Mỹ Cộng (19): Hà Nội: Hayden, Aptheker, Lynd
VRNs (01.01.2014) – Sài Gòn - Chương 12: HÀ NỘI: Hayden, Aptheker, Lynd - 19 tháng chạp năm 1965 – 2 tháng 2 năm 1966
Một Chuyến Hành Hương Cấp Tiến: Nể Phục Nhân Dân và Nông Dân tại Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (PRS) và Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam (DVR)
Và theo đó, gần trước Giáng sinh, Tom
Hayden cùng hai đồng hành – Staughton Lynd và Herbert Aptheker – đã tận
hưởng mùa Giáng sinh năm 1965 bằng một kỳ nghỉ ba tuần đáng nhờ từ 19
tháng 12 năm 1965 đến 10 tháng 1 năm 1966 với tư cách là khách mời của
chính phủBắc Việt và là các du khách của nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Quốc. Hayden đã rời thành phố New York vào ngày 19 tháng 12 năm 1965 để
bay qua London và (sau khi hủy bỏ một chuyến bay đến Brussels) đáp tại
Prague.
Tại điểm dừng chân Prague, Hayden đã đến
thăm đài tưởng niệm cộng sản ở Lidice, nơi đồng hóa việc Đức quốc xã
tàn sát thường dân vô tội Tiệp với việc Mỹ ném bom Hiroshima và
Nagasaki. 1277 Hayden đã theo bước chân của tên Việt
Cộng “Lê-nin” Nguyễn Văn Hiếu, kẻ từng dừng lại đền Lidice lúc bắt đầu
gia nhập khối xã hội chủ nghĩa quốc tế.
Băc Kinh
Từ Prague, Hayden đã bay tới Moscow để ở
lại bốn ngày (21 tới 25 tháng chạp) và từ đó bay đến Bắc Kinh để tham
dự ba ngày thật đáng ghi nhớ (25 tới 27 tháng chạp). 1278
Trung Cộng: Tàn sát và Quân Viện
Tom Hayden và Staughton Lynd viết:
“Phong Trào Cộng sản Quốc tế bùng nổ
trong tin tưởng … Khắp mọi nơi tiếp diễn những sinh hoạt đầy ý nghĩa …
Chúng tôi đã chứng kiến hàng ngàn người cùng đào con kênh trong khi nhạc
phát ra vang dội từ các loa xung quanh.” 1279
Chuyến thăm của họ xẩy ra vài năm sau
Bước Đại Nhảy vọt của Trung Quốc, một “bước nhảy vọt” mà đã kết thúc với
cái chết của 36 triệu người vì bị xử tử, vì bệnh tật và vì đói kém. 1280 Từ mười tới hai mươi triệu người rối cũng sẽ bỏ mạng trong cuộc Cách mạng Văn hóa của Trung Cộng mà lúc đó sẽ sắp bắt đầu.
Trong khi các phương tiện truyền thông
báo chí Hoa Kỳ gần như bỏ qua vì mãi thích miêu tả cuộc chiến tranh như
là một cuộc đấu tranh giải phóng của dân bản xứ, Trung Cộng đã gửi bảy
sư đoàn xuống Bắc Việt vào năm 1965. 1281 Độ 317.000
quân Trung Quốc sẽ phục vụ tại Việt Nam – mà trong số đó đã có 150.000
như quân phòng không để sẽ ở lại cho đến cuôi năm 1973. 1282 Một số 1.446 binh sĩ Trung Quốc đã thiệt mạng tại Việt Nam và 16 trong tong số 6000 quân Liên Xô cũng sẽ bỏ mạng tại chổ. 1283
Việc Hayden và Lynd cầu mong cho có một
quốc gia Cộng sản nô lệ để là một kẻ thù truyền kiếp với Hoa Kỳ đã gợi
nhớ lại các giai thoại về nô lệ da đen hát vang trong khi hái bông gòn.
Có lẽ chính Lynd và Hayden mới là những ca sĩ chính thống. “Chúng tôi
chỉ ra lệnh hát các bài hát chúng tôi cần cho bất kỳ ai biết hát ” tên
chuyên viên tuyên truyền Liên Xô V. Pereverzev đã tuyên bố vào năm
1929.1284
Lynd và Hayden biết rỏ âm điệu và các
lời ca. “(Vào buổi ăn tối), chúng tôi đưọc hộ tống vô một căn phòng
riêng biệt … nhưng … các nhà hàng đều phục vụ cho mọi người, thực phẩm
thì như nhau cho mọi người và giá cả lại thấp.” 1285Christopher Lasch đã điểm là Other Side của
Hayden và Lynd giống như ” những ý kiến của bọn Mỹ cấp tiến trước đó
trong các thập niên hai và ba mươi mà đã từng có thiện cảm đi thăm Liên
Xô về viết.” – 1286 một chiều và gian dối trong nội dung.
Sau Moscow và Bắc Kinh thì Hayden,
Aptheker và Lynd đến Hà Nội vào ngày 28 tháng chạp năm 1965 để ở lại
trong vòng mười ngày. Trong cuốn hồi ký đã được kiểm duyệt hoàn toàn của
y là Reunion, Hayden sau đó đã viết là y đã “phỏng vấn các
nông dân” tại Hà Nội vào tháng chạp năm 1965. Cho dù nông dân đã nói gì
thì Hayden cũng tuyên bố, “Cách tốt nhất để hỗ trợ binh sĩ Mỹ là phải
ngưng việc giết hại.” 1287
Hồ sơ lịch sử thì khác xa những lời tuyên bố sau đó của Hayden về tình đoàn kết của y với quân nhân Mỹ và nông dân Việt Nam.
Lời Mời Hayden từ Hà Nội
Nhiều câu hỏi đã được đặt ra: Chuyến đi bắt nguồn từ đâu ? Ai đã trang trải sở phí? Và các bạn đồng hành của y là ai?
Cách thức mà Hayden đã được chọn để đi
đáng được tranh cãi. Bây giờ thì Hayden nói là Staughton Lynd đã yêu cầu
y đi Hà Nội chỉ sau khi lãnh tụ Herbert Aptheker của CPUSA đã yêu cầu
Lynd đề nghị một bạn đồng hành không Cộng sản. Do đó Hayden chủ trương
là tên không Cộng sản Lynd đã chọn y cho chuyến đi chứ không phải là tay
thành viên CPUSA Aptheker. “Herbert Aptheker … đã tham dự một hội nghị ở
Helsinki trong mùa hè năm 1965 hoặc đầu mùa thu … Bắc Việt đã hỏi
Aptheker có muốn đến thăm … [Aptheker] đã liên lạc với giáo sư Staughton
Lynd … [người] đã hỏi là mình có thể chọn một người thứ ba không và
ông đã chọn tôi. “
Bây giờ thì Hayden lại nói là Hà-nội đã muốn tiếp xúc với “phong trào hòa bình.” 1288
Tuy nhiên lúc được mời đi Hà Nội thì Tom
Hayden vẫn chưa phải là một nhà lãnh đạo được công nhận của phong trào
hòa bình. Ban đầu y đã phản đối cuộc biểu tình chống chiến tranh ngày 17
tháng 4 năm 1965 của SDS mà đã rất thành công và chống lại việc dùng đề
tài Việt Nam như là phương tiện để tổ chức tả phái.
Rõ ràng là có nhiều lãnh đạo khác của
SDS mà có uy tín hơn Tom Hayden. Tại cuộc biểu tình chống chiến tranh
trong tháng 4, bài phát biểu “Hãy kêu tên kẻ thù - Name the Enemy” của
Paul Potter đã là thời điểm đầy kịch tính. Nanci Gitlin đã gặp bọn Việt
Nam vào tháng 7 tại Djakarta, Indonesia. Hayden không còn là chủ tịch
của SDS mà chính là Carl Oglesby. Hayden đã chống lại nỗ lực của Oglesby
nhằm để Việt Nam là vấn đề quyết định cho SDS. Oglesby đã đi Nam Việt
vào tháng 8, nhưng đã chủ trương là đi Bắc Việt của Cộng sản sẽ khiến
cho phong trào chống chiến tranh mang tiếng là cộng sản. 1289 Chính Oglesby,
chớ không Hayden, đã đọc bài diển văn kết luận đầy kịch tính tại cuộc
biểu tình hòa bình SANE ở Washington trong tháng 11.
Do đó, Hayden đã không có thể được lựa
chọn vào năm 1965 trong vai trò lãnh đạo của SDS hay của phong trào hòa
bình. Lý do thực sự mà Hà Nội đã chọn Hayden là vì cộng sản nghĩ rằng
Hayden đáng tin cậy về phương diện chính trị , nashi, phe ta.
Ngay từ năm 1965, Bắc Việt đã cho thấy
họ sẵn sàng tiếp xúc với những người Mỹ như những người trong WSP, Câu
lạc bộ DuBois, hay CPUSA. Aptheker, một tên lãnh đạo Cộng sản hàng đầu
của Mỹ, đã gặp Bắc Việt tại Đại hội Hòa bình Thế giới Helsinki vào tháng
7 do Liên Xô kiểm soát. 1290 Bắc Việt cũng đã gặp các thành viên Mỹ của Women’s Strike for Peace vào tháng 5 tại Hà Nội và trong tháng 7 tại Jakarta. 1291 WSP
đã nghiêm túc báo cáo các hành vi “thô bạo” của Mỹ.” Kiểu mô tả về chi
tiết và các số liệu thống kê của chúng chỉ có thể là do tin tình báo
chiến trường của Bắc Việt cung cấp. Bắc Việt thích WSP nhưng không tin
tưởng lắm SDS.
SDS đã đang tích cực thăm dò làm sao đi
một chuyến đến Việt Nam. Vào cuối tháng 4 năm 1965, sau cuộc biểu tình
thành công vào ngày 17, Paul Booth đã viết một số giấy tờ “chuẩn bị” về
một chương trình rất có khả năng sẽ diển ra vào mùa hè tại Việt Nam.
2. Sứ Mệnh đi Việt Nam – Liên minh
Sinh viên Hành động Hòa bình (Canada) đang đề xuất một sứ mệnh cuối hè
tại Việt Nam để sẽ liên lạc với các lực lượng khác nhau ở đó, và sẽ là
bàn đạp cho một chuyến đi toàn quốc để thuyết trình. Sẽ có người tham
gia từ nhiều quốc gia …
7. Vấn đề … (về dự thảo chồng quân dịch) … là phải có quyết định quan-trọng nhất có thề có được ngõ hầu khiến người dân sự sẽ không đi theo Việt Cộng - màtrở thành như vậy là kẻ phạm tội hình chiếu theo Luật gián điệp năm 1919. 1292
Booth đã quan tâm đến việc phải đối phó
với “các lực lượng khác nhau,” nhưng chưa quyết ý “đi theo Việt Cộng.”
Cũng vậy, Todd Gitlin mà người vợ là Nanci Gitlin đã gặp Bắc Việt chung
với WSP tại Indonesia vào tháng 7, đã đích thân đề xuất một chuyến đi
đến miền Bắc Việt SDS tài trợ :
“Đề nghị được đưa ra là
gửi một phái đoàn … đi Bắc Việt để giúp xây dựng lại một bệnh viện hay
trường học bị phá hủy bởi bom đạn của Mỹ và để đóng vai trò làm con
tin Mỹ hầu ngăn ngừa các vụ đánh bom thêm nữa trong các vùng lân cận.”
Todd Gitlin đã nghỉ là một dự án phi
chính trị như vậy sẽ giúp gây quỹ. Vé máy bay khứ hồi từ San Francisco
là 1.200 $. Gitlin nêu ra câu hỏi chính. “Liệu Chính phủ Hà Nội có cho
phép chuyến đi không? – Phái đoàn sẽ rât có giá trị đối với phong trào
phản chiến ở Mỹ.” 1293
Vào tháng 7 năm 1965, Carl Oglesby, tên
chủ tịch SDS mới được bầu để thay thế Todd Gitlin, đã đi Nam Việt chứ
không phải là Bắc Việt. Trong khi Oglesby luôn luôn chỉ trích chính sách
của Mỹ và ca ngợi Việt Cộng nhưng y không phải là tay tuyên truyền
đáng tin cậy cho Bắc Việt. Nhiều năm sau thì Oglesby đã tuyên bố một
cách yếu đuối là “Chủ nghĩa Stalin quả là “đúng thời trang”. 1294
Trong tháng 8 năm 1965, trong một phần
nhỏ nhưng đầy ý nghĩa của một báo cáo, Oglesby đã viết: ” Mọi người ở
Sài Gòn đều biết mặt trận là cộng sản và đều chống lại mặt trận … Bạn có
thể không chịu đựng được bọn Cộng sản bởi vì chúng đàn áp (hay thủ tiêu
hoặc đày ải lưu vong bạn). “ 1295
Nều nghe theo Hayden
và Oglesby thì chúng ta cần lưu ý là Bắc Việt đã không chấp nhận bất cứ
học sinh hay kẻ làm việc nhân đạo hoặc người hoạt động cho hoà bình
nào mà muốn đi Hà Nội. Oglesby đã nói với tác giả vào năm 1989 rằng mọi
người đều biết là y không quan tâm đến việc đi Hà Nội vào năm 1965.
Do đó, Tom Hayden đã tuyên bố là việc
Bắc Việt chọn lựa riêng y ta là vô căn cứ. Theo một cuộc phỏng vấn của
Jack Newfield với đích thân Hayden trong tờ Village Voice, cả hai Carl Oglesby và một đại diện SNCC (không xác định được) (mà đúng ra là Robert Moses 1296 )
đã cùng từ chối lời đề nghị của Aptheker để đi Bắc Việt. Tương tự như
vậy, các tay phản chiến kiêm sử gia Zaroulis và Sullivan đã viết rằng
Aptheker “đã mời Lynd và một người thứ ba, một nhà lãnh đạo của nhóm Tân
Tả mà đã rút lui vào phút cuối vì sợ làm mất mặt tổ chức của mình.” 1297
Vì vậy, theo lời Jack Newfield là bạn
của Hayden, chỉ sau khi cả tay lãnh tụ SDS, có thể Oglesby, và một tay
lãnh đạo SNCC, Robert Moses đã cùng từ chối thì Aptheker đã mới ngỏ ý
hỏi cả Lynd và Hayden. 1298 Một vài tháng sau đó, Aptheker đã viết, “chúng tôi cùng hỏi ông Tom Hayden … là có muốn theo chúng tôi không.” 1299
Theo các tường trình có thiện cảm của
lúc đó từ cả hai Newfield và Aptheker, tên Cộng sản Aptheker đã hỏi
Hayden trực tiếp mà không cần qua trung gian. Rõ ràng bây giờ khi Hayden
tuyên bố là chỉ có tên Lynd không Cộng sản yêu cầu y thì quả là không
ổn chút nào.
Cuối cùng, trong hai vấn đề đương thời của tờ New York Times (ngày
1 và 11 tháng giêng năm 1966), tay Cộng sản Aptheker đã được báo cáo
một lần nữa là đã đồng thời yêu cầu cả hai Hayden và Lynd để cùng đi
theo y. Thật vậy, Herbert Aptheker đã biết rỏ Hayden từ “những ngày sôi
nổi đó” khi y đã đến thăm căn phòng trong chung cư của Hayden tại Ann
Arbor 1300 – không trể hơn là tháng 5 năm 1964.
Aptheker cũng có thể đã biết các thành tích của Hayden nhờ thông qua các
hoạt động của con gái là Bettina trong Phong trào Tự do Ngôn luận (Free
Speech Movement) dưới ảnh hưởng của Club DuBois tại Berkeley vào mùa
thu và mùa đông năm 1964.
Herbert Aptheker rất có khả năng đã
từng gặp Hayden nhân nhiều cuộc họp khác mà do đó y biết rằng Hayden
không chống Liên Xô mà cũng không chỉ đơn thuần ủng hộ Việt Cộng. Các
lập trường của Hayden trong việc kịch liệt chống lại các kẻ chống Cộng
chắc chắn cũng đã được biết đến kể từ các cuộc tranh luận trong tháng 6
năm 1962 khi SDS được sáng lập tại Port Huron.
Nếu Aptheker và Bắc Việt mà đã muốn tìm
kiếm một phát ngôn viên đáng tin cậy thì quả Tom rất xứng đáng. Cho dù
do quá trình loại bỏ hay kiểu đánh giá về tích cực, trong việc này thì
Bắc Việt đã chấp nhận các thiện ý của Aptheker về những thành quả của
Hayden.
Hayden và Lynd đã có thái độ rất quỵ
lụy. Gitlen nói, “… trong số thư từ của Paul Potter, tôi tìm thấy điều
ghi chú này: “Staughton và Tom đã … rất là tương đồng … họ có thể chỉ
trích Bắc Việt cho tới một mức nào đó .. .[Chúng] sợ rằng Bắc Việt … sẽ
hiểu sai bất kỳ lời chỉ trích nào… mà sẽ làm giảm một cách trầm trọng
các khả năng liên lạc tương tự trong tương lai . “ 1301
Thật vậy, Hayden và Lynd đã hoàn toàn tôn vinh bọn mời chúng đến.
Trong tờ The Other Side, chúng
đã viết, “Chúng tôi đoán là các cuộc họp hành kiểu Mỹ thời thuộc địa và
các cuộc họp hành thôn làng Việt Nam hiện nay, hay các liên đoàn nông
dân Á châu cùng các nghiệp đoàn lãnh canh Black Belt đều có nhiều điểm
chung, đặc biệt là khái niệm về một nền ‘cơ sở’ hay ‘từ gốc rễ’. Chúng
đã nhận ra được ” các khả năng cho một chủ nghĩa xã hội thực sự. “ 1302
Tài Trợ
Việc tài trợ chuyến đi Hayden vào năm 1965 có vẻ khá mơ hồ và bất hợp pháp.1303 Trong tờ Reunion, Hayden viết rằng “nhiều ủng hộ viên tự do của NCUP” – (Dự án Newark Cộng đồng Đoàn Kết – Newark Community Union Project) 1304 đã
cung ứng 1.000 USD để tài trợ cho chuyến đi ba tuần tới Bắc Kinh và Hà
Nội. Hayden đã rất cẩn thận không đề cập đến bất kỳ tài trợ nào từ Hà
Nội trong hồi ký của mình. Tương tự như vậy, các tường thuật của tờ New York Times vào năm 1965-1966 đã nói là chuyến đi đã được “tư nhân tài trợ” và “bảo trợ” bởi một ấn phẩm có tên gọi là Báo cáo Việt Nam (Viet Report) . 1305 “Tiền
trang trải cho chuyến đi của chúng tôi là của riêng của chúng tôi hay
do từ các quà tặng hoặc cho vay của bạn bè cá nhân,” Lynd và Hayden
tuyên bố trước khi họ ra đi. 1306
Tờ Báo cáo Việt Nam (Viet Report) khó có thể là nguồn
tài trợ cho chuyến đi chơi kéo dài trong ba tuần của cả ba người. Loan
báo trong tháng 5 năm 1965 và xuất bản lần đầu trong tháng 7 năm 1965, Báo cáo Việt Nam đã là một “bản tin khẩn cấp … thời chiến.” Kể từ khi Báo cáo Việt Nam được in ra rất đẹp nhưng giá lại rẻ,1307 thì
tờ này đã được giúp tiền bởi nhiều tình nguyện viên, nhà in và / đóng
góp, và chắc chắn là thiếu khã năng để tài trợ cho một chuyến đi như
vậy. Tuy nhiên khi tự cho mang bộ mặt khoa bảng (với nội dung thân Việt
Cộng) và nhắm vào các buổi dạy tại chổ của đại học (college
teach-ins) 1308 và khi có được Staughton Lynd trong Hội đồng Tư vấn , 1309 Báo cáo Việt Nam đã
rất nhanh đứng ra đại diện cho một nhà tài trợ bề ngoài có vẻ đáng kính
để phát hành một bản báo cáo cuối cùng về chuyền đi của bộ ba đi Hà
Nội, Prague, Moscow và Bắc Kinh. 1310 Không thể có việc tài trợ này. 1311 Báo cáo Việt Nam ngày nay chỉ còn tồn tại trên một vài danh sách về sử của “các ấn phẩm chui.” 1312
Ba năm sau đó, Hayden đã thừa nhận rằng
Bắc Việt đã trả tiền cho hầu hết các chuyến đi du lịch, bao gồm chỗ ở và
thức ăn từ Tiệp Khắc cho tới mãi Moscow, Bắc Kinh và Hà Nội. 1313 Một
chuyến du ngoạn quả khá đắt tiền. Vì vậy, cả bọn bạn bè “tự do” và cả
Bắc Việt đã chia nhau trả tiền cho chuyến đi. Và, dĩ nhiên, với tư cách
là một viên chức cao cấp CPUSA, Hubert Aptheker quả đã có thể chấm mút
số tiền 1 triệu 3 đô la Mỹ mà Liên Xô mỗi năm cung cấp cho CPUSA qua
trung gian của Morris Childs, nhân viên FBI vào nằm được trong CPUSA. 1314
Tuy nhiên cả các bài báo trên New York Times vào năm 1965 hay tờ Reunion của
Hayden vào năm 1988 đã nói lên được sự thật. Việc Cộng sản trả tiền
chính đã là lý do khiến một số người khác từ chối lời mời gọi của Bắc
Việt đi Hà Nội và cũng từ chối luôn mọi đề nghị sau đó.
Bộ Ba của Hà Nội – Aptheker, Lynd và Hayden
Bạn đồng hành của Hayden đã là những tên
cộng sản nổi tiếng từng tự đề cao như tay lãnh tụ CPUSA Herbert
Aptheker và giáo sư Staughton Lynd. Năm 1988, Hayden đã nói về Aptheker
như là một lý luận gia Mác-xít cũng như là một tay Cộng sản. Hayden đã
nói về Lynd như là một Quaker và không là một người cộng sản. 1315
Thành tích “không cộng” của Lynd có vẻ mơ hồ hơn là rỏ ràng.
Staughton Lynd, một kẻ từng ngưỡng mộ
Trotsky, đã là một thành viên của Câu lạc bộ John Reed từng chịu ảnh
hưởng của Cộng sản tại Đại học Harvard, đã là một thành viên của Câu lạc
bộ Dubois WEB do Đảng Cộng sản Mỹ thành lập, đã là một thành viên của
CPUSA American Youth for Democracy (đã bị xóa sổ), đã là một tay gây
quỹ của National Guardian và một tên viết cho tờ Liberation chủ hòa và Báo cáo Việt Nam. 1316 Ít ra thì Lynd
cũng chỉ là một học giả Mác-xít mà đã ráng Mỹ hóa chủ thuyết Marx bằng
cách viết về chủ nghĩa lý tưởng không tưởng của các thí nghiệm công đồng
tại Mỹ.
Staughton Lynd cũng là một người Quaker
và tự phong là người chủ trương hòa bình đã lại bị ngỡ ngàng khi người
bạn thân của y là Norman Morrison đã tự thiêu chết trước Lầu Năm Góc để
phản đối chiến tranh Việt Nam. Vào cuối tháng 9, Lynd đã thuyết trình
tại một đại học tên Rutgers Iniversity và đã cáo buộc Mỹ ném bom đánh
phụ nữ và trẻ em Việt Nam.
Với Aptheker thì rất là rỏ ràng: y là một tên trung thành tận tụy với chủ thuyết cộng sản bảo trợ bởi Liên Xô.
Trong phần “nói về – forward” của bài viết Sứ mệnh đi Hà Nội
của Aptheker , Tom Hayden đã gọi Aptheker là “một người đàn ông của thế
kỷ” và dường như đồng ý với các phân tích về chủ nghĩa Mác-Lênin của
Aptheker. “Người đàn ông thế kỷ” của Tom, Aptheker, đã theo gợi ý của
Liên Xô để kịch liệt bênh vực các tên điệp viên cốt lõi Julius và Ethel
Rosenberg – chỉ sau khi lặng câm chờ đợi trong hai năm cho tới khi Liên
Xô ra lệnh cho CPUSA phải làm như vậy. 1317 Trong
nhiều năm Aptheker đã nằm trong Ban chấp hành Đảng Cộng sản Mỹ. Uỷ ban
Hạ Viện về các Hành Vi Chống Mỹ HCUA sau đó đã hỏi Hayden là có phải
chăng tờ New York Times đã được yêu cầu làm giảm vai trò của
tên Cộng sản Aptheker trong việc tổ chức chuyến đi Hà Nội và đẩy mạnh tư
cách phát ngôn nhân của y trong bộ ba cánh tả với báo chí.
Đa số tường trình đương thời của New York Times đều chú tâm vào Staughton Lynd và hầu như không đề cập gì đến Aptheker, người mà Times thường
xuyên mô tả như là “Giám đốc của Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác.” Điều
này thực sự có thể là cách đền đáp được “độc quyền” tường thuật chuyến
đi Hà Nội. 1318
Chóp Bu trong số Người Đồng Đẳng
Trong mọi hoàn cảnh thì rất rỏ ràng là Bắc Việt đã rất kỷ lưỡng trong việc lựa khách mời đến Hà-nội – Aptheker, Lynd và Hayden.
Theo tờ The People’s World
ngày 1 tháng giêng năm 1966, trước khi bộ ba của chúng ta đi, thì chỉ có
bốn người Mỹ (không xác định được) là đã từng đến Hà Nội. 1319 Bốn
kẻ duy nhất mà lời nói đã được phát thanh qua Đài Hà Nội trước chuyến
đi của Hayden là Robert Williams, Cecil Clarence Adams, Leo Taylor và
Margaret (Randall). 1320 Trong tháng 8 một nhóm của Du
Bois Club đã đến thăm Hà Nội. Như chúng ta đã thấy, một năm trước
chuyến đi của Hayden, năm người Mỹ khác đã tham dự một Hội nghị Quốc tế
Đoàn kết với Nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và cho Việc Bảo
vệ Hòa Bình. Bọn Mỹ đến Hà Nội đã là: Robert Williams của Phong trào
Hành động Cách mạng (Revolutionary Action Movement) , một người cộng sản
da đen và bốn tên cộng sản theo chủ nghĩa Mao từng bênh vực và tham
gia trong phong trào Bước Tiến Đại Nhảy Vọt của Mao và Cách mạng Văn hóa
– Sidney Rittenberg, Frank Coe, 1321 Worthy William và Anna Louis mạnh. 1322
Do đó, tương đối lúc cuộc chiến tranh
mới bắt đầu, vào năm 1965 Tom Hayden đã là một trong một số ít người
Mỹ mà đã từng đi hay thậm chí đã có tiếng nói phát thanh đi từ Bắc Việt.
Trong kiểu viết lại lịch sử mà bọn tả phái rất rành nghề, hai mươi năm
sau thì Hayden đã kể lại hoàn toàn khác hẳn.
Ngày 19 tháng 6 năm 1986, Văn phòng dân
cử của y đã phân phối một thông cáo dài 19 trang cho các dân biểu khác
trong quốc hội California mà lúc đó đang xem xét việc bải nhiệm y ra
khỏi Quốc hội vì lý do cổ xúy “… hỗ trợ một chính phủ ngoại quốc chống
lại Hoa Kỳ trong trường hợp có chiến tranh”. Bản này khẳng định: “Tom
Hayden đã là một trong hàng trăm công dân Mỹ, từ các linh mục đến các
nhà báo mà đã đến thăm Bắc Việt trong thời chiến tranh không được công
bố.” 1323 Sau đó nhiều người cũng sẽ đi, nhưng Hayden đã dẫn đầu trong số các thành phần phi liên kết.
Vào năm 1965 đã không hề có nhà báo Mỹ nào tại Hà Nội – mà chỉ có các ký giả Cộng sản của báo Pravda của Liên Xô, báo Cộng sản Pháp L’Humanité ‘ và tay cảm tình viên người Anh là James Cameron là đã được chào đón.
Trong tháng giêng năm 1965 biên tập viên của tờ San Francisco Chronicle Scott
Newhall đã viết là James Cameron là một “chỗ dựa cho một số chương
trình công cộng mà các viên chức tại Hà Nội đã khai thác một cách rất
khéo léo.” Tờ Time đã viết, ” Phóng viên Cameron chỉ là một
phương tiện để Bắc Việt dùng để tuyên truyền. Y đã tuyệt đối xem Hà Nội y
như Luân-đôn vào thời chiến lúc bị oanh tạc nặng nề trong khi mà Hà-nội
thì vẫn chưa hề lãnh quả bom nào.” Aptheker sau đó có nhớ lại là thiệt
hại của Hà Nội trong tháng chạp năm 1965 ” không hề giống “ các vụ dội
bom của đồng minh trong Thế chiến II. 1324
Cameron đã gợi ý là chính oanh tạc cơ Mỹ
đã gây nên hoàn cảnh phải hạn chế lương thực. Thật vậy, ngay việc
chính sách hạn chế lương thực đã bị thiết lập từ năm 1954 cũng đủ để
bác bỏ biết bao vô số là điều dối trá về Bắc Việt. 1325 Và
năm 1966, James Cameron đã đạo diễn một bộ phim tài liệu dài 43 phút về
cuộc sống hàng ngày tại Bắc Việt rất rỏ ràng với nhiều bằng chứng là đã
bị kiểm duyệt và sửa chữa nội dung, phim ảnh cùng âm thanh bởi Bắc Việt
. 1326
Lẻ dĩ nhiên, vào năm 1965, tổng số kiểm
kê về số các “linh mục” hay những kẻ với đức tin phóng khoáng mà đã
đến thăm Việt Nam là khá thấp. Các nhóm tôn giáo sẽ chỉ kéo nhau theo
sau khi Tả phái đã liên tục đưa ra ý tưởng rằng Bắc Việt- Việt Cộng có
đạo đức hơn và rằng người Mỹ mới chính là những con quái vật bạo tàn
trong thời chiến.
Hòa Bình, Tình Thâm-giao, Tình Huynh Đệ
Hayden sau đó đã viết:
Trong năm 1965, chúng tôi đã là những khách Mỹ
đầu tiên của Ủy ban (Hòa Bình) …. Ủy ban Hòa bình là một tổ chức thường
được sử dụng bởi các chính phủ Cộng sản nhằm phát triển mối quan hệ
“anh em” với các phong trào hòa bình hay các quan khách tư nhân đến từ
các nước khác. 1327
“Hòa Bình” và “Huynh Đệ” thật sự có nghĩa là gì?
Hội đồng Hòa bình Thế giới (World Peace
Council) , Hội đồng Hòa bình Mỹ (U. S. Peace Council) v.v.. . đều là
những mặt trận của Liên Xô. Ủy ban Hòa bình Việt Nam (Vietnamese Peace
Committee) , một chi nhánh của Hội đồng Hòa bình Thế giới (World Peace
Council) cũng vậy, đều đã là một thành phần của Bắc Việt trong chiến
lược đấu tranh bao quát nhằm chiến thắng trong chiến tranh cách
mạng. Nhiều ủy ban hòa bình và đoàn kết khác nhau đã được coi là phần
không thể tách rời của các hoạt động chính trị trong lòng địch ở ngoại
quốc gọi là địch vận. Những hành động chính trị như vậy đã rất
cần thiết cho chiến lược Bắc Việt nhằm dành chiến thắng trong lý thuyết
về chiến tranh cách mạng của chúng.
Về phương diện tổ chức, Bộ trưởng Bộ
Tuyên truyền và Giáo dục Bắc Việt là Tố Hữu (1963-1975) chịu trách nhiệm
Văn phòng Hoạt động Nước ngoài, cơ quan phụ trách tất cả các hoạt động
tuyên truyền quốc tế. Những hoạt động tuyên truyền quốc tế này bao gồm
việc liên hệ với các ủy ban khác nhau của ngoại quốc như là về hữu nghị,
hòa bình cùng các ủy ban đoàn kết. Sau chuyến đi Hà Nội, Hayden, Lynd
và Aptheker chỉ còn trích dẫn có thơ của Tố Hữu, một tay tôn thờ Joseph
Stalin, tên sát nhân tập thể và cũng là tên độc tài Xô Viết. 1328
Tố Hữu đã viết, “Sì-ta-lin! Sì-ta-lin!
Tôi vui mừng xiết bao khi nghe con tôi biết được tên ông … Tôi yêu cha
và mẹ của tôi, tôi yêu bản thân chỉ một . Nhưng tôi yêu ông tới mười
lần! ” 1329 Theo lý thuyết đấu tranh của chiến
tranh cách mạng, các kẻ tới Bắc Việt có thể được coi là “những người
đang chống giặc Mỹ xâm lược ” trong cuộc đấu tranh chính trị thuộc chiến
lược về chiến tranh cách mạng của họ .
Các mối quan hệ “Anh Em” không chỉ đơn thuần là “thiện chí” và “tương cảm” mà ta thường thấy có giữa những người bạn. 1330 ”Các
liên hệ Anh Em” và các ủy ban hữu nghị đều đã chỉ dành cho các Đảng
Cộng sản ngoại quốc với các tay lãnh tụ đảng. Sự kiện này đã được SDS
công nhận trong tháng 6 năm 1962 khi cho phép Jim Hawley, một tên cộng
sản, đến quan sát đại hội của mình dù không có một “mối quan hệ huynh
đệ” nào cả.
Do đó, việc Hayden sử dụng các từ “hòa
bình” và “anh em” không chỉ là loại mật mã mà Quakers và khách du lịch
thường dùng. Vậy thì “trước hết” Hayden muốn nói gì với hai chữ “anh
em”? Sau đó, Hayden đã nói: “Vâng, tôi có đi – Tôi đã là một khách đồng
hành đi Hà Nội với [lãnh đạo CPUSA] Herbert Aptheker vào năm 1965.” 1331 Lynd thì cũng sẽ nói rằng họ “đại diện cho ba trắc nghiệm khác nhau về chính trị học xã hội chủ nghĩa ở Mỹ.” 1332
Sứ Mệnh tại Hà Nội
Tờ New York Times đã viết là
chuyến đi nhằm “tìm kiếm sự thật cho . . . hòa bình.” Một số người đã
tin là Hayden, Aptheker và Lynd đã có một thỏa thuận bí mật với Bắc Việt
để duy trì “các mối quan hệ huynh đệ” với CPUSA chứ không phải với
những người ủng hộ “hòa bình” 1333 Khi đọc các lá bài
lật lên thì ta thấy ngay bàn tay kỷ luật Đảng . Đài Hà Nội đã cho Lynd
tuyên bố: “Chúng tôi đã biết thêm nhiều so với trước đây rằng chính sách
của Mỹ tại Việt Nam là vô đạo đức, bất hợp pháp, và phản dân chủ” 1334 Đó có phải chăng là đi “tìm hiểu thực tế” cho “hòa bình” với các “nông dân” như theo lời tường thuật của tờ New York Times ? Khám phá đầu tiên của đám khách đi này của chúng ta đã là gì?
Hayden và Lynd đã viết khi bay vào Hà
Nội thì chúng đã thấy “những cánh đồng được chăm sóc rất tinh-vi,“ bằng
chứng của bản sắc Việt Nam. 1335 Chúng được chào đón tại sân bay bởi “những em bé gái … với hoa đang vẫy chào” 1336 Khắp mọi nơi đều đã chỉ là hòa bình, hữu nghị và tình anh em.
Trong Other Side, 1337 Lynd
và Hayden đã giải thích các hành vi tàn bạo của Bắc Việt vào giữa thập
niên 50 khi đã giết chết không ít hơn số 32.000 người và sau đó khoảng
500.000 trong chính sách “cải cách ruộng đất” của họ – một hình thức
cưởng bách tập thể hóa nông nghiệp. Lynd và Hayden đã rất mơ hồ khi nói
tới “các sự kiện năm 1956,”. Chúng nói rằng “thời kỳ này” là chỉ một
phần nối tiếp cuộc chiến tranh chống Pháp. Về mặt đạo đức chỉ là tương
đương với “bạo lực … việc khủng bố của các lực lượng kháng chiến [phi
Cộng]. ” 1338
Đã không hề có những lời xin lỗi tương
tự về việc giết người của Mỹ trong chiến tranh. Thật vậy, Hayden và Lynd
với WSP trước đó, đã tố cáo Mỹ vi phạm các tội ác chiến tranh khi cố ý
ném bom các làng dân sự. 1339 Họ giả bộ không hề biết
trong bao thập niên Việt Cộng đã từng phát động những chiến dịch khủng
bố và thủ tiêu các thường dân vô tội.
Hayden đã nói rằng y là “một trong những
người đầu tiên phát hiện được bằng chứng là Chính phủ Mỹ đã ném bom các
mục tiêu dân sự như sau này đã được xác nhận bởi tờ New York Times,” 1340 và rằng LBJ đã “gây ra chết chóc cho hàng triệu nạn nhân dân sự.” 1341 Trong tờ Reunion, Hayden nói rằng vào năm 1965, y đã thăm một trường mẫu giáo và một ngôi chùa bị dội bom ở Nam Định. 1342 Hayden
và các tên hoạt động phản chiến khác mà thường được hướng dẫn đến Nam
Định đã không bao giờ báo cáo rằng ngôi chùa này nằm sát một trung tâm
chuyển hàng quan trọng – sông ngòi, đường sắt, bải chứa hỏa xa, kho trử
hàng và bồn trữ dầu – nhằm phục vụ cho các nỗ lực chiến tranh của Bắc
Việt. Aptheker có báo cáo chuyến thăm của chúng đến “một trong các ụ
súng bên ngoài” Nam Định, nơi mà Tom và y đã được chụp ảnh. 1343 Các
trường Mầm Non và chùa không cần hệ thống phòng không nhưng lại là
những phương tiện ngụy trang hữu hiệu cho việc đặt súng phòng không và
hỏa tiễn SAM cũng như là kho nhiên liệu và đạn dược và lại càng là những
phương tiện tuyên truyền ngàn vàng ngỏ hầu tố cáo các hành vi tàn bạo
đối với thường dân vô tội.
Gặp Gở Các Tù Binh Chiến Tranh Hoa Kỳ
“Đồ ngủ áo tay dài, tối nay có gì đặc
biệt đây,” người Bắc Việt đã báo hiệu cho Thiếu tá Ron E. Byrne, một tù
binh chiến tranh Mỹ cùng bạn tù là Đại tá Larry Guarino. Đây là cách ông
đã “đồng ý” để gặp các khách Mỹ. Byrne đã đi hơn bốn giờ “và tôi quả
thực rất lo … Khi ảnh trở lại thì anh ta hóan toàn kiệt quệ, cả thể xác
lẫn tinh thần,” Guarino nhớ lại như vậy.
Tù binh chiến tranh Byrne ngồi trên một
cái ghế gỗ, trong khi bộ ba Mỹ ngồi sau ba cái bàn “chất đầy hoa quả và
trà.” Họ thay phiên nhau nói chuyện với Byrne. Lynd, theo Byrne, nói rất
ít, dường như có vẻ không thoải mái và có một chủ ý gì đó. Aptheker thì
hỏi rất nhiều nhưng “bị dội” khi Byrne dường như gặp khó khăn để trả
lời chúng trước mặt kẻ giam mình. Aptheker nói: “Đây không phải là nơi
tốt nhất để nói chuyện … dài.” Byrne cho biết về Aptheker, “Y ta không
quá mức khắc nghiệt … cũng như y ta không tàn nhẫn khi phê bình …”
Trong khi đó thì Hayden về phương diện
khác lại là “tay đầu nậu”. Bắc Việt vẫn xem phi công bị bắn rớt “không
phải là tù binh chiến tranh nhưng là bọn phạm hình bị bắt giữ.” Tom
Hayden cũng chủ trương như vậy. Tù binh chiến tranh Byrne nói với
Guarino rằng Hayden “… đã rất hung dữ với tôi, đã không chịu bỏ qua, đã
cố để gài cho tôi phải chấp nhận là chúng ta là những tội phạm, những kẻ
đang tham dự một cuộc chiến tội lổi! Tôi đã cố gắng hết sức để tránh
nói bất cứ điều gì có tính cách nhận tội , nhưng y cứ đeo đẳng tôi một
cách không thương tiếc. Tôi chỉ còn cầu nguyện Thượng đế giúp tôi qua
cơn này để làm sao mà sau đó bọn Việt đừng tra tấn tôi .”
Sau đó tù binh chiến tranh Byrne đã nói
về Hayden: “Y tự giam mình trong hận thù … Y thù ghét tất cả mọi giá trị
nền tảng của Mỹ … Y thù ghét tổ chức quân đội của chúng ta … Thù ghét
hệ thống chính trị của chúng ta.” Byrne đã kết luận: “Y là một tên nguy
hiểm … Y là một tên bệnh hoạn đầy cay đắng và y làm tôi khùng điên lên
tới mức tôi gần tới mức sẽ nôn mữa vô thẳng mặt y .”
Hayden đã không đề cập đến lần y thẩm vấn tù binh chiến tranh Ron Byrne trong bất kỳ tác phẩm nào của y. 1344
Cách thẩm vấn của Hayden phù hợp hoàn hảo với kiểu chiến tranh chính trị của Hà Nội. “Một trong những trách nhiệm của Binh vận là
thâm nhập và tuyển dụng từ số tù binh chiến tranh để tiếp tục lũng đoạn
công luận ở Pháp và Mỹ … Các hoạt động về chiến lược lâu dài đã được
soạn ra để bao gồm luôn các cá nhân hầu phục vụ lý tưởng cộng sản sau
khi được thả về lại đơn vị củ và quê hương của họ “. 1345
Và dĩ nhiên là mong muốn để lấy được tin tình báo quân sự từ các tù binh chiến tranh. Một báo cáo của CIA từ Sài Gòn cho biết:
Khởi đầu với chuyến thăm Bắc Việt năm 1960 của tay Phó Giám đốc KGB và bắt đầu đào tạo chuyên viên… bởi KGB, Bộ Công an đã duy trì liên
lạc chặt chẽ nhưng có kiểm soát với KGB Liên Xô … (và) … Bộ Công an
Cộng sản Trung Quốc … đã trao đổi thông tin với nhau. (Bình luận từ
hiện trường … Nguồn … đã nhận dạng được các viên chức MPS núp bóng tại
toà Đại sứ Bắc Việt ở Lào và Cam-pu-chia mà đã từng thường xuyên liên
lạc với các viên chức Đại sứ quán Liên Xô và Trung Quốc … “ 1346
Và “Bắc Việt . . . đã cung cấp các nguồn
tin của KGB về những phi công Mỹ . . . và . . . những yêu cầu tình báo
đặc biệt từ Liên-xô và Trung Cộng. 1347
Yết kiến Phạm Văn Đồng, Lê Duần, Hà Văn Lâu
Tuy là Tom Hayden đã muốn ở lại Việt-nam, 1348 mấy 10
ngày sống tại Hà-nội để “phỏng vấn nông dân” và được các em bé gái chào
tặng hoa trong một môi trường không tưởng xã hội chủ nghĩa thì cũng
phải chấm dứt.
Rồi thì cũng phải tới giờ làm việc với
Thủ tướng Phạm Văn Đồng, với viên Đệ Nhất Bí thư của Ủy ban Trung Ương
(Cộng sản) Bắc Việt , Lê Duẩn, tay tổng chỉ huy bí mật của Việt cộng tại
miền Nam Việt Nam và cũng như là họp với một đại tá tên là Hà Văn Lâu
nào đó. 1349
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gặp gỡ bộ ba
trong một giờ đồng hồ. Đồng đã nói với chúng rằng Việt Nam muốn Mỹ rút
quân và chấm dứt dội bom trước khi có thể đàm phán.
Khi được hỏi việc rút quân Mỹ sẽ có thể
dẫn tới việc rút quân của Bắc Việt khỏi Nam Việt hay không thì Phạm Văn
Đồng đã trả lời: “Cái gọi là sự hiện diện của các lực lượng Bắc Việt
(Cộng hòa Dân chủ Việt Nam) ở miền Nam Việt Nam chỉ là một huyền thoại
do đế quốc Mỹ tưởng tượng ra… “
Khi được hỏi về một chính phủ liên hiệp
cùng việc thống nhất đất nước, Đồng đã nói rằng một liên minh là “một
vấn đề nội bộ” và thống nhất đất nước sẽ có nghĩa là chỉ “bằng những
phương tiện hòa bình”. Nhóm “American Peace Fighters” đã đòi hỏi câu
trả lời cho việc cáo buộc là Mặt Trận Giải Phóng Quốc Gia NFL, tức là
“Việt Cộng” chỉ là một công cụ của miền Bắc. Phạm Văn Đồng cũng gọi đó
chỉ là “một sáng kiến thấp hèn.”
Hầu như tất cả những gì Đồng đã thốt lên
đều gian dối. Thật vậy, “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam NFLSV là
đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam.” 1350 Đồng đã rất hùng biện hỏi ”Việc tấn công [Johnson] hòa bình có nghĩa gì? Để lấy lòng dân. ” Johnson đã không hề muốn hòa bình.
Chúng lại trải qua hai giờ với Đại tá
Hà Văn Lâu mà đã nói “… đặc biệt (về) những khó khăn chính trị, ngoại
giao và đạo đức cùng tình trạng cô lập của chính phủ Mỹ …” Và về tính
cách vô nhân đạo của người Mỹ quả là một vấn đề. “ Liệu chăng các cuộc
biểu tình cũng không thể nào ngăn chặn việc sử dụng bom napalm …? “ 1351
Các hình của chuyến đi đã cho thấy những ghi nhận như “… vũ khí … súng
ống … dây mang đạn” nhưng lại đã không nói gì tới một kho vũ khí lớn
của súng phun lửa napalm do Trung Cộng sản xuất.
Tháng chạp năm 1965, Hồ Chí Minh đã cho
biết, “Chúng tôi nồng nhiệt chào đón … giới thanh niên … đã tỏ long sẵn
sàng đến Việt Nam và cùng chúng tôi chống giặc Mỹ xâm lược.” 1352
Tuy nhiên, người dân Mỹ không hề chấp
nhận những lời mời như vậy. Vào ngày 9 tháng giêng năm 1966, một cuộc
thăm dò Gallup cho thấy hầu hết người Mỹ vẫn diều hâu hay không biết gì
về cuộc chiến. Họ muốn nói với Tổng thống “Hãy tăng cường những nỗ lực
của chúng ta tại Việt Nam” hoặc muốn hỏi “Tại sao chúng ta đang chiến
đấu tại Việt Nam?” nhưng họ không hề yêu cầu Tổng thống rút ra khỏi Việt
Nam. 1353
Hayden, Aptheker và Lynd đã tìm cách làm vui lòng Hồ và đã muốn khiến đồng hương của mình bênh vực lập trường của Hà Nội.
Roger CanfieldLê Bá Hùng chuyển ngữ với sự chấp thuận của Tác giả
*****
1277 Về các nạn nhân Tiệp Khắc, đọc Callum MacDonald, The killing of SS Obengruppen Fuhrer Reinhard Heydrich. N. Y: Macmillan năm 1989.
1278 Số ngày theo CIA, 15 tháng 11 năm 1967, trang 17
1279 Paul Hollander, Political Pilgrims, trang 316 ghi chú 141, trang 293 ghi chú 44 do Hayden và Lynd viện dẫn, The Other Side. Đọc thêm : Todd Gitlen, The Sixties, trang 260-261 về những báo cáo thuộc The Other Side.
1280 Yang Jisheng, Tombstone viện dẫn trong Anne Applebaum, “When China Starved,” Washington Post, 12 tháng 8 năm 2008, A13.
1281 Mark Moyar, “Why the Americans Fought in Vietnam,” trong Joachim Le Tinh Thong, (ed.), The Missing Pieces in the Vietnam War Puzzle, the Vietnamese-American Nationalist in Diaspora, Westminster, 28 tháng 4 năm 2010, trang 34.
1282 Jung Chang và Jon Halliday, Mao: The Unknown Story, New York: Alfred A. Knopf, 2005, ghi chú tại trang 575.
1283 Hãng Thông Tấn
Agence France Presse (French Press Agency) đưa tin ngày 4 tháng 4 năm
1995 về việc Chính Phủ Việt Nam công bố các con số tử và thương vong
trong cuộc chiến Việt Nam. 1,100,000; Tucker, Spencer, Encyclopedia of the Vietnam War, 1998; Official VN [1954-75]: 3 tháng 4 năm 1995 AP; 30 tháng 4 năm 995 Washington Post. Herald Sun, 5 tháng 5 năm 1995; Plain Dealer (Cleveland, Ohio), 1 tháng giêng năm 1996; Financial Times (London, England), 5 tháng 4 năm 1995; Xinhua News Agency, 3 tháng 4 năm 1995; UPI, 25 tháng 2 năm 1997. (5 tháng 11 năm 2004) tại http://www.rjsmith.com/kia_tbl.htmlvà http://users.erols.com/mwhite28/warstat2.htm#Vietnam
1284 Utopia in Power, trang 271 ghi chú 139
1285 Như trên, trang 386 ghi chú 105.
1286 Christopher Lasch, New York Times Book Review, 23 tháng 4 năm 1967 trang 18 nêu ra trong Hollander trang 482 ghi chú 44.
1287 Reunion. Trang 176-7
1288 HCUA, 1968, trang 2542.
1289 Oglesby cho Canfield biết năm 1989
1290 Herbert Aptheker, Mission to Hanoi, N.Y. International Publishers, 1966, trang 12.
1291 Xem: tường trình của Nanci Gitlin trong SDS Bulletin, Bộ 4, số 1, trang 9-10
292 Xem: Paul Booth,
“Working Papers…Summer Projects”, bản đánh Stencil của SDS, N.D.[cuối
tháng 4 năm 1965], không đánh số trang [5], do tác già đang nắm giữ.
1293 Todd Gitlin, “SDS
Aid to North Vietnam? A Proposal for a Mission to North Vietnam.” Bản
Tin SDS, Bộ 4, Số 1, tarng 2-4. (tháng 8 năm 1965).
1294 Hollander, trang 215 ghi chú 113, nêu ra trong Nigel Young, An Infantile Disorder?: The Crisis and the Decline of the New Left. London, 1977, trang 309; Hollander, trang 468 viện dẫn Carl Oglesby (ed.) The New Left Reader. N.Y., 1969, trang 223.
1295 ”Carl Oglesby On Vietnam”, SDS Bulletin Bộ 4, Số 1 (tháng 8 năm 1965), trang 8-9.
1296 James W. Clinton phỏng vấn Herbert Aptheker, tháng 11 năm 1990, trang 114, trong James W. Clinton, The Loyal Opposition: Americans in North Vietnam, 1965-1972, Niwot: University Press of Colorado, 1995, trang 14.
1297 Zaroulis và Sullivan, Who Spoke Up…
trang 66; Oglesby bác bỏ là mình từng được mời đi Hà-nội và nói là mình
không biết là Newfield- Hayden đã từng tuyên bố như vậy. Tác già tin
Oglesby hơn. Ký giả John Corry cũng nói là một tân lãnh tụ Tân Tả không
xác định được danh tính đã chấp thuận và sau đó đã rút lui để tránh gây
cho tổ chức của y bối rối.
1298 HCUA, (1968), trang 2542 tường trình cuộc phỏng vấn của Jack Newfield với Hayden trong Village Voice.
1299 Aptheker, Mission… trang 12.
1300 Aptheker, People’s Daily World, 6 tháng 8 năm 1989
1301 Gitlen, trang 261
1302 Gitlen, trang 260
1303 Nhóm Phản đối
cuộc chiến Iraq Global Exchange đã có thu nghập chiếu theo tờo khai năm
2004 IRS Form 990, đổ đồng hơn $7,000,0000 trong mấy năm gần đây. Cuối
cùng là trên $4,000,000. Nhóm nàu cũng chỉ khai trình tài sản lợi tức từ
tiền hội viên đóng góp, các chuyền đi chơi và bán sách.
1304 Reunion, trang 176
1305 New York Times, 1 và 10 tháng giêng năm 1966.
1306 John Corry, “Yale Professor Is Visiting Hanoi.” bản cắt từ báo không truy nguyen được, vào độ 28 tháng chạp na78m 1966
1307 50 cents mổi 30 trang và bán sĩ theo giá 15 cents mổi bản.
1308 Cùng với SDS, Ủy Ban American Friends Service, và Fellowship for Reconciliation đã phân phối tờ Viet Report.
1309 Các kẻ khác mà đã cộng tác với Viet Report với
tư cách cố vấn, chủ bút, nhà văn hay trong ban tham mưu đã là Carol
Brightman, Robert S. Brown, Otto Feinstein, Robert Hagen, John
McDermott, Stanley Millet, Martin Nicolaus.
1310 Viet Report, bộ 2, Số 1, tháng giêng năm 1966 trang 3.
1311 Xem: bản quay Stencil trong tháng hay 5 năm 1965 công bố tờ Viet Report sắp ra mắt, kể luôn cà bản mục lục; “Message of N.L.F. Intellectuals” trong số tháng 7; tháng 8 và 9 năm 1965, Viet Report;
và một ấn bản gởi đi miển phí. Các bằng chứng này là từ Indochina
Archives tại University of California ở Berkeley và trong bộ sưu tâp của
Tân Tả thuộc Hoover Institute ở Stanford University.
1312 Nêu ra trong Violence and the Media, p.? ; trong tiểu sử của Lynd biography; và trong Gettleman (ed.) 1985, trang ?
1313 HCUA, 1968, trang 2541-5.
1314 1958-1978 - $26 triệyu chia cho 20 = $1.3 triệu. John Barron, Operation Solo, Regnery 1996, trang 305.
1315 Reunion, trang 176
1316 Gannon, Bộ I, trang 429-31.
1317 Cách Đảng CS Mỹ
CPUSA biện hộ trể mãi đến hai năm sau cho cặp Rosenberg đã khiến cho
nhiều người tin là do Cộng sản lúc đó đã đang cố chuyển dư luận thế giới
qua một vấn đề khác – việc thanh lọc chống Do-thái cùng thủ tiêu những
đảng viên gốc Do-thái trong đảng Cộng sản Tiệp (vụ Slansky). Xem :
Ronald Radosh và Milton, The Rosenbergs, trang 348-349.
1318 Tường trình đầu tiên nhất có vẻ là của UPI vào ngày 28 tháng chạp năm 1965 về ngày thứ nhất của nhóm tại Hà-nội.
1319 Xem thêm: “Mission to Hanoi,” National Guardian, 1 tháng giêng năm 1966
1320 Xem: Foreign
Broadcast Information Service, “Log of Statements Attributed to U.S.
Citizens Which Were Broadcast by Hanoi Radio, 1965-71.”
1321 Điệp viên Cộng sản bị nhận dạng, Trevor Loudon và Cliff Kinkaid, 12 tháng 6 năm 2011.
1322 Douglas Pike, Viet Cong trang 328 viện dẫn đài Radio Hanoi.
1323 Báo cáo của Hayden cho “các thành viên của Quốc hội” ngày 19 tháng 6 năm 1986, trang 1mà hiện tác giả đang có.
1324 James W. Clinton phỏng vấn Herbert Aptheker, 14 tháng 11 năm 1990 trong James W. Clinton, The Loyal Opposition: Americans in North Vietnam, 1965-1972, Niwot: University Press of Colorado, 1995, trang 17.
1325 “Conduit in North Viet Nam,” Time Friday, 17 tháng chạp năm 1965http://www.time.com/time/printout/0,8816,834806,00.html
1326 Dan Pavlides, “Eyewitness…North Vietnam: Synopsis,” All Movie Guide tạihttp://tv.msn.com/movies/movie.aspx?m=36092&mp=syneyewitnessinnorthVietnam
1327 Reunion, trang 184
1328 Tố Hữu do Đoàn Văn Toại viện dẫn, “A Lament for Vietnam,” New York Times Magazine, 29 tháng 3 năm 1981, trang 8 ; Ho Chi Minh, “U.S. Imperialists, Get Out of South Vietnam,” Vietnam Courier, (Hanoi), 15 tháng 4 năm 1965 trong Fall (ed.), trang 327.
1329 James Banerian và the Vietnamese Community Action Committee, Losers Are Pirates: A close Look at the PBS Series “Vietnam: A Television History,”Phoenix: Tiếng Mẹ Publications, 1984, trang 156.
1330 Aptheker, Mission… tại trang 16 diễn tả cảm giác này đối với Hayden và Lynd, nhưng lien hệ của họ có tính cách chính trị nhiều hơn là xã hội.
1331 HCUA, 1968, trang 2498.
1332 Lynd, “Nhập đề” cho Mission của Aptheker , trang 10.
1333 Louis Harris, (Augusta, Ga.) Chronicle. 3 tháng năm 1968.
1334 New York Times, 12 tháng giêng năm 1966, L-6.
1335 Hayden và Lynd, The Other Side viện dẫn bởi Paul Hollander trong Political Pilgrims. N.Y: Oxford University Press, 1981, trang 271.
1336 Như trên, trang 356; Xem thêm Aptheker, Mission, trang 12 về hình ảnh tặng hoa khi đáp xuống phi trường.
1337 ”Phe bên kia” là từ mà Aptheker đã dùng trong Mission… trang 15.
1338 Hollander, trang 424 ghi chú 69.
1339 Hayden và Lynd, The Other Side, trang 225.
1340 Báo cáo của văn phòng Hayden cho các Dân biểu Quốc hội, 19 tháng 6 năm 1986, trang 1 mà tác giả hiện đang có.
1341 Diển văn của Tom
Hayden tại Hofstra University, mùa Xuân 1985, trang 3 lặp lại toàn văn
trong báo cáo gởi các Dân biểu Quốc hội California vào ngày 19 tháng 6
năm 1985, trang 16.
1342 Reunion, trang 190-1
1343 Aptheker, Mission trang 47.
1344 Đại tá Larry Guarino, A P.O.W. Story: 2801 Days in Hanoi. N.Y: Ivy Books, 1990,trang 80-81; Aptheker, Mission pp. trang 50-53.
1345 Bell và Veith
1346 Bell và Veith
1347 Bell và Veith
1348 James W. Clinton phỏng vấn Herbert Aptheker, 14 tháng 11 năm 1990 trong James W. Clinton, The Loyal Opposition: Americans in North Vietnam, 1965-1972, Niwot: University Press of Colorado, 1995, trang 12, 17.
1349 Aptheker, Mission trang 32; Hayden và Lynd, The Other Side; HCUA, 1968, trang 2543.
1350 Hanoi VNA
International News Service, 28 tháng giêng năm 1966, các trích dẫn kể
trong Rockroth, trang 168-69. Mary Hershberger, Traveling… viện dẫn Viet-Report, các số tháng giêng và 2 đăng các bản sao chép những buổi họp tại Há-nội.
1351 Aptheker, Mission, trang 32-33.
1352 Hồ Chí Minh, “U.S. Imperialists, Get Out of South Vietnam,” Vietnam Courier, (Hanoi), 15 tháng 4 năm 1965 trong Fall (ed.) trang 327.
1353 Adam Garfinkle, Telltale Hearts: The Origins and the Impact of the Vietnam Antiwar Movement, NY: St. Martin’s Griffin, 1997, trang 15.
Nguồn: http://www.chuacuuthe.com/2014/01/my-cong-19-ha-noi-hayden-aptheker-lynd/
—Xem để biết bản chất của Cộng sản
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét