Cuốn sách
NỖI HỐI HẬN LÚC HOÀNG HÔN do tác giả Tri Vũ - Hoàng Ngọc Khuê xuất bản tháng 10.2012 tại Pháp. Nội dung viết về ông Trần đức Thảo,
sinh năm 1917, giáo sư thạc sĩ dạy môn triết trong ngành đại học tại
Paris, một nhà nghiên cứu uyên thâm về tư tưởng Marx, từng tranh luận
với đại triết gia Jean-Paul Sartre.
Sách cũng ghi lại những kinh nghiệm và nhận xét của ông trong 40 năm sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trích dẫn một câu:
....
Trần đúc Thảo đã có nhận xét về
một thời lịch sử bị làm hỏng, làm bẩn,
mà người ta khéo léo gọi đó là một thời đầy những mảng tối. Hy vọng rồi
đây, sẽ tới một thời trong sáng, sạch sẽ, liêm khiết, một thời dũng
cảm, để làm công việc giải tà, don rác cho lịch sử, chứ không phải để cố
duy trì những cái « duy nhất đúng ». Bởi những cái « duy nhất đúng » ấy đã làm ô danh cả lãnh tụ lẫn cả cách mạng..
DNguyen
Mời đọc thêm,
tham-khảo VÀI tài liệu bằng tiếng Pháp
tại đây:
Click Here
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~ ~~~~~~~~
SÁCH "NỖI HỐI HẬN LÚC HOÀNG HÔN"
Sách do tác giả Tri Vũ - Hoàng Ngọc Khuê xuất bản tháng 10.2012 tại Pháp. Nội dung viết về ông Trần đức Thảo,
sinh năm 1917, giáo sư thạc sĩ dạy môn
triết trong ngành đại học tại Paris, một nhà nghiên cứu uyên thâm về tư
tưởng Marx, từng tranh luận với đại triết gia Jean-Paul Sartre. Sách
cũng ghi lại những kinh nghiệm và nhận xét của ông trong 40 năm sống
dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Năm
1952, Giáo sư Thảo, được sự hỗ trợ của đảng cộng sản Pháp, trở về nước
với hoài bảo phục vụ cách mạng. Ông đi theo ngõ đường sắt xuyên Á, qua
đất Trung Hoa, để đến chiến khu Việt Bắc. Sự việc đầu tiên làm ông suy
nghĩ, khi cán bộ ở biên giới buộc ông làm tờ khai lý lịch, với yêu cầu
lên án
ông bà, cha mẹ có
liên hệ với phong kiến và thực dân. Ông bác bỏ ý kiến này, để tôn trong
sự thật. Vụ này được báo cáo về trung ương. Ông đã vài lần gặp ông Hồ,
thấy chủ tịch tỏ thái độ xa cách. Dù nhiệt thành yêu nước, nhưng vì ông
chủ trương một cuộc cách mạng đi đến dân chủ và trọng đạo lý, giải phóng
con người, nên bị liệt vào thành phần « có vấn đề ». Do đó, ông không
đươc giao nhiệm vụ gì cả, có lúc đi dạy hoc, một thời đươc giao việc chăn bò ở Ba Vì, rồi lâm cảnh khó khăn do thất nghiệp, vợ ly dị đi lấy chồng khác (bác sĩ Nguyễn khắc Viện).
Năm
1954, sau hiệp định
Genève, ông trở về Hà nội, trải qua những ngày sống trong cảnh xã hội
mới quá thê thảm. Hà thành ngày trước văn minh, thanh lịch nay không
còn, kể cả tiếng nói, nhường chỗ cho dân từ các nơi khác đến, quê mùa,
tục tằn, thô lỗ. Ông được tham gia một chuyến đi về huyện Chiêm Hóa, để
vận động các bần cố nông đấu tố địa chủ, đã chứng kiến vụ những dân làng
bị đánh đập dã man, rồi đem ra xử bắn, trước sư hiện diện của cố vấn
Trung quốc (chiến dịch cải cách ruộng đất do các cán bộ Tàu chì huy).
Ông Thảo bị xúc động mạnh, đòi các cố vấn này giải thích về căn bản pháp
lý của tỷ số giết người ấn định 5%. Các cố vấn này bèn lập phiên tòa, định đưa Gs.Thảo ra
xét, rồi xử bắn
về tội phản cách mạng. Sau cùng, chuyện được hoãn lại
Năm
1987, Gs.Thảo được phép vô Sài gòn, nhìn thấy một thành phố khác xa Hà
Nội, không đói rách như đã nghe, găp nhiều cựu kháng chiến Miền Nam,
nghe tâm sự của những người nay bị gạt ra bên lề, và được họ quý trọng.
Ông viết cuốn sách ngắn tựa đề « Con người và chủ nghĩa lý luận không có
con người », được tái bản. Hà Nội ra lệnh tịch thu, nhưng sách đã bán
sạch. Nhiều người khuyên ông nên đi Pháp, để bảo toàn mạng sống.
Năm
1991, ông trở qua Pháp, vui mừng gặp lại các bạn hữu, đồng thời bị tòa
đại sứ VN ở Paris theo dõi, gây khó khăn, hăm dọa, ngăn chặn không cho
ông diễn thuyết ờ Nhà Việt Nam. Ông cho biết, ông Hồ không mấy quan tâm
về lý thuyết của Marx, chỉ làm theo Lénine, Staline, và nhất là Mao. Gs.
Thảo đánh giá lại học thuyết của Marx, với kết luận : Marx đã sai lầm.
Vào
lúc xế chiều của cuộc đời, Gs.Thảo tỏ ý hối hận, trong bao năm qua đã
giữ thái độ im lặng, tức đồng lõa với những kẻ gây
tội ác. Ông dự tính ra cuốn sách, chưa
thực hiện thì đột ngột từ trần năm 1993, sau một cơn đau bụng dữ dội,
điều khó hiểu. Hũ tro của ông đươc gởi về Hà Nội, nhưng không được ai
nhận. Cuối cùng, bà vợ cũ đứng ra lo việc mai táng. Chính quyền Hà Nội
đã truy tặng ông huân chương Độc Lập và Giải Thưởng Hồ chí Minh !
Trích đoạn phần G.s Thảo trình bày về một số vấn đề :
Định kiến với triết học sách
vở.
Những
trí thức yêu nước từ xa, cứ vô tư ca ngợi vinh quang, cứ khơi khơi rao
giảng hận thù nên khép lại, cái gì của quá khứ thì trả lại cho quá khứ,
để cùng nhau xây dựng tương lai, với tinh thần hòa giải, hòa hợp dân
tộc. Họ mỉa mai chê bai, chẳng lẽ cứ chống cộng đến chiều ? Những lời lẽ
hô hào lãng mạn đẹp đẽ và vô tư ấy đã được phát ngôn quá dễ dàng, chỉ
vì người nói câu ấy đã không thấy, không hiểu
thấu được những cái tuy thuộc về quá khứ, nhưng nó đang vẫn còn
tác yêu tác quái trong hiện tại. Làm sao có thể hòa giải, hòa hợp giữa
bầy cừu và bầy sói. Giữa kẻ bị trị với kẻ thống trị ? Giữa những kẻ vẫn
hờm nhau như kẻ thù ? Do đó, công cuộc tranh đấu tìm đòi tự do dân chủ
cho quê hương không thể ngừng lai. Bởi công cuộc tranh đấu chống lại bạo
luật của rừng rú không phải là nghĩa vụ của riêng quá khứ.
Không
được trải nghiệm tới từng hơi thở từng thớ thịt của thân xác, những nỗi
đau đớn của dân tộc, thì khó mà thấy, mà hiểu dù mỗi hoàn cảnh con
người đau khổ. Cuộc tranh đấu của Mahatma Gandhi và cách tranh đấu của
chủ
tịch Hồ chí
Minh dĩ nhiên là khác nhau, rất khác nhau. Khác nhau ở cách cảm thấy
nỗi đau hay cách suy tư về nỗi đau, mà khác cả về hệ quả tốn ít hay
nhiều xương máu, về mức độ tha hóa, băng hoại lương tri con người qua
những tranh đấu ấy… »
Tiếp cận thực tại tàn nhẫn.
Sự
bế tắc của cách mạng là do ý thức giải phóng con người bằng đấu tranh
giai cấp để xóa bỏ giai cấp. Đây là một mô hình cách mạng không tưởng,
không nền
tảng duy vật sử quan.
Không tưởng vì cả tin vào sự đam mê cuồng tín, cả tin vào khả năng giải
phóng bằng bạo lực của hận thù. Sự bế tắc ấy là do ý thức, do thái độ
cảnh giác, do chính sách thù hận mù quáng của quyền lực chuyên chính. Sự
chuyên chính ấy đã đóng kín mọi chân trời, đã không ngừng đẩy những con
người chân thật, không chấp nhận dối trá, sang phía thù địch. Giá trị
một ý thức hệ không thể so sánh với mạng sống của con người, nhất là với
con người bị oan ức, con người trù dập, bị bóc lột, hoàn toàn bất lực,
vô phương tự vệ. Một ý thức hệ, dù thế nào thì nó chỉ có giá trị của một
dụng cụ. Một dụng cụ làm sao có thể so sánh với giá trị của một mạng
sống ? vì vậy, không thể hy sinh con người cho bất cứ một ý thức hệ nào.
Trước nỗi đau của con người tuyệt vọng vì ý thức hệ, thì chính cái ý
thức hệ ấy cũng cần phải được rà xét lại, để cải đổi hoặc đào thải.
Chính những sai lầm cơ bản về tư duy đã đưa tới những hành động gây đau
khổ cho con người.
Tư
duy theo quy luật phủ định của phủ định là phương pháp gạn lọc những
kinh nghiệm, những hành động trong sự vận động của cách mạng trong thời
gian. Việc vừa làm xong, vừa thực hiện được thì không nên coi nó như đã
vĩnh viễn hoàn hảo. Phải coi việc đó, cách làm đó là còn có thể cải
thiện. bằng cách chỉ giữ lại những gì tốt, và
loại bỏ ngay
những gì coi là xấu. Nhờ sự cải thiện thường xuyên ấy, tức là từng bước
phủ định phần xấu mà ta vừa làm, để ta có một cái gì mới tốt hơn cái đã
đạt. Như vậy là ta luôn luôn phải phủ định một phần những gì đã làm để
đạt tới cái mới ngày càng tốt hơn, ngày càng sáng sủa, ít xấu hơn. Quy
luật phủ định của phủ định đòi hỏi sự vận hành cách mạng không được
ngưng lại ở một chính sách, hoặc ở một tổ chức, một cơ chế vĩnh viễn nào
cả. Không có cái gì cứ đứng yên một chỗ, bất biến, cố định trong thời
gian. Điều này thật quan trọng đối với từng cá nhân, nhưng nó càng quan
trọng đối với một chính sách của đảng, của nhà nước.
Những
hành động do thù hận không thể nào đưa tới thành công. Tại vì thù hận
là tố chất tâm lý bệnh hoạn rất truyền nhiễm, rất độc hại. Nó đưa tới
trình trạng mù quáng trong nhận định, nó dẹp bỏ lương tri, nó mở đường
hành động cho mọi thủ đoạn gian xảo và tội ác, nó tạo ra nguyên tắc cứu
cánh biện minh cho phương tiện. Nguồn gốc của thù hận trong xã hội ta
ngày nay là do tình trạng đất nước ta đã một thời bị chìm đắm trong bầu
không khí cuồng tín, vì lãnh thổ bị chia cắt thành hai chế độ với hai lá
cờ, với lời thề quyết tiêu diệt nhau để thống nhất lãnh thổ.
Cảnh giác với
hiện tại sống động.
Do
khái niệm về mặt tâm lý và xã hội, danh dự là một thuộc tính được ban
tặng cho con người từ bên ngoài, nghĩa là một giá trị do người đời khen
tặng, chứ bản thân không thể trực tiếp đi tìm mà lấy được. Danh dự chỉ
đến với những con người sống đức hạnh, có lương tri, biết hoàn thành
trọn vẹn công việc của mình, dù đấy là một công việc khiêm tốn. Như thế
thì mọi người đều có thể có danh dự, chứ danh dự không phải là riêng của
những kẻ có
chức , có quyền trong
xã hội. Nhưng do ngộ nhận mà danh dự đã bị coi là một khả năng kích
thích con người có hành động đẹp đẽ , vĩ đại, theo xu hướng khoa trương,
phù phiếm bề ngoài, để tao ra danh dự cho mình. Bởi khi đó danh dự đã
bị đồng hóa với danh vọng. Thông thường, danh vọng có khả năng kích
thích tâm lý, có thể làm cho con người u mê đến mức sa đọa, y như là một
thứ thuốc phiện. Người ta đam mê chạy theo danh vọng, để rồi tự biến
thành kẻ khoe khoang, kiêu ngạo, hoang tưởng. Tranh đua nhau trên con
đường dang vọng thường làm cho mình thành ích kỷ, thấp hèn. Danh vọng đã
đẻ ra một cấp trên kiêu ngạo, một cấp dưới nịnh nọt. Nó có thể cải
trang một người bình thường thành kẻ tự đắc, một nhà chính trị thành một
lãnh tụ độc tài, đam mê quyền
lực, điên cuồng khao khát danh vọng, quan liêu cửa quyền đến mức hành
động, nói năng như cha mẹ dân, rồi muốn được tôn vinh làm cha dân tộc.
Về
mặt tâm lý xã hội, danh dự cũng như hạnh phúc, không thể tìm kiếm,
không thể mua chuộc nó một cách trực tiếp, bằng quyền lực hay tiền bạc,
như người ta vẫn đi tìm kiếm danh vọng. Danh dự chỉ tới một cách gián
tiếp từ bên ngoài, với những ai biết sống một cách xứng đáng, có lương
tri, sống ngay thẳng, trong sạch. Danh dự do đó quả thật là một nền tảng
của đạo đức. Không thiếu gì xã hội, trong đó con người ngông cuồng khao
khát danh vọng,
một xã
hội chỉ trọng vọng bề ngoài, chỉ trưng khoe thành thích gỉa tạo một
cách bệnh hoạn. Một thí dụ điển hình về mặt tiêu cực của danh vọng là
thói háo danh với bằng cấp. Bằng cấp chỉ là một hình thức chứng thực khả
năng. Danh dự của một người có học có trí thức là biết sống không ồn
ào, không khoa trương, biết chứng tỏ trình độ bằng kết quả của việc làm.
Khi danh dự bị nhầm lẫn với danh vọng, thì nó đã đưa tới sự gian lận
trong thi cử, mua bán bằng cấp chạy chọt chức tước.
Những
thành tích mưu cầu vinh quang, đầy danh vọng của kẻ có
quyền lực, mà có người
đã được hậu thế ca ngợi, có khi còn được tôn thờ như thánh. Những thành
tích mưu cầu vinh quang danh vọng một cách đam mê, cố mưu tìm chiến
thắng kiểu Pyrhus, cố tạo ra những công trình vĩ đại như Kim Tự Tháp,
như Vạn Lý Trường Thành…và nhầm lẫn đấy là những thành tích của danh dự.
Thực ra, những công trình vĩ đại ấy không thể là biểu
hiệu cho danh dự và đạo đức, đạo lý. Vì chiến thắng như thế là phung phí
xương máu quân lính, vĩ đại như thế phung phí mồ hôi, nước mắt của dân
chúng. Chúng không mang tính đạo đức và nhân bản. Vì vậy, nhiều nhà lãnh
đạo quyền lực lớn trong lịch sử chẳng thể trở thành nhà đạo đức, càng
không thể là thánh nhân.
Vẫn chưa được giải phóng.
Vì
cách mạng không chú ý tới vấn đề nhân bản, nên rất nguy hại cho sự xây
dựng con người. Guồng máy tuyên truyền nêu ra những tấm gương để giáo
dục tuổi trẻ. Đây thật sự là đã có nhầm lẫn giữa mưu trí và trí tuệ.
Những tấm gương mưu mẹo, lừa gạt, trí trá để phá đich, diệt địch là quỉ
kế, là thủ đoạn, chứ không phải là trí tuệ. Một hành động của trí tuệ là
một việc làm có tính chính nghĩa, chính đạo, trong sáng. Mưu trí tin
tưởng vào con
đường thủ đoạn,
tiêu diệt, của chiến tranh. Thế nên nó đề cao những thành tích ám sát,
đặt mìn, gài bom…, đó là mưu mẹo, là thủ đoạn quỉ quyệt, gian ác, chứ nó
không phải là trí tuệ.
Trí
tuệ là biết cách thay ác bằng thiện, biến thù thành bạn, không làm
những điều dối trá, độc ác, phù phiếm, mà cố gắng làm những điều trong
sạch, hài hòa, bền vững. Trí tuệ tin tưởng vào con đường tiến lên của
nhân cách, của đạo lý nên nó tin vào các giải pháp hòa bình. Nhầm lẫn về
mặt này , nên giáo dục cách mạng đã vô ý thức thiên về xu hướng tạo
dựng một mẫu người thủ đoạn, láu cá, lưu manh chỉ đắc
dụng trong
chiến tranh. Chứ không phải một mẫu người ngay thẳng, chân thật của trí
tuệ để xây dựng những giá trị bền vững. Trong xã hội đầy những con
người mưu trí, thủ đoạn thì xã hội ấy không còn lương tri, không còn
biết luân thường, đạo đức và lý tưởng gì nữa.
Phản biện là hướng nghiên cứu mới..
Phải
nhìn nhận, những gì xuất hiện trong hiện tại đều có gốc rễ từ quá khứ, y
như những lớp
đất đá lần lượt, qua thời
gian, kết tụ thành từng địa tầng, lớp nọ đè lên lớp kia. Cây cỏ mọc
trên mặt đất ấy, nhưng chính gốc rễ của nó đã hấp thụ những yếu tố, từ
các tầng lớp bên dưới, để tạo ra tất cả những gì hiển hiện trên mặt đất
này, ở trong hiện tại này. Tất cả đều do chất liệu của một quá trình kết
tụ, tích lũy từ dĩ vãng : hiện tại là một di sản sống động, là gánh
nặng đang tác động do quá khứ để lại. Cái gì hiện hữu hôm qua thì hôm
nay nó vẫn còn tác động. Cái gì hiện hữu hôm nay, thì rồi nó vẫn tác
động ở tương lai, gần hay xa. Không có cái gì đã tác động tốt hay tác
hại hôm qua mà sẽ mất hẳn đi trong hôm nay, không có cái gì đang tác
động tốt hay xấu hôm nay mà sẽ hoàn toàn mất đi trong tương lai. Cứ như
trong hóa
học, không có gì đã có mà rồi sẽ mất đi hoàn toàn. Nó sẽ xuất hiện dưới
một dạng khác, thể khác, chứ không biến đi mà không để lại dấu vết.
Không
có cái gì không hề có hôm nay mà sẽ có trong tương lai : cổ xúy đấu
tranh bằng hận thù, bạo lực hôm nay, rồi thì nó sẽ đẻ ra hận thù và bạo
lực trong tương lai. Và chính quy luật này cho biết, muốn xây dựng những
điều công bằng, chân thật tốt đẹp của thế giới đại đồng trong tương
lai, thì phải bắt đầu thực hiện những bước công bằng, chân thật tốt đẹp
ấy, ngay từ hiện tại bây giờ.
Phải xử lý, thanh toán
cho hết những di sản thù hận của quá khứ đang hiện diện trong thực tại,
để nó không còn tác động trong tương lai. Khung cảnh lý luận như thế là
căn cứ trên một hiện tại sống động, nghĩa là nó phải thanh toán, nó
phải gột rửa mọi xấu xa, để rồi nó còn tiếp tục sống động trong tương
lai, như là cái gốc tốt đẹp, tử tế của tương lai.
Không
có thứ lý luận biện chứng nào có thể chứng minh rằng một xã hội đầy đen
tối, đầy dối trá, độc ác, quỉ quyệt, đầy hận thù, tranh chấp, đầy chia
rẻ và tham nhũng của hôm nay sẽ đẻ ra một thế giới đại đồng chân thật,
đoàn kết,
thương yêu,
tốt đẹp trong tương lai !
Mà
có thật là những con người vô sản đang phấn đấu để vẫn còn là người vô
sản trong tương lai ? Hay nó đang phấn đấu để trở lại con người hữu
sản ? Phấn đấu để có một cái gì cho mình, hay để rồi không có gì cả cho
riêng mình ? Có những nhận định khắc khe cho rằng một số không ít đảng
viên, chỉ vì muốn lo toan, củng cố các điều kiện sinh hoạt cho gia đình
mà bị quy chụp cho tội cách mạng biến chất, chỉ biết lo riêng tư. Đấy là
một lối nhìn sai lệch. Vì đấy là một thứ lý luận theo lô-gich hình thức
của phái siêu hình, không nhận ra
sự thật
trong cái thực tế rất tự nhiên trong vận hành cách mạng của con người.
Lối nhìn ấy thật sự không phải là biện chứng. Thực ra là họ vẫn lẩn quẩn
trong một số lý luận siêu hình mà không biết.
Thân phận những con rối.
Cái
phần sự nghiệp xây dựng mô hình thế giới đại đồng của Marx đã làm hòng
học thuyết. Nếu trong phần phê phán chủ nghĩa tư bản, Marx đã sử dụng
những sự kiện đã xảy ra trong lịch sử đương đại, trong
xã hội đương thời,
để đả xã hội tư bản. Cách phê phán này có tính biện chứng duy vật sử
quan không thể bắt bẻ. Nhưng bước qua phần lý luận để xây dựng xã hội
mới bằng cách nêu mô hình thế giới đại đồng mà mọi người mơ ước, thì
Marx bắt đầu lúng túng trong biện chứng. Vì cái mô hình thế giới đại
đồng ấy là không có giai cấp, không có bóc lột. nó được coi là nền tảng
của khái niệm, của ý thức đấu tranh giai cấp. Cái mô hình ấy, thật ra là
chưa hề thấy, chưa hề có ở đâu đó trong lịch sử. Nó chỉ là một ảo
tưởng, một mong ước sẽ có trong tương lai. Làm như vậy trong lý luận là
Marx đã mang cái tương lai ảo ấy, đặt nó lên trước hiện tại để dùng nó
như một kinh nghiệm đã có, đã thấy. Đấy là lối lý luận với một nền tảng
siêu
hình. Biện chứng đó không có chút gì là duy vật sử quan .
Từ
khái niệm thế giới đại đồng tốt đẹp theo dự báo, do mong ước ấy, Marx
đã biến nó thành ý thức cách mạng đấu tranh giai cấp, để hành động, để
đạt tới thắng lợi, để xóa bỏ giai cấp bóc lột, để hoàn thành một xã hội
không có giai cấp. Viễn ảnh quá đẹp ấy là một kinh nghiệm ảo, là một thứ
thiên đường ảo chưa hề có trên trái đất. Ở trong mô hình ảo ấy, giới
công nông đã được giải phóng, đã làm chủ được chính mình. Từ kinh nghiệm
ảo mơ ước ấy, Lénine khai triển một chủ nghĩa xã hội mới, bằng cách
khơi
dậy hận
thù giai cấp để làm động lực đấu tranh của giai cấp vô sản, làm đòn bẩy
để hoàn thành cách mạng, tạo ra sự đổi đời với một hệ thống giá trị mới
của giai cấp công nông, với một đảng cầm quyền là đại diện cho giai cấp
công nông. Vậy là cách mạng đạt tới một chế độ mới, một nhà nước mới
theo một chủ nghĩa xã hội mới. Trong chế độ mới ấy, sẽ không còn cảnh
người bóc lột người, công nông nào mà không mê !
Biến
khái niệm, biến học thuyết đấu tranh giai cấp chống bóc lột thành ý
thức cách mạng. Lấy hận thù làm nền tảng phát
động một cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn cầu. Đấy là một phát minh ý thức hệ vô
cùng sắc bén và tinh vi. Bởi nó có một sức bùng phát phi thường, nhờ
đánh thức dậy trong con người bản năng bạo lực của thời còn là muông
thú, khi khơi dậy tâm lý hận thù. Lý thuyết cách mạng lấy hận thù giai
cấp làm động lực, lấy ý chí tiêu diệt giai cai cấp bóc lột làm vũ khí,
chỉ nghe sơ qua lý thuyết ấy, bất cứ dân cùng khổ nào cũng tin như thế
là đúng, như thế sẽ là thắng, sẽ là đại thắng.
Thế
nhưng, cho tới nay, những ai đã từng sống cả cuộc đời trong sự vận hành
cách mạng do Lénine phát động, do Staline
triệt để
khai thác, do Mao hò hét vận động, đều đã thấy rõ kết quả tồi tệ của
một tổ chức mang danh đảng của giai cấp công nông, là một nhà nước
chuyên chính vô sản cầm quyền. Đau đớn hơn hết là trong thực tại, con
người lao động vẫn còn bị bóc lột. Trong xã hội mới ấy, thành phần công
nông vẫn chỉ là thành phần thiệt thòi nhất. Kết qủa là trong thế giới
đại đồng ấy, đã không hiển hiện một chế độ xã hội chủ nghĩa nào cả. Sau
này, cuộc cách mạng long trời lở đất ấy đã lộ ra cái bản chất vừa ngu
tín, vừa cuồng tín.
Đặc
biệt là
ngay trong chế độ vô
sản mới này, con người vô sản ở khắp nơi đều tỏ ra vẫn giữ nguyên bản
năng hữu sản. Họ gậm nhấm, xâm chiếm của công, cướp đoạt tài sản của tập
thể, của kẻ yếu, cướp đoạt đất đai của nông dân làm của riêng. Tư hữu
kiểu cũ do làm ăn cần cù, do tích lũy lầu dài mà có được, nay đã bị xóa
bỏ. Thay thế nó nay là tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký của
quyền lực, hoặc do móc ngoặc với quyền lực. Trong thực tế, trước
mắt, con người vô sản có quyền hành, luôn luôn phấn đấu để chiếm hữu
một cách rất tự nhiên của cải của xã hội, để trở thành nhà tư sản mới.
Phải
thẳng thắn ghi nhận
rằng cho tới nay, chỉ có một cuộc cách mạng duy nhất đã thực hiện đúng
một hình thức xã hội không giai cấp mà Marx mơ ước. Đó là chế độ vô sản,
một xã hội không có tư hữu, không có tiền tệ để dùng làm dụng cụ bóc
lột. Đó chính là cuộc cách mạng mà Pol Pot đã xây dựng tại Cambốt. Trong
suốt những năm tồn tại của chế độ Pol Pot, các chế độ xã hội chủ nghĩa
khác đã im lặng đồng tình, đồng ý, vì tin rằng trong chế độ Pol Pot ấy thật sự chỉ có giai cấp vô sản.
Kẻ
gợi ý, kẻ chuyển lửa của niềm tin đấu tranh giai
cấp cho các nhà lãnh
đạo, trong đó có Pol Pot, để đi vào con đường cuồng tín đến đẫm máu
chính là Marx. Lời tiên tri sẽ xóa bỏ giai cấp của Marx đã mê hoặc nhiều
thế hệ. Và họ lao mình vào tội ác.
Thủ phạm gây ra đại bi kịch cho nhân loại, chính là Marx.
Nhà
báo cộng sản người Úc Winfred Burchett giải thích về chính sách thực
dụng rất nguy hiểm của Mỹ trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam. Theo
Burchett thì Mỹ nhúng
tay vào Miền Nam Việt Nam vì coi
đó là một thị trường của khối tư bản, và tuyên bố quyết tâm bảo vệ Miền
Nam Việt Nam, vì đấy là một « tiền đồn của thế giới tự do ». Điều này
có nghĩa là Mỹ muốn giữ vùng ấy không để lọt vào trong bức màn sắt của
khối cộng sản. Nhưng, Mỹ cũng dứt khoát không tính diệt cộng sản BắcViệt
để thống nhất Việt Nam bằng cách này hay cách khác. Bởi chiến tranh đối
với Mỹ luôn luôn nằm trong chiến lược kinh tế thị trường toàn cầu. Cuộc
chiến tranh bảo vệ thị trường Miền Nam Việt Nam đã bị sa lầy vì tốn kém
và bị dư luận nhân dân Mỹ chán ghét. Thế nên các nhà chiến lược Mỹ đã
đề ra một giải pháp khác. Vì không bảo vệ được thị trường Miền Nam Việt
Nam bằng chiến tranh, thì phải quay qua giải pháp tìm thị
trường thay thế bằng con đường hòa bình, cách này ít tốn kém mà bền
vững hơn.
Bởi
Mỹ trên nguyên tắc, không hề tính tiêu diệt chế độ cộng sản ở Miền Bắc
Việt Nam, nên khi thấy cuộc tổng tiến công nổi dậy hồi Tết Mậu Thân,
1968, đã làm cho « địch » kiệt sức, thì đó là lúc tốt nhất để đưa
« địch » ngồi vào bàn hội nghị. Cũng như khi thấy cuộc oanh tạc Miền Bắc
hồi 1972 đã đủ cho Hà Nội thấm đòn, thì Mỹ liền ngưng ném bom, rồi đưa
ra những điều kiện cụ thể để Hà Nội chịu ký kết chấm dứt chiến tranh, để
Mỹ rút
chân ra khỏi Miền Nam
Việt Nam. Tất cả là dùng lá bài hòa bình thay thế cho lá bài chiến
tranh. Cũng để tỏ rõ chính sách của Mỹ như thế, nên hạm đội 7 rất hùng
hậu của Mỹ, lúc đó có mặt đông đảo ở ngoài khơi Việt Nam. Vậy mà lực
lượng hùng hậu ấy đã đứng ngoài nhìn hải quân Trung Quốc đánh chiếm đảo
Hoàng Sa của Miền Nam hồi 1974. Sự án binh bất động này có nghĩa là Mỹ
không coi Miền Nam Việt Nam là tiền đồn nữa. Ngay từ khi đổ bộ vào Miền
Nam Việt Nam, Mỹ đã chỉ đánh cầm chừng để giữ đất, để cầu hòa chứ không
có ý đẩy chiến tranh đến tận cùng ra Miền Bắc, để tiêu diệt chế độ cộng
sản ở Miền Bắc. Dù là đã oanh tạc Miền Bắc, nhưng chiến lược của Mỹ là
chỉ chờ lúc địch kiệt quệ để áp dụng lá bài hòa bình, nhằm đánh
« địch » bằng kinh tế hậu chiến. Và quả thật ván bài này đã làm cho Hà
Nội hoàn toàn kiệt quệ về kinh tế. Để rồi tới lúc Hà Nội đã chiến thắng,
nhưng laị phải chập nhận mọi điều kiện để Mỹ bỏ cấm vận. Rồi sau đó
thì Hà Nội đã trải thảm đỏ long trọng đón rước lãnh đạo Mỹ trở lại, tức
là từ đó, chính thức mở cửa cho vốn tư bản tràn vào tư do tung hoành
trên nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Một chế độ
như thế thật là lý tưởng cho sự khai thác lâu dài của tư bản Mỹ, có lợi
hơn hẳn dưới thời chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam. Bây giờ thì kết
cuộc đã rõ rệt của ván bài « ai thắng ai » trong cuộc đấu trí ấy.
Công
cuộc phát triển cách mạng vô sản, với giấc mơ xây dựng thế giới đại
đồng, như vậy là đã hoàn toàn tan vỡ, sau khi đã hy sinh tính mạng của
hàng bao nhiêu vạn chiến sĩ cộng sản. Bây giờ thì không còn chống Mỹ cứu
nước nữa. Giờ đây là phải thoát ra khỏi chế độ bao cấp, tự túc tự
cường, phải bám theo Mỹ để cứu nước. Cà một nền kinh tế toàn cầu dưới sự
áp đặt của Mỹ, nay tự do như thác đổ tràn vào một xứ sở bị bị kiệt quệ
đến xương tủy vì chiến tranh và cách mạng.
Giờ
đây, cả nước đều phấn khởi hồ hởi vì được « hòa nhập ». Cửa đã mở rộng
để cho vốn kinh tế thị trường tư bản tràn vào. Giờ đây, quê hương ta
đang cuồng nhiệt lao vào đà phát triển sổi thì theo ý hướng của đồng
USD, của những thế lực siêu đẳng về phương pháp bóc lột tinh vi. Các
nước quanh ta, cùng khởi sự tranh đấu giành độc lập sau thế chiến thứ
hai cùng với ta, nhưng do họ không có « lãnh đạo thần thánh », nên họ
không phải hy sinh như ta, không phải đổ ra nhiều xương máu như ta. Và
họ đã giành được độc lập và ấm no trước ta cả nửa thế kỷ. Như vậy cái
công lao, cái tài lãnh đạo thần thánh ấy,
sự thật chúng là công hay
tội ?
Giờ
đây, đảng phải ngả hẳn sang kinh tế thị trường của khối tư bản. Chính
sách ấy thật ra mang tố chất phản cách mạng xã hội. Làm như vậy chỉ cốt
để chế độ và đảng tồn tại. Đảng phải nói vớt vát rằng đó là « nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa », tức là vẫn còn lôi ông
Marx ra làm bình phong. Tôn thờ ý thức hệ mác-xít là duy trì tư duy sai
lầm từ cái gốc tổ tông của cách mạng. Nói kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là nói dối, là dùng cái bình xã hội chủ nghĩa,
nhưng rượu ở
bên trong nay là
rượu của tư bản. Nói vậy là vẫn mang bóng ma của phần biện chứng không
tưởng, siêu hình của Marx ra để bảo vệ.
Sự
thực ở ta, nay không phải đang áp dụng « kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa », mà thực tế đang thi hành thứ « xã hội chủ
nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường ». Nghĩa là ngày nay đảng vẫn
duy trì hình thức cai trị của chế độ chuyên chính, nhưng đi theo một thứ
chủ nghĩa tư bản mới, với lý luận của xã hội chủ nghĩa. Thứ chủ nghĩa
tư bản mới dã man này ở Mỹ không có. Vì ở đó dân có quyền của dân, dân
được phép phê phán, thay
đổi cai
trị bằng lá phiếu. Còn ở nước ta, thực sự là nay đang theo một thứ chủ
nghĩa tư bản rất mới so với trước đây, nghĩa là cái gì cũng bị coi là
hàng hóa, cái gì cũng có thể rao bán ; từ lý thuyết, nghĩa vụ, con
người, từ trẻ thơ tới thanh niên, phụ nữ, có thể bán cả tài nguyên, đất
đai, lãnh thổ, sức lao động ra nước ngoài để thu đô-la về. Độc hại của
sự định hướng theo kinh tế thị trường là đã coi các nghĩa vụ cao quý
nhất như giáo dục để phát triển con người, như y tế để cứu chữa con
người, thì nay những nghĩa vụ đó cũng đều là hàng hóa, cũng phải chịu
luật hạch toán kinh tế, cũng phải tính lời, tính lỗ. Phát triển xã hội
theo định hướng kinh tế thị trường như hiện nay là sự thống trị của tư
bản man rợ, là một
sự phá hoại tinh thần về mọi mặt, từ lương tri tới lý tưởng, từ trật tự
kỷ cương tới truyền thống văn minh, văn hóa của tổ tiên.
Tại
các nước dân chủ như ngay tại Mỹ, chính sách kinh tế thị trường luôn
luôn bị quyền tự do dân chủ kiểm chế, bị tự do báo chí canh trừng, nên
nó không thể tự do tung hoành phá phách được, vì ở đó có sức phản bác
của người dân. Vì dân có quyền dùng lá phiếu của mình để lật đổ một
chính phủ không tôn trọng và bảo vệ dân. Ở nước ta cho tới nay, lá phiếu
chỉ là trò đùa dân chủ của đảng, để tô đẹp bề ngoài cho chế độ. Thực tế
là chế
độ ta đã
không bảo vệ dân, vì thực chất của lá phiếu ở ta không có quyền lực gì
cả. nó chẳng thể đào thải được một chính quyền tham nhũng thối nát đang
bị dân chúng oán ghét, nguyền rũa.
Về mặt triết học, kẻ từ khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, thì tất cả những gì xảy ra trên thế giới sau
ngày 30 tháng tư 1975, đều đã làm chứng cho một sự thật đã bừng sáng.
Vì hòa bình ở Việt Nam là một mốc thời gian, đánh dấu giai đoạn mà sự
thật đã chứng minh rằng không hề có một chủ nghĩa vô sản nào, một chính
quyền vô sản nào đã hình thành
trong một nước xã hội
chủ nghĩa nào cả. Vì thế mà cái gọi là Đệ Tam Quốc Tế nay đã sụp đổ
hoàn toàn, từ căn bản tư tưởng, từ bên trong xương tủy của nó. Cái gọi
là tinh thần, là nghĩa vụ quốc tế vô sản, là Đệ Tam Quốc Tế ấy chỉ là
cái vỏ bề ngoài, là một tấm màn che mắt, là một con số không. Đệ Tam
Quốc Tế chỉ là công thức giúp nước Nga giữ lại toàn thể di sản đế quốc
do các Sa hoàng để lại. Toàn thể khối Liên Xô tại Đông Âu đã sụp đổ từ
bên trong vì sự trống rỗng tư tưởng giải phóng của nó. Cuộc cách mạng vô
sản của Pol Pot đã bị bộ đội cộng sản Việt nam dẹp tan, cuộc chiến
tranh ngắn ngày do đảng cộng sản Trung Quốc phát động chống chế độ cộng
sản ở Việt Nam năm 1979, tất cả các cuộc chiến tranh ấy chỉ là hành
động của thực dân đế quốc bành trướng kiểu mới. Về mặt kinh tế, sự đứng
dậy ngoạn mục của Trung Quốc, của Việt Nam, cũng là do thành phần tư
sản, tư bản đỏ đã bùng lên cấu kết với tư bản man rợ nước ngoài, rất lấn
át, rất tàn nhẫn, rất vô luật lệ, để tung hoành. Vì thế nó đã phát
triển rất nhanh, rất ngoạn mục, nhưng cũng vô cùng tai hại.
Giải mã lãnh tụ
Cụ
Hồ là một nhân vật vô cùng phức tạp, vô cùng thông
minh, rất mưu trí,
một con người sắt đá đến mức vô cảm, vô tình, sẵn sàng chụp bắt mọi cơ
hội để thành đạt. Một ý chí thành đạt không gì lay chuyển. Đấy là một
Tào Tháo muôn mặt của muôn đời, một con người không có tình bạn, không
có tình yêu gia đình, tình yêu con cái, một bộ óc nung đúc cuồng vọng,
với một ưu tư duy nhất là phải leo lên tột đỉnh quyền lực để đạt tới mục
đích của mình. Vì thế, ông ấy không chấp nhận một ai trong đám chung
quanh là ngang mình. Không hiểu gì về lãnh tụ là điều nguy hiểm. Những
ai từng coi thường Người, từng tỏ ra ngang hàng với Người , thì sau đều
đã vĩnh viễn bị loại trừ ra khỏi tầm mắt của Người. Không ít kẻ đã mất
mạng, mất cả xác.
Vì
vậy, cần phải biết giải mã lãnh tụ. Phải hiểu rằng ông cụ có tâm thức
mình là bên trên tất cả, là một bậc kỳ lão gia trưởng luôn luôn tỏa sáng
bởi một thứ hào quang thần thoại. Và, đám quần thần chung quanh ông cụ
không tha thứ cho một ai dám tỏ mình ngang hàng với. Người . Từ những
tay trí thức nổi tiếng tâm huyết như Nguyễn an Ninh, Phan văn Hùm…, cho
tới kẻ được đào tạo chính quy như Trần văn Giàu, và biết bao nhiêu trí
thức có uy tín khác nữa, đều là những nạn nhân của thái độ ngang hàng
như thế. Tất cả đều bị loại bỏ một cách tàn nhẫn và vĩnh viễn. Người ta
kể lại rằng, Tạ thu Thâu đã chết mất xác vì
câu nói :
« Ngoài bắc có cụ, trong nam có…tôi ».
Ông
cụ có quyết tâm không gì lay chuyển là được tận tay dẫn dắt dân tộc đi
tới thế giới đại đồng. Dù khó khăn mấy, hao tốn mấy thì cũng phải hoàn
thành cho bằng được. Vì thế nên ông cụ quyết tâm nắm bắt mọi cơ hội để
đạt tới đỉnh cao, để củng cố quyền lực, bằng mọi giá, bất chấp những
chuẩn mực của lương tri, của đạo lý, cứ như theo sách vở của Machiavel.
Vì thề, ông cụ thấy con đường chuyên chính vô sản của xã hội chủ nghĩa
là đúng nhất, tốt nhất. Các nhà nghiên cứu nước ngoài đã không chú ý
nhiều tới « cuồng
vọng lãnh
tụ » ấy, khi họ tìm hiểu ông cụ. Họ thấy phong cách lãnh đạo của ông cụ
như thế là do bản năng tự nhiên. Bởi các nhà nghiên cứu ấy mang sẵn
trong đầu những định kiến chính trị cổ điển, qua cái nhìn bị chói lòa
bởi những huyền thoại của bộ máy tuyên truyền. Các nhà nghiên cứu ấy đã
vô tình sử dụng quá nhiều tư liệu là sản phẩm chính thống của đảng. Họ
đã không hiểu những hành động cực đoan của cuồng vọng.
Phải
biết rằng huyền thoại và vóc dáng lãnh tụ của bác Hồ là tác phẩm của
một công trình nghệ thuật hóa trang cao độ, một công trình điểm tô, giàn
dựng,
để công
kênh ông cụ lên thành một nhà lãnh đạo uy nghi, kiệt xuất, như là bậc
thần, bậc thánh, để dân chúng một lòng tin tưởng mà sùng bái. Ông
cụ được tôn vinh làm bác, làm cha dân tộc. Họ dạy cho dân tiêu chuẩn lý
tưởng : cái gì có giá trị thì cũng phải là của bác Hồ, của cụ Hồ. Nào là
« cháu ngoan bác Hồ », « cây vú sữa bác Hồ », « nhà sàn bác Hồ », cho
tới « anh bộ đội cụ Hồ ». Từ đó đã biến thể ra thành cái nếp suy nghĩ
rằng cái gì hay, cái gì tốt, cái gì có giá trị, thì cái đó phải là của
bác, của đảng.
Tại
sao một đảng cách
mạng, lấy
việc giải phóng con người làm mục đích tối hậu, mà lại muốn biến tất cả
thành sở hữu của lãnh tụ, của đảng cầm quyền ? Đấy không phải là tâm
thức của con người đã được giải phóng, mà là tâm thức của con người đã
bị mất tự do, vì phải nguyện làm nô bộc cho một vị chúa tể, cho một nhóm
quyền lực. Đấy là do tình trạng đã quá sùng bái. Đấy là căn bệnh của
chủ nghĩa ngu tín, chủ nghĩa cuồng tín. Phải giải mã những cuồng vọng bí
ẩn, những sức ép giáo điều của ý thức hệ thì mới thoát ra khỏi tình
trạng ngu tín và cuồng tín ấy.
Có
một điều rất đáng tiếc là các nhà
sử học
khi tìm hiểu về cụ Hồ đã bỏ qua một thứ tư liệu rất chính gốc, rất bộc
lộ, rất chân thực, do chính đương sự là tác giả. Đó là ý nghĩa của những
biệt hiệu hay những tên giả mà chính cụ Hồ đã tự đặt cho mình, qua từng
giai đoạn mưu tìm đường hoạt động, lúc thiếu thời, khao khát tìm cách
tiến thân, tìm đường hoạt động chính trị. Có những cái tên theo tiếng
nước ngoài khá ngộ nghĩnh. Nhưng, đáng chú ý là từ khi tự đổi tên là Tất
Thành (1911), với khát vọng khiêm tốn là sẽ thành đạt, rồi cho tới sau
này thì bỏ hẳn họ Nguyễn, để thay đổi, lấy lại họ gốc là họ Hồ, và chọn
cái tên cực kỳ kiêu sa, coi mình là bậc Chí Minh (1945). Nói chung, với
cả trăm tên giả thường là rất tiêu biểu tâm thức như thế, đã phản ảnh
một cách chân thực những bước chuyển biến trong đấu óc của « ông cụ ».
Mỗi lần thay tên, đổi họ là một bước có ý nghiã trong hành trình vươn
lên, đi tới để trở thành lãnh tụ. Đấy là quá trình diễn biến của sự hình
thành một cuồng vọng. Phải phân tách cặn kẽ từng cái biệt danh ấy như
là một dấu hiệu tâm lý chính trị, từ lúc chỉ mong có cơ hội thành đạt,
cho tới lúc quyết tâm, bằng mọi giá, mọi cách, để đạt tới tột đỉnh của
quyền lực như là một ông vua (Vương), là một người yêu nước chân chính
(Ái Quốc), là một lãnh tụ thông minh bậc nhất trong thiên hạ (Chí Minh).
Thật ra, trong xã hội phong kiến, những danh hiệu ấy chỉ có thể do
người đời phong tặng cho những nhân vật lịch sử được người đời sau công
nhận
là xuất sắc, xứng đáng mang những danh hiệu ấy. Nhưng, đây lại do chính
đương sự ngay trong hiện tại đầy vấp váp, đã tự mình tặng cho mình..
Một nhà túc nho, một người trí thức có đầu óc tình táo, có liêm sỉ, một
bộ não minh triết thì không bao giờ dám tự ý xưng mình như thế. Thật khó
giải thích, một kẻ tự coi mình như là « ông vua », là bậc « quân tử »
siêu phàm , mà lại có hoài bảo làm môt nhà cách mạng, một chiến sĩ vô
sản, cộng sản. Sự công khai tự tôn vinh mình lên một cách quá trớn như
thế cũng không phải là thái độ của một bậc chí nhân, chí thánh. Đấy chỉ
là những biểu hiệu của một thứ sở cuồng lộ liễu, lỗ mãng, một thứ bệnh
tâm thần đam mê đến mất thăng bằng về mặt lý trí, liêm sỉ, đạo lý.
Khi tự xưng tụng mình một cách thượng đỉnh, tối cao như thế thì chỉ có
thể là vì đã quá khao khát danh vọng.
Ngoài
ra, còn có thể tìm hiểu nội tâm, chí hướng của nhân vật lịch sử này qua
một công trình phân tích mang tính phân tâm học của từng chữ, từng câu
mang nặng một khát vọng, trong hai tập sách tuyên truyền « Những mẫu
chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ chủ tịch » và « Vừa đi vừa kể
chuyện » để thấy rõ từng bước chuyển biến tâm lý, từ lúc chỉ mong được
nhận vào trường thuộc địa của « mẫu quốc Pháp » với hy vọng được ra làm
quan, cho tới
lúc quyết
tâm trở thành một lãnh tụ cách mạng. Nhờ những phát tiết lỗ mãng của
cuồng vọng như thế, mà ông cụ đã tạo ra một thời chính trị vô cùng phức
tạp, điên đảo. Một thời mà mọi người đều thấy rằng phải đạp lên lương
tri, đạo lý để « cướp quyền », để thành công, để chiến thắng. Thời ấy là
thời làm chính trị thì phải biết « mặc áo cà-sa », phải biết đột nhập
vào hàng ngũ đối phương, nghĩa là phải biết đánh lừa mọi người. Những
lời kể chuyện ấy đều là những thú nhận của một tâm thức, tuy là độc
đáo, nhưng không mấy cao cả. Đấy chỉ là bí quyết hành động, trong một
đại bi hài kịch của lịch sử. Thành ra qua những cái tên mang mặc cảm tự
sùng bái mình như thế, chúng ta có thể
hiểu lãnh tụ có đầu óc, có tâm trí, có đạo lý như thế nào. Napoléon,
Hitler cũng đều đã là những lãnh tụ có tâm thức tự cao tự đại, nhưng
không gian trá đến mức quá tệ hư thế. Bởi họ còn thua bác Hồ ở chỗ không
biết tự ngồi viết sách để tự đề cao chính mình. Thật tình, một người
hết lòng vì nước vì dân, một chính danh quân tử, một trí thức lương
thiện, thì không thể tự khoe mình, tự viết sách để ca tụng mình một cách
ngông cuồng lộ liễu như vậy. Lịch sử đã mang dấu ấn của một tham vọng,
một mưu trí tột đỉnh tự tôn.
Thực
tế mà nói, ông cụ biết rằng trình
độ tư
tưởng, lý luận cách mạng, thì mình không làm sao so được với những Trần
Phú, Lê hồng Phong, Hà huy Tập, Nguyễn văn Cừ, là những người được đào
tạo chính quy, ngay cả với Trường Chinh cũng vậy. Thế nên phải tìm cách
chế ngự các đối thủ ấy. Phải cố nêu gương, phong cách sống cao thượng,
thanh đạm của một chân nhân để tỏ ra mình là nhà cách mạng chân chính.
Vì một lẽ giản dị là đời sống và hành tung đa dạng, đa phương, muôn mặt,
muôn vẻ rất ly kỳ, đầy bí mật của cụ Hồ, lúc xuất quỷ, lúc nhập thần,
như thế nên không ai sánh được. Guồng máy tuyên truyền cách mạng dạy dân
phải sống và làm việc theo gương bác Hồ. Nhưng, làm sao một người bình
thường có thể sống với tung tích không rõ rệt, gốc gác đầy bí ẩn, với
nhiều tên, họ lung tung, với đường lối hành động muôn mặt như bác Hồ
được. Phải có cái đầu cực kỳ mưu trí mới có khả năng dựng nên những
huyền thoại của cuộc đời đầy phiêu bạt, nay đây, mai đó, với cả trăm cái
tên giả khác nhau, làm nhiều nghề vinh nhục khác nhau. Hành trình gập
ghềnh, khúc khuỷu của bác Hồ thì khó ai có thể đi theo. Từ một chú bé
học chữ nho ở trong làng, từ một cậu học trò nghèo sống vất vả ở Huế, từ
một ông thầy giáo quèn ở Phan thiết, từ một anh bồi hầu hạ quan tây
trên tàu thủy, từ một anh thợ chụp ảnh dạo ở Paris, từ một kẻ mượn danh
một nhóm aí quốc « An nam » viết báo, viết kiến nghị gởi hội nghị quốc
tế, từ một đảng viên đảng xã hội Pháp, nay bỗng xuất hiện ở Nga, mai
lại là một cán bộ ở bên Tàu, nay bị Đệ Tam Quốc Tế loại trừ vì có đầu
óc « quốc gia chủ nghĩa hẹp hòi », mai lại thấy chạy về ẩn náu ở Trung
quốc, ở Xiêm, rồi sau lại thấy xuất hiện trở lại ở Liên Xô, nhưng chỉ
được chầu rìa bên lề đại hội kỳ 5 của Đệ Tam Quốc Tế, chứ không được làm
thành viên của đoàn đại biểu chính thức của phong trào cộng sản Đông
Dương. Rồi sau lại thấy bác xuất hiện với bộ áo cà sa ở Xiêm, rồi trong
quân phục giải phóng quân Trung Quốc khi được nhận vào làm việc trong
« bát lộ quân » của đảng cộng sản Trung Quốc, có lúc thì sống như một
dân Hán tộc ở Liễu Châu, ở Quế Lâm, Thượng Hải, Trùng Khánh, Côn Minh.
Sau biết bao nhiêu truân chuyên, rồi bỗng bác nổi bật như một
nhà chính trị, một lãnh tụ cách mạng. Một con người đa năng, muôn mặt,
muôn ý hướng phức tạp như thế, ai mà làm theo, noi theo tấm gương ấy
được.
Từ
kinh nghiệm cực kỳ cơ hội đó, cực kỳ muôn mặt đó, người dân rút ra bài
học rằng, muốn sống, muốn thành công như bác Hồ thì phải biết sống muôn
mặt, vừa đạo đức vừa thủ đoạn, để thành đạt. Đấy là lối đạo đức cách
mạng thực tiễn, xu hướng ấy nay vẫn còn rất phổ biến và rất phát triển
trong chế độ xã hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường.
Chính
trị cũng như khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, tất cả đều là những phương
cách phục vụ con người. Nhưng, khi nói tới tội ác của chính trị, của
khoa học, của tôn giáo thì đều do con người, tại con người đã sử dụng
chúng. Triết học cũng vậy, triết học phải luôn luôn đi theo con đường
chân thật của trí tuệ, con đường tôn trọng đạo lý, tôn trọng chân
lý.Nhưng, khi triết học ngả theo con đường của quyền lực, thì nó không
còn là triết học nữa, mà trở thành một thứ tà thuyết, một vũ khí của ma
quỉ. Bởi thế, khi một bộ môn tư tưởng mang mầu sắc chính trị thì sẽ vô
cùng tai hại vì người chủ trì bộ môn ấy. Mầu sắc chính trị sẽ dẫn đi
loanh quanh
vào những ngõ ngách dối trá và sai lầm. Triết học là đi tìm phương pháp
suy tư đi tới sự thật, là để dẫn dắt con người đi tới những giá trị bền
vững của cuộc sống, tức để con người bớt đau khổ, để đi tới hạnh phúc.
Bài học lớn của triết học là giàn xếp bằng lý luận trí tuệ mọi mâu
thuẫn, mọi xung đột, bằng tình thương giữa người và người, người với
thiên nhiên, người với vũ trụ bao la. Nhưng cho tới nay, con người vẫn
chưa mấy lắng nghe, chưa mấy ai hiểu thấu bài học lớn ấy. Vì thế mà kẻ
làm chính trị thường sai lầm khi bất chấp sự thật, khi không tôn trọng
con người, không tôn trọng thiên nhiên, vũ trụ. Trong lịch sử đầy rẫy
những con người vì cuồng vọng lãnh đạo, nên đã làm hỏng chính trị, đã
tàn phá con
người. Bi hài kịch ở chỗ con người luôn luôn ưa thích đến cuồng nhiệt
để được làm con rối trong trò chơi phá phách xã hội, phá phách thiên
nhiên và phá phách cả chính mình.
Trích đoạn phần kết của sách :
Điều
đang tiếc, đáng buồn mà ít ai biết được rằng, chính con người Trần đức
Thảo, một thời từng chân thành tự nhận mình là người mác-xít ấy , lúc
cuối đời đã giác ngộ, đã can đảm nhìn nhận thái độ a dua hèn hạ, đã thú
nhận sai lầm của mình, để bác bỏ, phủ nhận những gì đã
viết trong cái thời
sai lầm vì cuồng tín ấy. Và từ đó, nêu ra nhận thức mới, để đánh gía
laị tư tưởng, sự nghiệp, với vấn đề công tội của Marx.
Dù
thế nào, thì việc đánh giá cuộc đời và sự nghiệp Trần đức Thảo sẽ là
một công việc khó khăn. Bởi việc trả lại công lý cho Trần đức Thảo cần
tới lòng dũng cảm, cần có tinh thần lương thiện trí thức, cần tới trí
tuệ. Bởi con người ấy đã sống, đã nghiên cứu, đã trải nghiệm trong bối
cảnh đầy nhiễu loạn tư tưởng, đầy diễn biến đau đớn vô cùng sôi động, vô
cùng phức tạp, trong cái thời lương tri lu
mờ, vì chiến tranh, vì
cách mạng, tức là cái thời gian đầy những thủ đoạn chính trị, những mưu
kế gian xảo, vừa ngu tín vừa cuồng tín.
Không
ít người cho cuộc đời ấy là một thất bại, vì đã không biết thỏa hiệp
với quyền lực đương thời, không biết thích nghi dù chỉ là trong một giai
đoạn tạm thời, để «đi với Bụt thì mặc áo cà-sa, đi với ma thì mặc áo
giấy ». Nhưng, cũng chính nhờ vậy mà nay những gì nhà triệt học để lại
đều thuộc về một sự nghiệp khả tín, chân thật. Không rõ sự thất bại
trong chính trị của nhà triết học, cuối cùng có được coi là
một thành tựu có
ích cho triết học ? Dù thế nào thì cuộc đời ấy cũng là sự trải nghiệm
tuy đau đớn nhưng quý hiếm trong hiện thực khai triển cách mạng, chứ
không phải trong sách vở. Đây là một bài học về sự vận động của thời
gian, do con người, cho con người và cho xã hội, trong lịch sử cận đại.
Có
người khẳng định Trần đức Thảo đã thất bại vì cái tội ngông cuồng muốn
làm một việc không thể làm, là trở về quê hương cùng cụ Hồ xây dựng một
mô hình cách mạng mới mẻ mà loài người mơ ước. Và ông đã chết vì tội thứ
nhì là lúc cuối đời ông cố
chứng minh cái gốc của
mọi sai lầm và tội ác do cụ tổ Marx, trong khi cung đình vẫn sùng bái,
vẫn quả quyết bảo lưu rằng Marx « đúng », « duy nhất đúng ». Nhưng, cả
hai tội vừa kể đều không thể coi là tội, bởi mơ ước và hành động sám hối
chuộc tội đều là quyền cơ bản cao quý của con người trí thức chân
chính.
Trần
đúc Thảo đã có nhận xét về một thời lịch sử bị làm hỏng, làm bẩn, mà
người ta khéo léo gọi đó là một thời đầy những mảng tối. Hy vọng rồi
đây, sẽ tới một thời trong sáng, sạch sẽ, liêm khiết, một thời dũng cảm,
để
làm công việc giải tà, don rác cho lịch sử, chứ không phải để cố duy
trì những cái « duy nhất đúng ». Bởi những cái « duy nhất đúng » ấy đã
làm ô danh cả lãnh tụ lẫn cả cách mạng..
Đấy
là một con người tàn tạ trong gian nan, hối hận. Đấy là một cuộc đời bi
thảm, mang đầy thương tích thối tha của hận thù và bạo lực. Nhưng bộ óc
ấy vẫn trong sáng, không oán thù ai, mà chỉ hối hận về sai lầm, về sự
im lặng của chính mình, mang tội đồng lõa với sai lầm trong một thời
gian quá dài. Đấy là công tội của một kẻ tôn thờ chân
lý. Không ít người
cho đấy là nỗi đau, một thật bại của nhà triết học, khi đã dại khờ lao
mình vào đống rác của lịch sử với giấc mộng cuối cùng, là từ đó sẽ mang
công sức và trí tuệ của mình ra để làm sạch lịch sử, làm sạch cách mạng.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~ ~~~~~~~~~~~~~~~~~
Nhấp vào đây để Trả lời, Trả lời tất cả hoặc Chuyển tiếp
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét