng hoan hô rước giặc!
Bỏ mặc chiến hào áo trận xác phơi,
Tận cùng non nước một trời đổ vở,
Nai tay này bé nhỏ quá quê hương!!!
***
Tôi khốn nạn để đời thêm nạn khốn!
Dân tình khốn đói sáng, sắn chiều khoai,
Phải chi không vô tình với súng đạn,
Ngày nay non nước chung một màu cờ!
***
Đầu còn có cảnh khóc hồn Thục Đế!
Cám cảnh thương tình khóc cái Gia Gia,
Bao năm qua mộng hồn con Quốc Quốc,
Mõi miệng thương nhà chiến sĩ Quốc Gia!!!
***
Tôi chết để tạ đền ơn đất nước!
Đã tạo nên người chiến sĩ Tự-Do,
Biết con người Tự Do là lẽ sống,
Thiên đường Xã Nghĩa không chổ trong tôi!!!
***
Xin đừng khóc khi đời chưa chợt tỉnh!
Nước mắt này mừng khóc cho quê hương,
Khi tôi nằm xuống muộn màng chiến sĩ,
Cũng cạn tỉnh cạn nghĩa vói nước non!!!
***
Mai đây tôi chết xin đờì đừng nhớ!
Hãy vui như chiến thắng pháo hoa mừng,
Xã hội nào cũng đầy-vơi nước mắt!?
Thiên đường nào cũng có giá Tự-Do!!!
Huỳnh Mai
{Đời là nỗi chết trong tôi}
***
-&-&-&-
Thơ,
LỜI NGƯỜI Ở LẠI!
Huỳnh Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Giả tù vũ khí tôi người ở lại!
Chiến trường xưa chân gót trở lại đây,
Sài gòn chiến lũy vương màu áo rận,
Tay súng kêu hùng vứt bỏ ngổn
ngang,
***
Nước mắt Tháng Tư lệ nhòa phố thị,
Sài Gòn ủ rũ cờ đỏ sao giăng,
Phương trời biền biệt anh đi cải tạo,
Biển khơi sóng cả thuyền nhân dập vùi,
***
Anh về tan tác rả hồn thương nhớ,
Vắng bóng ai đây để đợi với chờ!
Mẹ già em nhỏ lênh đênh biển cả,
Vợ con kinh tế mới đợi chồng về,
***
Trở lại Sài-Thành tiển đưa chiến hữu,
H.O chấp cánh xứ Mỹ Tự-Do!
Bỏ lại mình tôi đơn côi chống “Đỏ”,
Long lanh biển mặn ướt thắm bờ môi!
***
Về lại mái nhà xưa trong khu phố,
Cờ đỏ nhà ai che lín lối vào,
Pháo hoa long lanh bầu trời ngấn lệ,
Về lại hoang sơ tê tái tất lòng,
***
Tự-Do tìm mãi chân ta
đã mỏi!
Lê gót quân hành chiến trận xông pha,
Đêm nay yến tiệc rôn rang pháo nổ,
Say sưa ngây ngất Tư Do chi tìm!?
***
Cơn mê ảo ảnh Tự-Do dân chủ,
Tiệc tàn rượu hứa phản bội Tụ-Do,
Hao Kỳ chia rẻ tình người lính chiến,
Bỏ mặc quê hương ở lại cho người!!!
***
Tự Do kiểu Mỹ tự do địa ngục!
Đồng đẵng thiên đường chủ nghĩa Mác- Lê
Có người ở lại mới biết “Liềm-búa”
Trăng Sao- Giáo Mác- Lưỡi lê-Búa liềm,
***
Tự-Do gào thét Tự-do than khóc,
Dân chủ dân oan khiếu kiện biểu tình,
Đất bằng dậy sóng dâng cao hồn nước,
Dân tộc Dân Quyền nổi dậy dồng bào ơi!!!
Huỳnh
Mai
{Nỗi buồn H.O3}
Thơ,
Lãng Quên!
Huỳnh
Mai St.8872
Dạ lệ
Huỳnh
Tiếng rao lạc long đêm thanh vắng!
Điệu buồn theo khúc nhịp quê huơng,
Tàn chinh chiến kể từ dạo ấy,
Mà sao tiếng oán vẫn cón đây,
Nghe sương lạnh tiếng rao giá buốt,
Lạnh lòng người trải khắp vạn quê,
Trên vai gánh nặng miền Nam Bắc,
Rao gọi lòng người cho lãng quên!!!
Sao Không Thấy!
Tàn cuộc chiến hòa bình không đến!
Đến cho lòng nỗi khổ chiến tranh,
Vết thù vĩ tuyến chưa lành hẵn,
“Giải phóng” mà chi cách biệt lòng,
Hôm nao lửa đạn còn réo gọi,
Tình nghĩa anh em một mái nhà,
Nay cách biệt nửa vòng trái đất,
Nghe lòng quặng thắt những cơn đau,
Ai đem chinh chiến cho đời khổ,
Nước mắt lệ sầu ngập biển khơi,
Quê hương chỉ thấy trong lòng biển,
Tự do cho đời cuối biển xa,
Quê hương đổ trng tù cải tạo,
Hồn thiêng sông núi cũng phai tàn,
Xây thành ảo vọng Tự-Do mât,
Nghẹn ngào thệ nguyện kiếp chinh nhân,
Hoang tàn nắng cháy cánh đồng khổ,
Trầm mình cải tạo kiếp trâu bò
Tự-Do ta thấy đời them não
Tay súng, tay cày vở đất
hoang,
Bao giờ cho đến bao giờ biết khổ!
Cùng nhau xây lại mái nhà Việt Nam!!!
Người Về Từ Cõi Chết!
Từ cõi chết ta về trong thương nhớ!
Bóng chinh nhân sương khói bụi thời gian,
Lãng quên vùi lắp phận người quên lãng,
Chiến cuộc tàn rồi thương nhớ mấy ai!?
Mộ ngục tù chon vùi hồn non nước,
Vở cả quê hương vì mất Tự-Do!
Anh nằm xuống Tự Do theo anh chết,
Quê hương trăn trở réo gọi niềm đau,
Trở về trong nỗi xác xơ quốc hận,
Tay không tấc sắt nhưng cả
tất lòng,
Dựng hồn tranh đấu Tự Do dân tộc!
Cõi về niêm viễn phận người chiến tranh!!!
Vở Vành trăng Khóc!
Gió lên cho đồng hoang cháy nắng!
Thiêu rụi đời một kiếp hông nhan,
Ai bảo em là người yêu của lính,
Trang đài lộng lẩy nét kiêu sa,
Có chồng cải tạo nay cải tạo,
Núi sông lổi hẹn kiếp chinh phu,
Đồng hoang cỏ cháy khu kinh tế,
Cô phụ má hồng nắng xạm da,
Trông chồng đứng mãi khô thân xác,
Hóa kiếp vọng phu đứng đợi chồng,
Mộ thiếp gò cao cánh đồng chết,
Có gió lao xao mãnh trăng thề,
Sao trời lấp lánh cài trên mộ,
Lệ hồn chinh phụ cuộc chiến qua,
Chàng về tan tác hồn non nước,
Vở vàng trăng khóc vở tình riêng…!!!
Huỳnh Mai
{Vùng Trăng
Kinh Tế Mới}
Trần ai Tỉnh Giác!
Âm vang trầm lắng ngập hồn ai!
Vạn duyên buông xã với tháng ngày,
Mỡi câu niện Phật tâm hòa cảnh,
Bừng lên tỉnh giác giữa trần ai!
Biển Mây…!
Mây bay ngang đầu mù sương đỉnh núi!
Vở tan mau ước vọng ngày xưa
Lang thang trôi qua miền
Một thoáng nhì cho dân tộc Tự-Do!!!
Tự-Do Chấp Cánh Bay Cao
Vở
cánh tung bay trong trời khát vọng!
Tự Do ôi …xin tạm biệt từ đây,
Hồn thiêng sông núi xin đừng trách hận,
Cho tôi trọn kiếp sống trai hùng,
Ngẩn cao nhìn trời lòng không thấy thẹn,
Ngó xuống quê hương trong vạn tất lòng,
Gặ gở cố nhân tưởng chừng xa lạ,
Lạ cả quê hương lạ cả thân tình
Đối đèn trong trại bóng ai hiu hắc,
Hỏa châu in bóng suối rừng núi cao,
Quê hương ôi ta nhơ
bên dòng suối,
Reo vang tiêng hát”Tụ-Do”cho đời
***
-&-&-&-
Thơ,
Rừng
Lá Da Cam!
Huỳnh
Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Rừng lá chết tàn phai sắc thắm!
Trơ cành sao lá lại buồn rơi,
Đem thân trải thãm chân anh bước,
Xạc xào vàng thẳm lá Da Cam,
Nhịp bước quân hành anh có chết,
Đâu phải mùa thu lá thay màu,
Bên dòng suối thấy mình chết khát,
Nóng cháy thân cây lá buông cành,
Rơi mình tắm mát bên bờ suối,
Ngập tràn xác lá ngập hồn ai!
***
Buâng khuâng tôi nén từng diêm lửa,
Rực cháy Da Cam ánh lửa hồng,
Hóa hồn xác lá bốc cao khói,
Tỏa mù che khuất áng trăng rừng,
Rắn lủa Da Cam đầu khói bạc,
Đường mòn của Bác tận chân mây,
Ai đem chinh chiến vào Nam tiến,
Cho xác lá màu khóc tiển đưa,
Màu lửa đỏ Da Cam rực cháy
Cháy cả lòng thế hệ Mai sau!!!
Huỳnh
Mai
{Đường mòn Hồ Chí Minh}
Biên giới Hạ Lào
Lới bình cho Da Cam{Dioxin}:
Nhửng ai còn bạo
tàn ,còn nuôi dưởng chiến tranh lấn chiếm Miền Nam, chắc nơi lòng họ chứa đầy
chất độc Da Cam,để làm cho Mỹ rải độc chất xuống quê hương mình.Và cả một thế hệ
dân nước tôi bị bệnh tật dị hình,sống chết dở dang…!
Theo cơ quan quốc tế
điều tra cho biết,nạn nhân chất độc da cam của VN``nay lên đến gầ 3,5 triệu người
bị mắc bệnh do trự tiếp lây nhiễm,cùng với tẻ dị tật quái thai,tâm thần,thiểu
não trí năng di truyền từ cha ông lây nhiễm sang thế hệ con cháu…
Người Mỹ phủi nhận
trách nhiệm và không đền bù do kiện cáo với quốc hội Hoa Kỳ,vì cho đó là phương
tiện,vũ khí tự vệ trong chiến tranh và không có chủ đích giết người nên không
chịu đền bù chiến tranhcho việt nam.Và khi ký bang giao với Hoa kỳ
1995,VNCS đã đồng ý không đòi hỏi bồi
thường diều khoản này.Mỹ chỉ viện trợ cho VNCS với tính cách nhân đạo mà
thôi!!!
Ta hãy cùng vào xem
bài đăng,”Sưu Tầm Chất độc Da Cam” cùng tác giả bài thơ trên.
Đăng bài thảo luận và sưu tầm Chất Độc Da Cam theo tham cứu của Wikipedia-Bách Khoa Toàn Thư trên
Bl
Thứ ba, 18/01/2011 16:43
NỖI ĐAU CÒN ĐÓ!!!Huỳnh-Mai St.8872
Bh.Dạ Lệ Huỳnh
Qua bài TIẾNG VỌNG NGÀY XƯA,vừa đăng trên blog YuMe.Vn 16-1-2011 đã nói lên hoàn cảnh đau khổ của mợt thành phần đa dân tộc của đa sắc tộc Việc Nam vừa kết thúc chiến tranh năn 1975.Cứ tưởng hòa bình đến cho dân tộc,đem lại cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam.
Nhưng trớ trêu thay cho dân tộc ta gặp phải hậu quả chất độc Da Cam do chiến tranh Mỹ để lại làm cho cả một đại bộ phận dân tộc "Kháng chiến chống Mỹ cứu nước" bị phơi nhiễm chất độc Dioxin do quân đội Hoa Kỳ khai hoang để làm lộ diện các mật cứ"Kkháng chiến quân Việt Nam"...Con số người dân bị phơi nhiễm chất độc diệt cỏ khai hoang của Mỹ lên cao con số trên cả 4 triệu người.Người bị phơi nhiễm chất độc Da Cam được Chính Phủ Việt Nam giải quyết chưa xong gánh nạn nầy của chiến tranh sau ngày "Giải Phóng"Miền Nam,thì một đại đa số người dân Miền Nam theo chế độ "Tư hữu" lại bỏ nước ra đi lên đến trên hằng triệu người...! mà người ta không ai giải thích được.Nước Việt Nam đã thống nhất,hòa bình rồi! sao không chịu ở lại chung sông hòa bình!? lại ra đi nhiều như thế??? chắc họ cũng có lý do nội tại của họ.Cung như những con người ở lại phải chịu nhiều bệnh tật khó khăn sẽ không đủ điều kiện chửa trị!? hay nhiều lý do khác nửa mà mọi người không dám lạm bàn đến vì nhạy cảm chính trị!...trước đại dịch độc chất Da Cam đang hoành hành cả nước...
Phơi nhiễm chất độc Da Cam Dioxin là một đại dịch cho cả dân tộc,nó kéo dài lây nhiễm qua lòng đất bị ngấm sâu chất độc từ 80 cho đến 100 năm sau không bị phân hủy hay hết độc hại,..Nó chỉ bị phân hủy dưới nhiệt độ 350-400 độ c thì môi trường trông trọt cây trái mới trở lại bình thường.Riêng về bệnh tật con người mới là khủng khiếp nó làm suy kiệt cả một giống nòi dân tộc suy tàn nếu không sớm tìm cách tẩy rửa độc hại Dioxin...Chính Phủ Hoa Kỳ phải có trách nhiệm với dân tộc Việc Nam trong chiến tranh dù là kẻ gây chiến hay người bị gây chiến,đừng cho răng "Chất Da Cam là một thứ vũ khí đê tự vệ của quân đội Mỹ không có tính giết người...và được Quốc Tế LHQ không cấm đoán và cho phép mỹ sử dụng ở Vn một cách vô tội vạ không trách nhiệm...và cho rằng Hoa Kỳ chỉ rải thuốc khai hoang từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam không ra miền Bắc vì muốn chống lại sự xăm nhập của Bộ Đội Bắt Việt nên họ không bồi thường chiến tranh cho Việt Nam và họ được miểm quyền bị khởi tố theo luật pháp Quốc Tế về Chiến Tranh.Vã lại chưa có nghiên cứu độc hại của Quốc Tế điều tra ...
Phía Hoa Kỳ còn đổ lỗi cho phía Liên Xô trong chiến tranh Việt Nam đã rãi 80.000 tấn hóa chất bột DDT là thuốc diệt trừ muỗi sốt rét cho vùng rừng núi của rặng núi Trường Sơn để diệt trừ bênh sốt rét cho Bộ Đội Miền Bắc xâm nhập Miền Nam Chất bột hóa học DDT độc hại nầy có chứa thành phần Dioxin không kém gì chất độc Da Cam của Mỹ đã bị Quốc Tế LHQ cấm xử dụng tại các nước Đông Âu và Bắc Âu là đồng minh cảu Liêng Bang Sô Viết Cộng Sản.Và sự tiếp trơ thuốc men trị bệnh của Trung Quốc cung cấp cho Bội Đội Miền Bắc có thứ thuốc" Hùng Tâm" kích thích bộ Đội hăng Say chiến Đấu,trong thuốc này có thành dộc chất làm biến dạng và ung thư cơ thể!?Và vì trong danh sách VN kiện Mỹ bồi thường chất độc DaCam có tới mấy triệu người Miềm Bắc và con cháu họ phơi nhiễm Da Cam phía bên kia vĩ tuyến mả ít thấy tên người Miềm Nam bị lây nhiễm nên phía Hoa kỳ lấy lý do không thấy ngưới Miền Nam mắc bệnh là không phải chất độc Da Cam của Mỹ gây nên...Và họ -người Mỹ-phủi tay vô trách nhiệm cho việc gây hại cho dân tộc Việt Nam..
Hoa Kỳ tắc trách và vô cảm,không tình người!...vô lương tâm với dân tộc Việt Nam.Họ chỉ giúp cho Chính Phủ Việt Nam vài triệu đô la để tẩy rửa chất độc hại Da Cam tại Đà Nẳng,Biên Hòa,Phù Cát và còn biết bao nhiêu đia điểm của 1/3 lãnh thổ Miền Nam này bị phơi nhiễm Dioxin và hằng trệu...triệu người chết vì chất độc và làm suy yếu cả một nguồn lực dân tọc thế hệ trẻ con Việt Nam bị quái thai dị tật thì ai gánh vác trách nhiệm mà Người Mỹ chỉ nói là họ chỉ làm"Nhân Đạo...!?"mà thôi!Nghe sao giống người thiếu văn minh!!!...
Cuộc chiến nầy,rồi ra...ai thắng,ai thua...!?Mỹ cho rằng Mỹ thắng lợi kinh tế với Trung Quốc...còn Việt Nam cho rằng thắng được đế quốc Mỹ...Thì lấy ai để mà thua đây!?-Vì trong ciến tranh phải có kẻ thắng người thua.?.Vậy có phải cả dân tộc việt Nam nầy là kẽ chiến bại!!!vi họ mang trong người độc chất Da Cam nên buồn tình bỏ nước ra đi...???
Những bài sưu khảo sau đây về chất độc Da Cam để thấy rỏ sự chiến bại của mình vì chất độc Da Cam,mà mình phải tự thắng lấy mình không nhờ vã một ai "Nước ngoài" giúp chúng ta dộc lập,chủ quyền và dân chủ hòa bình dân tộc Việt Nam.
Chất độc da cam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiếc máy bay số hiệu UH-1D từ Đại đội không quân 336 đang rải
chất diệt cỏ trong vùng rừng của châu thổ sông Mê Kông,
26/07/1969
Hormone thực vật, một phần của Chất độc da cam
Chất độc da cam (viết tắt: CĐDC, tiếng
Anh: Agent Orange - Tác nhân da cam) là tên gọi của một loại
chất thuốc diệt cỏ và làm rụng lá cây được quân đội Hoa Kỳ sử dụng tại Việt Nam
trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chất này đã được dùng
trong những năm từ 1961
đến 1971 và nhiều
người cho rằng đã làm tổn thương sức khỏe của những người dân thường cũng như
binh lính Việt Nam, lính Mỹ cũng như lính Úc, Hàn
Quốc, Canada,
New
Zealand có mặt như quân đồng minh của Mỹ mà có tiếp xúc với chất này, cũng
như con cháu họ.Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, mục đích quân sự chính thức của CĐDC là làm rụng lá cây rừng để quân đội du kích Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam không còn nơi trốn tránh. CĐDC là một chất lỏng trong; tên của nó được lấy từ màu của những sọc được vẽ trên các thùng phuy dùng để vận chuyển nó. Quân đội Hoa Kỳ còn có một số mã danh khác để chỉ đến các chất được dùng trong thời kỳ này: "chất xanh" (Agent Blue, cacodylic acid), "chất trắng" (Agent White, hỗn hợp 4:1 của 2,4-D và picloram), "chất tím" (Agent Purple) và "chất hồng" (Agent Pink).
Đến năm 1971, CĐDC không còn được dùng để làm rụng lá nữa; 2,4-D vẫn còn được sử dụng để làm diệt cỏ. 2,4,5-T đã bị cấm dùng tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác.
Mục lục
[ẩn]
|
[sửa]Ảnh hưởng đến con người
Xem thêm: Dioxin
Người ta đã tìm thấy CĐDC có chứa chất độc dioxin, nguyên nhân
của nhiều bệnh như ung thư, dị dạng và nhiều rối loạn chức năng ở cả người Việt
lẫn các cựu quân nhân Hoa Kỳ.
2,3,7,8-TCDD, một loại dioxin gây ô nhiễm
Tuy nhiên, Giáo sư Alvin L. Young - chuyên gia dioxin nói rằng "Không
có tác hại sinh thái nào được ghi nhận ở động thực vật mặc dù một lượng lớn chất
diệt cỏ và dioxin đã được sử dụng", và rằng "thông tin này chưa được
xem xét trong các lần đánh giá trước của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ và Viện
Y học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ". Tuy nhiên, giáo sư lưu
ý rằng "các chất diệt cỏ đổ thẳng xuống đất và ngấm sâu trước khi thoái biến
thì sẽ có tồn dư và vì vậy là một mối lo ngại."[1].
Còn theo Cựu Đại sứ Mỹ tại VN ông Michael Marine vẫn cho rằng mối liên hệ giữa
sự phơi nhiễm dioxin và sức khoẻ con người vẫn chưa được chứng minh. Tuy nhiên
ông đã công bố khoản tài trợ trị giá 400 nghìn USD để nghiên cứu ô nhiễm dioxin
và tẩy độc tại sân bay Đà Nẵng[2].[sửa]Các vụ kiện của nạn nhân chất độc da cam
[sửa]Vụ kiện của cựu binh Mỹ tham gia Chiến tranh Việt Nam
Năm 1984, từ phiên tòa của quan tòa Jack Weinstein, 7 công ty hóa chất Mỹ đã bồi thường 180 triệu đô la cho các cựu chiến binh Mỹ nhưng bác bỏ trách nhiệm về tác hại của chất diệt cỏ mà họ đã cung cấp cho quân đội[3].[sửa]Vụ kiện cựu binh Úc
[sửa]Vụ kiện cựu binh Canada
[sửa]Vụ kiện cựu binh Hàn Quốc
Ngày 25 tháng 1 năm 2006, Toà án dân sự cấp cao Seoul đã ra phán quyết buộc hai công ty hoá chất Dow Chemical tại Midland, Michigan và Monsanto tại St. Louis, Missouri phải bồi thường 62 triệu USD phí chăm sóc sức khoẻ cho 6.800 người gồm các cựu binh Hàn Quốc từng tham chiến tại Việt Nam và gia đình của họ. Đây là lần đầu tiên một toà án ở Hàn Quốc ra phán quyết có lợi cho nạn nhân chất độc hoá học da cam[4][5].[sửa]Vụ kiện của các nạn nhân Việt Nam
Hình ảnh một số trẻ em VN bị hậu quả chất độc màu da cam
Ngày 31 tháng 1 năm 2004, nhóm bảo vệ quyền
lợi nạn nhân CĐDC, Hội Nạn nhân Chất độc da cam/dioxin Việt Nam (The Vietnam
Association of Victims of Agent Orange/Dioxin - VAVA) đã kiện hơn 30 công
ty Mỹ phải bồi thường do trách nhiệm gây ra thương tích vì đã sản xuất chất hóa
học này. Dow Chemical và Monsanto là hai công ty sản xuất CĐDC lớn nhất cho
quân đội Hoa Kỳ đã bị nêu tên trong vụ kiện cùng các công ty khác. Trước đây
nhiều cựu quân nhân Hoa Kỳ đã thắng một vụ kiện tương tự.Các nạn nhân tham gia kiện gồm có:
- Phan Thị Phi Phi
- Nguyễn Văn Quý
- Dương Quỳnh Hoa (đã mất tháng 2 năm 2006)
Chính phủ Hoa Kỳ, vốn có quyền miễn tố (sovereign immunity), không phải là một bị cáo trong đơn kiện. Tuy nhiên, vào năm 1984 cũng từ phiên tòa của vị quan tòa này, chính các công ty trên đã chi khoảng 180 triệu USD cho các gia đình người Mỹ là cựu chiến binh Việt Nam mặc dù không thừa nhận có hành động sai trái.
Hai mươi mục trong phán quyết của thẩm phán Jack Weinstein ngày 10 tháng 3 về vụ kiện của các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đối với các công ty hoá chất đã được phân tích của Mandrew Wells-Dang, đại diện Quỹ Hoà giải và Phát triển tiếng Anh (tiếng Việt phần 1, và tập 2).
Ngày 7 tháng 4 năm 2005 các nguyên đơn Việt Nam đã tiếp tục gửi đơn kháng cáo lên Tòa Phúc thẩm của Mỹ đòi lật lại quyết định của tòa sơ thẩm.
Tòa Phúc thẩm Khu vực 2 tại Manhattan bắt đầu xem xét lại vụ kiện vào tháng 6 năm 2006, ra phán quyết vào tháng 2 năm 2007 đồng ý với phán quyết của Tòa sơ thẩm.
[sửa]Chú thích
Hậu quả chất độc da cam tại Việt Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trong 10 năm, từ 1961 đến 1971, của Chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ đã rải hơn
18,2 triệu gallon
chất độc da cam với thành phần chứa dioxin xuống hơn
10% diện tích đất ở miền Nam Việt Nam, làm nhiễm độc và tàn phá hàng
triệu hécta rừng và đất nông nghiệp. Nhiều người cho rằng ngoài tác hại cho môi
trường, hóa chất này còn gây hậu quả trầm trọng cho tính mạng, sức khỏe của nhiều
người Việt, thậm chí tới các thế hệ sinh ra sau chiến tranh.Hiện nay, ước tính có khoảng 4,8 triệu người Việt Nam bị nhiễm chất độc da cam/dioxin, sống tập trung tại các tỉnh dọc đường Trường Sơn và biên giới với Campuchia. Hàng trăm nghìn người trong số đó đã qua đời. Hàng triệu người và cả con cháu của họ đang phải sống trong bệnh tật, nghèo khó do di chứng của chất độc da cam[1].
Viện sĩ Viện Hàn lâm Y học Nga Xofronov Ghenrik Alexandrovich và Giáo sư Rumax Vladimia Xtepanovich, đồng Tổng Giám đốc Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga đã khẳng định rằng hậu quả về mặt y sinh học của chất độc da cam đối với con người và môi trường sinh thái là rất nghiêm trọng, vì điôxin là chất độc nhất mà loài người đã tổng hợp được. Qua kết quả nghiên cứu trong 18 năm của Trung tâm nhiệt đới Việt-Nga, các nhà khoa học kết luận rằng chất độc da cam đã gây ra hậu quả y học và sinh học lâu dài đối với sức khoẻ con người, không những đối với các cựu chiến binh Việt Nam đã từng tham gia chiến tranh, mà còn cả thế hệ thứ 2, thứ 3 là con em của những người đã bị phơi nhiễm. Thậm chí, cả những trẻ em sống trong vùng bị nhiễm chất độc hoá học cũng có biểu hiện bệnh lý. Chất da cam/điôxin đã có ảnh hưởng về di truyền sinh thái, đặc biệt gây ra tình trạng sảy thai, lưu thai hoặc có con bị dị tật bẩm sinh ở phụ nữ bị nhiễm đioxin. Cũng theo hai nhà khoa học Nga này, tác động lâu dài của chất độc da cam/điôxin không chỉ có 20 năm, mà có thể lên tới trên 100 năm. Số người bị ảnh hưởng của chất độc này cũng không chỉ dừng ở 4,8 triệu người mà có thể là hàng chục triệu người[2].
Theo Beatrice Eisman và Vivian Raineri[3], trong thập niên 1980, chỉ riêng tại bệnh viện Từ Dũ ở Thành phố Hồ Chí Minh trung bình mỗi ngày có một trẻ sơ sinh ra đời với dị tật bẩm sinh. Trong thập niên 1990, tỷ lệ này giảm xuống còn một ngày rưỡi có một trẻ. Cũng theo nguồn trên, một báo cáo của tạp chí American Journal of Public Health nói rằng mức độ đioxin trong sữa mẹ tại miền Nam Việt Nam cao gấp 50 lần ở miền Bắc, nơi không bị rải chất độc trong chiến tranh.
Bài này hoặc đoạn này đang được viết.
Bạn có thể viết thêm cho bài này được hoàn thiện hơn. Xem phần trợ giúp để biết thêm về cách sửa đổi bài. |
[sửa]Tham khảo
- ^ Bộ ngoại giao Việt Nam - Ủng hộ nạn nhân chất độc da cam/Đi-ô-xin
- ^ Thông tấn xã Việt Nam Chất độc da cam gây hậu quả lâu dài đối với Việt Nam
- ^ Beatrice Eisman, Vivian Raineri, Dioxin damage Scientists urge study of the effects of Agent Orange _ USVFA 4oct01, New Internationalist, tháng 5 năm 1996. Hoặc [1]
Công cụ cá nhân
Không gian tên
Biến thể
Xem
Tác vụ
Tìm kiếm
Xem nhanh
In/xuất ra
Gõ tiếng Việt (?)
Công cụ
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 06:07, ngày 20 tháng 9 năm 2010.
- Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công/Chia sẻ tương tự;
có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Xem Điều khoản Sử dụng để biết thêm chi
tiết.
Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận.
{Sưu tầm từ Wikimedia}
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét