NGŨ HỔ TƯỚNG TUẪN TIẾT
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng
Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV-Quân Khu 4
Di ảnh cố Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng
Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV-Quân Khu 4
Di ảnh cố Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng
Tiểu Sử
Xuất
thân Khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, Tướng Lê Văn Hưng là một sĩ quan rất can
trường. Hầu hết các cấp bậc từ Đại Úy trở lên của ông đều là thăng cấp đặc cách
ngoài mặt trận.
Ông phục vụ tại Sư Đoàn 21 Bộ Binh giữ chức vụ từ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng đến trung đoàn trưởng. Khi còn là Trung Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 31, đã hai lần bay trực thăng chỉ huy bị rớt nhưng không hề hấn gì rồi được thăng cấp Đại Tá đặc cách ngoài mặt trận. Thời gian sau, được bổ nhiệm giữ chức Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh (Cần Thơ).
Ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh vào năm 1971 và thăng cấp Chuẩn Tướng đặc cách ngoài mặt trận. Ông cũng là vị anh hùng tử thủ An Lộc từ tháng 1 đến tháng 8 năm 1972. Khi An Lộc được giải tỏa, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh là Sư Đoàn ruột của ông vì ông đã lập nhiều chiến công từ khi còn là sĩ quan cấp úy tại đây.
Tháng 7 năm 1974, ông được bổ nhiệm chức Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV-Quân Khu 4 cho đến khi ông tự sát vào tối 30 tháng 4 năm 1975.
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng là một sĩ quan đức độ, thâm trầm và thanh liêm. Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của ông, ông đã tạo được nhiều thành tích cho quân đội và đất nước.
Ông phục vụ tại Sư Đoàn 21 Bộ Binh giữ chức vụ từ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng đến trung đoàn trưởng. Khi còn là Trung Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 31, đã hai lần bay trực thăng chỉ huy bị rớt nhưng không hề hấn gì rồi được thăng cấp Đại Tá đặc cách ngoài mặt trận. Thời gian sau, được bổ nhiệm giữ chức Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh (Cần Thơ).
Ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh vào năm 1971 và thăng cấp Chuẩn Tướng đặc cách ngoài mặt trận. Ông cũng là vị anh hùng tử thủ An Lộc từ tháng 1 đến tháng 8 năm 1972. Khi An Lộc được giải tỏa, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh là Sư Đoàn ruột của ông vì ông đã lập nhiều chiến công từ khi còn là sĩ quan cấp úy tại đây.
Tháng 7 năm 1974, ông được bổ nhiệm chức Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV-Quân Khu 4 cho đến khi ông tự sát vào tối 30 tháng 4 năm 1975.
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng là một sĩ quan đức độ, thâm trầm và thanh liêm. Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của ông, ông đã tạo được nhiều thành tích cho quân đội và đất nước.
An Lộc Anh Hùng
Tác giả: Vanuxem, cựu Trung Tướng Quân Lực Pháp
Phỏng dịch: Dương Hiếu Nghĩa, cựu Đại Tá QLVNCH
Tác giả: Vanuxem, cựu Trung Tướng Quân Lực Pháp
Phỏng dịch: Dương Hiếu Nghĩa, cựu Đại Tá QLVNCH
An
Lộc là một quận lỵ nhỏ của một tỉnh miền Đông Nam Việt. Quân Bắc Việt đã vây hãm
quận lỵ nầy, nã vào đó đủ mọi loại trọng pháo, hỏa tiễn, và tấn công vào đó
nhiều lần. Sư Đoàn 21 Bộ Binh từ Vùng 4 Chiến Thuật (đồng bằng sông Cửu Long) lẽ
ra được đưa ra Huế cho Tướng Ngô Quang Trưởng, được hấp tấp thả xuống một vùng
nằm giữa An Lộc và Sài Gòn với nhiệm vụ sơ khởi là chận địch lúc bấy giờ đang tự
do tiến bọc vòng quanh An Lộc, bao vây cô lập thị xã nầy cốt không cho trong
ngoài liên lạc được với nhau.
Người ta ngăn chận được phần nào ý định của địch nhưng không giải tỏa được An Lộc, và phải thú thật đây không phải là một chuyện dễ làm. Tuy nhiên, An Lộc vẫn đứng vững. Để so sánh và cũng để thực sự thấy được giá trị của QLVNCH, chúng ta phải nói rõ là Thị Xã An Lộc giống như Điện Biên Phủ, nằm dài trên hai bên sườn đồi của một lòng chảo mà vành đai của lòng chảo nầy địch đã làm chủ. An Lộc không có nhiều binh sĩ như Điện Biên Phủ nhưng có hai chục ngàn dân, chẳng những không giúp ích được gì mà trái lại còn là một gánh nặng cho quân trú phòng nữa. Quân số Bắc Việt bao vây An Lộc nhiều hơn quân số đã bao vây Điện Biên Phủ trước kia; họ cũng tiến hành cuộc tấn công bằng cách đào chiến hào đi lần vào trung tâm thị trấn, giống như ở Điện Biên Phủ vậy, tiến đến đâu lấp hầm đến đó. Lực lượng pháo binh Bắc Việt nhiều hơn lúc ở Điện Biên Phủ, nhưng họ ít pháo vào trung tâm thị xã mà chỉ dùng súng cối 130 ly và hỏa tiễn, nên phố xá nhà cửa trong thị xã gần như bị các loại nầy phá nát hết.
Quân trú phòng không có thiết giáp, nhưng Bắc Việt lại dùng loại chiến xa T54 của Nga Sô mà Phòng Nhì VNCH cũng như Hoa Kỳ không rõ bằng cách nào họ mang loại chiến xa nặng nầy đến tận cửa An Lộc được. Nhưng điều bất ngờ là các chiến xa Nga Sô nầy lại được hỏa tiễn TOW của Hoa Kỳ niềm nở đón tiếp, và có một số lớn T54 bị bắn cháy hay bị bỏ lại rải rác trong thị xã như là chiến lợi phẩm đặc biệt của đội quân trú phòng. Số tử thương tại An Lộc nhiều hơn ở Điện Biên Phủ. Quân Bắc Việt còn tiếp tục bao vây An Lộc, nhưng tình hình có vẻ sáng sủa hơn, khi Tổng Thống Thiệu quyết định dùng trực thăng đáp xuống ngay An Lộc. Cùng đi với ông còn có Tướng Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, Tướng Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III - Quân Khu 3, và một số sĩ quan khác, trong số nầy có một tướng lãnh người Pháp muốn hưởng một chút thú vị kiêu hãnh là được tham dự vào một trận phục thù cho Điện Biên Phủ. Ông được tặng một lá quốc kỳ VNCH của quân trú phòng “An Lộc Anh Hùng” trong chuyến đáp xuống An Lộc nầy, gọi là để kỷ niệm trận “Bình Long Anh Dũng” và sau nầy trước khi qua đời tại Pháp năm 1982, ông đã trao lá quốc kỳ nầy lại cho Trung Tướng Trần Văn Trung, Chủ Tịch Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH tại Pháp. Hai chiếc trực thăng đáp xuống và lên ngay thật nhanh sau khi các vị tướng lãnh vừa nhảy xuống xong thì các loạt đạn pháo Bắc Việt cũng vừa tới. Người ta đi thăm Bộ Chỉ Huy Hành Quân, phát sao, gắn “lon,” “mề đay,” tuyên dương công trạng, khen thưởng các cấp v.v... sau đó đi thăm và ủy lạo các đơn vị. Binh sĩ nhảy lên khỏi chiến hào để hoan hô ầm ĩ. Vị Tổng Tư Lệnh của họ thăm và an ủi các thương bệnh binh, đến tận các xác chiến xa Nga T54 để sờ các pháo tháp hay xem cái vỏ thép của loại chiến xa nầy, người ta cũng đi viếng các nghĩa trang “bất đắc dĩ” nằm trên các vỉa hè đường phố, và trước một nấm mồ, Tướng Thiệu quì xuống cầu nguyện...
Người ta ngăn chận được phần nào ý định của địch nhưng không giải tỏa được An Lộc, và phải thú thật đây không phải là một chuyện dễ làm. Tuy nhiên, An Lộc vẫn đứng vững. Để so sánh và cũng để thực sự thấy được giá trị của QLVNCH, chúng ta phải nói rõ là Thị Xã An Lộc giống như Điện Biên Phủ, nằm dài trên hai bên sườn đồi của một lòng chảo mà vành đai của lòng chảo nầy địch đã làm chủ. An Lộc không có nhiều binh sĩ như Điện Biên Phủ nhưng có hai chục ngàn dân, chẳng những không giúp ích được gì mà trái lại còn là một gánh nặng cho quân trú phòng nữa. Quân số Bắc Việt bao vây An Lộc nhiều hơn quân số đã bao vây Điện Biên Phủ trước kia; họ cũng tiến hành cuộc tấn công bằng cách đào chiến hào đi lần vào trung tâm thị trấn, giống như ở Điện Biên Phủ vậy, tiến đến đâu lấp hầm đến đó. Lực lượng pháo binh Bắc Việt nhiều hơn lúc ở Điện Biên Phủ, nhưng họ ít pháo vào trung tâm thị xã mà chỉ dùng súng cối 130 ly và hỏa tiễn, nên phố xá nhà cửa trong thị xã gần như bị các loại nầy phá nát hết.
Quân trú phòng không có thiết giáp, nhưng Bắc Việt lại dùng loại chiến xa T54 của Nga Sô mà Phòng Nhì VNCH cũng như Hoa Kỳ không rõ bằng cách nào họ mang loại chiến xa nặng nầy đến tận cửa An Lộc được. Nhưng điều bất ngờ là các chiến xa Nga Sô nầy lại được hỏa tiễn TOW của Hoa Kỳ niềm nở đón tiếp, và có một số lớn T54 bị bắn cháy hay bị bỏ lại rải rác trong thị xã như là chiến lợi phẩm đặc biệt của đội quân trú phòng. Số tử thương tại An Lộc nhiều hơn ở Điện Biên Phủ. Quân Bắc Việt còn tiếp tục bao vây An Lộc, nhưng tình hình có vẻ sáng sủa hơn, khi Tổng Thống Thiệu quyết định dùng trực thăng đáp xuống ngay An Lộc. Cùng đi với ông còn có Tướng Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, Tướng Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III - Quân Khu 3, và một số sĩ quan khác, trong số nầy có một tướng lãnh người Pháp muốn hưởng một chút thú vị kiêu hãnh là được tham dự vào một trận phục thù cho Điện Biên Phủ. Ông được tặng một lá quốc kỳ VNCH của quân trú phòng “An Lộc Anh Hùng” trong chuyến đáp xuống An Lộc nầy, gọi là để kỷ niệm trận “Bình Long Anh Dũng” và sau nầy trước khi qua đời tại Pháp năm 1982, ông đã trao lá quốc kỳ nầy lại cho Trung Tướng Trần Văn Trung, Chủ Tịch Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH tại Pháp. Hai chiếc trực thăng đáp xuống và lên ngay thật nhanh sau khi các vị tướng lãnh vừa nhảy xuống xong thì các loạt đạn pháo Bắc Việt cũng vừa tới. Người ta đi thăm Bộ Chỉ Huy Hành Quân, phát sao, gắn “lon,” “mề đay,” tuyên dương công trạng, khen thưởng các cấp v.v... sau đó đi thăm và ủy lạo các đơn vị. Binh sĩ nhảy lên khỏi chiến hào để hoan hô ầm ĩ. Vị Tổng Tư Lệnh của họ thăm và an ủi các thương bệnh binh, đến tận các xác chiến xa Nga T54 để sờ các pháo tháp hay xem cái vỏ thép của loại chiến xa nầy, người ta cũng đi viếng các nghĩa trang “bất đắc dĩ” nằm trên các vỉa hè đường phố, và trước một nấm mồ, Tướng Thiệu quì xuống cầu nguyện...
Cuộc viếng thăm chiến trường An Lộc
Từ trái sang phải: Đại Tướng Cao Văn Viên, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tá Trần Văn Nhựt (Tỉnh Trưởng Bình Long) và Trung Tướng hồi hưu Vanuxem
Người
ta cũng có cầu nguyện như vậy giữa sân của một nhà thờ đã bị đổ nát, chỉ còn trơ
lại có một pho tượng lớn của Chúa đang giang hai tay nhân ái ra coi như để chúc
lành cho phái đoàn. Tổng Thống Thiệu thản nhiên như không có gì xảy ra, quỳ một
gối xuống ngay trên vũng bùn, làm dấu thánh giá, và cầu nguyện... trong khi tất
cả đều đứng ngay ngắn, nghiêm trang... Đâu đây bên bìa rừng gần đó có một vài
tiếng nổ của đạn rốc kết...
Chuyến về của phái đoàn cũng như chuyến đáp xuống. Tất cả quan khách đều đứng dưới các hố cá nhân, chờ. Khi các trực thăng đáp xuống, tất cả đều nhảy lên thật nhanh để trực thăng vọt đi ngay, vì trước đó ai cũng được báo cho biết là nếu không lên kịp thì sẽ bị ở lại An Lộc.
Tất cả đều về đến Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Quân Đoàn III ở Lai Khê, và đến lúc đó người ta mới thấy là đã bỏ quên lại một người: đó là Trung Tướng Mỹ, cố vấn QĐ III. Ông ta không trách cứ gì cả, nhưng ngày hôm sau ông ta đã trở thành “Anh Hùng An Lộc,” một loạt pháo đã gây tử thương cho ông khi trực thăng của ông vừa đáp xuống.
An Lộc đã trở thành một biểu tượng, đó là một khi quân đội và dân chúng đã cương quyết một lòng thì khẳng định là chận đứng được quân thù. Đó là tinh thần của trận chiến Verdun của VNCH, một chiến trận mà VNCH đã làm lễ kỷ niệm thật long trọng để xác nhận ý chí quyết chiến quyết thắng của quân dân Miền Nam Việt Nam. Tiếc rằng ngày Lễ Quốc Khánh của VNCH đã trót được chọn là ngày 1-11 rồi, nếu không thì người ta nghĩ, có lẽ nên chọn ngày mà An Lộc hoàn toàn được giải tỏa để nói lên biểu tượng Tự Do của quốc gia nầy...
Chuyến về của phái đoàn cũng như chuyến đáp xuống. Tất cả quan khách đều đứng dưới các hố cá nhân, chờ. Khi các trực thăng đáp xuống, tất cả đều nhảy lên thật nhanh để trực thăng vọt đi ngay, vì trước đó ai cũng được báo cho biết là nếu không lên kịp thì sẽ bị ở lại An Lộc.
Tất cả đều về đến Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Quân Đoàn III ở Lai Khê, và đến lúc đó người ta mới thấy là đã bỏ quên lại một người: đó là Trung Tướng Mỹ, cố vấn QĐ III. Ông ta không trách cứ gì cả, nhưng ngày hôm sau ông ta đã trở thành “Anh Hùng An Lộc,” một loạt pháo đã gây tử thương cho ông khi trực thăng của ông vừa đáp xuống.
An Lộc đã trở thành một biểu tượng, đó là một khi quân đội và dân chúng đã cương quyết một lòng thì khẳng định là chận đứng được quân thù. Đó là tinh thần của trận chiến Verdun của VNCH, một chiến trận mà VNCH đã làm lễ kỷ niệm thật long trọng để xác nhận ý chí quyết chiến quyết thắng của quân dân Miền Nam Việt Nam. Tiếc rằng ngày Lễ Quốc Khánh của VNCH đã trót được chọn là ngày 1-11 rồi, nếu không thì người ta nghĩ, có lẽ nên chọn ngày mà An Lộc hoàn toàn được giải tỏa để nói lên biểu tượng Tự Do của quốc gia nầy...
Nụ Hôn Vĩnh Biệt
Phạm Trung Nghĩa
Ông nguyên là Trung Úy, Sĩ Quan Tùy Viên của cố Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng
Phạm Trung Nghĩa
Ông nguyên là Trung Úy, Sĩ Quan Tùy Viên của cố Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng
Lúc đó khoảng 8 giờ 30 tối ngày
30-4-1975. Bộ quân phục nghiêm chỉnh vẫn còn trên người Chuẩn Tướng. Bên trong
phòng ngủ của Chuẩn Tướng, ngay sát đầu cầu thang trên lầu, sau nụ hôn vĩnh biệt
của phu nhân vừa kịp đặt lên má chồng, ông Tướng đã vội vã đẩy bà ra phía ngoài
và đóng nhanh cánh cửa. Lúc quay người lại, thấy tôi còn đứng lại trong phòng,
giọng ông thảng thốt:
- Nghĩa! Mày đi ra.
Vừa nói, ông vừa nắm tay tôi lôi về phía cửa. Tôi bệu bạo:
- Tôi ở lại cùng Thiếu Tướng.
Sự dứt khoát của nghiêm lệnh hàng ngày trong giây phút xúc động mãnh liệt làm giọng Chuẩn Tướng lạc đi. Cái níu đẩy tôi ra ngoài, sự cọ xát ngắn ngủi đầy bi thương ấy khiến tôi cảm giác mình như là thỏi sắt bị hút ra khỏi cục nam châm. Ôi! Cái chết hoàn toàn được sắp đặt trước, lần đầu tiên trong đời tôi mới chứng kiến. Tôi chợt òa khóc! Đứng bên ngoài, tôi và phu nhân nghe tiếng rít gài then khô khốc từ bên trong. Bất giác, tôi và bà Tướng mọp người xuống nền gạch, cố đưa mắt nhìn vào khe hở dưới cửa. Mọi sự diễn ra không đầy một phút sau đó. Một tiếng nổ chát chúa vang lên bên trong cánh cửa. Tôi hoảng hốt ngưng khóc, đứng bật dậy. Với tiếng nổ đó, tôi đau đớn nhận rõ chắc chắn chuyện gì đã xảy ra rồi. Trong phòng không còn tiếng động nào. Tôi đưa tay thử lay động cánh cửa. Vô hiệu! Tôi lùi lại nhìn xuống phía chân cầu thang kêu lớn khi thấy có 3-4 cái đầu đang nhớn nhác nhìn lên:
- Kiếm một con dao... Cạy cửa mau!
Người tài xế tên Giêng cầm con dao to, nhọn, chạy nhanh lên và đích thân nạy cánh cửa bật ra. Mọi người cùng ùa vào phòng. Tôi bàng hoàng khóc ngất. Tất cả cùng khóc và chạy đến chỗ giường ngủ của Chuẩn Tướng. Ông đang ngửa người, nửa thân trên nằm trên tấm nệm trải drap trắng, hai cánh tay buông ngang, khuy cổ và ngực áo bung ra, màu máu tươi nhuộm thắm phần ngực trái chiếc áo thun trắng bên trong. Cả phần chân Chuẩn Tướng buông thõng bên ngoài, 2 gót giày chấm đất. Có lẽ Chuẩn Tướng đã ngồi cạnh thành giường, một tay cởi hai khuy áo trên, tay kia đưa nòng Colt 45 ấn vào chỗ trái tim. Chúng tôi đặt Chuẩn Tướng ngay ngắn lại trên giường, gương mặt ông xanh tái, lấm tấm mồ hôi, miệng há, đôi mắt chưa khép, biểu lộ sự đau đớn cực độ. Vừa đặt đầu ông lên gối, bà Tướng vuốt mắt cho chồng. Chuẩn Tướng đã yên nghỉ! Viên đạn oan nghiệt đã xuyên thật chính xác qua quả tim người anh hùng.
Thật sự tôi chỉ biết rõ quãng đời của Chuẩn Tướng, vào thời điểm Cần Thơ, thủ phủ miền Tây, thật sự đã vô chủ. Cần Thơ gần như chỉ bước vào cuộc trong đêm 29-4. Mười giờ đêm, lúc tôi đang mơ màng, điện thoại từ TOC Quân Đoàn gọi sang trình Chuẩn Tướng diễn tiến tình hình: Các trực thăng từ Quân Đoàn III, từ Sài Gòn bay lẻ loi về miền Tây đáp bất kỳ nơi nào đáp được. Tôi thức luôn tới sáng vì điện thoại đến liên tục.
Khoảng 12 giờ khuya, nghe có tiếng xôn xao ồn ào ngoài cổng dinh, tôi bước ra và nhìn thấy hàng giòng người cuồn cuộn tuôn trên đại lộ phía bên kia công viên. Cuộc diễn hành náo loạn như đang giữa ban ngày. Tôi kinh ngạc hỏi người lính gác cổng mới biết đó là đoàn người kéo nhau ra bến Ninh Kiều để lên tàu Hải Quân ra đi... Tôi ngỡ ngàng: “Như vậy là Phó Đề Đốc TL/HQ/V4SN tự động dẫn đoàn tàu của ông di tản ư?” (Các lực lượng Không Quân, Hải Quân, Lực Lượng Đặc Nhiệm ở miền Tây đều nằm trong hệ thống điều động của BTL/QĐ IV).
Trong làn sóng người lục tục kéo đi bất chợt tôi nhìn thấy xe của Chuẩn Tướng TMT/QĐIV. Tôi quay vào, gọi ngay cho Thiếu Tá trưởng toán trực TOC hỏi ông có biết vụ này không, rồi vội vã lên lầu trình Chuẩn Tướng. Chính ông cũng đang thức như tôi, và bảo tôi gọi Đại Tá Trang, Tư Lệnh Lực Lượng Thủy Bộ để ông nói chuyện. Lúc đó đã 3 giờ sáng ngày 30 tháng 4, tôi đã thấm mệt nhưng vẫn cố nhướng mắt chịu đựng. Giờ này giá có Phúc thì hết chê. Phúc khỏe mạnh,tháo vát, giỏi giắn nhưng anh đang kẹt lại Sài Gòn sau một chuyến “quá giang” trực thăng về Sài Gòn, ngày trở lại đơn vị bằng đường bộ, quốc lộ Sài Gòn - Long An bị Cộng Quân cắt đứt với trận chiến dằng dai nhiều ngày, chưa khai thông được.
Vào 7 giờ 30 sáng ngày 30-4, tại phòng họp Bộ Tư Lệnh như thường lệ, Phòng 3 thuyết trình tình hình trong đêm vừa qua trước 2 vị tướng Tư Lệnh và các quan chức. Lần này có vẻ nghiêm trọng về việc lực lượng Hải Quân Vùng 4 Sông Ngòi bỏ đi.
Lúc 9 giờ 30, hai vị Tướng Lãnh gặp nhau trong phòng làm việc của Tư Lệnh Phó. Chuẩn Tướng bảo tôi gọi Chuẩn Tướng Lạc, Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh đang chỉ huy cuộc giải tỏa Quốc Lộ 4 tại Long An, nói ông khẩn dùng trực thăng bay về bộ Tổng Tham Mưu để biết rõ tình hình thực tại. Trên đường bay, Tướng Lạc không bắt liên lạc được với không phận Sài Gòn nên đành phải quay về. Chuẩn Tướng lại lệnh cho tôi gọi về Bộ TTM để ông gặp tướng Trưởng Phòng 3. Tôi lạnh người khi nghe tiếng người tùy phái cho biết:
- TTM hiện không còn ai. Các Tướng Tá Sĩ Quan cao cấp đang ở tại cơ quan MACV của Hoa Kỳ.
Tôi hiểu liền các vị có mặt tại đó để làm gì. Bộ TTM cũng đã lặng lẽ đóng cửa! Và như vậy, có nghĩa là riêng QĐ IV phải tự lo liệu lấy. Buông ống điện thoại xuống, tôi đứng ỳ tại chỗ, một cảm giác tê buốt chạy dọc thân thể: “Đất nước thật sự đã mất rồi!” Tôi bước vào phòng trình tự sự lên hai vị Tướng. Tôi thấy mặt Chuẩn Tướng hơi chùng xuống rồi gật đầu tỏ ý không cần thêm gì nữa. Tôi bước ra ngoài, một nhân viên văn phòng trao chiếc radio và cho biết đài phát thanh Sài Gòn thông báo dân chúng đón nghe thông điệp khẩn của Tổng Thống Dương Văn Minh. Tôi quay trở vào phòng trình Chuẩn Tướng. Lúc này Thiếu Tướng Nam đã trở về phòng ông. Chuẩn Tướng vội vã rời phòng bước xuống bậc thềm hướng về tòa nhà Tư Lệnh. Tôi ghi vội nội dung lời phát biểu cuối cùng của Tổng Thống Minh, định sang trình 2 vị Tướng. Gặp Chuẩn Tướng đang bước xuống bậc tam cấp, tôi vừa trao tờ giấy vừa nói vắn tắt:
- Tổng Thống Minh đã đầu hàng!
Chuẩn Tướng quày quả đẩy cửa vào phòng Tư Lệnh. Khoảng 15 phút sau, Chuẩn Tướng trở lại văn phòng mình và bảo tôi gọi để ông nói chuyện cùng 16 Tiểu Khu Trưởng. Đó là khẩu lệnh ban hành thiết quân luật trên toàn thể Vùng IV kể từ giờ phút này. Các đơn vị dừng quân và bố trí tại chỗ chờ lệnh Quân Đoàn.
Thiếu Tướng Tư Lệnh cũng gọi cho Tư Lệnh 3 Sư Đoàn 7, 9 và 21. Mặc dù nhận rõ thông điệp của Tổng Thống Minh, nhưng hai vị Tướng trách nhiệm sinh tử Vùng 4 lúc này muốn ngăn trở những hỗn loạn có thể xảy ra trong cảnh tối tăm. Ban hành thiết quân luật, Vùng IV đang có vẻ chuẩn bị đối phó với tình tình hơn là treo cờ hàng. Ngay sau khi hay tin Sài Gòn thất thủ, chợ búa, hàng quán được dân chúng Cần Thơ mua vội bán vội, cố thu xếp nhanh chóng trở về nhà, vẻ mặt ai nấy đều lo âu. Xe lướt nhanh hơn, người đi bộ gần như chạy, đường phố như chuẩn bị đón cơn mưa lớn.
Sau bức thông điệp đầu hàng của Tổng Thống Minh, mọi liên lạc viễn thông với Sài Gòn đều bị cắt đứt. Chúng tôi không biết gì về tình hình Thủ Đô. Tuy nhiên cho đến trưa, tình hình Cần Thơ và 16 tỉnh lỵ vẫn yên tĩnh, chưa có bóng dáng một nhóm Cộng Quân nào vào các Thị Xã. Các tiểu khu vẫn còn liên lạc tốt với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn.
Buổi cơm trưa thật lạnh lẽo, tôi nuốt vội qua loa, rồi để nguyên binh phục kể cả giày, ngả lưng trên giường. Tôi biết, kể từ giờ phút này, biến cố sẽ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Buổi sáng, tôi đã tự ý gọi đại đội trưởng Tổng Hành Dinh yêu cầu cho đổ đầy xăng chiếc Jeep Tư Lệnh Phó, xe tôi, xe Ford Custom mang số ẩn tế dùng cho gia đình Chuẩn Tướng.
13 giờ, chúng tôi trở vào Bộ Tư Lệnh, cách tư dinh Tư Lệnh Phó độ 300 mét. Tôi thấy xe Falcon đen cũng đưa bà Tướng và hai con rời cổng dinh. Tôi hơi ngạc nhiên và lo lắng. Có tiếng ồn ào phía Phòng 2 Quân Đoàn: Một núi giấy tờ đang được đốt cháy. Có lẽ các hồ sơ quan trọng được thiêu hủy? Tôi không rõ Đại Tá Trưởng Phòng còn đó không, và việc thiêu hủy giấy tờ do lệnh của ai? Tôi cũng không rõ giờ phút này còn có đủ các Trưởng Phòng không? Chuẩn Tướng cũng không gọi đến vị Trưởng Phòng nào, ngay cả Trung Tá Tòng, Trưởng Phòng 3! Khuôn viên Bộ Tư Lệnh vắng ngắt, nghẹt thở.
14 giờ 30, Chuẩn Tướng trở về tư dinh. Ông bước lên bực thềm, nhưng không bước vào trong như mọi khi, mà đứng tại hiên tiền đình, nhìn mông lung ra khoảnh sân phía trước. Bất chợt, ông quay lại hỏi tôi:
- Cô đi đâu?
- Thưa, cô đến nhà thờ xin lễ.
Vừa lúc đó, cổng dinh mở toang, chiếc Falcon trườn vào. Tôi thở nhẹ nhõm. Gương mặt ông thoáng rạng rỡ khi thấy vợ con về đến dinh an toàn. Ông bước đến bên xe đón bà, trao đổi vài lời rồi lên xe trở lại Bộ Tư Lệnh.
16 giờ, Chuẩn Tướng rời Bộ Tư Lệnh và đây là lần hiện diện cuối cùng của ông tại bản doanh này. Xe chúng tôi vừa ra khỏi cổng chánh, ông ra hiệu dừng lại và bước xuống xe xem coi chuyện gì xảy ra phía trước. Bên kia đường, đối diện với vòng đai và cổng chánh Bộ Tư Lệnh có rất nhiều thanh niên, kẻ quần tây, người quần đùi ở trần đang nối đuôi thành hàng dài phóng chân rảo nhanh. Đây là những thanh niên vừa thoát từ Trại Tuyển Mộ Nhập Ngũ. Đến ngã tư nơi tiếp giao giữa Bộ Tư Lệnh với dinh Tư Lệnh Phó và dinh Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh, ông ra hiệu dừng xe, bước xuống, đứng ngó bao quát. Lác đác vài xe gắn máy, xe thồ, xe đạp đang hối hả gò lưng. Cả một góc phố như thoi thóp, im lỉm.
Bỗng từ phía chân cầu Nhị Kiều xuất hiện một xe Jeep đang theo Đại Lộ Hòa Bình lao nhanh về phía chúng tôi. Chiếc Jeep dừng lại cạnh xe Chuẩn Tướng, người ngồi trên xe là Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Tướng Trường xuống xe trình Tư Lệnh Phó Quân Đoàn điều gì tôi không nghe được, nhưng với vẻ hấp tấp và gương mặt đầy lo âu, cộng với tình hình trước mặt, tôi đoán chắc Bộ Tư Lệnh của ông hiện đang tan rã. Chuẩn Tướng bảo Tướng Trường theo ông về dinh.
Tại phòng khách, hai vị ngồi yên trên ghế bành, ông bảo Tướng Trường cùng Trung Tá Thành, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh đến đóng bản doanh tại dinh Tiểu Khu Trưởng. Chuẩn Tướng bảo Trung Tá Thành ra lệnh cho 2 Chi Đoàn Thiết Vận Xa M-113 đang ở vùng Quận Lỵ Bình Minh lập tức quay về Cần Thơ và cho người đến tận bến phà chuyển lệnh cho toán chuyển vận phải túc trực ưu tiên chở đoàn thiết vận xa vượt sông. Ra lệnh xong, ông đứng lên, vào phòng rửa mặt trong lúc Tướng Trường vội vã ra xe đến dinh Tiểu Khu Trưởng.
Tôi đứng cạnh bàn viết đặt sát cửa sổ phòng khách, trên bàn có hai máy điện thoại: một tự động và một qua tổng đài viên. Tối nay tôi tăng cường thêm một máy PRC 25 mở tần số của BTL/SĐ21 và Thiết Đoàn 9 để liên lạc, theo dõi. Hình như hệ thống truyền tin của Bộ Tư Lệnh đã ngưng hoạt động từ 17 giờ, vì tôi gọi không nghe có tiếng tổng đài viên trả lời. Còn máy tự động dường như bị cắt. Lúc này Thiếu Tá Trịnh Đức Phương, nguyên Chánh Văn Phòng, cũng từ dưới phòng anh bước lên đứng phía trái Chuẩn Tướng. Cả ba chúng tôi im lặng, hồi hộp nhìn vào phía màn hình TV vẫn sáng trong, im ỉm.
Phái đoàn hai bên rời BTL/QĐ đã gần hai tiếng đồng hồ và chính lúc này là giờ qui định phát thanh. Có tiếng nói vọng ra từ TV, tự xưng là phát ngôn viên của BTL/QĐ và đọc văn bản thông cáo “BTL đã đầu hàng. Các đơn vị phải buông trao vũ khí...” Bản văn vắn tắt nhưng thật rõ ràng, đầy đủ. Nghe đọc bản văn như vậy, tất cả chúng tôi đều chết điếng. Đây không phải là bản văn được hai bên thỏa thuận ký kết. Lập tức Chuẩn Tướng bảo tôi chuyền máy PRC 25 đến chỗ ông ngồi, đích thân ông cầm ống liên hợp gọi “Hổ Cáp” (danh hiệu Trung Tá Thành trong đặc lệnh truyền tin) bảo ông Thành dùng M113 lái đến dinh để đi cùng ông đến đài phát thanh. Nghe đến đó, tôi lùi một bước về phía cửa, ra hiệu cho Trung Sĩ Sao (cận vệ) chuẩn bị sẵn sàng để di chuyển. Tôi trở lại chỗ cũ vừa kịp nghe lời đáp của Trung Tá Thành vang lên trong loa khuếch đại. Lời lẽ vẫn lễ độ, nhưng rõ ràng đó là lời từ chối thi hành lệnh. Thật khó đoan chắc có lực lượng đáng kể nào của Cộng Quân đã có mặt ở thị xã hay Bộ Tư Lệnh chưa, nhưng với văn bản vừa phát ra, chắc chắn sẽ hung hiểm vô cùng nếu tự nhiên xuất hiện một chiến xa rầm rộ di chuyển trong đường phố lúc này. Tôi tin rằng Chuẩn Tướng hiểu rõ điều đó. Trong cảnh biến động này, tuy lòng có lo âu, sợ hãi, nhưng nhìn thấy đức tính gan dạ của ông, tôi khâm phục ông xiết bao! Sau bản thông điệp của Tổng Thống Minh, có ai biết được chắc chắn về số phận của những đơn vị trước đó đang trực tiếp giao tranh ác liệt với các đơn vị cộng quân rồi bỗng dưng họ phải buông súng trong cơn hận thù còn sôi sục của đối phương?
Đang miên man suy nghĩ, tôi giật mình khi điện thoại reo vang. Nhấc ống nghe lên, tôi vội chuyển liền cho Chuẩn Tướng khi nhận ra giọng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Ông trình bày là mọi việc đã giao cho Đại Tá Sáu, TMP/CTCT/QĐ đại diện cùng đi với phe Cộng Quân. Vì sao bản văn chung bị tráo và tình trạng Đại Tá Sáu ra sao chỉ duy nhất Đại Tá Sáu biết mà thôi. Tôi không nghe Chuẩn Tướng báo với Thiếu Tướng chuyện ông tính đến đài phát thanh mà không thành. Cuộc điện đàm giữa hai vị Tướng kết thúc. Lần đầu tiên tôi nhận ra vẻ tuyệt vọng trên khuôn mặt ông. Chỗ dựa cuối cùng đối với đơn vị và những đàn em thân tín mà ông từng chỉ huy giờ đã bật gốc. Ông đứng lên bảo tôi tập hợp toán lính gác để ông nói chuyện. Thượng Sĩ Trưởng Toán tiểu đội bảo vệ dinh Tư Lệnh Phó tập hợp quân thành hai hàng bên hông dinh. Ông cám ơn họ đã ở bên ông đến giờ phút cuối cùng và bảo anh em bây giờ ai muốn rời dinh cứ tùy ý... Bỗng có tiếng người lính gác trên cao báo động có xe Cộng Quân đến. Lập tức ông chạy vào trong nhà. Tôi hô toán cận vệ vào vị trí rồi xách máy PRC 25 theo ông lên lầu. Ông vào phòng ngủ rồi trở ra với khẩu XM 18 trên tay, chạy ra bao lơn, nằm xuống nhìn ra phía đường. Lúc này tôi mới nhận ra đường phố đang tối thui. Trong bóng đêm, hai vệt sáng rực phát ra từ hai đèn pha chiếc xe Jeep vừa rời cổng dinh Tiểu Khu, quét thẳng về phía chúng tôi. Nhưng khi ra đến ngã tư, ánh đèn lại rẽ trái theo Đại Lộ Hòa Bình hướng về BTL/QĐ. Họ không đến chỗ chúng tôi. Ông đứng lên, trở về phòng. Tôi dùng máy, thử gọi danh hiệu của Tướng Trường và Trung Tá Thành. Gọi ba, bốn lần vẫn không có tiếng đáp lại. Có vẻ như hệ thống máy đầu bên kia đã ngưng. Chắc chắn phải có biến cố bên dinh Tiểu Khu Trưởng, chỗ Tướng Trường và Trung Tá Thành đến đóng bản doanh hồi chiều. Dinh TKT và dinh TLP chỉ cách nhau 300 mét thôi, nếu có tiếng súng nổ, chúng tôi phải nghe được, nhưng sự kiện máy không còn mở túc trực chứng tỏ tình trạng Tướng Trường rất bi quan. Có thể ông và Trung Tá Thành đã bị bắt. Có lẽ Chuẩn Tướng thấy rằng thì giờ rất cấp bách, nên ông bước đến đẩy cửa vào phòng bà. Hai cháu bé đang đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch. Tôi trở xuống nhà dặn dò toán gác. Thật ra, tôi tìm họ cũng là để tự trấn an mình.
Mười phút sau ông gọi tôi lên lầu gặp ông. Tại đây tôi thấy ngoài Thiếu Tá Phương còn có đông đủ những binh sĩ đã từng phục dịch Chuẩn Tướng cùng gia đình rất lâu năm. Ông đứng, hai cánh tay ghì chặt đứa con gái 3 tuổi để cho đầu cháu tựa vào má ông. Bà Tướng đứng bên cạnh. Hai bàn tay măng non của cháu bé lùa vào mái tóc cha. Bằng giọng nói tha thiết, ông gởi bà cùng hai con lại cho chúng tôi. Ông quả quyết từ giờ cho tới sáng sẽ không có chuyện gì xẩy ra, bảo chúng tôi cố gắng hộ tống bà cùng gia đình về Sài Gòn rạng sáng ngày mai, 1 tháng 5. Sau đó, ông lấy lại trầm tĩnh, quát bảo tất cả trở xuống dưới nhà, chỉ còn mình tôi và bà Tướng ở lại. Giây phút vĩnh quyết đã đến...
Lúc đó đã 9 giờ đêm 30 tháng 4. Chúng tôi xúm quanh giường ngủ giúp bà Tướng lau rửa thân thể, thay y phục cho ông.
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
Chuông điện thoại reo. Tôi giật mình khi nhận ra tiếng nói của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện. Ông cần nói chuyện với Tư Lệnh Phó. Tôi quyết định nhanh trong trí: “Không cho Đại Tá biết Chuẩn Tướng đã tuẫn tiết!” Tôi nghĩ, hệ thống điện thoại đã bị ngắt hoặc do đơn vị này đã bỏ nhiệm sở từ chiều, không lý gì bây giờ lại tái lập? Chắc Cộng Quân đã chiếm đóng và đang kiểm soát cuộc điện đàm. Sau này khi hồi tưởng lại, tôi mới thấy mình thật khờ: Chỉ vì muốn bảo toàn thi hài Chuẩn Tướng mà hậu quả là Đại Tá Cẩn vẫn tiếp tục cho Tiểu Khu mình tử thủ, để rồi bị bắt, sau đó đưa về Cần Thơ và bị Cộng Quân xử bắn. Đại Tá Cẩn vốn là Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 9 tăng viện cho chiến trường An Lộc mùa Hè 72, được vinh thăng Đại Tá và trở thành Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện sau đó.
Trở lại phòng Chuẩn Tướng, tôi thấy bà đang xếp gấp tư lá cờ vàng ba sọc đỏ và lần tay mở nút áo đặt lá cờ ngay ngắn chỗ phần ngực ông. Bà mong muốn lễ tang Chuẩn Tướng được tổ chức đúng lễ nghi quân cách.
Thiếu Tá Thuyên
Tôi trở lên lầu, gặp Thiếu Tá Thuyên, đang đứng cạnh giường Chuẩn Tướng thút thít khóc. Anh vừa mới đến. Như vậy, tin về Chuẩn Tướng trong đêm đã lan truyền ra ngoài. Anh rời dinh liền sau đó, lúc trời vẫn còn mờ tối. Đó là vị sĩ quan duy nhất của BTL/QĐ đã đến nghiêng chào trước thi hài Chuẩn Tướng. Tôi bàn định cùng bà Tướng thu xếp những gì cần thiết mang đi, đề phòng trước, nếu bị buộc phải rời dinh. Thâm tâm tôi nghĩ đến người bạn chí thân hồi cùng ở Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 31, Trung Úy Nguyễn Vĩnh Thành. Mấy năm nay, Thành đã thuyên chuyển về sở Hành Chánh & Tài Chánh số 5 và cùng gia đình đang ở Cần Thơ, nhờ vậy chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau.
Trong lúc chờ sáng, tôi bàn với Thiếu Tá Phương là anh đảm trách phần việc tại dinh, còn tôi ra ngoài tìm Thành và mua quan tài. Lúc tôi đến cổng chuẩn bị ra ngoài, tôi sững sờ khi thấy thái độ của mọi người. Trong ánh mắt của họ, tôi đọc được nỗi hoang mang nghi ngại: họ đánh giá một khi tôi ra khỏi đây, có lẽ không bao giờ trở lại chăng!
Tôi mở hé cổng để vừa đủ đi qua, nhìn thấy Đại Tá C, một trong những phụ tá Tư Lệnh Phó đang đứng nơi công viên Hòa Bình nhìn về phía cổng ra vào. Khi thấy tôi đã nhận ra ông, Đại Tá C lật đật rảo bước, may mà tôi chưa kịp gọi ông! Tôi vòng bên trái dinh, theo đường tắt rảo bộ đến nhà Thành. Tôi mừng rỡ khi thấy Đại Tá Vinh đang hàn huyên cùng với ba, bốn người trước cổng BTL/Đặc Nhiệm của ông. Tôi cho ông biết Chuẩn Tướng đã chết và bà Tướng muốn chôn chồng theo đúng lễ nghi quân cách, xin Đại Tá, với tư cách một sĩ quan cao cấp, đến gặp họ (Cộng Sản) để nói giúp. Đại Tá Vinh đoan quyết đó là trách nhiệm của ông trong lúc này.
Thiếu Tướng Nam Tự Sát
Đến nhà cha mẹ vợ Trung Úy Thành, tôi thật sự cảm động khi thấy mọi người trong gia đình đều ùa ra đón tôi. Tất cả đã biết tin Chuẩn Tướng đã tuẫn tiết nên rất lo cho số phận của tôi. Tôi kể sơ cho mọi người biết Chuẩn Tướng chết như thế nào, trước đó ông dặn dò điều gì và tôi đang cần được sự giúp đỡ để thực hiện lời ủy thác của người chết.
Tôi cùng Thành lên chiếc vespa của anh đi đặt mua quan tài rồi trở lại sở của anh. Do ý của Thành, tôi tìm gặp Trung Tá Bia, phụ tá Chánh Sở Hành Chánh & Tài Chánh số 5 để nhờ ông chỉ dẫn và giúp lo việc tẩm liệm. Ông đang thay Đại Tá Chánh Sở hiện vắng mặt, chờ đợi người của Cộng Sản đến để bàn giao. Trung Tá Bia hứa là ông sẽ đến liền sau khi xong việc ở đây và căn dặn tôi chuẩn bị những thứ gì cho việc tẩm liệm. Tôi cùng Thành hướng xe về phía chợ. Khác với ngày 30 tháng Tư, buổi sáng hôm nay, 1 tháng 5, Thị Xã Cần Thơ thật ồn ào, rộn rịp. Gần như mọi nhà đều có người đổ xô ra đường, có nhiều con lộ bị nghẹt cứng. Dân chúng đi bộ tràn ra cả lòng đường, chúng tôi phải xuống xe dẫn bộ, len lỏi tìm lối vượt qua. Tôi chợt nhìn thấy Trung Úy Việt, Tùy Viên Tư Lệnh, đang đứng trong sân nhà của Trung Úy Minh, sĩ quan Quân Sử BTL, tôi lật đật kéo Thành tấp vào. Gặp Việt, tôi hỏi ngay tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh.
Buổi sáng, trước khi rời dinh, một hạ sĩ quan văn phòng đã đến trao cho tôi tờ giấy ghi tên họ của tôi đã “đăng ký trình diện” và cho tôi biết tin Thiếu Tướng Nam cũng đã tự sát. Tôi hỏi lại và được Trung Úy Việt xác nhận điều đó. Anh còn cho biết thêm, xe cứu cấp của Quân Y Viện Phan Thanh Giản do anh và Trung Úy Danh gọi đã đến và mang Tư Lệnh về QYV. Việt kể, lúc đó khoảng 7 giờ sáng, Thiếu Tướng đang ở trong phòng, ông bảo hai tùy viên về nhà, rồi dùng Colt tự sát khi ông còn lại một mình. Tôi không tiện hỏi han thêm vì còn quá nhiều việc để làm. Ra đến khu chợ, tôi cùng Thành tìm chỗ ăn sáng. Sau đó, tôi để Thành ngồi lại một mình, đi sâu vào chợ, mua các thứ trà, nhang, đèn cầy, vải liệm rồi trở ra cùng Thành phóng nhanh về dinh. Quan tài đã được đem đến và được đặt trên hai giá gỗ chính giữa nhà. Tôi hơi phập phồng khi thấy có hai cán binh Cộng Sản miền Nam đang trên vọng gác. Họ không đả động gì tới bên trong dinh. Hình như họ được lệnh chỉ ở đó mà thôi. Có lẽ thấy yên tâm phần nào, bà Tướng nói với tôi và Thiếu Tá Phương, ý bà dự định quàng lại 3 ngày. Tôi thấy cổ áo quan cũng “khiêm tốn” nên bàn với Thành đến Quân Y Viện Phan Thanh Giản tìm xin bộ ny lông. Tôi muốn nhân dịp này để biết đích xác tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh.
Viếng Thăm Thi Hài Thiếu Tướng Nam
Xe chúng tôi vừa tới cổng Quân Y Viện, lác đác còn vài thương binh đang khập khễnh cùng thân nhân hối hả ra cổng. Khi vào sâu bên trong, tôi nhận ra nơi đây im lìm, trống vắng, y sĩ, nhân viên lẫn thương bệnh binh đều đã rời viện tự bao giờ rồi. Một ít thương binh tôi còn gặp có lẽ vì thân nhân ở xa mới vừa đến để đón họ. Duy nhất chỉ một người đàn ông trạc tuổi tôi còn đứng trong sân cạnh chiếc xe gắn máy của anh. Tôi thầm mong gặp được nhân vật có vai trò đúng như Trung Tá Bia. Tôi liền đến gần và đánh bạo bộc bạch cùng anh việc tôi đến đây. Rất may, tôi gặp đúng người. Anh trao cho tôi bộ áo quan ny lông giấu nơi yên xe. Tôi hỏi Thiếu Tướng Nam nằm ở đâu? Anh chỉ Phòng Lựa Thương cách đó chỉ 30 thước và dặn dò tôi coi chừng, đã có chúng nó. Khi thấy chỉ có ba chúng tôi, tôi cảm ơn anh rồi bảo Thành chạy xe đến đậu sát bậc thềm căn phòng, rồi ngồi trên xe chờ tôi. Tôi vừa bước vào cửa phòng là thấy ngay một thi thể được phủ kín bằng tấm drap trắng, chỉ ló ra ngoài hai chân vẫn còn mang đôi giày da quân đội. Thi hài nằm trên chiếc băng ca đặt trên giá sắt cao gần 1 thước. Một chiếc bàn nhỏ đặt trước đầu băng ca, trên có một lon nhôm đựng cát dùng thay bát hương, một hộp quẹt diêm và một thẻ nhang nhỏ đã bốc ra. Trong Phòng Lựa Thương vắng ngắt. Tôi đoán chắc đây là thi thể của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Tôi bước tới đưa tay kéo nhẹ tấm phủ trên đầu để được nhìn thấy gương mặt Thiếu Tướng như người đang ngủ. Một vết đạn khoét từ thái dương phải trổ một đường kính cỡ trái chanh nơi thái dương trái, vệt máu đã thẫm đen chạy dài từ đó xuống gò má, đến cổ và động lại trên bâu áo phải làm lem lấm hai ngôi sao thêu màu đen. Bộ quân phục chiến đấu vẫn trên người Thiếu Tướng đến giây phút cuối cùng. Tôi đốt một nén hương cặm vào cái lon đã có ba chân nhang của ai đó đến đây trước tôi. Tôi kéo tấm vải phủ lại như cũ rồi lặng lẽ rời Quân Y Viện.
Lể Tẩm Liệm Đơn Sơ
Tôi trở về dinh để chờ đón Trung Tá Bia. Hai mươi phút sau Trung Tá Bia đến đưa thi hài xuống nhà dưới. Trung Tá Bia bảo tôi nâng phần đầu. Lễ tẩm liệm đơn sơ, nhanh chóng do Trung Tá Bia chỉ dẫn thực hiện. Tôi đứng ở đầu quan tài lặng nhìn ông điều khiển mấy người lính trong dinh làm động tác cuối, từ từ đậy nắp áo quan. Bỗng có tiếng la uất nghẹn:
- Trời ơi! Ông “thầy” ơi!
Rồi bóng một người lao đến bên quan tài, anh xúc động gần như quỵ xuống. Tôi nhận ra đó là Thiếu Tá Lành, Tiểu Đoàn Trưởng 3/33. Tiểu đoàn của anh sáng nay cũng đã tuân lệnh giải giáp, giao vũ khí, cởi bỏ quân phục tại chỗ, rồi từ trong vùng hành quân lội bộ ra lộ, mạnh ai tự tìm phương tiện về nhà. Thiếu Tá Lành được tin cái chết của Tướng Hưng nên tìm đến tư dinh. Anh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân, sau khi rời quân trường, về Tiểu Đoàn 2/31 cuối năm 68. Do đã từng phục vụ dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Văn Hưng, thuở đó là Trung Đoàn Trưởng 31, nên anh vẫn nhớ và kính trọng vị “thầy” của mình.
Đúng lúc đó, Trung Úy Phúc xuất hiện. Anh cùng vợ con đáp xe đò từ Sài Gòn xuống tới. Mọi việc xong xuôi, Trung Tá Bia từ giã chúng tôi để về nhà gặp gia đình. Từ hôm qua, 30 tháng 4, tên ông vẫn còn nằm trong sổ cấm quân ban hành từ hơn một tuần nay của BTL/QĐ. Một người lính vào nói nhỏ cho tôi biết một nguồn tin rất bất lợi cho chúng tôi. Do vậy, tôi, Phúc và Thiếu Tá Phương thuyết phục bà Tướng nên an táng ngay cho ông và rời dinh càng sớm càng tốt. Chúng tôi phân chia công việc cho nhau: Phúc cùng vài nhân viên đến khu đất nhà ở Cái Răng lo đào huyệt. Phần tôi lo xe tang. Thành đưa tôi đến Hội Mai Táng Từ Thiện của Hiệp Hội Xe Đò Cần Thơ. Rất may cho chúng tôi là người đại diện cho Hiệp Hội chấp thuận, dù biết đó là đám tang của một vị Tướng. Ông cho biết là phải lo cho một đám tang khác lúc 15 giờ. Vậy chúng tôi phải chuẩn bị sẵn sàng, lúc xe tang đến là phải di chuyển liền.
Từ lúc đó cho đến khi xe tang xuất hiện, chúng tôi thu xếp mọi thứ đem theo để khi rời dinh sẽ không trở lại nữa. Đúng lúc tôi đang bối rối với chút mong manh hy vọng, bỗng có tiếng ồn ào, rồi cánh cửa cổng mở toang. Chiếc xe tang đen ngòm đưa phần đuôi trườn vào sân. Các nhân viên trên xe nhanh nhẩu nhảy xuống chạy vào nhà, năm phút sau tất cả chúng tôi bắt đầu rời dinh. Anh Phương, Phúc, tôi cùng gia đình bà Tướng ngồi trên xe tang. Thành và những nhân viên khác dùng phương tiện riêng chạy theo sau xe tang. Lúc xe rời cổng lớn một đoạn, tôi nhìn lại thấy có nhiều người chạy ùa vào dinh. Vĩnh biệt tất cả, vĩnh biệt cả con chó berger chúng tôi đau lòng phải bỏ nó lại! Xe quẹo qua Đại Lộ Hòa Bình hướng về Cái Răng.
Tại huyệt mộ, một cậu bé trạc độ 14 tuổi, nhưng đôi tay thật thông thạo, nhịp nhàng với miệng hô khẩu lệnh điều khiển lên xuống đòn tay, rút dây khéo léo, đưa êm thấm quan tài xuống đáy huyệt. Họ nhanh chóng phụ giúp chúng tôi lấp đất và đắp vung lên thành hình ngôi mộ. Chúng tôi ngậm ngùi chào từ biệt Chuẩn Tướng, để lại mình ông đơn độc như cố Thiếu Tướng Nam mà tôi đã gặp vào buổi sáng.
Chúng tôi về đến Cần Thơ thì trời đã tối. Bà Tướng và gia đình cùng Thiếu Tá Phương, Trung Úy Phúc đến nương náu tại một ngôi chùa. Rốt cuộc chúng tôi cũng về được Sài Gòn đông đủ. Khi bà Tướng cùng gia đình tạm có chỗ ở là đúng lúc tôi phải vào trại cải tạo.
- Nghĩa! Mày đi ra.
Vừa nói, ông vừa nắm tay tôi lôi về phía cửa. Tôi bệu bạo:
- Tôi ở lại cùng Thiếu Tướng.
Sự dứt khoát của nghiêm lệnh hàng ngày trong giây phút xúc động mãnh liệt làm giọng Chuẩn Tướng lạc đi. Cái níu đẩy tôi ra ngoài, sự cọ xát ngắn ngủi đầy bi thương ấy khiến tôi cảm giác mình như là thỏi sắt bị hút ra khỏi cục nam châm. Ôi! Cái chết hoàn toàn được sắp đặt trước, lần đầu tiên trong đời tôi mới chứng kiến. Tôi chợt òa khóc! Đứng bên ngoài, tôi và phu nhân nghe tiếng rít gài then khô khốc từ bên trong. Bất giác, tôi và bà Tướng mọp người xuống nền gạch, cố đưa mắt nhìn vào khe hở dưới cửa. Mọi sự diễn ra không đầy một phút sau đó. Một tiếng nổ chát chúa vang lên bên trong cánh cửa. Tôi hoảng hốt ngưng khóc, đứng bật dậy. Với tiếng nổ đó, tôi đau đớn nhận rõ chắc chắn chuyện gì đã xảy ra rồi. Trong phòng không còn tiếng động nào. Tôi đưa tay thử lay động cánh cửa. Vô hiệu! Tôi lùi lại nhìn xuống phía chân cầu thang kêu lớn khi thấy có 3-4 cái đầu đang nhớn nhác nhìn lên:
- Kiếm một con dao... Cạy cửa mau!
Người tài xế tên Giêng cầm con dao to, nhọn, chạy nhanh lên và đích thân nạy cánh cửa bật ra. Mọi người cùng ùa vào phòng. Tôi bàng hoàng khóc ngất. Tất cả cùng khóc và chạy đến chỗ giường ngủ của Chuẩn Tướng. Ông đang ngửa người, nửa thân trên nằm trên tấm nệm trải drap trắng, hai cánh tay buông ngang, khuy cổ và ngực áo bung ra, màu máu tươi nhuộm thắm phần ngực trái chiếc áo thun trắng bên trong. Cả phần chân Chuẩn Tướng buông thõng bên ngoài, 2 gót giày chấm đất. Có lẽ Chuẩn Tướng đã ngồi cạnh thành giường, một tay cởi hai khuy áo trên, tay kia đưa nòng Colt 45 ấn vào chỗ trái tim. Chúng tôi đặt Chuẩn Tướng ngay ngắn lại trên giường, gương mặt ông xanh tái, lấm tấm mồ hôi, miệng há, đôi mắt chưa khép, biểu lộ sự đau đớn cực độ. Vừa đặt đầu ông lên gối, bà Tướng vuốt mắt cho chồng. Chuẩn Tướng đã yên nghỉ! Viên đạn oan nghiệt đã xuyên thật chính xác qua quả tim người anh hùng.
Thật sự tôi chỉ biết rõ quãng đời của Chuẩn Tướng, vào thời điểm Cần Thơ, thủ phủ miền Tây, thật sự đã vô chủ. Cần Thơ gần như chỉ bước vào cuộc trong đêm 29-4. Mười giờ đêm, lúc tôi đang mơ màng, điện thoại từ TOC Quân Đoàn gọi sang trình Chuẩn Tướng diễn tiến tình hình: Các trực thăng từ Quân Đoàn III, từ Sài Gòn bay lẻ loi về miền Tây đáp bất kỳ nơi nào đáp được. Tôi thức luôn tới sáng vì điện thoại đến liên tục.
Khoảng 12 giờ khuya, nghe có tiếng xôn xao ồn ào ngoài cổng dinh, tôi bước ra và nhìn thấy hàng giòng người cuồn cuộn tuôn trên đại lộ phía bên kia công viên. Cuộc diễn hành náo loạn như đang giữa ban ngày. Tôi kinh ngạc hỏi người lính gác cổng mới biết đó là đoàn người kéo nhau ra bến Ninh Kiều để lên tàu Hải Quân ra đi... Tôi ngỡ ngàng: “Như vậy là Phó Đề Đốc TL/HQ/V4SN tự động dẫn đoàn tàu của ông di tản ư?” (Các lực lượng Không Quân, Hải Quân, Lực Lượng Đặc Nhiệm ở miền Tây đều nằm trong hệ thống điều động của BTL/QĐ IV).
Trong làn sóng người lục tục kéo đi bất chợt tôi nhìn thấy xe của Chuẩn Tướng TMT/QĐIV. Tôi quay vào, gọi ngay cho Thiếu Tá trưởng toán trực TOC hỏi ông có biết vụ này không, rồi vội vã lên lầu trình Chuẩn Tướng. Chính ông cũng đang thức như tôi, và bảo tôi gọi Đại Tá Trang, Tư Lệnh Lực Lượng Thủy Bộ để ông nói chuyện. Lúc đó đã 3 giờ sáng ngày 30 tháng 4, tôi đã thấm mệt nhưng vẫn cố nhướng mắt chịu đựng. Giờ này giá có Phúc thì hết chê. Phúc khỏe mạnh,tháo vát, giỏi giắn nhưng anh đang kẹt lại Sài Gòn sau một chuyến “quá giang” trực thăng về Sài Gòn, ngày trở lại đơn vị bằng đường bộ, quốc lộ Sài Gòn - Long An bị Cộng Quân cắt đứt với trận chiến dằng dai nhiều ngày, chưa khai thông được.
Vào 7 giờ 30 sáng ngày 30-4, tại phòng họp Bộ Tư Lệnh như thường lệ, Phòng 3 thuyết trình tình hình trong đêm vừa qua trước 2 vị tướng Tư Lệnh và các quan chức. Lần này có vẻ nghiêm trọng về việc lực lượng Hải Quân Vùng 4 Sông Ngòi bỏ đi.
Lúc 9 giờ 30, hai vị Tướng Lãnh gặp nhau trong phòng làm việc của Tư Lệnh Phó. Chuẩn Tướng bảo tôi gọi Chuẩn Tướng Lạc, Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh đang chỉ huy cuộc giải tỏa Quốc Lộ 4 tại Long An, nói ông khẩn dùng trực thăng bay về bộ Tổng Tham Mưu để biết rõ tình hình thực tại. Trên đường bay, Tướng Lạc không bắt liên lạc được với không phận Sài Gòn nên đành phải quay về. Chuẩn Tướng lại lệnh cho tôi gọi về Bộ TTM để ông gặp tướng Trưởng Phòng 3. Tôi lạnh người khi nghe tiếng người tùy phái cho biết:
- TTM hiện không còn ai. Các Tướng Tá Sĩ Quan cao cấp đang ở tại cơ quan MACV của Hoa Kỳ.
Tôi hiểu liền các vị có mặt tại đó để làm gì. Bộ TTM cũng đã lặng lẽ đóng cửa! Và như vậy, có nghĩa là riêng QĐ IV phải tự lo liệu lấy. Buông ống điện thoại xuống, tôi đứng ỳ tại chỗ, một cảm giác tê buốt chạy dọc thân thể: “Đất nước thật sự đã mất rồi!” Tôi bước vào phòng trình tự sự lên hai vị Tướng. Tôi thấy mặt Chuẩn Tướng hơi chùng xuống rồi gật đầu tỏ ý không cần thêm gì nữa. Tôi bước ra ngoài, một nhân viên văn phòng trao chiếc radio và cho biết đài phát thanh Sài Gòn thông báo dân chúng đón nghe thông điệp khẩn của Tổng Thống Dương Văn Minh. Tôi quay trở vào phòng trình Chuẩn Tướng. Lúc này Thiếu Tướng Nam đã trở về phòng ông. Chuẩn Tướng vội vã rời phòng bước xuống bậc thềm hướng về tòa nhà Tư Lệnh. Tôi ghi vội nội dung lời phát biểu cuối cùng của Tổng Thống Minh, định sang trình 2 vị Tướng. Gặp Chuẩn Tướng đang bước xuống bậc tam cấp, tôi vừa trao tờ giấy vừa nói vắn tắt:
- Tổng Thống Minh đã đầu hàng!
Chuẩn Tướng quày quả đẩy cửa vào phòng Tư Lệnh. Khoảng 15 phút sau, Chuẩn Tướng trở lại văn phòng mình và bảo tôi gọi để ông nói chuyện cùng 16 Tiểu Khu Trưởng. Đó là khẩu lệnh ban hành thiết quân luật trên toàn thể Vùng IV kể từ giờ phút này. Các đơn vị dừng quân và bố trí tại chỗ chờ lệnh Quân Đoàn.
Thiếu Tướng Tư Lệnh cũng gọi cho Tư Lệnh 3 Sư Đoàn 7, 9 và 21. Mặc dù nhận rõ thông điệp của Tổng Thống Minh, nhưng hai vị Tướng trách nhiệm sinh tử Vùng 4 lúc này muốn ngăn trở những hỗn loạn có thể xảy ra trong cảnh tối tăm. Ban hành thiết quân luật, Vùng IV đang có vẻ chuẩn bị đối phó với tình tình hơn là treo cờ hàng. Ngay sau khi hay tin Sài Gòn thất thủ, chợ búa, hàng quán được dân chúng Cần Thơ mua vội bán vội, cố thu xếp nhanh chóng trở về nhà, vẻ mặt ai nấy đều lo âu. Xe lướt nhanh hơn, người đi bộ gần như chạy, đường phố như chuẩn bị đón cơn mưa lớn.
Sau bức thông điệp đầu hàng của Tổng Thống Minh, mọi liên lạc viễn thông với Sài Gòn đều bị cắt đứt. Chúng tôi không biết gì về tình hình Thủ Đô. Tuy nhiên cho đến trưa, tình hình Cần Thơ và 16 tỉnh lỵ vẫn yên tĩnh, chưa có bóng dáng một nhóm Cộng Quân nào vào các Thị Xã. Các tiểu khu vẫn còn liên lạc tốt với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn.
Buổi cơm trưa thật lạnh lẽo, tôi nuốt vội qua loa, rồi để nguyên binh phục kể cả giày, ngả lưng trên giường. Tôi biết, kể từ giờ phút này, biến cố sẽ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Buổi sáng, tôi đã tự ý gọi đại đội trưởng Tổng Hành Dinh yêu cầu cho đổ đầy xăng chiếc Jeep Tư Lệnh Phó, xe tôi, xe Ford Custom mang số ẩn tế dùng cho gia đình Chuẩn Tướng.
13 giờ, chúng tôi trở vào Bộ Tư Lệnh, cách tư dinh Tư Lệnh Phó độ 300 mét. Tôi thấy xe Falcon đen cũng đưa bà Tướng và hai con rời cổng dinh. Tôi hơi ngạc nhiên và lo lắng. Có tiếng ồn ào phía Phòng 2 Quân Đoàn: Một núi giấy tờ đang được đốt cháy. Có lẽ các hồ sơ quan trọng được thiêu hủy? Tôi không rõ Đại Tá Trưởng Phòng còn đó không, và việc thiêu hủy giấy tờ do lệnh của ai? Tôi cũng không rõ giờ phút này còn có đủ các Trưởng Phòng không? Chuẩn Tướng cũng không gọi đến vị Trưởng Phòng nào, ngay cả Trung Tá Tòng, Trưởng Phòng 3! Khuôn viên Bộ Tư Lệnh vắng ngắt, nghẹt thở.
14 giờ 30, Chuẩn Tướng trở về tư dinh. Ông bước lên bực thềm, nhưng không bước vào trong như mọi khi, mà đứng tại hiên tiền đình, nhìn mông lung ra khoảnh sân phía trước. Bất chợt, ông quay lại hỏi tôi:
- Cô đi đâu?
- Thưa, cô đến nhà thờ xin lễ.
Vừa lúc đó, cổng dinh mở toang, chiếc Falcon trườn vào. Tôi thở nhẹ nhõm. Gương mặt ông thoáng rạng rỡ khi thấy vợ con về đến dinh an toàn. Ông bước đến bên xe đón bà, trao đổi vài lời rồi lên xe trở lại Bộ Tư Lệnh.
16 giờ, Chuẩn Tướng rời Bộ Tư Lệnh và đây là lần hiện diện cuối cùng của ông tại bản doanh này. Xe chúng tôi vừa ra khỏi cổng chánh, ông ra hiệu dừng lại và bước xuống xe xem coi chuyện gì xảy ra phía trước. Bên kia đường, đối diện với vòng đai và cổng chánh Bộ Tư Lệnh có rất nhiều thanh niên, kẻ quần tây, người quần đùi ở trần đang nối đuôi thành hàng dài phóng chân rảo nhanh. Đây là những thanh niên vừa thoát từ Trại Tuyển Mộ Nhập Ngũ. Đến ngã tư nơi tiếp giao giữa Bộ Tư Lệnh với dinh Tư Lệnh Phó và dinh Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh, ông ra hiệu dừng xe, bước xuống, đứng ngó bao quát. Lác đác vài xe gắn máy, xe thồ, xe đạp đang hối hả gò lưng. Cả một góc phố như thoi thóp, im lỉm.
Bỗng từ phía chân cầu Nhị Kiều xuất hiện một xe Jeep đang theo Đại Lộ Hòa Bình lao nhanh về phía chúng tôi. Chiếc Jeep dừng lại cạnh xe Chuẩn Tướng, người ngồi trên xe là Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Tướng Trường xuống xe trình Tư Lệnh Phó Quân Đoàn điều gì tôi không nghe được, nhưng với vẻ hấp tấp và gương mặt đầy lo âu, cộng với tình hình trước mặt, tôi đoán chắc Bộ Tư Lệnh của ông hiện đang tan rã. Chuẩn Tướng bảo Tướng Trường theo ông về dinh.
Tại phòng khách, hai vị ngồi yên trên ghế bành, ông bảo Tướng Trường cùng Trung Tá Thành, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh đến đóng bản doanh tại dinh Tiểu Khu Trưởng. Chuẩn Tướng bảo Trung Tá Thành ra lệnh cho 2 Chi Đoàn Thiết Vận Xa M-113 đang ở vùng Quận Lỵ Bình Minh lập tức quay về Cần Thơ và cho người đến tận bến phà chuyển lệnh cho toán chuyển vận phải túc trực ưu tiên chở đoàn thiết vận xa vượt sông. Ra lệnh xong, ông đứng lên, vào phòng rửa mặt trong lúc Tướng Trường vội vã ra xe đến dinh Tiểu Khu Trưởng.
Tôi đứng cạnh bàn viết đặt sát cửa sổ phòng khách, trên bàn có hai máy điện thoại: một tự động và một qua tổng đài viên. Tối nay tôi tăng cường thêm một máy PRC 25 mở tần số của BTL/SĐ21 và Thiết Đoàn 9 để liên lạc, theo dõi. Hình như hệ thống truyền tin của Bộ Tư Lệnh đã ngưng hoạt động từ 17 giờ, vì tôi gọi không nghe có tiếng tổng đài viên trả lời. Còn máy tự động dường như bị cắt. Lúc này Thiếu Tá Trịnh Đức Phương, nguyên Chánh Văn Phòng, cũng từ dưới phòng anh bước lên đứng phía trái Chuẩn Tướng. Cả ba chúng tôi im lặng, hồi hộp nhìn vào phía màn hình TV vẫn sáng trong, im ỉm.
Phái đoàn hai bên rời BTL/QĐ đã gần hai tiếng đồng hồ và chính lúc này là giờ qui định phát thanh. Có tiếng nói vọng ra từ TV, tự xưng là phát ngôn viên của BTL/QĐ và đọc văn bản thông cáo “BTL đã đầu hàng. Các đơn vị phải buông trao vũ khí...” Bản văn vắn tắt nhưng thật rõ ràng, đầy đủ. Nghe đọc bản văn như vậy, tất cả chúng tôi đều chết điếng. Đây không phải là bản văn được hai bên thỏa thuận ký kết. Lập tức Chuẩn Tướng bảo tôi chuyền máy PRC 25 đến chỗ ông ngồi, đích thân ông cầm ống liên hợp gọi “Hổ Cáp” (danh hiệu Trung Tá Thành trong đặc lệnh truyền tin) bảo ông Thành dùng M113 lái đến dinh để đi cùng ông đến đài phát thanh. Nghe đến đó, tôi lùi một bước về phía cửa, ra hiệu cho Trung Sĩ Sao (cận vệ) chuẩn bị sẵn sàng để di chuyển. Tôi trở lại chỗ cũ vừa kịp nghe lời đáp của Trung Tá Thành vang lên trong loa khuếch đại. Lời lẽ vẫn lễ độ, nhưng rõ ràng đó là lời từ chối thi hành lệnh. Thật khó đoan chắc có lực lượng đáng kể nào của Cộng Quân đã có mặt ở thị xã hay Bộ Tư Lệnh chưa, nhưng với văn bản vừa phát ra, chắc chắn sẽ hung hiểm vô cùng nếu tự nhiên xuất hiện một chiến xa rầm rộ di chuyển trong đường phố lúc này. Tôi tin rằng Chuẩn Tướng hiểu rõ điều đó. Trong cảnh biến động này, tuy lòng có lo âu, sợ hãi, nhưng nhìn thấy đức tính gan dạ của ông, tôi khâm phục ông xiết bao! Sau bản thông điệp của Tổng Thống Minh, có ai biết được chắc chắn về số phận của những đơn vị trước đó đang trực tiếp giao tranh ác liệt với các đơn vị cộng quân rồi bỗng dưng họ phải buông súng trong cơn hận thù còn sôi sục của đối phương?
Đang miên man suy nghĩ, tôi giật mình khi điện thoại reo vang. Nhấc ống nghe lên, tôi vội chuyển liền cho Chuẩn Tướng khi nhận ra giọng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Ông trình bày là mọi việc đã giao cho Đại Tá Sáu, TMP/CTCT/QĐ đại diện cùng đi với phe Cộng Quân. Vì sao bản văn chung bị tráo và tình trạng Đại Tá Sáu ra sao chỉ duy nhất Đại Tá Sáu biết mà thôi. Tôi không nghe Chuẩn Tướng báo với Thiếu Tướng chuyện ông tính đến đài phát thanh mà không thành. Cuộc điện đàm giữa hai vị Tướng kết thúc. Lần đầu tiên tôi nhận ra vẻ tuyệt vọng trên khuôn mặt ông. Chỗ dựa cuối cùng đối với đơn vị và những đàn em thân tín mà ông từng chỉ huy giờ đã bật gốc. Ông đứng lên bảo tôi tập hợp toán lính gác để ông nói chuyện. Thượng Sĩ Trưởng Toán tiểu đội bảo vệ dinh Tư Lệnh Phó tập hợp quân thành hai hàng bên hông dinh. Ông cám ơn họ đã ở bên ông đến giờ phút cuối cùng và bảo anh em bây giờ ai muốn rời dinh cứ tùy ý... Bỗng có tiếng người lính gác trên cao báo động có xe Cộng Quân đến. Lập tức ông chạy vào trong nhà. Tôi hô toán cận vệ vào vị trí rồi xách máy PRC 25 theo ông lên lầu. Ông vào phòng ngủ rồi trở ra với khẩu XM 18 trên tay, chạy ra bao lơn, nằm xuống nhìn ra phía đường. Lúc này tôi mới nhận ra đường phố đang tối thui. Trong bóng đêm, hai vệt sáng rực phát ra từ hai đèn pha chiếc xe Jeep vừa rời cổng dinh Tiểu Khu, quét thẳng về phía chúng tôi. Nhưng khi ra đến ngã tư, ánh đèn lại rẽ trái theo Đại Lộ Hòa Bình hướng về BTL/QĐ. Họ không đến chỗ chúng tôi. Ông đứng lên, trở về phòng. Tôi dùng máy, thử gọi danh hiệu của Tướng Trường và Trung Tá Thành. Gọi ba, bốn lần vẫn không có tiếng đáp lại. Có vẻ như hệ thống máy đầu bên kia đã ngưng. Chắc chắn phải có biến cố bên dinh Tiểu Khu Trưởng, chỗ Tướng Trường và Trung Tá Thành đến đóng bản doanh hồi chiều. Dinh TKT và dinh TLP chỉ cách nhau 300 mét thôi, nếu có tiếng súng nổ, chúng tôi phải nghe được, nhưng sự kiện máy không còn mở túc trực chứng tỏ tình trạng Tướng Trường rất bi quan. Có thể ông và Trung Tá Thành đã bị bắt. Có lẽ Chuẩn Tướng thấy rằng thì giờ rất cấp bách, nên ông bước đến đẩy cửa vào phòng bà. Hai cháu bé đang đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch. Tôi trở xuống nhà dặn dò toán gác. Thật ra, tôi tìm họ cũng là để tự trấn an mình.
Mười phút sau ông gọi tôi lên lầu gặp ông. Tại đây tôi thấy ngoài Thiếu Tá Phương còn có đông đủ những binh sĩ đã từng phục dịch Chuẩn Tướng cùng gia đình rất lâu năm. Ông đứng, hai cánh tay ghì chặt đứa con gái 3 tuổi để cho đầu cháu tựa vào má ông. Bà Tướng đứng bên cạnh. Hai bàn tay măng non của cháu bé lùa vào mái tóc cha. Bằng giọng nói tha thiết, ông gởi bà cùng hai con lại cho chúng tôi. Ông quả quyết từ giờ cho tới sáng sẽ không có chuyện gì xẩy ra, bảo chúng tôi cố gắng hộ tống bà cùng gia đình về Sài Gòn rạng sáng ngày mai, 1 tháng 5. Sau đó, ông lấy lại trầm tĩnh, quát bảo tất cả trở xuống dưới nhà, chỉ còn mình tôi và bà Tướng ở lại. Giây phút vĩnh quyết đã đến...
Lúc đó đã 9 giờ đêm 30 tháng 4. Chúng tôi xúm quanh giường ngủ giúp bà Tướng lau rửa thân thể, thay y phục cho ông.
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
Chuông điện thoại reo. Tôi giật mình khi nhận ra tiếng nói của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện. Ông cần nói chuyện với Tư Lệnh Phó. Tôi quyết định nhanh trong trí: “Không cho Đại Tá biết Chuẩn Tướng đã tuẫn tiết!” Tôi nghĩ, hệ thống điện thoại đã bị ngắt hoặc do đơn vị này đã bỏ nhiệm sở từ chiều, không lý gì bây giờ lại tái lập? Chắc Cộng Quân đã chiếm đóng và đang kiểm soát cuộc điện đàm. Sau này khi hồi tưởng lại, tôi mới thấy mình thật khờ: Chỉ vì muốn bảo toàn thi hài Chuẩn Tướng mà hậu quả là Đại Tá Cẩn vẫn tiếp tục cho Tiểu Khu mình tử thủ, để rồi bị bắt, sau đó đưa về Cần Thơ và bị Cộng Quân xử bắn. Đại Tá Cẩn vốn là Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 9 tăng viện cho chiến trường An Lộc mùa Hè 72, được vinh thăng Đại Tá và trở thành Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện sau đó.
Trở lại phòng Chuẩn Tướng, tôi thấy bà đang xếp gấp tư lá cờ vàng ba sọc đỏ và lần tay mở nút áo đặt lá cờ ngay ngắn chỗ phần ngực ông. Bà mong muốn lễ tang Chuẩn Tướng được tổ chức đúng lễ nghi quân cách.
Thiếu Tá Thuyên
Tôi trở lên lầu, gặp Thiếu Tá Thuyên, đang đứng cạnh giường Chuẩn Tướng thút thít khóc. Anh vừa mới đến. Như vậy, tin về Chuẩn Tướng trong đêm đã lan truyền ra ngoài. Anh rời dinh liền sau đó, lúc trời vẫn còn mờ tối. Đó là vị sĩ quan duy nhất của BTL/QĐ đã đến nghiêng chào trước thi hài Chuẩn Tướng. Tôi bàn định cùng bà Tướng thu xếp những gì cần thiết mang đi, đề phòng trước, nếu bị buộc phải rời dinh. Thâm tâm tôi nghĩ đến người bạn chí thân hồi cùng ở Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 31, Trung Úy Nguyễn Vĩnh Thành. Mấy năm nay, Thành đã thuyên chuyển về sở Hành Chánh & Tài Chánh số 5 và cùng gia đình đang ở Cần Thơ, nhờ vậy chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau.
Trong lúc chờ sáng, tôi bàn với Thiếu Tá Phương là anh đảm trách phần việc tại dinh, còn tôi ra ngoài tìm Thành và mua quan tài. Lúc tôi đến cổng chuẩn bị ra ngoài, tôi sững sờ khi thấy thái độ của mọi người. Trong ánh mắt của họ, tôi đọc được nỗi hoang mang nghi ngại: họ đánh giá một khi tôi ra khỏi đây, có lẽ không bao giờ trở lại chăng!
Tôi mở hé cổng để vừa đủ đi qua, nhìn thấy Đại Tá C, một trong những phụ tá Tư Lệnh Phó đang đứng nơi công viên Hòa Bình nhìn về phía cổng ra vào. Khi thấy tôi đã nhận ra ông, Đại Tá C lật đật rảo bước, may mà tôi chưa kịp gọi ông! Tôi vòng bên trái dinh, theo đường tắt rảo bộ đến nhà Thành. Tôi mừng rỡ khi thấy Đại Tá Vinh đang hàn huyên cùng với ba, bốn người trước cổng BTL/Đặc Nhiệm của ông. Tôi cho ông biết Chuẩn Tướng đã chết và bà Tướng muốn chôn chồng theo đúng lễ nghi quân cách, xin Đại Tá, với tư cách một sĩ quan cao cấp, đến gặp họ (Cộng Sản) để nói giúp. Đại Tá Vinh đoan quyết đó là trách nhiệm của ông trong lúc này.
Thiếu Tướng Nam Tự Sát
Đến nhà cha mẹ vợ Trung Úy Thành, tôi thật sự cảm động khi thấy mọi người trong gia đình đều ùa ra đón tôi. Tất cả đã biết tin Chuẩn Tướng đã tuẫn tiết nên rất lo cho số phận của tôi. Tôi kể sơ cho mọi người biết Chuẩn Tướng chết như thế nào, trước đó ông dặn dò điều gì và tôi đang cần được sự giúp đỡ để thực hiện lời ủy thác của người chết.
Tôi cùng Thành lên chiếc vespa của anh đi đặt mua quan tài rồi trở lại sở của anh. Do ý của Thành, tôi tìm gặp Trung Tá Bia, phụ tá Chánh Sở Hành Chánh & Tài Chánh số 5 để nhờ ông chỉ dẫn và giúp lo việc tẩm liệm. Ông đang thay Đại Tá Chánh Sở hiện vắng mặt, chờ đợi người của Cộng Sản đến để bàn giao. Trung Tá Bia hứa là ông sẽ đến liền sau khi xong việc ở đây và căn dặn tôi chuẩn bị những thứ gì cho việc tẩm liệm. Tôi cùng Thành hướng xe về phía chợ. Khác với ngày 30 tháng Tư, buổi sáng hôm nay, 1 tháng 5, Thị Xã Cần Thơ thật ồn ào, rộn rịp. Gần như mọi nhà đều có người đổ xô ra đường, có nhiều con lộ bị nghẹt cứng. Dân chúng đi bộ tràn ra cả lòng đường, chúng tôi phải xuống xe dẫn bộ, len lỏi tìm lối vượt qua. Tôi chợt nhìn thấy Trung Úy Việt, Tùy Viên Tư Lệnh, đang đứng trong sân nhà của Trung Úy Minh, sĩ quan Quân Sử BTL, tôi lật đật kéo Thành tấp vào. Gặp Việt, tôi hỏi ngay tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh.
Buổi sáng, trước khi rời dinh, một hạ sĩ quan văn phòng đã đến trao cho tôi tờ giấy ghi tên họ của tôi đã “đăng ký trình diện” và cho tôi biết tin Thiếu Tướng Nam cũng đã tự sát. Tôi hỏi lại và được Trung Úy Việt xác nhận điều đó. Anh còn cho biết thêm, xe cứu cấp của Quân Y Viện Phan Thanh Giản do anh và Trung Úy Danh gọi đã đến và mang Tư Lệnh về QYV. Việt kể, lúc đó khoảng 7 giờ sáng, Thiếu Tướng đang ở trong phòng, ông bảo hai tùy viên về nhà, rồi dùng Colt tự sát khi ông còn lại một mình. Tôi không tiện hỏi han thêm vì còn quá nhiều việc để làm. Ra đến khu chợ, tôi cùng Thành tìm chỗ ăn sáng. Sau đó, tôi để Thành ngồi lại một mình, đi sâu vào chợ, mua các thứ trà, nhang, đèn cầy, vải liệm rồi trở ra cùng Thành phóng nhanh về dinh. Quan tài đã được đem đến và được đặt trên hai giá gỗ chính giữa nhà. Tôi hơi phập phồng khi thấy có hai cán binh Cộng Sản miền Nam đang trên vọng gác. Họ không đả động gì tới bên trong dinh. Hình như họ được lệnh chỉ ở đó mà thôi. Có lẽ thấy yên tâm phần nào, bà Tướng nói với tôi và Thiếu Tá Phương, ý bà dự định quàng lại 3 ngày. Tôi thấy cổ áo quan cũng “khiêm tốn” nên bàn với Thành đến Quân Y Viện Phan Thanh Giản tìm xin bộ ny lông. Tôi muốn nhân dịp này để biết đích xác tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh.
Viếng Thăm Thi Hài Thiếu Tướng Nam
Xe chúng tôi vừa tới cổng Quân Y Viện, lác đác còn vài thương binh đang khập khễnh cùng thân nhân hối hả ra cổng. Khi vào sâu bên trong, tôi nhận ra nơi đây im lìm, trống vắng, y sĩ, nhân viên lẫn thương bệnh binh đều đã rời viện tự bao giờ rồi. Một ít thương binh tôi còn gặp có lẽ vì thân nhân ở xa mới vừa đến để đón họ. Duy nhất chỉ một người đàn ông trạc tuổi tôi còn đứng trong sân cạnh chiếc xe gắn máy của anh. Tôi thầm mong gặp được nhân vật có vai trò đúng như Trung Tá Bia. Tôi liền đến gần và đánh bạo bộc bạch cùng anh việc tôi đến đây. Rất may, tôi gặp đúng người. Anh trao cho tôi bộ áo quan ny lông giấu nơi yên xe. Tôi hỏi Thiếu Tướng Nam nằm ở đâu? Anh chỉ Phòng Lựa Thương cách đó chỉ 30 thước và dặn dò tôi coi chừng, đã có chúng nó. Khi thấy chỉ có ba chúng tôi, tôi cảm ơn anh rồi bảo Thành chạy xe đến đậu sát bậc thềm căn phòng, rồi ngồi trên xe chờ tôi. Tôi vừa bước vào cửa phòng là thấy ngay một thi thể được phủ kín bằng tấm drap trắng, chỉ ló ra ngoài hai chân vẫn còn mang đôi giày da quân đội. Thi hài nằm trên chiếc băng ca đặt trên giá sắt cao gần 1 thước. Một chiếc bàn nhỏ đặt trước đầu băng ca, trên có một lon nhôm đựng cát dùng thay bát hương, một hộp quẹt diêm và một thẻ nhang nhỏ đã bốc ra. Trong Phòng Lựa Thương vắng ngắt. Tôi đoán chắc đây là thi thể của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Tôi bước tới đưa tay kéo nhẹ tấm phủ trên đầu để được nhìn thấy gương mặt Thiếu Tướng như người đang ngủ. Một vết đạn khoét từ thái dương phải trổ một đường kính cỡ trái chanh nơi thái dương trái, vệt máu đã thẫm đen chạy dài từ đó xuống gò má, đến cổ và động lại trên bâu áo phải làm lem lấm hai ngôi sao thêu màu đen. Bộ quân phục chiến đấu vẫn trên người Thiếu Tướng đến giây phút cuối cùng. Tôi đốt một nén hương cặm vào cái lon đã có ba chân nhang của ai đó đến đây trước tôi. Tôi kéo tấm vải phủ lại như cũ rồi lặng lẽ rời Quân Y Viện.
Lể Tẩm Liệm Đơn Sơ
Tôi trở về dinh để chờ đón Trung Tá Bia. Hai mươi phút sau Trung Tá Bia đến đưa thi hài xuống nhà dưới. Trung Tá Bia bảo tôi nâng phần đầu. Lễ tẩm liệm đơn sơ, nhanh chóng do Trung Tá Bia chỉ dẫn thực hiện. Tôi đứng ở đầu quan tài lặng nhìn ông điều khiển mấy người lính trong dinh làm động tác cuối, từ từ đậy nắp áo quan. Bỗng có tiếng la uất nghẹn:
- Trời ơi! Ông “thầy” ơi!
Rồi bóng một người lao đến bên quan tài, anh xúc động gần như quỵ xuống. Tôi nhận ra đó là Thiếu Tá Lành, Tiểu Đoàn Trưởng 3/33. Tiểu đoàn của anh sáng nay cũng đã tuân lệnh giải giáp, giao vũ khí, cởi bỏ quân phục tại chỗ, rồi từ trong vùng hành quân lội bộ ra lộ, mạnh ai tự tìm phương tiện về nhà. Thiếu Tá Lành được tin cái chết của Tướng Hưng nên tìm đến tư dinh. Anh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân, sau khi rời quân trường, về Tiểu Đoàn 2/31 cuối năm 68. Do đã từng phục vụ dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Văn Hưng, thuở đó là Trung Đoàn Trưởng 31, nên anh vẫn nhớ và kính trọng vị “thầy” của mình.
Đúng lúc đó, Trung Úy Phúc xuất hiện. Anh cùng vợ con đáp xe đò từ Sài Gòn xuống tới. Mọi việc xong xuôi, Trung Tá Bia từ giã chúng tôi để về nhà gặp gia đình. Từ hôm qua, 30 tháng 4, tên ông vẫn còn nằm trong sổ cấm quân ban hành từ hơn một tuần nay của BTL/QĐ. Một người lính vào nói nhỏ cho tôi biết một nguồn tin rất bất lợi cho chúng tôi. Do vậy, tôi, Phúc và Thiếu Tá Phương thuyết phục bà Tướng nên an táng ngay cho ông và rời dinh càng sớm càng tốt. Chúng tôi phân chia công việc cho nhau: Phúc cùng vài nhân viên đến khu đất nhà ở Cái Răng lo đào huyệt. Phần tôi lo xe tang. Thành đưa tôi đến Hội Mai Táng Từ Thiện của Hiệp Hội Xe Đò Cần Thơ. Rất may cho chúng tôi là người đại diện cho Hiệp Hội chấp thuận, dù biết đó là đám tang của một vị Tướng. Ông cho biết là phải lo cho một đám tang khác lúc 15 giờ. Vậy chúng tôi phải chuẩn bị sẵn sàng, lúc xe tang đến là phải di chuyển liền.
Từ lúc đó cho đến khi xe tang xuất hiện, chúng tôi thu xếp mọi thứ đem theo để khi rời dinh sẽ không trở lại nữa. Đúng lúc tôi đang bối rối với chút mong manh hy vọng, bỗng có tiếng ồn ào, rồi cánh cửa cổng mở toang. Chiếc xe tang đen ngòm đưa phần đuôi trườn vào sân. Các nhân viên trên xe nhanh nhẩu nhảy xuống chạy vào nhà, năm phút sau tất cả chúng tôi bắt đầu rời dinh. Anh Phương, Phúc, tôi cùng gia đình bà Tướng ngồi trên xe tang. Thành và những nhân viên khác dùng phương tiện riêng chạy theo sau xe tang. Lúc xe rời cổng lớn một đoạn, tôi nhìn lại thấy có nhiều người chạy ùa vào dinh. Vĩnh biệt tất cả, vĩnh biệt cả con chó berger chúng tôi đau lòng phải bỏ nó lại! Xe quẹo qua Đại Lộ Hòa Bình hướng về Cái Răng.
Tại huyệt mộ, một cậu bé trạc độ 14 tuổi, nhưng đôi tay thật thông thạo, nhịp nhàng với miệng hô khẩu lệnh điều khiển lên xuống đòn tay, rút dây khéo léo, đưa êm thấm quan tài xuống đáy huyệt. Họ nhanh chóng phụ giúp chúng tôi lấp đất và đắp vung lên thành hình ngôi mộ. Chúng tôi ngậm ngùi chào từ biệt Chuẩn Tướng, để lại mình ông đơn độc như cố Thiếu Tướng Nam mà tôi đã gặp vào buổi sáng.
Chúng tôi về đến Cần Thơ thì trời đã tối. Bà Tướng và gia đình cùng Thiếu Tá Phương, Trung Úy Phúc đến nương náu tại một ngôi chùa. Rốt cuộc chúng tôi cũng về được Sài Gòn đông đủ. Khi bà Tướng cùng gia đình tạm có chỗ ở là đúng lúc tôi phải vào trại cải tạo.
Chuẩn Tướng Trần Văn
Hai
Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh
Di ảnh cố Chuẩn Tướng Trần Văn Hai
Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh
Di ảnh cố Chuẩn Tướng Trần Văn Hai
Tiểu Sử
Viết Về Tướng Trần Văn Hai
Người Lính Già
Viết Về Tướng Trần Văn Hai
Người Lính Già
Có lẽ
ít ai để ý và biết tới tân Thiếu Úy Trần Văn Hai tốt nghiệp khóa 7 trường Võ Bị
Đà Lạt tình nguyện ra chiến đấu tại chiến trường Bắc Việt năm 1952 được bổ nhiệm
về phục vụ Tiểu Đoàn 4 Việt Nam (Thiếu Tá Đặng Văn Sơn, Tiểu Đoàn Trưởng, sau
này là Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 rồi Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ Dục
Mỹ). Sau khi đất nước bị chia đôi và người Pháp lần lượt trao trả quyền quản trị,
điều khiển các quân khu lại cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam ( đặc biệt là Quân
Khu 4 trên cao nguyên từ trước vẫn hoàn toàn do các sĩ quan Pháp nắm giữ) và do
một cơ duyên nào đó ông Hai gặp Đại Úy Đặng Hữu Hồng. Đại Úy Hồng là một chuyên
viên tình báo mới bổ nhiệm lên cao nguyên làm Trưởng Phòng 2 Quân Khu 4 đã nhận
thấy ông Hai rất có thiện chí với nhiều khả năng về tình báo nên đã đề nghị rút
về phụ trách ban binh địa của phòng 2 Quân Khu. Sau đó Trung Úy Hai được vinh
thăng Đại Úy đi làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 81 Địa Phương đồn trú tại Phan
Thiết rồi về làm Đại Đội Trưởng chỉ huy công vụ Trung Đoàn 44 thuộc Sư Đoàn 23
Bộ Binh.
Năm 1961, sau khi tốt nghiệp khóa bộ binh cao cấp tại Hoa Kỳ thì Đại Úy Trần Văn Hai đã trở nên quen thuộc và được nhiều người biết đến trong tình thân thương cũng có mà thù ghét cũng không phải là ít. Khi Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ được thành lập để huấn luyện các đơn vị Biệt Động Quân về rừng núi sình lầy, mưu sinh thoát hiểm cho sĩ quan của các đơn vị và sinh viên sĩ quan của Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Đại Úy Hai là một trong số huấn luyện viên tận tụy làm việc hết mình theo đúng quan niệm: “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu,” và mồ hôi của ông luôn luôn ướt sũng bộ đồ tác chiến như mọi người đã nhìn thấy.
Năm 1964, Đại Úy Trần Văn Hai được vinh thăng Thiếu Tá sau khi mang lon Đại Úy liên tiếp 9 năm và được bổ làm Tỉnh Trưởng khiêm Tiểu Khu Trưởng Phú Yên và cũng chính từ ở chức vụ nầy ông đã có dịp bộc lộ các cá tính và con người thực. Dưới đây là phần trích dẫn của Lôi Tam viết lại cuộc đối thoại của nhóm quân nhân và công chức trẻ mà chính anh là một:
- Tụi bây bỏ hết công việc ra đây mai mốt anh Mũ Nâu lại gọi vào chửi cho cả đám.
Anh Mũ Nâu là biệt danh chúng tôi dùng để gọi Trung Tá Hai, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng vốn xuất thân là Biệt Động Quân.
- Ối ăn nhằm gì, chửi bới là nghề của anh ấy, không có chuyện cho anh ấy chửi anh ấy bệnh ngay. Dưới mắt anh ấy chỉ có mình anh ấy là khá, kỳ dư còn lại là lũ ăn hại, đái rát.
- Tụi bây chửi anh ấy cũng tội nghiệp, phải công nhận là anh ấy có thiện chí. Nếu nước mình mà có vài mươi mạng như anh ấy thì cũng đỡ khổ.
- Đỡ quá chứ cũng đỡ gì... chỉ riêng cái việc anh ấy không ăn bẩn là tao sợ anh ấy rồi...
Chúng tôi kính phục Trung Tá Hai vì sự trong sạch, thái độ ngay thẳng và lòng yêu mến dân chúng thật tình của ông. Trong thời gian phục vụ dưới quyền của ông, chúng tôi phải làm việc hai ba lần mệt hơn khi làm việc với các ông Tỉnh Trưởng khác nhưng cũng là thời gian chúng tôi thích thú nhất...
Ông không bao giờ cười, họa hoằn lắm mới có một cái nhếch mép nhưng lại có máu khôi hài lạnh. Tôi nhớ sau cuộc hành quân tại Vũng Rô, một phái đoàn tướng tá Việt-Mỹ đến Phú Yên tham dự cuộc thuyết trình về thành quả. Trong khi ông Hai đang thuyết trình thì một ông Đại Tá Mỹ đứng dậy đặt câu hỏi là trong số thương vong của địch có bao nhiêu phần trăm do hỏa lực bộ binh?
Trung Tá Hai không trả lời ngay, ông có vẻ suy nghĩ, một lát sau ông nói:
- Tôi rất tiếc không trả lời câu hỏi của Đại Tá lúc này được.
Mọi người có vẽ ngạc nhiên, viên Đại Tá Mỹ cau mày hỏi:
- Tại sao vậy Trung Tá?
Ông Hai hơi nhếch mép, tôi biết ông đang cố gắng nén cái cười ngạo mạn:
- Tại vì tôi chưa kịp viết thư cho viên tướng Cộng Sản ở vùng nầy. Lẽ ra tôi phải viết thư trước và yêu cầu hắn chỉ thị cho binh sĩ của hắn khi bị sát hại bằng hỏa lực phi pháo thì phải nằm riêng ra một chỗ và khi bị bộ binh bắn thì phải nằm riêng ra một chỗ để chúng ta dễ đếm và thống kê, lần nầy thì chịu, theo nhận định của Bộ Chỉ Huy hỗn hợp thì đây là một cuộc hành quân phối hợp hoàn hảo của Hải, Lục, Không Quân, thương vong của địch rải rác lẫn lộn, tình thế cũng không cho phép binh sĩ của ta ở lại lâu tại vị trí giao tranh để làm thống kê tỉ mỉ, vì vậy tôi không thể trả lời được câu hỏi của Đại Tá.
Trung Tá Hai có thể nén cười được nhưng chúng tôi thì không...
Trung Tá Hai rời chức vụ Tỉnh Trưởng vì một chuyện rất nhỏ... Ông tướng Tư Lệnh vùng đang say mê một cô ca sĩ; biết rõ như thế nên một số các ông Tỉnh Trưởng trong vùng thi nhau làm vui lòng ông Tướng mỗi khi cô ca sĩ này đến trình diễn tại địa phương.
Ông Hai không cần biết điều này và ông cũng không cần biết làm gì vì bản chất của ông: thanh liêm, chánh trực. Sau một lần không làm vừa lòng tướng Tư Lệnh về những chuyện công vụ, một tháng sau ông Hai bị thay thế, chúng tôi tiễn ông ra máy bay trực thăng... và hành trang của ông là một túi vải nhỏ, loại mà các phi công sử dụng mỗi khi đi bay...
- Tôi cám ơn các anh chị đã tận tình làm việc với tôi trong những tháng vừa qua; có thể người ta cho rằng mình là những đứa dại, chỉ biết làm việc mà không biết đục khoét. Nhưng tôi tin rằng mình đã làm đúng...
Thảo luận với ông về những khó khăn trở ngại ông thường nói:
- Tôi biết, tôi biết, tôi đã đi qua chiếc cầu đó rồi, đừng nản, sớm muộn gì đất nước mình cũng có ngày sáng sủa...
Ông về làm Chỉ Huy Trưởng BĐQ và được vinh thăng Đại Tá... Sau Tết Mậu Thân, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, vinh thăng Chuẩn Tướng, Tư Lệnh Biệt Khu 44, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Huấn Khu Dục Mỹ và cuối cùng là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh.
Khi ông vừa rời Phú Yên về trình diện Bộ Quốc Phòng thì cũng đúng lúc chức Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân đang trống và ông Hai được bổ nhiệm điền khuyết trở lại nơi ông đã xuất thân với những tình cảm thân thương. Vừa nhận chức với buổi họp tham mưu đầu tiên tại Bộ Chỉ Huy, ông đã dành tối đa thời giờ để lên lớp đúng theo danh từ mà Lôi Tam dùng để diễn tả các chỉ thị Tham Mưu chính yếu nhằm quét dọn rác rưới trong việc điều hành, thuyên chuyển nhân viên, sử dụng quỹ xã hội cách rất đúng đắn và những ngày sau đó đi thăm các đơn vị, đặc biệt là các đơn vị trú đóng tại những căn cứ hẻo lánh, các trại gia binh và các thương bệnh binh đang nằm điều trị tại các quân y viện. Quyết định đầu tiên của ông là xuất quỹ xã hội trao tặng cho mỗi đơn vị 5,000 đồng để tổ chức Cây Mùa Xuân, ông quan niệm đây là tiền của anh em đóng góp vào thì họ phải được hưởng, và hơn nữa ông là một người trong sạch nên ông coi giá trị đồng tiền khá cao, tại mỗi đơn vị ông giơ cao bao thơ đựng tiền lập đi lập lại nhiều lần khiến mọi người phải cười thầm.
Đặc điểm của ông là luôn luôn lắng nghe những khó khăn của các đơn vị trưởng và dù với cấp bậc khiêm nhường ông không ngần ngại đến gõ cửa chính các vị Tư Lệnh Vùng để trực tiếp can thiệp giải quyết vấn đề chứ không qua các vị Tham Mưu Trưởng. Ở đâu có đụng chạm, có khó khăn là có sự hiện diện của ông và đặc biệt là nhiều khi mùi khét của thuốc súng giao tranh chưa tan ông cũng không ngần ngại đáp trực thăng xuống để cùng chia sẻ ngay tại chỗ với đơn vị và đặc biệt với các cấp chỉ huy về những nỗi khó khăn gặp phải mặc dù đó không phải là nhiệm vụ chính yếu được ấn định cho chức vụ Chỉ Huy Trưởng binh chủng của ông là quản trị.
Trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, chính ông đã trực tiếp điều khiển các Liên Đoàn BĐQ hành quân giải tỏa vùng ven đô gây tổn thất nặng nề cho địch quân cũng như giảm thiểu thiệt hại cho dân chúng.
Khi được bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc CSQG, ông có đem theo một số sĩ quan và hạ sĩ quan để cùng tiếp tay với ông điều hành công vụ và ông cũng tỏ ra rất cứng rắn đối với những người này. Trường hợp Đại Úy H. cùng quê và được ông coi như một người em đỡ đầu được bổ nhiệm làm Trưởng Ty Cảnh Sát Quận 10 nhưng có những hành động lợi dụng chức vụ, tức khắc bị ông áp dụng biện pháp trừng phạt và trả về quân đội, trong đó có luôn cả chánh văn phòng của ông. Khi một đại diện của Giám Sát Viện phàn nàn với ông về những bê bối trong ngành cảnh sát, ông trầm ngâm trả lời:
- Tôi biết, nhưng vấn đề không thể giải quyết một sớm một chiều mà phải kiên nhẫn tìm ra những đầu mối, những tương quan thế lực chằng chịt thì mới ngăn chận được. Từ ngày về đây tôi đã gặp nhiều khó khăn, mình như người vác chiếc thang dài đi trong căn nhà hẹp, bốn bề đều đụng chạm. Không ai muốn mình làm những điều mình cần thấy làm.
Tướng Hai là một quân nhân thuần túy, không biết hay nói đúng hơn là không bao giờ chịu luồn cúi. Khi mới nhận chức CHT/BĐQ và lúc đó uy quyền của Tân Sơn Nhất hay nói đúng hơn là Tướng Kỳ đang ở thế thượng phong nên có người đặt vấn đề là nếu ông muốn tiến thân vững thì cần phải tìm cách móc nối để lọt vào vòng ảnh hưởng, nhưng ông làm ngơ. Với ông, bè phái là một từ ngữ xa lạ.
Theo tiết lộ của cụ Trần Văn Hương khi cụ được chỉ định làm Thủ Tướng thay thế Luật Sư Lộc, cụ đề nghị với Tổng Thống bổ nhiệm một tướng lãnh có khả năng chỉ huy chiến trường là Trung Tướng Đỗ Cao Trí làm Tư Lệnh Quân Đoàn III và Đại Tá Trần Văn Hai, một sĩ quan trong sạch làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát. Nhưng có lẽ đó cũng là một sự trùng hợp ngẫu nhiên nằm trong kế hoạch loại bỏ ảnh hưởng của Tướng Kỳ.
Khi vừa nhận chức được ít lâu thì ông Bộ Trưởng Nội Vụ muốn đưa đàn em về coi Cảnh Sát Tư Pháp thay Luật Sư Đinh Thành Châu, nhưng ông Hai thẳng thắn trả lời:
- Nếu ông Bộ Trưởng muốn thay xin cứ ban hành nghị định, tôi sẽ thi hành nhưng tôi không thấy Luật Sư Châu có lỗi lầm gì hết.
Để dằn mặt và trả đũa sự cứng đầu của ông, phụ phí của cảnh sát bị cắt giảm quá một nửa, ông biết như vậy sẽ gặp nhiều trở ngại cho sự thi hành nhiệm vụ nhưng vẫn làm những gì mà lương tâm ông nghĩ và coi đó là lẽ phải. Với thời gian hơn một năm làm TGĐ, ông Hai chỉ đến gặp Tổng Thống, Phó Tổng Thống và Thủ Tướng khi có lệnh hoặc vì công vụ phải đích thân trình bày, ngoài ra không bao giờ mon men cầu cạnh và chưa bao giờ người ta thấy ông mặc thường phục đi xe hơi mang số ẩn tế hoặc công xa lộng lẫy với xe hộ tống võ trang cùng mình chạy trước, chạy sau dẹp đường mà chỉ xử dụng chiếc xe Jeep cũ của BĐQ mang theo với vài người cận vệ ngồi phía sau. Người ta cũng không mấy ngạc nhiên khi thấy ông bị thay thế trở về Quân Đội vì cụ Hương đã rời phủ Thủ Tướng và hơn thế nữa, các thế lực sẽ không thể chi phối các hoạt động của Cảnh Sát nếu còn để ông tiếp tục nắm quyền điều khiển cơ quan này.
Mùa Hè Đỏ Lửa 72, Cộng Quân đẩy mạnh các nỗ lực tấn công có tính cách trận địa chiến cắt đứt các trục giao thông chiến lược, đặc biệt là đoạn Quốc Lộ 14 nối liền hai thị xã Komtum, Pleiku và Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II-Quân Khu 2 cũng vừa mới nhận chức muốn chứng tỏ khả năng chỉ huy của ông cũng như tạo một tiếng vang nên ra lệnh cho lực lượng BĐQ phải hành quân giải tỏa đoạn Quốc Lộ nêu trên với sự tăng cường của một Chi Đoàn Thiết Kỵ giao tiếp với một thành phần của Sư Đoàn 23 nhưng liên tiếp bị chận đánh không tiến lên được như ý muốn của ông nên trong một buổi họp tham mưu, tướng Tư Lệnh đã trút giận dữ cho là BĐQ không chịu đánh, ra lệnh thay thế các cấp chỉ huy liên hệ bằng những sĩ quan khác đồng thời còn hướng về Tướng Hai lúc này đã được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó Quân Đoàn và nói:
- Biệt Động Quân của anh đó.
Bị miệt thị và nhất là tự ái binh chủng của ông nên ông đã thẳng thắn đáp lễ là ông sẽ đứng ra trực tiếp điều khiển cuộc hành quân và ngay sau chấm dứt ông sẽ rời khỏi Quân Đoàn II vì ông không thể cộng tác với một ông Tư Lệnh làm việc tùy hứng. Hai ngày sau đó lực lượng Biệt Động Quân giao tiếp được thành phần tiếp đón từ Kontum tiến ra, tướng Tư Lệnh đã bay tới nơi với phái đoàn báo chí để ngợi khen cái bắt tay có tính cách quyết định này. Tuy nhiên, để giữ lời hứa, Tướng Hai yêu cầu được rời Quân Đoàn II, sau đó về làm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Huấn Khu Dục Mỹ, nơi mà trước đây ông đã phục vụ với tính cách một huấn luyện viên nhỏ bé; nhưng ông chưa ngồi ở chức vụ này được bao lâu thì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV nên ông Hai được bổ nhiệm thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam trong chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7, một đại đơn vị nổi danh với những vị Tư Lệnh tiền nhiệm yêu nước, trong sạch gồm cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Một đơn vị đã hoạt động một cách hữu hiệu trong nhiệm vụ chận đứng sự xâm nhập của các đơn vị Cộng Quân trong mưu toan cắt đứt đường liên lạc tiếp tế từ miền Tây về thủ đô và đó cũng là đơn vị đã chứng kiến hành động phi thường nhất của ông với niềm tin sắt đá: “sớm muộn gì đất nước mình rồi sẽ có ngày sáng sủa.”
Cùng các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Tướng Hai đã ghi đậm một nét son cho trang cuối của quân sử Việt Nam Cộng Hòa. Nhân ngày Quân Lực, xin đốt nén nhang cho những trang trung liệt, những người đời đời là nỗi tiếc thương và niềm hãnh diện cho Quân Dân Miền Nam, cho mọi thế hệ, cho mọi thời đại của giòng sử đấu tranh Việt.
Trích trong “Nguyệt San Đoàn Kết”
Năm 1961, sau khi tốt nghiệp khóa bộ binh cao cấp tại Hoa Kỳ thì Đại Úy Trần Văn Hai đã trở nên quen thuộc và được nhiều người biết đến trong tình thân thương cũng có mà thù ghét cũng không phải là ít. Khi Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ được thành lập để huấn luyện các đơn vị Biệt Động Quân về rừng núi sình lầy, mưu sinh thoát hiểm cho sĩ quan của các đơn vị và sinh viên sĩ quan của Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Đại Úy Hai là một trong số huấn luyện viên tận tụy làm việc hết mình theo đúng quan niệm: “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu,” và mồ hôi của ông luôn luôn ướt sũng bộ đồ tác chiến như mọi người đã nhìn thấy.
Năm 1964, Đại Úy Trần Văn Hai được vinh thăng Thiếu Tá sau khi mang lon Đại Úy liên tiếp 9 năm và được bổ làm Tỉnh Trưởng khiêm Tiểu Khu Trưởng Phú Yên và cũng chính từ ở chức vụ nầy ông đã có dịp bộc lộ các cá tính và con người thực. Dưới đây là phần trích dẫn của Lôi Tam viết lại cuộc đối thoại của nhóm quân nhân và công chức trẻ mà chính anh là một:
- Tụi bây bỏ hết công việc ra đây mai mốt anh Mũ Nâu lại gọi vào chửi cho cả đám.
Anh Mũ Nâu là biệt danh chúng tôi dùng để gọi Trung Tá Hai, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng vốn xuất thân là Biệt Động Quân.
- Ối ăn nhằm gì, chửi bới là nghề của anh ấy, không có chuyện cho anh ấy chửi anh ấy bệnh ngay. Dưới mắt anh ấy chỉ có mình anh ấy là khá, kỳ dư còn lại là lũ ăn hại, đái rát.
- Tụi bây chửi anh ấy cũng tội nghiệp, phải công nhận là anh ấy có thiện chí. Nếu nước mình mà có vài mươi mạng như anh ấy thì cũng đỡ khổ.
- Đỡ quá chứ cũng đỡ gì... chỉ riêng cái việc anh ấy không ăn bẩn là tao sợ anh ấy rồi...
Chúng tôi kính phục Trung Tá Hai vì sự trong sạch, thái độ ngay thẳng và lòng yêu mến dân chúng thật tình của ông. Trong thời gian phục vụ dưới quyền của ông, chúng tôi phải làm việc hai ba lần mệt hơn khi làm việc với các ông Tỉnh Trưởng khác nhưng cũng là thời gian chúng tôi thích thú nhất...
Ông không bao giờ cười, họa hoằn lắm mới có một cái nhếch mép nhưng lại có máu khôi hài lạnh. Tôi nhớ sau cuộc hành quân tại Vũng Rô, một phái đoàn tướng tá Việt-Mỹ đến Phú Yên tham dự cuộc thuyết trình về thành quả. Trong khi ông Hai đang thuyết trình thì một ông Đại Tá Mỹ đứng dậy đặt câu hỏi là trong số thương vong của địch có bao nhiêu phần trăm do hỏa lực bộ binh?
Trung Tá Hai không trả lời ngay, ông có vẻ suy nghĩ, một lát sau ông nói:
- Tôi rất tiếc không trả lời câu hỏi của Đại Tá lúc này được.
Mọi người có vẽ ngạc nhiên, viên Đại Tá Mỹ cau mày hỏi:
- Tại sao vậy Trung Tá?
Ông Hai hơi nhếch mép, tôi biết ông đang cố gắng nén cái cười ngạo mạn:
- Tại vì tôi chưa kịp viết thư cho viên tướng Cộng Sản ở vùng nầy. Lẽ ra tôi phải viết thư trước và yêu cầu hắn chỉ thị cho binh sĩ của hắn khi bị sát hại bằng hỏa lực phi pháo thì phải nằm riêng ra một chỗ và khi bị bộ binh bắn thì phải nằm riêng ra một chỗ để chúng ta dễ đếm và thống kê, lần nầy thì chịu, theo nhận định của Bộ Chỉ Huy hỗn hợp thì đây là một cuộc hành quân phối hợp hoàn hảo của Hải, Lục, Không Quân, thương vong của địch rải rác lẫn lộn, tình thế cũng không cho phép binh sĩ của ta ở lại lâu tại vị trí giao tranh để làm thống kê tỉ mỉ, vì vậy tôi không thể trả lời được câu hỏi của Đại Tá.
Trung Tá Hai có thể nén cười được nhưng chúng tôi thì không...
Trung Tá Hai rời chức vụ Tỉnh Trưởng vì một chuyện rất nhỏ... Ông tướng Tư Lệnh vùng đang say mê một cô ca sĩ; biết rõ như thế nên một số các ông Tỉnh Trưởng trong vùng thi nhau làm vui lòng ông Tướng mỗi khi cô ca sĩ này đến trình diễn tại địa phương.
Ông Hai không cần biết điều này và ông cũng không cần biết làm gì vì bản chất của ông: thanh liêm, chánh trực. Sau một lần không làm vừa lòng tướng Tư Lệnh về những chuyện công vụ, một tháng sau ông Hai bị thay thế, chúng tôi tiễn ông ra máy bay trực thăng... và hành trang của ông là một túi vải nhỏ, loại mà các phi công sử dụng mỗi khi đi bay...
- Tôi cám ơn các anh chị đã tận tình làm việc với tôi trong những tháng vừa qua; có thể người ta cho rằng mình là những đứa dại, chỉ biết làm việc mà không biết đục khoét. Nhưng tôi tin rằng mình đã làm đúng...
Thảo luận với ông về những khó khăn trở ngại ông thường nói:
- Tôi biết, tôi biết, tôi đã đi qua chiếc cầu đó rồi, đừng nản, sớm muộn gì đất nước mình cũng có ngày sáng sủa...
Ông về làm Chỉ Huy Trưởng BĐQ và được vinh thăng Đại Tá... Sau Tết Mậu Thân, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, vinh thăng Chuẩn Tướng, Tư Lệnh Biệt Khu 44, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Huấn Khu Dục Mỹ và cuối cùng là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh.
Khi ông vừa rời Phú Yên về trình diện Bộ Quốc Phòng thì cũng đúng lúc chức Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân đang trống và ông Hai được bổ nhiệm điền khuyết trở lại nơi ông đã xuất thân với những tình cảm thân thương. Vừa nhận chức với buổi họp tham mưu đầu tiên tại Bộ Chỉ Huy, ông đã dành tối đa thời giờ để lên lớp đúng theo danh từ mà Lôi Tam dùng để diễn tả các chỉ thị Tham Mưu chính yếu nhằm quét dọn rác rưới trong việc điều hành, thuyên chuyển nhân viên, sử dụng quỹ xã hội cách rất đúng đắn và những ngày sau đó đi thăm các đơn vị, đặc biệt là các đơn vị trú đóng tại những căn cứ hẻo lánh, các trại gia binh và các thương bệnh binh đang nằm điều trị tại các quân y viện. Quyết định đầu tiên của ông là xuất quỹ xã hội trao tặng cho mỗi đơn vị 5,000 đồng để tổ chức Cây Mùa Xuân, ông quan niệm đây là tiền của anh em đóng góp vào thì họ phải được hưởng, và hơn nữa ông là một người trong sạch nên ông coi giá trị đồng tiền khá cao, tại mỗi đơn vị ông giơ cao bao thơ đựng tiền lập đi lập lại nhiều lần khiến mọi người phải cười thầm.
Đặc điểm của ông là luôn luôn lắng nghe những khó khăn của các đơn vị trưởng và dù với cấp bậc khiêm nhường ông không ngần ngại đến gõ cửa chính các vị Tư Lệnh Vùng để trực tiếp can thiệp giải quyết vấn đề chứ không qua các vị Tham Mưu Trưởng. Ở đâu có đụng chạm, có khó khăn là có sự hiện diện của ông và đặc biệt là nhiều khi mùi khét của thuốc súng giao tranh chưa tan ông cũng không ngần ngại đáp trực thăng xuống để cùng chia sẻ ngay tại chỗ với đơn vị và đặc biệt với các cấp chỉ huy về những nỗi khó khăn gặp phải mặc dù đó không phải là nhiệm vụ chính yếu được ấn định cho chức vụ Chỉ Huy Trưởng binh chủng của ông là quản trị.
Trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, chính ông đã trực tiếp điều khiển các Liên Đoàn BĐQ hành quân giải tỏa vùng ven đô gây tổn thất nặng nề cho địch quân cũng như giảm thiểu thiệt hại cho dân chúng.
Khi được bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc CSQG, ông có đem theo một số sĩ quan và hạ sĩ quan để cùng tiếp tay với ông điều hành công vụ và ông cũng tỏ ra rất cứng rắn đối với những người này. Trường hợp Đại Úy H. cùng quê và được ông coi như một người em đỡ đầu được bổ nhiệm làm Trưởng Ty Cảnh Sát Quận 10 nhưng có những hành động lợi dụng chức vụ, tức khắc bị ông áp dụng biện pháp trừng phạt và trả về quân đội, trong đó có luôn cả chánh văn phòng của ông. Khi một đại diện của Giám Sát Viện phàn nàn với ông về những bê bối trong ngành cảnh sát, ông trầm ngâm trả lời:
- Tôi biết, nhưng vấn đề không thể giải quyết một sớm một chiều mà phải kiên nhẫn tìm ra những đầu mối, những tương quan thế lực chằng chịt thì mới ngăn chận được. Từ ngày về đây tôi đã gặp nhiều khó khăn, mình như người vác chiếc thang dài đi trong căn nhà hẹp, bốn bề đều đụng chạm. Không ai muốn mình làm những điều mình cần thấy làm.
Tướng Hai là một quân nhân thuần túy, không biết hay nói đúng hơn là không bao giờ chịu luồn cúi. Khi mới nhận chức CHT/BĐQ và lúc đó uy quyền của Tân Sơn Nhất hay nói đúng hơn là Tướng Kỳ đang ở thế thượng phong nên có người đặt vấn đề là nếu ông muốn tiến thân vững thì cần phải tìm cách móc nối để lọt vào vòng ảnh hưởng, nhưng ông làm ngơ. Với ông, bè phái là một từ ngữ xa lạ.
Theo tiết lộ của cụ Trần Văn Hương khi cụ được chỉ định làm Thủ Tướng thay thế Luật Sư Lộc, cụ đề nghị với Tổng Thống bổ nhiệm một tướng lãnh có khả năng chỉ huy chiến trường là Trung Tướng Đỗ Cao Trí làm Tư Lệnh Quân Đoàn III và Đại Tá Trần Văn Hai, một sĩ quan trong sạch làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát. Nhưng có lẽ đó cũng là một sự trùng hợp ngẫu nhiên nằm trong kế hoạch loại bỏ ảnh hưởng của Tướng Kỳ.
Khi vừa nhận chức được ít lâu thì ông Bộ Trưởng Nội Vụ muốn đưa đàn em về coi Cảnh Sát Tư Pháp thay Luật Sư Đinh Thành Châu, nhưng ông Hai thẳng thắn trả lời:
- Nếu ông Bộ Trưởng muốn thay xin cứ ban hành nghị định, tôi sẽ thi hành nhưng tôi không thấy Luật Sư Châu có lỗi lầm gì hết.
Để dằn mặt và trả đũa sự cứng đầu của ông, phụ phí của cảnh sát bị cắt giảm quá một nửa, ông biết như vậy sẽ gặp nhiều trở ngại cho sự thi hành nhiệm vụ nhưng vẫn làm những gì mà lương tâm ông nghĩ và coi đó là lẽ phải. Với thời gian hơn một năm làm TGĐ, ông Hai chỉ đến gặp Tổng Thống, Phó Tổng Thống và Thủ Tướng khi có lệnh hoặc vì công vụ phải đích thân trình bày, ngoài ra không bao giờ mon men cầu cạnh và chưa bao giờ người ta thấy ông mặc thường phục đi xe hơi mang số ẩn tế hoặc công xa lộng lẫy với xe hộ tống võ trang cùng mình chạy trước, chạy sau dẹp đường mà chỉ xử dụng chiếc xe Jeep cũ của BĐQ mang theo với vài người cận vệ ngồi phía sau. Người ta cũng không mấy ngạc nhiên khi thấy ông bị thay thế trở về Quân Đội vì cụ Hương đã rời phủ Thủ Tướng và hơn thế nữa, các thế lực sẽ không thể chi phối các hoạt động của Cảnh Sát nếu còn để ông tiếp tục nắm quyền điều khiển cơ quan này.
Mùa Hè Đỏ Lửa 72, Cộng Quân đẩy mạnh các nỗ lực tấn công có tính cách trận địa chiến cắt đứt các trục giao thông chiến lược, đặc biệt là đoạn Quốc Lộ 14 nối liền hai thị xã Komtum, Pleiku và Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II-Quân Khu 2 cũng vừa mới nhận chức muốn chứng tỏ khả năng chỉ huy của ông cũng như tạo một tiếng vang nên ra lệnh cho lực lượng BĐQ phải hành quân giải tỏa đoạn Quốc Lộ nêu trên với sự tăng cường của một Chi Đoàn Thiết Kỵ giao tiếp với một thành phần của Sư Đoàn 23 nhưng liên tiếp bị chận đánh không tiến lên được như ý muốn của ông nên trong một buổi họp tham mưu, tướng Tư Lệnh đã trút giận dữ cho là BĐQ không chịu đánh, ra lệnh thay thế các cấp chỉ huy liên hệ bằng những sĩ quan khác đồng thời còn hướng về Tướng Hai lúc này đã được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó Quân Đoàn và nói:
- Biệt Động Quân của anh đó.
Bị miệt thị và nhất là tự ái binh chủng của ông nên ông đã thẳng thắn đáp lễ là ông sẽ đứng ra trực tiếp điều khiển cuộc hành quân và ngay sau chấm dứt ông sẽ rời khỏi Quân Đoàn II vì ông không thể cộng tác với một ông Tư Lệnh làm việc tùy hứng. Hai ngày sau đó lực lượng Biệt Động Quân giao tiếp được thành phần tiếp đón từ Kontum tiến ra, tướng Tư Lệnh đã bay tới nơi với phái đoàn báo chí để ngợi khen cái bắt tay có tính cách quyết định này. Tuy nhiên, để giữ lời hứa, Tướng Hai yêu cầu được rời Quân Đoàn II, sau đó về làm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Huấn Khu Dục Mỹ, nơi mà trước đây ông đã phục vụ với tính cách một huấn luyện viên nhỏ bé; nhưng ông chưa ngồi ở chức vụ này được bao lâu thì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV nên ông Hai được bổ nhiệm thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam trong chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7, một đại đơn vị nổi danh với những vị Tư Lệnh tiền nhiệm yêu nước, trong sạch gồm cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Một đơn vị đã hoạt động một cách hữu hiệu trong nhiệm vụ chận đứng sự xâm nhập của các đơn vị Cộng Quân trong mưu toan cắt đứt đường liên lạc tiếp tế từ miền Tây về thủ đô và đó cũng là đơn vị đã chứng kiến hành động phi thường nhất của ông với niềm tin sắt đá: “sớm muộn gì đất nước mình rồi sẽ có ngày sáng sủa.”
Cùng các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Tướng Hai đã ghi đậm một nét son cho trang cuối của quân sử Việt Nam Cộng Hòa. Nhân ngày Quân Lực, xin đốt nén nhang cho những trang trung liệt, những người đời đời là nỗi tiếc thương và niềm hãnh diện cho Quân Dân Miền Nam, cho mọi thế hệ, cho mọi thời đại của giòng sử đấu tranh Việt.
Trích trong “Nguyệt San Đoàn Kết”
Những Giờ Phút
Cuối Cùng Của Tướng Trần Văn Hai
Trịnh Văn Ngạn và Huỳnh Văn Hoa
Trung Úy Huỳnh Văn Hoa,
nguyên Tùy Viên của Tướng Trần Văn Hai trong thời điểm 1975.
Trịnh Văn Ngạn và Huỳnh Văn Hoa
Trung Úy Huỳnh Văn Hoa,
nguyên Tùy Viên của Tướng Trần Văn Hai trong thời điểm 1975.
Căn
cứ Đồng Tâm, một căn cứ quân sự quan trọng nằm ngay yết hầu trên cửa ngõ từ miền
Tây về Sài Gòn. Mọi ngày nhộn nhịp xe cộ, kẻ ra người vào, hôm nay vắng lạnh như
tờ. Lúc bấy giờ là 14 giờ 30 ngày 30-4-1975.
Sau khi theo vị Tư Lệnh họp mặt với các sĩ quan thuộc quyền ông lần cuối tại Câu Lạc Bộ Sĩ Quan Sư Đoàn, tôi trở về phòng riêng trong dãy cư xá sĩ quan độc thân để thu xếp đồ đạc cá nhân và chờ lịnh. Mới đây cách mấy tiếng đồng hồ, sau khi nhận được lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh và chờ “phía bên kia” đến bàn giao, Chuẩn Tướng Tư Lệnh đã triệu tập tất cả sĩ quan và ông đã ngỏ lời cám ơn cùng chào từ giã các sĩ quan thuộc cấp của mình, đồng thời ông ra lịnh cho tất cả mọi người trở về gia đình thu xếp cho vợ con, tránh đụng độ với quân địch, đổ máu vô ích.
Đúng 15 giờ, điện thoại Tư Lệnh gọi tôi lên phòng của ông. Sau nghi thức chào kính như thường lệ, tôi đứng nghiêm chờ lệnh. Khác với mọi ngày, Chuẩn Tướng Tư Lệnh không ngước nhìn tôi, ông ngồi im như pho tượng gỗ, dường như ông đang suy tư một điều gì. Một lúc sau ông ra dấu cho tôi ngồi xuống chiếc ghế tiếp khách, trước bàn làm việc của ông. Khi tôi đã ngồi xuống, ông mới bắt đầu lên tiếng một cách từ tốn:
- Cám ơn em đã ở bên cạnh tôi trong giờ phút cuối cùng này. Vận nước đã đến hồi như vậy, không thể làm gì hơn được. Là quân nhân, chúng ta phải tuyệt đối chấp hành lệnh thượng cấp.
Sau đó ông hỏi thăm gia cảnh tôi. Cuối cùng, ông mở ngăn kéo làm việc, lôi ra một món đồ gói bằng giấy báo, ông đưa cho tôi và nói rằng:
- Sáng sớm ngày mai, em có thể trở về với gia đình. Tôi nhờ em đưa gói đồ này cho mẹ tôi và nói với bà rằng đây là quà tôi gởi cho bà và bảo bà đừng lo lắng gì cho tôi cả. Bây giờ em có thể trở về doanh trại thu xếp đồ đạc giờ đến tối lúc nào cần tôi sẽ gọi.
(Sau này, tôi được biết trong gói quà ấy có 70,000 đồng cũng như có một số vật dụng cá nhân hàng ngày của Chuẩn Tướng Tư Lệnh).
Đứng dậy chào vị Tư Lệnh xong tôi trở về doanh trại, lòng thật bất ổn. Tôi linh cảm như sắp có điều gì ghê gớm xảy ra cho ông. Chờ mãi đến hơn 6 giờ chiều, không thấy điện thoại Tư Lệnh gọi, lòng tôi hết sức bồn chồn, đứng ngồi không yên. Cuối cùng, tôi quyết định chạy bộ lên văn phòng Tư Lệnh.
Căn cứ Đồng Tâm chìm trong hoang vắng. Càng đến gần văn phòng Tư Lệnh tôi càng hồi hộp. Và rồi tôi cũng đến nơi. Đèn đuốc trong văn phòng vẫn sáng như mọi ngày, nhưng một bầu không khí lạnh lẽo bao trùm. Tôi rón rén bước lại cửa văn phòng, nghe ngóng động tình. Vẫn hoàn toàn yên lặng! Sau cùng, tôi liều đẩy mạnh cánh cửa phòng làm việc của Tư Lệnh bước vào, một khung cảnh hiện ra trước mắt làm tôi hết sức ngỡ ngàng.
Chuẩn Tướng Tư Lệnh ngồi gục đầu mê man trên bàn làm việc. Một ly rượu lớn đã cạn còn ở trên bàn. Tôi biết điều gì đã xảy ra. Tôi cấp tốc liên lạc với Tiểu Đoàn Quân Y và Bệnh Xá Sư Đoàn. Lúc đó còn một vị thiếu tá bác sĩ ở bệnh xá. Tôi liền trình bày nhanh qua điện thoại tình trạng của Chuẩn Tướng Tư Lệnh. Chờ một lúc sau, ông thiếu tá bác sĩ lái chiếc xe Jeep cứu thương đến văn phòng Tư Lệnh. Chúng tôi đặt Chuẩn Tướng Tư Lệnh nằm trên băng ca và chở xuống Bệnh Xá Sư Đoàn ngay. Lúc này ông đã mê man bất tỉnh. Tại bệnh xá, sau một hồi tận lực cấp cứu, vị thiếu tá bác sĩ buồn rầu báo cho tôi biết, vì thuốc độc đã ngấm vào máu khá lâu, Chuẩn Tướng Tư Lệnh không qua được cơn nguy kịch.
Chúng tôi lặng lẽ lau mặt cho ông, đặt ông nằm ngay ngắn trên băng ca và đứng nghiêm chào vị Tư Lệnh đáng kính lần cuối. Sau khi lấy chăn đắp thi hài ông lại, tôi trở về doanh trại thu xếp đồ đạc và quyết định khuya nay sẽ về Sài Gòn báo tin cho gia đình Chuẩn Tướng biết. Khi về tới Sài Gòn, tôi được biết gia đình ông gồm vợ, con và mẹ đã chạy vào lánh nạn ở Nhà Thương Grall. Sau khi gặp được gia đình ông, gia đình ông quyết định bằng mọi cách phải mang xác ông về Sài Gòn.
Sáng 1-5-1975, mẹ ông và tôi, một già một trẻ, bao luôn chiếc xe lambretta loại ba bánh, xuống căn cứ Đồng Tâm. Chúng tôi đến nơi vào khoảng 10 giờ sáng. Khác với hôm qua, hôm nay căn cứ tràn ngập người ra vào. Kẻ đi tìm con, người tìm chồng, kẻ đi hôi của v.v... Xe Honda chạy loạn xạ trong căn cứ. Khi xe lam chúng tôi chạy đến cổng thì gặp một bộ đội Cộng Sản địa phương chặn lại. Như đã sắp đặt trước, mẹ của Tư Lệnh xuống xe mếu máo:
- Con ơi, má có thằng con bị bắt đi quân dịch,nghe nói đâu nó chết hôm qua, cho má vào nhận xác nó đi con! Tội nghiệp má quá, hòa bình rồi con ai cũng về nhà, riêng con má không về nữa.
Nói xong, không đợi cho tên bộ đội trả lời, bà giục tôi lên xe và hối tài xế xe lam chạy lẹ vào căn cứ. Tên bộ đội trẻ cứ đứng há hốc miệng ra nhìn, chẳng hiểu ra sao cả. Tôi hướng dẫn tài xế xuống Bệnh Xá Sư Đoàn. Sau đó cùng khiêng thi hài Chuẩn Tướng Tư Lệnh lên xe và đưa về Sài Gòn. Về đến Nhà Thương Grall thì trời đã tối hẳn. Người ta sầm xì báo cho nhau biết chiều nay, ở đây, vừa cử hành đám tang Tướng Phạm Văn Phú. Phần tôi lúc này quá mệt mỏi, đầu óc vô cùng căng thẳng, không biết vợ con hiện giờ ở đâu.
Sau khi tẩm liệm xác Tư Lệnh xong, tôi đứng yên lặng nhìn ông lần cuối, không dám chào theo nghi thức quân đội vì sợ bị lộ tung tích, gia đình ông sẽ gặp nhiều phiền toái. Cuối cùng, tôi cũng phải từ giã vị Tư Lệnh đáng kính với hai hàng nước mắt đầm đìa để về tìm vợ con.
Trịnh Văn Ngạn, viết theo lời kể của Trung Úy Huỳnh Văn Hoa
Sau khi theo vị Tư Lệnh họp mặt với các sĩ quan thuộc quyền ông lần cuối tại Câu Lạc Bộ Sĩ Quan Sư Đoàn, tôi trở về phòng riêng trong dãy cư xá sĩ quan độc thân để thu xếp đồ đạc cá nhân và chờ lịnh. Mới đây cách mấy tiếng đồng hồ, sau khi nhận được lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh và chờ “phía bên kia” đến bàn giao, Chuẩn Tướng Tư Lệnh đã triệu tập tất cả sĩ quan và ông đã ngỏ lời cám ơn cùng chào từ giã các sĩ quan thuộc cấp của mình, đồng thời ông ra lịnh cho tất cả mọi người trở về gia đình thu xếp cho vợ con, tránh đụng độ với quân địch, đổ máu vô ích.
Đúng 15 giờ, điện thoại Tư Lệnh gọi tôi lên phòng của ông. Sau nghi thức chào kính như thường lệ, tôi đứng nghiêm chờ lệnh. Khác với mọi ngày, Chuẩn Tướng Tư Lệnh không ngước nhìn tôi, ông ngồi im như pho tượng gỗ, dường như ông đang suy tư một điều gì. Một lúc sau ông ra dấu cho tôi ngồi xuống chiếc ghế tiếp khách, trước bàn làm việc của ông. Khi tôi đã ngồi xuống, ông mới bắt đầu lên tiếng một cách từ tốn:
- Cám ơn em đã ở bên cạnh tôi trong giờ phút cuối cùng này. Vận nước đã đến hồi như vậy, không thể làm gì hơn được. Là quân nhân, chúng ta phải tuyệt đối chấp hành lệnh thượng cấp.
Sau đó ông hỏi thăm gia cảnh tôi. Cuối cùng, ông mở ngăn kéo làm việc, lôi ra một món đồ gói bằng giấy báo, ông đưa cho tôi và nói rằng:
- Sáng sớm ngày mai, em có thể trở về với gia đình. Tôi nhờ em đưa gói đồ này cho mẹ tôi và nói với bà rằng đây là quà tôi gởi cho bà và bảo bà đừng lo lắng gì cho tôi cả. Bây giờ em có thể trở về doanh trại thu xếp đồ đạc giờ đến tối lúc nào cần tôi sẽ gọi.
(Sau này, tôi được biết trong gói quà ấy có 70,000 đồng cũng như có một số vật dụng cá nhân hàng ngày của Chuẩn Tướng Tư Lệnh).
Đứng dậy chào vị Tư Lệnh xong tôi trở về doanh trại, lòng thật bất ổn. Tôi linh cảm như sắp có điều gì ghê gớm xảy ra cho ông. Chờ mãi đến hơn 6 giờ chiều, không thấy điện thoại Tư Lệnh gọi, lòng tôi hết sức bồn chồn, đứng ngồi không yên. Cuối cùng, tôi quyết định chạy bộ lên văn phòng Tư Lệnh.
Căn cứ Đồng Tâm chìm trong hoang vắng. Càng đến gần văn phòng Tư Lệnh tôi càng hồi hộp. Và rồi tôi cũng đến nơi. Đèn đuốc trong văn phòng vẫn sáng như mọi ngày, nhưng một bầu không khí lạnh lẽo bao trùm. Tôi rón rén bước lại cửa văn phòng, nghe ngóng động tình. Vẫn hoàn toàn yên lặng! Sau cùng, tôi liều đẩy mạnh cánh cửa phòng làm việc của Tư Lệnh bước vào, một khung cảnh hiện ra trước mắt làm tôi hết sức ngỡ ngàng.
Chuẩn Tướng Tư Lệnh ngồi gục đầu mê man trên bàn làm việc. Một ly rượu lớn đã cạn còn ở trên bàn. Tôi biết điều gì đã xảy ra. Tôi cấp tốc liên lạc với Tiểu Đoàn Quân Y và Bệnh Xá Sư Đoàn. Lúc đó còn một vị thiếu tá bác sĩ ở bệnh xá. Tôi liền trình bày nhanh qua điện thoại tình trạng của Chuẩn Tướng Tư Lệnh. Chờ một lúc sau, ông thiếu tá bác sĩ lái chiếc xe Jeep cứu thương đến văn phòng Tư Lệnh. Chúng tôi đặt Chuẩn Tướng Tư Lệnh nằm trên băng ca và chở xuống Bệnh Xá Sư Đoàn ngay. Lúc này ông đã mê man bất tỉnh. Tại bệnh xá, sau một hồi tận lực cấp cứu, vị thiếu tá bác sĩ buồn rầu báo cho tôi biết, vì thuốc độc đã ngấm vào máu khá lâu, Chuẩn Tướng Tư Lệnh không qua được cơn nguy kịch.
Chúng tôi lặng lẽ lau mặt cho ông, đặt ông nằm ngay ngắn trên băng ca và đứng nghiêm chào vị Tư Lệnh đáng kính lần cuối. Sau khi lấy chăn đắp thi hài ông lại, tôi trở về doanh trại thu xếp đồ đạc và quyết định khuya nay sẽ về Sài Gòn báo tin cho gia đình Chuẩn Tướng biết. Khi về tới Sài Gòn, tôi được biết gia đình ông gồm vợ, con và mẹ đã chạy vào lánh nạn ở Nhà Thương Grall. Sau khi gặp được gia đình ông, gia đình ông quyết định bằng mọi cách phải mang xác ông về Sài Gòn.
Sáng 1-5-1975, mẹ ông và tôi, một già một trẻ, bao luôn chiếc xe lambretta loại ba bánh, xuống căn cứ Đồng Tâm. Chúng tôi đến nơi vào khoảng 10 giờ sáng. Khác với hôm qua, hôm nay căn cứ tràn ngập người ra vào. Kẻ đi tìm con, người tìm chồng, kẻ đi hôi của v.v... Xe Honda chạy loạn xạ trong căn cứ. Khi xe lam chúng tôi chạy đến cổng thì gặp một bộ đội Cộng Sản địa phương chặn lại. Như đã sắp đặt trước, mẹ của Tư Lệnh xuống xe mếu máo:
- Con ơi, má có thằng con bị bắt đi quân dịch,nghe nói đâu nó chết hôm qua, cho má vào nhận xác nó đi con! Tội nghiệp má quá, hòa bình rồi con ai cũng về nhà, riêng con má không về nữa.
Nói xong, không đợi cho tên bộ đội trả lời, bà giục tôi lên xe và hối tài xế xe lam chạy lẹ vào căn cứ. Tên bộ đội trẻ cứ đứng há hốc miệng ra nhìn, chẳng hiểu ra sao cả. Tôi hướng dẫn tài xế xuống Bệnh Xá Sư Đoàn. Sau đó cùng khiêng thi hài Chuẩn Tướng Tư Lệnh lên xe và đưa về Sài Gòn. Về đến Nhà Thương Grall thì trời đã tối hẳn. Người ta sầm xì báo cho nhau biết chiều nay, ở đây, vừa cử hành đám tang Tướng Phạm Văn Phú. Phần tôi lúc này quá mệt mỏi, đầu óc vô cùng căng thẳng, không biết vợ con hiện giờ ở đâu.
Sau khi tẩm liệm xác Tư Lệnh xong, tôi đứng yên lặng nhìn ông lần cuối, không dám chào theo nghi thức quân đội vì sợ bị lộ tung tích, gia đình ông sẽ gặp nhiều phiền toái. Cuối cùng, tôi cũng phải từ giã vị Tư Lệnh đáng kính với hai hàng nước mắt đầm đìa để về tìm vợ con.
Trịnh Văn Ngạn, viết theo lời kể của Trung Úy Huỳnh Văn Hoa
Đại Tá Hồ Ngọc
Cẩn
Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện
Di ảnh cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
Tiểu Sử
Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện
Di ảnh cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
Tiểu Sử
Đại
Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938 tại Cần Thơ. Thân phụ là một hạ sĩ
quan trong quân đội Quốc Gia Việt Nam. Khi ông bắt đầu đi học (1945) thì chiến
tranh Pháp-Việt bùng nổ nên sự học bị gián đoạn. Mãi đến năm 1947 ông mới được
đi học lại. Năm 1951, ông được nhập học trường Thiếu Sinh Quân đệ nhất quân khu
tại Gia Định. Cuối năm 1952, trường này di chuyển về Mỹ Tho. Cuối niên học
1954-1955, ông học xong đệ Ngũ thì đã đúng 17 tuổi. Theo quy luật của trường
Thiếu Sinh Quân, nếu đến 17 tuổi mà không phải là học sinh xuất sắc thì sẽ gởi
đi học chuyên môn.
Niên khóa 1955-1956, Hồ Ngọc Cẩn được gởi lên học tại Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức về vũ khí. Sau sáu tháng, ông đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí và bắt đầu đăng vào quân đội với cấp bậc binh nhì. Với quy chế đặc biệt dành cho Thiếu Sinh Quân, chín tháng sau, ông trở thành trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí. Chiến tranh tại miền Nam Việt Nam lan rộng kể từ 1962.
Để giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan, Bộ Quốc Phòng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Được sự nâng đỡ của Bộ Tổng Tham Mưu, các hạ sĩ quan xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân đều được nhập học. Hồ Ngọc Cẩn tốt nghiệp khóa 2 sĩ quan đặc biệt với cấp bậc Chuẩn Úy. Theo truyền thống của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam lúc đó, các tân chuẩn úy xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân đều được đưa về phục vụ tại các binh chủng ưu tú như: Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Quân Báo, An Ninh Quân Đội và Lực Lượng Đặc Biệt.
Sau khi ra trường, Hồ Ngọc Cẩn theo một khóa huấn luyện Biệt Động Quân rồi thuyên chuyển về phục vụ tại Khu 42 Chiến Thuật với chức vụ là trung đội trưởng của một đại đội BĐQ. Lãnh thổ khu này gồm các tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ), Chương Thiện, Ba Xuyên (Sóc Trăng), An Xuyên (Cà Mâu). Về sau vì tình hình chiến tranh thay đổi, quân Cộng Sản từ du kích chiến, chuyển sang đánh cấp tiểu đoàn và trung đoàn, các đại đội BĐQ cũng phải kết hợp lại thành tiểu đoàn. Các đại đội BĐQ của Khu 42 Chiến Thuật kết thành 2 tiểu đoàn. Tiểu đoàn mang số 42, đơn vị mà Cẩn phục vụ, được tặng mỹ danh là “Cọp Ba Đầu Rằn.” Tiểu đoàn mang số 44 được tặng mỹ danh là “Cọp Xám U Minh Hạ.”
Năm 1966, Cẩn là trung úy tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 42 BĐQ. Sau trận ác chiến tại Vĩnh Châu, tiêu diệt toàn bộ Tiểu Đoàn Cơ Động Sóc Trăng của địch, ông được thăng cấp Đại Úy. Cuối năm 1966, Cẩn từ biệt Tiểu Đoàn 42 BĐQ, đi làm tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 33 thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Sau trận công kích Tết Mậu Thân 1968, ông được thăng Thiếu Tá và là một trong những sĩ quan được nhiều huy chương nhất quân đội.
Năm 1970, ông được thăng Trung Tá, rời tiểu đoàn 1/33 đi làm Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh. Vào mùa Hè đỏ lửa 1972, ông được lệnh mang Trung Đoàn 15 từ miền Tây lên giải vây An Lộc. Sau khi An Lộc được giải tỏa, ông được thăng cấp Đại Tá tại mặt trận. Cuối năm 1973, ông trở về với chiến trường sình lầy với chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Tướng Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng thì Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn vẫn tiếp tục chiến đấu. Các đơn vị Cộng Sản tiến vào tiếp thu Tiểu Khu Chương Thiện, thì gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Ông bị bắt, đưa về Cần Thơ rồi bị đem ra xử tử.
Niên khóa 1955-1956, Hồ Ngọc Cẩn được gởi lên học tại Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức về vũ khí. Sau sáu tháng, ông đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí và bắt đầu đăng vào quân đội với cấp bậc binh nhì. Với quy chế đặc biệt dành cho Thiếu Sinh Quân, chín tháng sau, ông trở thành trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí. Chiến tranh tại miền Nam Việt Nam lan rộng kể từ 1962.
Để giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan, Bộ Quốc Phòng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Được sự nâng đỡ của Bộ Tổng Tham Mưu, các hạ sĩ quan xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân đều được nhập học. Hồ Ngọc Cẩn tốt nghiệp khóa 2 sĩ quan đặc biệt với cấp bậc Chuẩn Úy. Theo truyền thống của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam lúc đó, các tân chuẩn úy xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân đều được đưa về phục vụ tại các binh chủng ưu tú như: Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Quân Báo, An Ninh Quân Đội và Lực Lượng Đặc Biệt.
Sau khi ra trường, Hồ Ngọc Cẩn theo một khóa huấn luyện Biệt Động Quân rồi thuyên chuyển về phục vụ tại Khu 42 Chiến Thuật với chức vụ là trung đội trưởng của một đại đội BĐQ. Lãnh thổ khu này gồm các tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ), Chương Thiện, Ba Xuyên (Sóc Trăng), An Xuyên (Cà Mâu). Về sau vì tình hình chiến tranh thay đổi, quân Cộng Sản từ du kích chiến, chuyển sang đánh cấp tiểu đoàn và trung đoàn, các đại đội BĐQ cũng phải kết hợp lại thành tiểu đoàn. Các đại đội BĐQ của Khu 42 Chiến Thuật kết thành 2 tiểu đoàn. Tiểu đoàn mang số 42, đơn vị mà Cẩn phục vụ, được tặng mỹ danh là “Cọp Ba Đầu Rằn.” Tiểu đoàn mang số 44 được tặng mỹ danh là “Cọp Xám U Minh Hạ.”
Năm 1966, Cẩn là trung úy tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 42 BĐQ. Sau trận ác chiến tại Vĩnh Châu, tiêu diệt toàn bộ Tiểu Đoàn Cơ Động Sóc Trăng của địch, ông được thăng cấp Đại Úy. Cuối năm 1966, Cẩn từ biệt Tiểu Đoàn 42 BĐQ, đi làm tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 33 thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Sau trận công kích Tết Mậu Thân 1968, ông được thăng Thiếu Tá và là một trong những sĩ quan được nhiều huy chương nhất quân đội.
Năm 1970, ông được thăng Trung Tá, rời tiểu đoàn 1/33 đi làm Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh. Vào mùa Hè đỏ lửa 1972, ông được lệnh mang Trung Đoàn 15 từ miền Tây lên giải vây An Lộc. Sau khi An Lộc được giải tỏa, ông được thăng cấp Đại Tá tại mặt trận. Cuối năm 1973, ông trở về với chiến trường sình lầy với chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Tướng Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng thì Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn vẫn tiếp tục chiến đấu. Các đơn vị Cộng Sản tiến vào tiếp thu Tiểu Khu Chương Thiện, thì gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Ông bị bắt, đưa về Cần Thơ rồi bị đem ra xử tử.
Vài Nét Về Một Anh Hùng
Trần Đại Sỹ
Trần Đại Sỹ
Năm 1966, khi đọc trong Đại Nam Chính
Biên Liệt Truyện, Đại Nam Nhất Thống Chí viết về “Ngụy Tây Sơn,” có nhiều nghi
vấn trong những trận đánh giữa Vua Quang Trung và Vua Gia Long tại rừng U Minh,
tôi nảy ra ý xuống vùng tận cùng của đất nước này tìm hiểu thêm. Bấy giờ đang
xảy ra vụ biến động tại miền Trung “các thầy mang bàn thờ xuống đường,” chiến
cuộc tại miền Tây cực kỳ sôi động, mẹ tôi, bà má má (vú nuôi) cực lực phản đối
vì đi như vậy dễ tiêu dao miền Cực Lạc lắm. Nhưng bố tôi, sau khi tính số tử vi
của tôi, cụ lại khuyên tôi nên đi. Cụ nói:
- Con đi lần này sẽ có thêm nhiều bạn tốt, hơn nữa có dịp biết về vùng đồng lầy Cà Mâu.
Tôi nhất quyết đi, bà má má khóc khốn khổ, nhưng cũng không cản được cái tính phiêu lưu và mê sưu tầm của tôi. Nhưng làm thế nào để có thể vào được tất cả những làng, những xã, mà không gặp trở ngại? Làm sao có phương tiện di chuyển? Chỉ một cú điện thoại, ông bố tôi đã kiếm cho tôi cái giấy giới thiệu của tuần báo trung lập lớn nhất ở Paris. Bà má má kiếm cho tôi giấy giới thiệu của tờ nhật báo Hoa Văn tại Hương Cảng. Thế là tôi bỗng trở thành ký giả bất đắc dĩ. Tôi đến Bộ Tư Lệnh MACV xin giúp phương tiện làm phóng sự chiến trường ở Vùng 4 Chiến Thuật. Tôi chỉ mong tìm hiểu lịch sử, chứ nào có chủ tâm làm ký giả!
Nhưng sau chuyến đi ấy, quá xúc động về cuộc chiến tranh thê thảm, tôi đã viết rất nhiều bài ký sự chiến trường, đăng trên một số báo ngoại quốc. Khởi đầu, uất hận trước cái chết của một cô bạn gái tên Đặng Thị Tuyết, mới hai mươi tuổi, làm nữ cán bộ Xây Dựng Nông Thôn tại Kinh Tắc Vân, Cà Mâu, tôi viết bài “Giang Biên Hoa Lạc” gây xúc động mạnh cho độc giả Hương Cảng và giới Hoa kiều tại Việt Nam. Sau tôi có dịch bài này sang tiếng Việt với tên là “Hoa rơi trên bờ sông Tắc Vân.” Tôi gởi bài này dự thi giải ký sự chiến trường của cục Tâm Lý Chiến năm 1967. Bài của tôi được giải nhì. Giải nhất về Trang Châu cũng là một bài ký sự của y sĩ tiền tuyến. Một trong các giám khảo nói với tôi: “Về nội dung, bài của cháu với Trang Châu cùng nói lên niềm mơ ước của tuổi trẻ quên mình cho quê hương. Nhưng bài của Trang Châu trung thực, còn bài của cháu thì ướt át quá, thê thảm quá, dù rằng đó là sự thật.”
Sau đây, tôi xin trích nguyên văn một đoạn tôi viết về Hồ Ngọc Cẩn trong bài “Ngũ Hổ U Minh Thượng” kể chuyện năm tiểu đoàn trưởng nổi danh can đảm, có máu văn nghệ, nhất là phong lưu tiêu sái, tại chiến trường cực Nam năm 1966. Ngũ hổ là:
- Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1/33
- Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân. - Thiếu Tá Lê Văn Hưng
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/31 - Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. - Đại Úy Vương Văn Trổ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/33
Ngày 29 tháng 4 năm 1966, tôi tới Phi Trường Vĩnh Lợi bằng phi cơ Caribu của quân đội Hoa Kỳ. Người đón tôi là Thiếu Tá Raider của Cố Vấn Đoàn 42. Tại bản doanh của Cố Vấn Đoàn 42, Đại Tá Cố Vấn Trưởng Hataway không biết gì về chủ đích chuyến đi của tôi. Ông chỉ căn cứ vào giấy giới thiệu do hai chủ báo cấp, mà đoán rằng tôi là tên thầy thuốc trẻ, thích phiêu lưu, nên đi làm ký giả. Ông cho tôi biết tình hình địch rất chi tiết. Về tình hình của quân đội Việt Nam tại năm tỉnh tận cùng của đất nước, ông nói:
“Khu 41 Chiến Thuật, do Sư Đoàn 21 của Quân Đoàn IV trấn nhậm, Sư Đoàn có ba trung đoàn mang số 31, 32, 33. Trung Đoàn 31 đóng tại Chương Thiện. Trung Đoàn 32 đóng tại Cà Mâu. Trung Đoàn 33 đóng tại Ba Xuyên. Ngoài ra còn có hai tiểu đoàn Biệt Động Quân mang số 42 và 44. Tiểu Đoàn 42 đóng tại Bạc Liêu. Tiểu Đoàn 44 đóng tại Ba Xuyên.” Ông ca tụng quân đội Việt Nam như sau: “Lương bổng cho người lính Việt Nam, chỉ gọi là tạm đủ ăn. Doanh trại không có, trang bị thiếu thốn. Nhưng họ chiến đấu như đoàn sư tử. Tuy vậy vẫn có những điều đáng phàn nàn. Ông là thầy thuốc cầm bút, xin ông lướt qua những cái đó.”
Bốn hôm sau, có cuộc hành quân cấp sư đoàn. Tôi được gởi theo Tiểu Đoàn 42 BĐQ. Tiểu đoàn trưởng là Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt. Tiểu đoàn phó là Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn. Cái tréo cẳng ngỗng là đối với cố vấn Mỹ thì tôi là ký giả. Còn Kiệt với Cẩn lại tưởng tôi là bác sĩ tình nguyện ra mặt trận. Tiểu Đoàn được đặt làm trừ bị tại Phi Trường Vĩnh Lợi từ bảy giờ sáng, chuẩn bị nhảy trực thăng vận. Nếu khi nhẩy, thì Tiểu Đoàn sẽ nhẩy làm hai cánh: Cánh thứ nhất gồm có hai đại đội 1, 2 do Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy. Cánh thứ hai gồm có hai đại đội 3 và 4 do Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt chỉ huy. Tôi và Kiệt, Cẩn ngang ngang tuổi nhau. Tôi có máu giang hồ của người tập võ, coi trời bằng vung, lại cũng có học qua quân sự, nên chúng tôi thân cận nhau dễ dàng. Đại Úy cố vấn tiểu đoàn muốn tôi nhảy theo bộ chỉ huy. Anh hỏi tôi:
- Lần đầu tiên ra trận, ông có sợ không?
Tôi trả lời như những nhân vật trong lịch sử Việt Nam:
- Tráng sĩ khi ra trận, không chết thì cũng bị thương. Nếu sợ chết thì đừng ra trận.
Cẩn hỏi tôi đã học quân sự chưa? Tôi đáp:
- Kiến thức về quân sự của tôi chỉ bằng phó binh nhì thôi. Nhưng cũng biết bò, biết núp, biết nhảy, biết bắn. Đánh nhau bằng súng thì tôi dở ẹt, nhưng đánh cận chiến thì tôi có hạng, vì tôi là ông thầy dạy võ.
Thông dịch viên dịch lại cho binh sĩ nghe. Họ khen tôi:
- Ông bác sĩ này ngon thật!
Tôi hỏi Kiệt:
- Trong hai cánh thì cánh nào có hy vọng được đánh nhau nhiều hơn?
Kiệt chỉ Cẩn:
- Anh cứ nhảy theo thằng này thì sẽ toại nguyện. Tha hồ mà hành nghề.
Tiểu đoàn cũng có sĩ quan trợ y. Anh biệt phái cho tôi một y tá cấp trung sĩ, với đầy đủ thuốc cấp cứu. Trên lưng tôi chỉ có bộ đồ giải phẫu dã chiến. Khoảng 10 giờ thì có lệnh: Một đơn vị địa phương quân chạm địch tại Vĩnh Châu. Địch là Tiểu Đoàn Cơ Động Sóc Trăng. Tiểu đoàn phải nhảy trực thăng vận đánh vào hông địch. Địa điểm nhảy là một khu đồng lầy.
Sau khi Kiệt họp các sĩ quan tóm lược vắn tắt nhiệm vụ, tình hình trong mười phút, Cẩn dẫn tôi ra phi đạo. Hai đại đội đã lên trực thăng từ bao giờ. Chúng tôi cùng leo lên một trực thăng. Hai mươi lăm chiếc trực thăng cùng cất cánh. Trực thăng bay khoảng mươi phút, thì Cẩn chỉ vào một khu làng mạc trước mặt:
- Kìa, chỗ chúng mình đáp kìa.
Trực thăng hạ cánh. Thoáng một cái, hơn hai trăm người từ trực thăng lao ra. Một cảnh tượng mà tôi không bao giờ quên: Những người lính dàn thành một hàng ngang. Họ núp vào những bờ ruộng, mô đất, tay thủ súng, mắt đăm đăm nhìn về trước. Đó là một làng, lưa thưa mấy chục ngôi nhà, cây dừa xanh tươi. Mặc dù súng trong làng bắn ra, nhưng những người lính ấy vẫn chưa bắn trả. Tôi đưa mắt nhìn một lượt, các sĩ quan, người thì nằm, người thì quỳ, cũng có người đứng. Từ lúc nhẩy xuống, Cẩn không hề nằm quỳ, mà đứng quan sát trận mình, quan sát trận địch. Một là điếc không sợ sấm, hai là tự tin vào số tử vi của mình thọ, tôi cũng đứng.
Hơn mười phút sau, cánh quân thứ nhì đã nhảy xuống trận địa. Trận vừa dàn xong, thì sĩ quan đề lô xin pháo binh nã vào những chỗ có ổ moọc chê, đại liên, trung liên trong làng. Một lệnh ban ra, hơn bốn trăm con cọp dàn hàng ngang, vừa bắn vừa xung phong vào trong làng. Trong khi súng trong làng bắn ra, đạn cầy các ụ đất, trúng vào ruộng nước, bụi, nước bắn tung. Hàng quân tới bờ ruộng cuối cùng, cách bìa làng không đầy năm mươi thước thì súng nhỏ từ trong mới nổ. Cả hàng quân đều nằm dài sau các bờ ruộng. Giữa lúc đó, sĩ quan đề lô trúng đạn lật ngược. Tôi chạy lại cấp cứu thì không kịp, viên đạn xuyên qua sọ anh. Thế là pháo binh vô hiệu.
Trực thăng võ trang được gọi đến. Cố vấn Mỹ báo về Trung Tâm Hành Quân. Cố vấn tại Trung Tâm Hành Quân ra lệnh cho phi công trực thăng nã xuống địa điểm có địch quân. Tôi đứng cạnh Cẩn tại một mô đất. Cẩn không trực tiếp cầm máy chỉ huy, mà ra lệnh cho các đại đội, trung đội qua hiệu thính viên. Sau khi trực thăng võ trang nã ba loạt rocket, đại liên thì lệnh xung phong truyền ra. Cả tiểu đoàn reo lên như sóng biển, rồi người người rời chỗ nằm lao vào làng. Không đầy mười phút sau, tiếng súng im hẳn.
Bây giờ là lúc tôi hành nghề. Những binh sĩ, tù binh bị thương nặng được băng bó, cầm máu, rồi trực thăng tải về quân y viện. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy những binh sĩ bị thương khá nặng, khi nghe tôi nói rằng nếu họ muốn, tôi có thể gắp đạn, may các vết thương đó cho họ mà không phải về quân y viện. Họ từ chối đi quân y viện, xin ở lại để tôi giúp họ. Tôi cùng sĩ quan trợ y, bốn y tá làm việc hơn một giờ đồng hồ mới xong. Tôi hỏi Cẩn:
- Tôi tưởng, thương binh được về quân y viện chữa trị là điều họ mong muốn mới phải. Tại sao họ muốn ở lại? - Bọn cọp nhà này vẫn vậy. Chúng tôi sống với nhau, kề cận cái chết với nhau, thì xa nhau là điều buồn khổ vô cùng. Đấy chúng nó bị thương như vậy đấy, lát nữa anh thấy chúng chống gậy đi chơi nhông nhông ngoài phố, coi như bị kiến cắn.
Tôi đi một vòng thăm trận địa. Hơn hai trăm xác chết, mặc áo ba ba đen, quần đùi. Những xác chết đó, gương mặt còn non choẹt, đa số tuổi khoảng 15 đến 20, xác thì nằm vắt vẻo trên bờ kinh, xác thì bị cháy đen, xác thì mất đầu, cũng có xác nằm chết trong hầm. Không biết trong khi họ phơi xác ở đây, thì cha mẹ, anh em, vợ con họ có biết không?
Sau trận đó thì Cẩn được thăng cấp Đại Úy. Cuối năm 1966, Cẩn từ biệt Tiểu Đoàn 42 BĐQ đi làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 33 thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Việc đầu tiên của Cẩn khi làm tiểu đoàn trưởng là xin sư đoàn cho tất cả sĩ quan, hạ sĩ quan xuất thân trường Thiếu Sinh Quân về chiến đấu cùng với mình. Cẩn đã được thỏa mãn một phần yêu cầu. Tôi hỏi Cẩn:
- Anh đem các cựu TSQ về với mục đích gì?
- Một là để dễ sai. Tất cả bọn TSQ này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng nó, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà quân trường không dạy. Hai là, truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi, vì vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã. Bọn cựu TSQ đều như tôi cả.
Suốt năm 1967, Cẩn với Tiểu Đoàn 1/33 tung hoành trên khắp lãnh thổ năm tỉnh Hậu Giang, khi Đại Ngãi, khi Tắc Vân, khi Kiên Hưng, khi Thác Lác, khi Cờ Đỏ. Thời gian này, tôi bắt đầu viết lịch sử tiểu thuyết, nên tôi đọc rất kỹ Lục Thao, Tam Lược, Tôn Ngô binh pháp cùng binh pháp của các danh tướng Đức, nhất là của các tướng Hồng Quân. Tôi dùng kiến thức quân sự trong sách vở để đánh giá những trận đánh của Cẩn từ 1966. Tôi bật ngửa ra rằng, Cẩn không hề đọc, cũng không hề được học tại trường sĩ quan những binh pháp đó. Mà sao từ cung cách chỉ huy, cung cách hành xử với cấp dưới, cấp trên, nhất là những trận đánh của Cẩn bàng bạc xuất hiện như những lý thuyết trong thư tịch cổ?
Lần cuối cùng tôi gặp Cẩn vào mùa Hè năm 1974 tại Chương Thiện. Tôi hỏi Cẩn:
- Anh từng là trung đoàn trưởng, hiện làm tỉnh trưởng. Anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm sư đoàn trưởng không?
- Tôi lặn lội suốt 14 năm qua, gối chưa mỏi nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi. Mình phải biết liêm sỉ chứ. Coi sư đoàn sao được?
- Thế anh nghĩ sau này anh sẽ làm gì?
- Làm tỉnh trưởng bất quá một hai năm rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi trường Thiếu Sinh Quân hoặc coi các lớp huấn luyện đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được trong mười mấy năm qua dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi trải qua, nhờ anh viết lại. Bộ sách đó, anh nghĩ nên đặt tên là gì?
- Cẩm nang của các đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng trong chiến tranh chống du kích tại vùng đồng lầy.
- Nhưng liệu Bộ Quốc Phòng có cho phép in hay không?
- Không cho in thì mình cũng cứ thuật, rồi đem giảng dạy, ai cấm được?
Đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa tôi và Cẩn. Sau khi miền Nam mất, tôi không được tin tức của Cẩn. Mãi năm 1976, tôi được tin: Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Tướng Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng thì Hồ Ngọc Cẩn vẫn tiếp tục chiến đấu. Các đơn vị Cộng Sản tiến vào tiếp thu Tiểu Khu Chương Thiện, thì gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Ông bị bắt, đưa về Cần Thơ rồi bị đem ra xử tử.
Khi tôi gặp Cẩn thì tôi chưa khởi công viết lịch sử tiểu thuyết. Thành ra cuộc đời Cẩn, cuộc đời các thiếu sinh quân quanh Cẩn, in vào tâm não tôi rất sâu, rất đẹp. Vì vậy sang năm 1968, khi bắt đầu viết, thì bao giờ tôi cũng khởi đầu bằng thời thơ ấu của những nhân vật chính. Trong bộ nào, cũng có những thiếu niên, khi ra trận thì tiến lên hoặc chết, chứ không lùi.
Có rất nhiều người đặt câu hỏi: Giữa tôi và Cẩn như hai thái cực. Cẩn chỉ học đến đệ ngũ, tôi được học ở nhà, ở trường đến trình độ cao nhất. Cẩn là người Nam, tôi là người Bắc. Cẩn theo đạo Chúa, tôi là cư sĩ Phật Giáo. Tôi thì sống trong sách vở, hay đi trên mây, Cẩn thì lăn lộn với thực tế. Tôi không biết uống rượu, Cẩn thì nổi danh tửu lượng tại Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Tôi thấy người đẹp là chân tay run lẩy bẩy, Cẩn thì dửng dưng. Thế mà khi gặp nhau, chúng tôi thân với nhau ngay. Thân đến độ giãi bày cho nhau tất cả những tâm sự thầm kín nhất, không một người thứ nhì biết được. Tại sao? Cho đến nay, tôi mới trả lời được rằng: Cẩn cũng như những người quanh Cẩn, là những hình bóng thật, rất quen thuộc mà trước kia tôi chỉ thấy trong lịch sử, nay được gặp trong thực tế.
Hai mươi mốt năm qua, đúng mười hai giờ trưa, ngày 30 tháng 4, dù ở bất cứ nơi nào, tôi cũng mua bó hoa, đèn cầy, vào nhà thờ đốt nến, đặt hoa dưới tượng Đức Mẹ, và cầu xin cho linh hồn Cẩn được an lành trong vòng tay Người.
Trích trong bài: “Vài nét về một anh hùng: Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn”
của Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ viết tại Paris ngày 30/4/1996.
- Con đi lần này sẽ có thêm nhiều bạn tốt, hơn nữa có dịp biết về vùng đồng lầy Cà Mâu.
Tôi nhất quyết đi, bà má má khóc khốn khổ, nhưng cũng không cản được cái tính phiêu lưu và mê sưu tầm của tôi. Nhưng làm thế nào để có thể vào được tất cả những làng, những xã, mà không gặp trở ngại? Làm sao có phương tiện di chuyển? Chỉ một cú điện thoại, ông bố tôi đã kiếm cho tôi cái giấy giới thiệu của tuần báo trung lập lớn nhất ở Paris. Bà má má kiếm cho tôi giấy giới thiệu của tờ nhật báo Hoa Văn tại Hương Cảng. Thế là tôi bỗng trở thành ký giả bất đắc dĩ. Tôi đến Bộ Tư Lệnh MACV xin giúp phương tiện làm phóng sự chiến trường ở Vùng 4 Chiến Thuật. Tôi chỉ mong tìm hiểu lịch sử, chứ nào có chủ tâm làm ký giả!
Nhưng sau chuyến đi ấy, quá xúc động về cuộc chiến tranh thê thảm, tôi đã viết rất nhiều bài ký sự chiến trường, đăng trên một số báo ngoại quốc. Khởi đầu, uất hận trước cái chết của một cô bạn gái tên Đặng Thị Tuyết, mới hai mươi tuổi, làm nữ cán bộ Xây Dựng Nông Thôn tại Kinh Tắc Vân, Cà Mâu, tôi viết bài “Giang Biên Hoa Lạc” gây xúc động mạnh cho độc giả Hương Cảng và giới Hoa kiều tại Việt Nam. Sau tôi có dịch bài này sang tiếng Việt với tên là “Hoa rơi trên bờ sông Tắc Vân.” Tôi gởi bài này dự thi giải ký sự chiến trường của cục Tâm Lý Chiến năm 1967. Bài của tôi được giải nhì. Giải nhất về Trang Châu cũng là một bài ký sự của y sĩ tiền tuyến. Một trong các giám khảo nói với tôi: “Về nội dung, bài của cháu với Trang Châu cùng nói lên niềm mơ ước của tuổi trẻ quên mình cho quê hương. Nhưng bài của Trang Châu trung thực, còn bài của cháu thì ướt át quá, thê thảm quá, dù rằng đó là sự thật.”
Sau đây, tôi xin trích nguyên văn một đoạn tôi viết về Hồ Ngọc Cẩn trong bài “Ngũ Hổ U Minh Thượng” kể chuyện năm tiểu đoàn trưởng nổi danh can đảm, có máu văn nghệ, nhất là phong lưu tiêu sái, tại chiến trường cực Nam năm 1966. Ngũ hổ là:
- Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1/33
- Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân. - Thiếu Tá Lê Văn Hưng
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/31 - Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. - Đại Úy Vương Văn Trổ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/33
Ngày 29 tháng 4 năm 1966, tôi tới Phi Trường Vĩnh Lợi bằng phi cơ Caribu của quân đội Hoa Kỳ. Người đón tôi là Thiếu Tá Raider của Cố Vấn Đoàn 42. Tại bản doanh của Cố Vấn Đoàn 42, Đại Tá Cố Vấn Trưởng Hataway không biết gì về chủ đích chuyến đi của tôi. Ông chỉ căn cứ vào giấy giới thiệu do hai chủ báo cấp, mà đoán rằng tôi là tên thầy thuốc trẻ, thích phiêu lưu, nên đi làm ký giả. Ông cho tôi biết tình hình địch rất chi tiết. Về tình hình của quân đội Việt Nam tại năm tỉnh tận cùng của đất nước, ông nói:
“Khu 41 Chiến Thuật, do Sư Đoàn 21 của Quân Đoàn IV trấn nhậm, Sư Đoàn có ba trung đoàn mang số 31, 32, 33. Trung Đoàn 31 đóng tại Chương Thiện. Trung Đoàn 32 đóng tại Cà Mâu. Trung Đoàn 33 đóng tại Ba Xuyên. Ngoài ra còn có hai tiểu đoàn Biệt Động Quân mang số 42 và 44. Tiểu Đoàn 42 đóng tại Bạc Liêu. Tiểu Đoàn 44 đóng tại Ba Xuyên.” Ông ca tụng quân đội Việt Nam như sau: “Lương bổng cho người lính Việt Nam, chỉ gọi là tạm đủ ăn. Doanh trại không có, trang bị thiếu thốn. Nhưng họ chiến đấu như đoàn sư tử. Tuy vậy vẫn có những điều đáng phàn nàn. Ông là thầy thuốc cầm bút, xin ông lướt qua những cái đó.”
Bốn hôm sau, có cuộc hành quân cấp sư đoàn. Tôi được gởi theo Tiểu Đoàn 42 BĐQ. Tiểu đoàn trưởng là Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt. Tiểu đoàn phó là Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn. Cái tréo cẳng ngỗng là đối với cố vấn Mỹ thì tôi là ký giả. Còn Kiệt với Cẩn lại tưởng tôi là bác sĩ tình nguyện ra mặt trận. Tiểu Đoàn được đặt làm trừ bị tại Phi Trường Vĩnh Lợi từ bảy giờ sáng, chuẩn bị nhảy trực thăng vận. Nếu khi nhẩy, thì Tiểu Đoàn sẽ nhẩy làm hai cánh: Cánh thứ nhất gồm có hai đại đội 1, 2 do Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy. Cánh thứ hai gồm có hai đại đội 3 và 4 do Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt chỉ huy. Tôi và Kiệt, Cẩn ngang ngang tuổi nhau. Tôi có máu giang hồ của người tập võ, coi trời bằng vung, lại cũng có học qua quân sự, nên chúng tôi thân cận nhau dễ dàng. Đại Úy cố vấn tiểu đoàn muốn tôi nhảy theo bộ chỉ huy. Anh hỏi tôi:
- Lần đầu tiên ra trận, ông có sợ không?
Tôi trả lời như những nhân vật trong lịch sử Việt Nam:
- Tráng sĩ khi ra trận, không chết thì cũng bị thương. Nếu sợ chết thì đừng ra trận.
Cẩn hỏi tôi đã học quân sự chưa? Tôi đáp:
- Kiến thức về quân sự của tôi chỉ bằng phó binh nhì thôi. Nhưng cũng biết bò, biết núp, biết nhảy, biết bắn. Đánh nhau bằng súng thì tôi dở ẹt, nhưng đánh cận chiến thì tôi có hạng, vì tôi là ông thầy dạy võ.
Thông dịch viên dịch lại cho binh sĩ nghe. Họ khen tôi:
- Ông bác sĩ này ngon thật!
Tôi hỏi Kiệt:
- Trong hai cánh thì cánh nào có hy vọng được đánh nhau nhiều hơn?
Kiệt chỉ Cẩn:
- Anh cứ nhảy theo thằng này thì sẽ toại nguyện. Tha hồ mà hành nghề.
Tiểu đoàn cũng có sĩ quan trợ y. Anh biệt phái cho tôi một y tá cấp trung sĩ, với đầy đủ thuốc cấp cứu. Trên lưng tôi chỉ có bộ đồ giải phẫu dã chiến. Khoảng 10 giờ thì có lệnh: Một đơn vị địa phương quân chạm địch tại Vĩnh Châu. Địch là Tiểu Đoàn Cơ Động Sóc Trăng. Tiểu đoàn phải nhảy trực thăng vận đánh vào hông địch. Địa điểm nhảy là một khu đồng lầy.
Sau khi Kiệt họp các sĩ quan tóm lược vắn tắt nhiệm vụ, tình hình trong mười phút, Cẩn dẫn tôi ra phi đạo. Hai đại đội đã lên trực thăng từ bao giờ. Chúng tôi cùng leo lên một trực thăng. Hai mươi lăm chiếc trực thăng cùng cất cánh. Trực thăng bay khoảng mươi phút, thì Cẩn chỉ vào một khu làng mạc trước mặt:
- Kìa, chỗ chúng mình đáp kìa.
Trực thăng hạ cánh. Thoáng một cái, hơn hai trăm người từ trực thăng lao ra. Một cảnh tượng mà tôi không bao giờ quên: Những người lính dàn thành một hàng ngang. Họ núp vào những bờ ruộng, mô đất, tay thủ súng, mắt đăm đăm nhìn về trước. Đó là một làng, lưa thưa mấy chục ngôi nhà, cây dừa xanh tươi. Mặc dù súng trong làng bắn ra, nhưng những người lính ấy vẫn chưa bắn trả. Tôi đưa mắt nhìn một lượt, các sĩ quan, người thì nằm, người thì quỳ, cũng có người đứng. Từ lúc nhẩy xuống, Cẩn không hề nằm quỳ, mà đứng quan sát trận mình, quan sát trận địch. Một là điếc không sợ sấm, hai là tự tin vào số tử vi của mình thọ, tôi cũng đứng.
Hơn mười phút sau, cánh quân thứ nhì đã nhảy xuống trận địa. Trận vừa dàn xong, thì sĩ quan đề lô xin pháo binh nã vào những chỗ có ổ moọc chê, đại liên, trung liên trong làng. Một lệnh ban ra, hơn bốn trăm con cọp dàn hàng ngang, vừa bắn vừa xung phong vào trong làng. Trong khi súng trong làng bắn ra, đạn cầy các ụ đất, trúng vào ruộng nước, bụi, nước bắn tung. Hàng quân tới bờ ruộng cuối cùng, cách bìa làng không đầy năm mươi thước thì súng nhỏ từ trong mới nổ. Cả hàng quân đều nằm dài sau các bờ ruộng. Giữa lúc đó, sĩ quan đề lô trúng đạn lật ngược. Tôi chạy lại cấp cứu thì không kịp, viên đạn xuyên qua sọ anh. Thế là pháo binh vô hiệu.
Trực thăng võ trang được gọi đến. Cố vấn Mỹ báo về Trung Tâm Hành Quân. Cố vấn tại Trung Tâm Hành Quân ra lệnh cho phi công trực thăng nã xuống địa điểm có địch quân. Tôi đứng cạnh Cẩn tại một mô đất. Cẩn không trực tiếp cầm máy chỉ huy, mà ra lệnh cho các đại đội, trung đội qua hiệu thính viên. Sau khi trực thăng võ trang nã ba loạt rocket, đại liên thì lệnh xung phong truyền ra. Cả tiểu đoàn reo lên như sóng biển, rồi người người rời chỗ nằm lao vào làng. Không đầy mười phút sau, tiếng súng im hẳn.
Bây giờ là lúc tôi hành nghề. Những binh sĩ, tù binh bị thương nặng được băng bó, cầm máu, rồi trực thăng tải về quân y viện. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy những binh sĩ bị thương khá nặng, khi nghe tôi nói rằng nếu họ muốn, tôi có thể gắp đạn, may các vết thương đó cho họ mà không phải về quân y viện. Họ từ chối đi quân y viện, xin ở lại để tôi giúp họ. Tôi cùng sĩ quan trợ y, bốn y tá làm việc hơn một giờ đồng hồ mới xong. Tôi hỏi Cẩn:
- Tôi tưởng, thương binh được về quân y viện chữa trị là điều họ mong muốn mới phải. Tại sao họ muốn ở lại? - Bọn cọp nhà này vẫn vậy. Chúng tôi sống với nhau, kề cận cái chết với nhau, thì xa nhau là điều buồn khổ vô cùng. Đấy chúng nó bị thương như vậy đấy, lát nữa anh thấy chúng chống gậy đi chơi nhông nhông ngoài phố, coi như bị kiến cắn.
Tôi đi một vòng thăm trận địa. Hơn hai trăm xác chết, mặc áo ba ba đen, quần đùi. Những xác chết đó, gương mặt còn non choẹt, đa số tuổi khoảng 15 đến 20, xác thì nằm vắt vẻo trên bờ kinh, xác thì bị cháy đen, xác thì mất đầu, cũng có xác nằm chết trong hầm. Không biết trong khi họ phơi xác ở đây, thì cha mẹ, anh em, vợ con họ có biết không?
Sau trận đó thì Cẩn được thăng cấp Đại Úy. Cuối năm 1966, Cẩn từ biệt Tiểu Đoàn 42 BĐQ đi làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 33 thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Việc đầu tiên của Cẩn khi làm tiểu đoàn trưởng là xin sư đoàn cho tất cả sĩ quan, hạ sĩ quan xuất thân trường Thiếu Sinh Quân về chiến đấu cùng với mình. Cẩn đã được thỏa mãn một phần yêu cầu. Tôi hỏi Cẩn:
- Anh đem các cựu TSQ về với mục đích gì?
- Một là để dễ sai. Tất cả bọn TSQ này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng nó, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà quân trường không dạy. Hai là, truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi, vì vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã. Bọn cựu TSQ đều như tôi cả.
Suốt năm 1967, Cẩn với Tiểu Đoàn 1/33 tung hoành trên khắp lãnh thổ năm tỉnh Hậu Giang, khi Đại Ngãi, khi Tắc Vân, khi Kiên Hưng, khi Thác Lác, khi Cờ Đỏ. Thời gian này, tôi bắt đầu viết lịch sử tiểu thuyết, nên tôi đọc rất kỹ Lục Thao, Tam Lược, Tôn Ngô binh pháp cùng binh pháp của các danh tướng Đức, nhất là của các tướng Hồng Quân. Tôi dùng kiến thức quân sự trong sách vở để đánh giá những trận đánh của Cẩn từ 1966. Tôi bật ngửa ra rằng, Cẩn không hề đọc, cũng không hề được học tại trường sĩ quan những binh pháp đó. Mà sao từ cung cách chỉ huy, cung cách hành xử với cấp dưới, cấp trên, nhất là những trận đánh của Cẩn bàng bạc xuất hiện như những lý thuyết trong thư tịch cổ?
Lần cuối cùng tôi gặp Cẩn vào mùa Hè năm 1974 tại Chương Thiện. Tôi hỏi Cẩn:
- Anh từng là trung đoàn trưởng, hiện làm tỉnh trưởng. Anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm sư đoàn trưởng không?
- Tôi lặn lội suốt 14 năm qua, gối chưa mỏi nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi. Mình phải biết liêm sỉ chứ. Coi sư đoàn sao được?
- Thế anh nghĩ sau này anh sẽ làm gì?
- Làm tỉnh trưởng bất quá một hai năm rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi trường Thiếu Sinh Quân hoặc coi các lớp huấn luyện đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được trong mười mấy năm qua dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi trải qua, nhờ anh viết lại. Bộ sách đó, anh nghĩ nên đặt tên là gì?
- Cẩm nang của các đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng trong chiến tranh chống du kích tại vùng đồng lầy.
- Nhưng liệu Bộ Quốc Phòng có cho phép in hay không?
- Không cho in thì mình cũng cứ thuật, rồi đem giảng dạy, ai cấm được?
Đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa tôi và Cẩn. Sau khi miền Nam mất, tôi không được tin tức của Cẩn. Mãi năm 1976, tôi được tin: Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Tướng Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng thì Hồ Ngọc Cẩn vẫn tiếp tục chiến đấu. Các đơn vị Cộng Sản tiến vào tiếp thu Tiểu Khu Chương Thiện, thì gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Ông bị bắt, đưa về Cần Thơ rồi bị đem ra xử tử.
Khi tôi gặp Cẩn thì tôi chưa khởi công viết lịch sử tiểu thuyết. Thành ra cuộc đời Cẩn, cuộc đời các thiếu sinh quân quanh Cẩn, in vào tâm não tôi rất sâu, rất đẹp. Vì vậy sang năm 1968, khi bắt đầu viết, thì bao giờ tôi cũng khởi đầu bằng thời thơ ấu của những nhân vật chính. Trong bộ nào, cũng có những thiếu niên, khi ra trận thì tiến lên hoặc chết, chứ không lùi.
Có rất nhiều người đặt câu hỏi: Giữa tôi và Cẩn như hai thái cực. Cẩn chỉ học đến đệ ngũ, tôi được học ở nhà, ở trường đến trình độ cao nhất. Cẩn là người Nam, tôi là người Bắc. Cẩn theo đạo Chúa, tôi là cư sĩ Phật Giáo. Tôi thì sống trong sách vở, hay đi trên mây, Cẩn thì lăn lộn với thực tế. Tôi không biết uống rượu, Cẩn thì nổi danh tửu lượng tại Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Tôi thấy người đẹp là chân tay run lẩy bẩy, Cẩn thì dửng dưng. Thế mà khi gặp nhau, chúng tôi thân với nhau ngay. Thân đến độ giãi bày cho nhau tất cả những tâm sự thầm kín nhất, không một người thứ nhì biết được. Tại sao? Cho đến nay, tôi mới trả lời được rằng: Cẩn cũng như những người quanh Cẩn, là những hình bóng thật, rất quen thuộc mà trước kia tôi chỉ thấy trong lịch sử, nay được gặp trong thực tế.
Hai mươi mốt năm qua, đúng mười hai giờ trưa, ngày 30 tháng 4, dù ở bất cứ nơi nào, tôi cũng mua bó hoa, đèn cầy, vào nhà thờ đốt nến, đặt hoa dưới tượng Đức Mẹ, và cầu xin cho linh hồn Cẩn được an lành trong vòng tay Người.
Trích trong bài: “Vài nét về một anh hùng: Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn”
của Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ viết tại Paris ngày 30/4/1996.
THIẾU TƯỚNG PHẠM
VĂN PHÚ
Tư Lệnh Quân Đoàn II -Vùng 2 Chiến Thuật
Di ảnh cố Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
Tiểu Sử
Tư Lệnh Quân Đoàn II -Vùng 2 Chiến Thuật
Di ảnh cố Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
Tiểu Sử
Thiếu
Tướng Phạm Văn Phú sinh năm 1929 tại Hà Đông, Bắc Việt. Sau khi tốt nghiệp khóa
8 trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt vào giữa năm 1953, ông đã tình nguyện phục vụ
trong binh chủng Nhảy Dù.
Tháng 3-1954, tình hình chiến trường Điện Biên Phủ vô cùng sôi động, ở cấp bậc Trung Úy, ông đã chỉ huy một đại đội của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, nhảy xuống Natasha, một vị trí sát phi đạo chính. Sau hơn một tháng liên tục giao tranh với Việt Minh, Trung Úy Phạm Văn Phú đã chỉ huy một thành phần của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù cùng với các đơn vị của quân đội Pháp phản công tái chiếm một cứ điểm trọng yếu. Sau trận phản công này, ông được thăng cấp Đại Úy tại mặt trận khi vừa đúng 25 tuổi và được cử giữ chức Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Tháng 5-1954, Điện Biên Phủ thất thủ, ông bị địch quân bắt giam. Sau Hiệp Định Genève 20-7-1954, ông được trao trả và tiếp tục phục vụ trong quân đội VNCH.
Năm 1960, Đại Úy Phú được tuyển chọn để phục vụ trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Cuối năm 1962, được thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Quan Sát 77 thuộc Lực Lượng Đặc Biệt. Giữa tháng 5-1964, ông đã chỉ huy liên đoàn này đánh tan Trung Đoàn 765 CSBV tại Suối Đá, Tây Ninh. Gần cuối năm 1964, ông được thăng Trung Tá và giữ chức tham mưu trưởng Lực Lượng Đặc Biệt.
Đầu năm 1966, ông thuyên chuyển ra miền Trung, giữ chức phụ tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh. Giữa năm, ông là Đại Tá Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ Tư Lệnh Sư Đoàn này (Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh là Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm, được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I-Vùng 1 Chiến Thuật). Cuối năm 1966, ông được điều động ra Sư Đoàn 1 Bộ Binh làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn. Giữa năm 1968, ông giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44 (bao gồm các tỉnh biên giới ở miền Tây Nam Phần) đến năm 1969, được thăng cấp Chuẩn Tướng tại mặt trận. Đầu năm 1970, Chuẩn Tướng Phú được cử thay thế Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng trong chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt.
Tháng 8-1970, Tướng Phú được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh thay thế Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng, được cử làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV-Vùng 4 Chiến Thuật. Tháng 3-1971, ông được thăng Thiếu Tướng tại mặt trận sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào. Trong cuộc chiến mùa Hè 1972, ông đã điều động, phối trí các trung đoàn giữ vững phòng tuyến Tây Nam Huế. Do điều kiện sức khỏe, đến tháng 9-1972, ông bàn giao Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho Đại Tá Nguyễn Văn Điềm, Tư Lệnh Phó. Từ 1973 cho đến cuối năm 1974, ông giữ chức Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Tháng 11-1974, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh cử ông giữ chức vụ Tư Lệnh Quân đoàn II-Vùng 2 Chiến thuật thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn trở lại binh chủng Thiết Giáp, giữ chức chỉ huy trưởng. Nhận chức vụ khi tình hình cao nguyên bắt đầu sôi động, Thiếu Tướng Phú được Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn, trình bày về khả năng Cộng Quân sẽ mở cao điểm tại Ban Mê Thuột, thế nhưng không hiểu vì sao, Tướng Phú không tin và nhận định rằng Pleiku mới là chiến trường trọng điểm, còn Ban Mê Thuột là mặt trận phụ mà Cộng Quân muốn tạo thế nghi binh. Trận chiến Ban Mê Thuột đã bùng nổ vào rạng sáng ngày 10-3-1975. Ngày hôm sau, Ban Mê Thuột thất thủ. Bốn ngày sau, vào trưa ngày 14-3-1975, trong một cuộc họp khẩn cấp tại Cam Ranh, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Thiếu Tướng Phú triệt thoái toàn bộ Quân Đoàn 2 khỏi Cao Nguyên. Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, Tư Lệnh Phó Quân Khu 2 được chỉ định điều động việc rút quân từ Pleiku về Nha Trang. Cuộc rút quân ra khỏi vùng Tây Nguyên được mô tả là một cuộc di tản đầy bi thương vì thiếu kế hoạch, thiếu chuẩn bị và chỉ huy. Ngày 28-3-1975, Quân Đoàn II lại được lệnh triệt thoái khỏi Nha Trang để lập tuyến phòng thủ mới tại Phan Rang. Ngày 2-4-1975, Thiếu Tướng Phú được lệnh bàn giao phần lãnh thổ cuối cùng của Quân Khu 2 sát nhập vào Quân Khu 3.
Đầu tháng 4, Tướng Phú lâm bệnh, vào điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Sáng ngày 29-4-1975, tại căn nhà riêng đường Gia Long, chờ khi vợ và các con rời nhà đi về phía trường đua Phú Thọ tìm cách di tản, Tướng Phú đã uống một liều thuốc cực mạnh tự tử. Người em trai của bà Phú sau khi biết tin này đã chạy báo cho cả gia đình quay về.
Theo lời kể của con trai Tướng Phú, đã vượt biên sang Mỹ, những giờ cuối của Tướng Phú được ghi nhận như sau: Nhờ có các bác sĩ Pháp gần nhà giúp đỡ, Tướng Phú được đưa vào bệnh viện Grall cứu cấp. Nhưng ông mê man liên miên, mãi đến trưa 30-4-1975, ông mới tỉnh được giây lát và thều thào hỏi vợ ông đang ngồi bên cạnh:
- Tình hình đến đâu rồi?
Bà Phú nói:
- Tướng Dương Văn Minh ra lệnh quân đội bỏ súng đầu hàng và Cộng Sản đã vào tới Sài Gòn.
Nghe xong, Tướng Phú nhắm mắt và ra đi.
Tháng 3-1954, tình hình chiến trường Điện Biên Phủ vô cùng sôi động, ở cấp bậc Trung Úy, ông đã chỉ huy một đại đội của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, nhảy xuống Natasha, một vị trí sát phi đạo chính. Sau hơn một tháng liên tục giao tranh với Việt Minh, Trung Úy Phạm Văn Phú đã chỉ huy một thành phần của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù cùng với các đơn vị của quân đội Pháp phản công tái chiếm một cứ điểm trọng yếu. Sau trận phản công này, ông được thăng cấp Đại Úy tại mặt trận khi vừa đúng 25 tuổi và được cử giữ chức Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Tháng 5-1954, Điện Biên Phủ thất thủ, ông bị địch quân bắt giam. Sau Hiệp Định Genève 20-7-1954, ông được trao trả và tiếp tục phục vụ trong quân đội VNCH.
Năm 1960, Đại Úy Phú được tuyển chọn để phục vụ trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Cuối năm 1962, được thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Quan Sát 77 thuộc Lực Lượng Đặc Biệt. Giữa tháng 5-1964, ông đã chỉ huy liên đoàn này đánh tan Trung Đoàn 765 CSBV tại Suối Đá, Tây Ninh. Gần cuối năm 1964, ông được thăng Trung Tá và giữ chức tham mưu trưởng Lực Lượng Đặc Biệt.
Đầu năm 1966, ông thuyên chuyển ra miền Trung, giữ chức phụ tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh. Giữa năm, ông là Đại Tá Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ Tư Lệnh Sư Đoàn này (Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh là Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm, được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I-Vùng 1 Chiến Thuật). Cuối năm 1966, ông được điều động ra Sư Đoàn 1 Bộ Binh làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn. Giữa năm 1968, ông giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44 (bao gồm các tỉnh biên giới ở miền Tây Nam Phần) đến năm 1969, được thăng cấp Chuẩn Tướng tại mặt trận. Đầu năm 1970, Chuẩn Tướng Phú được cử thay thế Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng trong chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt.
Tháng 8-1970, Tướng Phú được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh thay thế Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng, được cử làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV-Vùng 4 Chiến Thuật. Tháng 3-1971, ông được thăng Thiếu Tướng tại mặt trận sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào. Trong cuộc chiến mùa Hè 1972, ông đã điều động, phối trí các trung đoàn giữ vững phòng tuyến Tây Nam Huế. Do điều kiện sức khỏe, đến tháng 9-1972, ông bàn giao Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho Đại Tá Nguyễn Văn Điềm, Tư Lệnh Phó. Từ 1973 cho đến cuối năm 1974, ông giữ chức Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Tháng 11-1974, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh cử ông giữ chức vụ Tư Lệnh Quân đoàn II-Vùng 2 Chiến thuật thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn trở lại binh chủng Thiết Giáp, giữ chức chỉ huy trưởng. Nhận chức vụ khi tình hình cao nguyên bắt đầu sôi động, Thiếu Tướng Phú được Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn, trình bày về khả năng Cộng Quân sẽ mở cao điểm tại Ban Mê Thuột, thế nhưng không hiểu vì sao, Tướng Phú không tin và nhận định rằng Pleiku mới là chiến trường trọng điểm, còn Ban Mê Thuột là mặt trận phụ mà Cộng Quân muốn tạo thế nghi binh. Trận chiến Ban Mê Thuột đã bùng nổ vào rạng sáng ngày 10-3-1975. Ngày hôm sau, Ban Mê Thuột thất thủ. Bốn ngày sau, vào trưa ngày 14-3-1975, trong một cuộc họp khẩn cấp tại Cam Ranh, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Thiếu Tướng Phú triệt thoái toàn bộ Quân Đoàn 2 khỏi Cao Nguyên. Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, Tư Lệnh Phó Quân Khu 2 được chỉ định điều động việc rút quân từ Pleiku về Nha Trang. Cuộc rút quân ra khỏi vùng Tây Nguyên được mô tả là một cuộc di tản đầy bi thương vì thiếu kế hoạch, thiếu chuẩn bị và chỉ huy. Ngày 28-3-1975, Quân Đoàn II lại được lệnh triệt thoái khỏi Nha Trang để lập tuyến phòng thủ mới tại Phan Rang. Ngày 2-4-1975, Thiếu Tướng Phú được lệnh bàn giao phần lãnh thổ cuối cùng của Quân Khu 2 sát nhập vào Quân Khu 3.
Đầu tháng 4, Tướng Phú lâm bệnh, vào điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Sáng ngày 29-4-1975, tại căn nhà riêng đường Gia Long, chờ khi vợ và các con rời nhà đi về phía trường đua Phú Thọ tìm cách di tản, Tướng Phú đã uống một liều thuốc cực mạnh tự tử. Người em trai của bà Phú sau khi biết tin này đã chạy báo cho cả gia đình quay về.
Theo lời kể của con trai Tướng Phú, đã vượt biên sang Mỹ, những giờ cuối của Tướng Phú được ghi nhận như sau: Nhờ có các bác sĩ Pháp gần nhà giúp đỡ, Tướng Phú được đưa vào bệnh viện Grall cứu cấp. Nhưng ông mê man liên miên, mãi đến trưa 30-4-1975, ông mới tỉnh được giây lát và thều thào hỏi vợ ông đang ngồi bên cạnh:
- Tình hình đến đâu rồi?
Bà Phú nói:
- Tướng Dương Văn Minh ra lệnh quân đội bỏ súng đầu hàng và Cộng Sản đã vào tới Sài Gòn.
Nghe xong, Tướng Phú nhắm mắt và ra đi.
Phong Cách Anh
Hùng
Nguyễn Đông Thành
Nguyễn Đông Thành
Dù
rằng có nhiệm vụ không thể thiếu sót là làm theo lệnh trên, Thiếu Tướng Phạm Văn
Phú, Khóa 8 Đà Lạt, Tư Lệnh Quân Đoàn II-Quân Khu 2, vẫn không chối được trách
nhiệm về việc bỏ mất miền Tây Nguyên và do thế tạo ra điều kiện thuận lợi cho
Cộng Quân tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Côïng Hòa một cách mau chóng và
dễ dàng hơn cả dự liệu lạc quan nhất của những người hoạch định chiến lược Bắc
Việt. Đó là nhận định nhất trí của người Việt Nam tị nạn Cộng Sản ở nước ngoài,
trong những năm đầu hạ bán thập niên 1970. Nhận định như thế quả là rất thuận lý
vào hồi đó, tức là trong khi người ta chỉ biết rất mù mờ về phần đóng góp của
Tướng Phú vào cuộc rút quân khỏi vùng Tây Nguyên, một cuộc hành binh đã được ghi
nhận là thiếu kế hoạch, thiếu chuẩn bị và thiếu chỉ huy.
Nhưng rồi thì từng phần sự thật dần dần được phơi bày. Người ta chưa biết thật đầy đủ, thật chính xác, nhưng cũng đã biết rõ được vài ba sự việc có thể chứng minh rằng Tướng Phú trên thực tế không có trách nhiệm gì hết trong cuộc rút quân khởi sự ngày 13-3-1975. Cuộc rút quân ấy do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu quyết định với tư cách và quyền hạn của vị Tổng Tư Lệnh QLVNCH. Tổng Thống Thiệu đã đích thân ra Nha Trang gặp Tướng Phú, mang theo Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, để đích thân truyền đạt lệnh rút quân.
Với tư cách là tư lệnh một Quân Đoàn trong QLVNCH, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú dĩ nhiên không được phép chống lại mệnh lệnh của vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội. Nhưng Tướng Phú cũng không tuân hành: hoặc là vì chính ông từ khước; hoặc vì Tổng Thống Thiệu, Đại Tướng Viên ngại rằng Tướng Phú sẽ không ngoan ngoãn vâng lời. Người đứng ra thi hành lệnh rút quân khỏi vùng Tây Nguyên là một Đại Tá mới được thăng cấp Chuẩn Tướng, Đại Tá BĐQ Phạm Duy Tất, để lãnh chức Tư Lệnh Phó Quân Đoàn, và tướng Tư Lệnh được đặt trong tình trạng bất khiển dụng vì lý do sức khỏe từ ngày 14-3-75 đến ngày bị Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng mới nhậm chức, bắt giam vì tội bỏ mất vùng Tây Nguyên.
Như vậy khi cuộc rút quân khỏi miền Tây Nguyên được thực hiện theo lệnh thượng cấp, Tướng Phú trên thực tế chẳng còn là Tư Lệnh Quân Đoàn II-Quân Khu 2, nên không có trách nhiệm về cuộc hành binh tự sát mà ông tuyệt đối không tham dự vào bất cứ một giai đoạn nào từ quyết định, thiết kế, đến việc chuẩn bị và thực hiện. Tuy nhiên dù không dự phần trách nhiệm trong việc bỏ mất vào tay địch một phần lãnh thổ Quốc Gia, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú vẫn khẳng khái tự xử khi thấy rõ là đại cuộc đã không còn cách nào cứu vãn nữa vì Đại Tướng Dương Văn Minh đã dùng quyền Tổng Tư Lệnh mà bắt toàn quân phải buông súng, nộp mình cho Cộng Sản.
Người anh hùng thất bại Phạm Văn Phú tự sát chẳng phải là vì sợ Cộng Sản bắt được và hành hạ trả thù. Nếu muốn, Tướng Phú cũng có đủ khả năng để đào thoát ra nước ngoài một cách ung dung như một số đông các vị cựu tướng lãnh khác, chứ không đến nỗi phải chịu nhục trong Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ như một số người khác, hay phải đạp lên đầu đồng bào mà tranh lấy một chỗ ngồi trên chiếc trực thăng đáp trên một mái nhà như ông Tổng Trưởng Quốc Phòng, kẻ mới tuần trước còn tống giam ông vì tội “không dám hy sinh chiến đấu và bỏ chạy trước quân địch!”
Việc Tướng Phú đến cơ quan DAO gặp Tướng Smith để chỉ xin độc một chỗ trong một chuyến bay di tản cho một người con ông, tác giả cuốn sách “Decent Interval” không khen các tướng lãnh khác là thức thời và cũng không chê Tướng Phú là gàn dở. Ông chỉ viết thêm một câu ngắn, đại ý là Tướng Phú tự sát ngay sau khi Cộng Sản tràn vào Sài Gòn và thở hơi cuối cùng ở Bệnh Viện Grall. Nhưng một tấm hình in trong tập ảnh kẹp giữa cuốn sách “Decent Interval” lại nói hộ ông Frank Snepp những điều ông không cần viết ra mà vẫn nói lên được về tiết tháo và tinh thần trách nhiệm của một tướng lãnh đã quyết tâm tự sát để được chết với lương tâm thanh thản chứ không đành chạy thoát thân khi đất nước lâm nguy. Đó là bức ảnh kỷ niệm mà Tướng Smith lúc đó phụ trách về việc xếp hạng ưu tiên cho những người được coi là có liên hệ với Hoa Kỳ cùng với việc ấn định giờ giấc của các phi vụ di tản. Ông ta bận đến mức không có thì giờ đi ăn, nên sự kiện Tướng Smith bỏ ra vài chục phút để tiếp chuyện và chụp ảnh lưu niệm với Tướng Phú, chứng tỏ hai người có sự tương kính lắm. Nếu cũng tham sống sợ chết, Tướng Phú có thể xin người bạn thân của mình dành nhiều chỗ cho gia đình ông ung dung ra đi.
Nhưng người anh hùng thất bại Phạm Văn Phú còn đủ liêm sỉ để không đành cúi mặt sống hèn; ông chỉ hỏi xin Tướng Smith một chỗ duy nhất cho cậu con trai của ông, ý hẳn là để giữ cho họ Phạm còn có người nối dõi. Hành động tự giết mình để chết theo Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Côïng Hòa bị bức tử đã được quyết định từ lúc ông đến gặp Tướng Smith để ký thác đứa con côi, chứ không phải là một việc liều lĩnh chỉ được nghĩ tới khi chiến xa Cộng Sản đang hùng hục tiến về phía Dinh Độc Lập.
Trước Frank Snepp hơn 20 năm, hai tác giả người Pháp cũng có dịp tán thưởng phong cách anh hùng của một sĩ quan nhảy dù tên Phạm Văn Phú, một nhân vật mà lẽ ra họ không lưu ý tới, vì đã chỉ mới được đề bạt giữ một chức vụ khiêm nhường là Tiểu Đoàn Phó lại là sĩ quan người bản xứ của một quân đội mới thành hình. Một trong hai tác giả đó là Đại Tá Pierre Langlais, một sĩ quan Pháp đã tự thú là có thành kiến xấu với quân nhân Việt Nam.
Cho đến ngày Trung Úy Phạm Văn Phú theo đơn vị, TĐ5ND, nhảy xuống tiếp viện lực lượng G.O.N.O. trong vùng lòng chảo Điện Biên Phủ, Trung Tá Langlais còn giữ nguyên vẹn cái thành kiến xấu xa của ông ta. Langlais lại có ấn tượng xấu đặc biệt về TĐ5ND, đơn vị mà chính ông ta đã đề nghị trả về Lực Lượng Tổng Trừ Bị hồi cuối năm trước. Langlais có chép lại đầu đuôi vụ ấy trong quyển “Điện Biên Phủ” do nhà xuất bản France-Empire phát hành năm 1963. Cũng trong tập ký sự đó, Langlais còn nhìn nhận rằng ông đánh giá lính Việt Nam thấp. Nhưng cũng trong tập ký sự Điện Biên Phủ về sau, Langlais lại dành hơn 10 đoạn để nói về TĐ5ND, đặc biệt về viên sĩ quan cấp úy tên Phạm Văn Phú, người đã chỉ huy giỏi giang và chiến đấu dũng liệt đến mức làm cho Langlais phải từ bỏ các thành kiến sai lầm của mình về tinh thần chiến đấu của chiến sĩ Việt Nam trên trận tuyến chống Cộng. Đại Tá Langlais viết đến người về sau trở thành vị Tư Lệnh cuối cùng của Quân Đoàn II-Quân Khu 2 của Việt Nam Cọng Hòa:
“Ngày 2-3-1954, khi tình hình Điện Biên Phủ đã nguy ngập tới mức René Pleven, Bộ Trưởng Bộ Quân Lực Pháp, vừa từ Điện Biên Phủ trở về, đã phải ra trước Hội Đồng Liên Bộ, để đề nghị một loạt biện pháp cấp cứu. Tướng Navarre ra lệnh thành lập Liên Đoàn 5 Nhảy Dù Việt Nam, Tiểu Đoàn 2/1 Kỵ Binh Nhảy Dù, và TĐ6ND mà Thiếu Tá Begeard, Tiểu Đoàn Trưởng, là một đơn vị trưởng nổi tiếng từ những năm kháng chiến ở vùng Đức chiếm đóng. TĐ5ND nhảy xuống Điện Biên Phủ trước tiên, vào buổi chiều ngày 24-3-1954. Nhảy ở độ thấp, dưới mưa đạn súng cối và đại bác 105 ly. Địch bắn dữ dội đến mức phải thay đổi bãi nhảy mấy lần.
Trung Tá Langlais là Tư Lệnh Phó Lực Lượng G.O.N.O. nhưng nắm toàn quyền trên thực tế, vì Đại Tá De Castries chỉ làm một việc độc nhất là ký và chuyển đi những gì được Langlais đưa cho. Langlais vốn có thành kiến với các quân nhân người Việt, nhất là với TĐ5ND nên ông đã dự tính là xé lẽ ra để bổ sung chỗ này chỗ nọ, chứ không xử dụng nguyên cả tiểu đoàn như một lực lượng xung kích.
Ngay mấy giờ sau khi nhảy xuống, một đại đội của TĐ5ND đã bị biệt phái cho một đơn vị Lê Dương để tiếp cứu lực lượng trấn giữ ở cứ điểm Gabrielle; cuộc hành quân không đạt được kết quả nên Langlais càng nghi ngờ khả năng và tinh thần chiến đấu của lực lượng vừa gởi tới tăng viện. Nhưng Langlais đã bắt đầu nhìn TĐ5ND với con mắt khác hẳn ngay vài hôm sau. Cùng với TĐ6ND của Thiếu Tá Begeard, TĐ5ND được giao cho trấn giữ đồi Eliane 4 ở phòng tuyến thứ 2, nhiệm vụ vừa nặng nề vừa nguy hiểm, là tự chôn mình dưới hỏa lực địch. Cả hai tiểu đoàn đóng gần đỉnh đồi, TĐ6ND giữ mặt Tây, TĐ5ND giữ hai mặt Đông và Nam. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn có thể bị bắn trực xạ bất kể ngày đêm bởi các xạ thủ địch rình rập thường trực ở phía đối diện. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng tình nguyện trấn giữ vị trí nguy hiểm đó, chiến sĩ tiểu đoàn đào đắp xong công sự và địa đạo giao thông hào trong thời gian kỷ lục; Langlais bắt đầu nghĩ khác về khả năng và tinh thần phục vụ của những quân nhân Việt Nam, đang ép lòng chấp nhận quyền chỉ huy của người Pháp trong giai đoạn chuyển tiếp.
Hồi ấy, Trung Úy Phạm Văn Phú là sĩ quan người Việt Nam độc nhất nắm đại đội trong TĐ5ND và cũng là đại đội trưởng độc nhất mang cấp bậc Trung Úy. Hai đại đội trưởng khác là Đại Úy Armandi và Rouault. Ngày 24-3-54, TĐ5ND được tăng phái thêm Đại Úy Alian Bizard, sĩ quan Tùy Viên của một tướng ở Sài Gòn xung phong ra mặt trận. Do ở thâm niên cấp bậc, ông được cử làm Tiểu Đoàn Phó chịu trách nhiệm trấn giữ hai cứ điểm H6 và H7. Đại Úy Bizard mang theo mấy trung đội lấy từ Đại Đội 1 và 4; trong khi ấy Đại Đội 3 được biệt phái cho cứ điểm Dominique, Eliane và Isabelle. Lính Bắc Phi ở Dominique 1 bị tràn ngập, Đại Đội 3 của TĐ5ND tăng phái chỉ còn 10 người chạy về tới tiểu đoàn bộ.
Tình hình hồi ấy tuyệt vọng đến mức Navarre và Cogny chỉ còn độc một việc là đổ lỗi lên đầu nhau. Langlais luôn miệng réo hết Bruno (ám hiệu của Begeard) đến Dédé (Botella) để động viên tinh thần họ giữ vững đồi Eliane 4 vì để mất cứ điểm ấy là đại bản doanh của De Castries cũng mất luôn. Tuy rằng phải chia xẻ với TĐ6ND của Begeard cái nhiệm vụ tử thủ đó, TĐ5ND, đã mất đi Đại Đội 3, chỉ còn sử dụng được non phân nửa quân số còn lại. Langlais giải nhiệm cho Bizard chức Tiểu Đoàn Phó hư hàm để ông ta mang Đại Đội 1 đi trấn giữ cứ điểm H6, trong khi Trung Úy Phú được tôn vinh bằng một trọng trách không tương xứng với một đại đội là trấn giữ điểm tựa Opéra vừa thiết lập để chận địch trong khoảng giữa các cứ điểm Hugette 1 và Épevier.
Trong thượng tuần tháng 4-1954, tình hình ngày càng tồi tệ hơn. Ngày 14-4-1954, Langlais báo cáo là chỉ còn 3,000 quân khiển dụng vì ông không thèm tính tới các phần tử đã mất hết tinh thần chiến đấu. Ở đoạn này trong sách Điện Biên Phủ, tác giả nhấn mạnh rằng lực lượng đóng cứ điểm Eliane 4 (TĐ6ND và TĐ5ND) vẫn giữ vững tinh thần, và họ nhất quyết sống chết với nhiệm vụ.
Hôm sau, Đại Tá De Castries được thăng Thiếu Tướng, hai Trung Tá Langlais và Ladande cũng được thăng một cấp, cũng như mười sĩ quan khác trong đó có Trung Úy Phạm Văn Phú.
Ngày 19-5-1954, Đại Úy Phú được thay thế bởi Đại Úy Bizard, ông này được lệnh rút khỏi cứ điểm H6 đêm hôm trước. Đại Đội 1 gồm 200 chỉ còn lại 80 người đứng vững để tới điểm tựa Opéra thay thế Đại Đội 2, rồi Đại Úy Phú được đề bạt lên chức Tiểu Đoàn Phó ngày 26/4.
Vào thời điểm ấy, tình hình ở Điện Biên Phủ rõ ràng là vô phương cứu chữa. Sau gần một tháng thí quân không tính đếm, 3 trung đoàn địch đã phá hủy được toàn bộ phi đạo; giải quyết xong 3 điểm tựa trong đó có điểm tựa Opéra mà Đại Úy Phú đã giao lại cho Đại Úy Bizard 5 ngày trước.
TĐ5ND chỉ còn ngót hơn 200 chiến sĩ vì ngoài Đại Đội 2 không toàn vẹn, Bộ Chỉ Huy chỉ sử dụng vài chục người còn sót lại của 3 đại đội đã tan vỡ. Quân số đã hao hụt quá nửa nhưng lại phụ trách nhiệm vụ nặng nề gấp bội là một mình trấn giữ tuyến đầu, án ngữ phía trước cho TĐ6ND (Tiểu Đoàn Trưởng mới là Thiếu Tá Béchignac) giữ liên lạc với Bộ Chỉ Huy Trung Ương. Để làm cái việc không thể làm nổi là ngăn chặn không cho địch quân đông gấp mấy chục lần vượt sông xâm nhập vào trung tâm, ngót 200 chiến sĩ TĐ5ND chỉ được tăng cường bằng mấy chục chiến sĩ còn lại của Tiểu Đoàn 2/1 Kỵ Binh Nhảy Dù do Đại Úy Guillemint chỉ huy. Nhưng lực lượng tử thủ ấy vẫn làm tròn được nhiệm vụ cho tới sáng sớm ngày 7-5-54. Mấy giờ trước đó, hai đại đội lính Lê Dương gởi đến tiếp viện cho TĐ5ND, nhưng họ phải mất 3 giờ mới đến được Bộ Chỉ Huy của Thiếu Tá Botella, và chỉ còn không quá 20 chiến sĩ.
Đến hừng sáng, Đại Úy Phú mở cuộc phản kích với ngót 100 tàn quân của mấy đơn vị hợp lại, đánh cận chiến ở thế 1 chọi 20, nhưng cũng dành lại được hơn 100 thước địa đạo. Nhưng rồi thì mũi xung phá ấy bị bẻ gãy, nhiều chiến sĩ và 3 sĩ quan (Đại Úy Guillemint, Đại Úy Phú, Thiếu Úy Lafanne) lần lượt bị đạn địch quật ngã. Thiếu Úy Mackowak, sĩ quan độc nhất còn đứng vững cùng mấy chục chiến sĩ TĐ5ND tiếp tục tử chiến trong khúc địa đạo dưới sườn đồi phía Đông Nam. Địch chùn bước vì mức thương vong quá cao; nhưng mấy chục phút sau, trận đánh dứt điểm tiếp diễn, lần này địch quân sử dụng loại súng cối có nhiều nòng và bắn tự động hàng loạt đạn, loại vũ khí mới lần đầu tiên xử dụng trên chiến trường Việt Nam, và căn cứ chỉ huy của TĐ5ND thất thủ lúc 9 giờ sáng ngày 7-5-54.”
Trên đây là tóm lược các đoạn nói về TĐ5ND và về Đại Úy Phạm Văn Phú trong cuốn Điện Biên Phủ của Đại Tá Pierre Langlais, người thực sự chỉ huy lực lượng G.O.N.O. ở Điện Biên Phủ trong thời gian tiểu đoàn này tham chiến tại mặt trận đó. Đại Tá Langlais đã đích thân ra lệnh, đã chính mắt nhìn thấy, hay đã được báo cáo tường tận tại chỗ, nên chắc chắn là biết rất đúng sự thật. Viên đại tá Pháp đó, từng mang nặng thành kiến không tốt với các chiến hữu Việt Nam, nên chắc chắn không cố ý nói sai để ca tụng chiến sĩ Việt Nam trong TĐ5ND Việt Nam nói chung và viên Đại Úy anh hùng Phạm Văn Phú nói riêng. Vả chăng, tác giả tập hồi ký Điện Biên Phủ cũng chỉ thuật lại các sự việc, như tác giả quyển Decent Interval về sau, chứ không trực tiếp khen chê gì nhân vật Phạm Văn Phú.
Cũng như Đại Tá Pierre Langlais, người viết quyển “La Bataille de Dien Bien Phu” (xuất bản ở Paris cuối năm 1963) cũng là một sĩ quan cao cấp, cũng từng tham chiến ở mặt trận đó từ đầu đến cuối. Ông Jules, về sau được phép trở lại Bắc Việt thu thập tài liệu để kiện toàn pho sách của ông (gọi là pho vì dày đến 624 trang), bị nghi ngờ là có thiện cảm với phe thắng trận ở Điện Biên Phủ. Sự nghi ngờ đó không phải là vu vơ, quả thật tác giả “La Bataille de Dien Bien Phu” đã đưa ra khá nhiều hình ảnh và luận điệu có lợi cho phe địch. Tuy nhiên trong các đoạn rải rác trên mấy chục trang nói về diễn tiến mấy trận đánh từ sau ngày các cứ điểm Béatrice 1, 2 và 3 thất thủ (đêm 13/3/54), Jules Roy cũng ghi nhận tương tự như Pierre Langlais (khá chi tiết hơn vì viết dài hơn) về các chiến tích của TĐ5ND/VN và nhất là về phong cách anh hùng của Tiểu Đoàn Phó Phạm Văn Phú. Về trận đánh dứt điểm đêm mùng 6 rạng mùng 7/5/54 nhằm vào cứ điểm Eliane 4, Jules Roy bổ túc thêm các chi tiết dưới đây:
“Xế chiều ngày 6, địch pháo kích kịch liệt cứ điểm Eliane 4. Áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung, đến 18 giờ 30, địch mới tấn kích, lực lượng Cộng Quân là Trung Đoàn 98. Bộ Chỉ Huy TĐ5ND chỉ còn xử dụng được không đầy 200 chiến sĩ đã mệt nhừ sau một tuần lễ chiến đấu, đạn dược đã gần cạn mà xin tiếp tế không được. Thiếu Tá Botella ra lệnh cho chiến sĩ kháng cự bằng súng cối và súng không giật, nhưng xạ thủ phải tiết kiệm từng viên đạn một, nên địch quân vẫn tiến được lại gần. Trong thế ưu thắng rõ rệt, Trung Đoàn 98 vẫn phải dè dặt tối đa; đây là lần đầu tiên họ xử dụng đường điện thoại vô tuyến nối liền các đại đội với chỉ huy sở Trung Đoàn.
Chiến sĩ TĐ5ND chiến đấu cực kỳ dũng liệt, đến 21 giờ, Đại Úy Phú chỉ còn 30 người để chỉ huy. Họ bắn đến nòng súng nóng bỏng và địch tràn vào như thác nhưng chẳng ai chùn lại. Họ tử chiến để giành giựt với địch từng đoạn địa đạo; lấy súng của người đã chết để bắn về phía những tên đội nón cối đan bằng nan tre. Một loạt đạn súng cối liên châu nã vào, đất bị cày tung lên và đổ ập xuống ông Tiểu Đoàn Phó vừa bị đốn ngã.
Trên đỉnh đồi vừa rạng sáng, trận cận chiến vẫn tiếp diễn trong ruột đồi Eliane 4. Quân địch tràn ngập khắp nơi, nhưng phép lạ là cứ điểm Eliane 4 vẫn còn cầm cự. Theo lệnh Đại Tá Langlais, Trung Tá Lemeunier, Tư Lệnh Bán Lữ Đoàn Lê Dương số 13, đi tiếp cứu Eliane 4, nhưng không kịp. Vì trong căn hầm chỉ huy đầy nhóc thương binh, Thiếu Tá Béchignac không đồng ý xin bắn vào đầu mình và hơn 10 người còn vững tay súng bị bắt làm tù binh lúc 9 giờ sáng.”
Tác giả “La Bataille de Dien Bien Phu” bị nghi ngờ là có thiện cảm với phe thắng trận ở Điện Biên Phủ. Tác giả hồi ký “Dien Bien Phu” xác nhận vốn có thành kiến xấu với các quân nhân người Việt Nam nói chung và TĐ5ND nói riêng. Nhưng cả hai tác giả đều không thể không ghi nhận phong cách anh hùng của nhân vật Phạm Văn Phú, hồi ấy còn là một sĩ quan cấp úy, tức là cấp nhỏ hơn họ nhiều. Một chiến sĩ có phong cách anh hùng như thế, từ thuở mới bắt đầu binh nghiệp, tất nhiên không thể chà đạp lên tiết tháo và tinh thần trách nhiệm của một tướng lãnh mà cúi mặt ở nước người khi quân tan, nước mất. Việc thất bại, anh hùng Phạm Văn Phú tự sát, để được chết với lương tâm thanh thản chỉ là việc tất nhiên phải có của một tướng lãnh.
Nhưng rồi thì từng phần sự thật dần dần được phơi bày. Người ta chưa biết thật đầy đủ, thật chính xác, nhưng cũng đã biết rõ được vài ba sự việc có thể chứng minh rằng Tướng Phú trên thực tế không có trách nhiệm gì hết trong cuộc rút quân khởi sự ngày 13-3-1975. Cuộc rút quân ấy do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu quyết định với tư cách và quyền hạn của vị Tổng Tư Lệnh QLVNCH. Tổng Thống Thiệu đã đích thân ra Nha Trang gặp Tướng Phú, mang theo Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, để đích thân truyền đạt lệnh rút quân.
Với tư cách là tư lệnh một Quân Đoàn trong QLVNCH, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú dĩ nhiên không được phép chống lại mệnh lệnh của vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội. Nhưng Tướng Phú cũng không tuân hành: hoặc là vì chính ông từ khước; hoặc vì Tổng Thống Thiệu, Đại Tướng Viên ngại rằng Tướng Phú sẽ không ngoan ngoãn vâng lời. Người đứng ra thi hành lệnh rút quân khỏi vùng Tây Nguyên là một Đại Tá mới được thăng cấp Chuẩn Tướng, Đại Tá BĐQ Phạm Duy Tất, để lãnh chức Tư Lệnh Phó Quân Đoàn, và tướng Tư Lệnh được đặt trong tình trạng bất khiển dụng vì lý do sức khỏe từ ngày 14-3-75 đến ngày bị Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng mới nhậm chức, bắt giam vì tội bỏ mất vùng Tây Nguyên.
Như vậy khi cuộc rút quân khỏi miền Tây Nguyên được thực hiện theo lệnh thượng cấp, Tướng Phú trên thực tế chẳng còn là Tư Lệnh Quân Đoàn II-Quân Khu 2, nên không có trách nhiệm về cuộc hành binh tự sát mà ông tuyệt đối không tham dự vào bất cứ một giai đoạn nào từ quyết định, thiết kế, đến việc chuẩn bị và thực hiện. Tuy nhiên dù không dự phần trách nhiệm trong việc bỏ mất vào tay địch một phần lãnh thổ Quốc Gia, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú vẫn khẳng khái tự xử khi thấy rõ là đại cuộc đã không còn cách nào cứu vãn nữa vì Đại Tướng Dương Văn Minh đã dùng quyền Tổng Tư Lệnh mà bắt toàn quân phải buông súng, nộp mình cho Cộng Sản.
Người anh hùng thất bại Phạm Văn Phú tự sát chẳng phải là vì sợ Cộng Sản bắt được và hành hạ trả thù. Nếu muốn, Tướng Phú cũng có đủ khả năng để đào thoát ra nước ngoài một cách ung dung như một số đông các vị cựu tướng lãnh khác, chứ không đến nỗi phải chịu nhục trong Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ như một số người khác, hay phải đạp lên đầu đồng bào mà tranh lấy một chỗ ngồi trên chiếc trực thăng đáp trên một mái nhà như ông Tổng Trưởng Quốc Phòng, kẻ mới tuần trước còn tống giam ông vì tội “không dám hy sinh chiến đấu và bỏ chạy trước quân địch!”
Việc Tướng Phú đến cơ quan DAO gặp Tướng Smith để chỉ xin độc một chỗ trong một chuyến bay di tản cho một người con ông, tác giả cuốn sách “Decent Interval” không khen các tướng lãnh khác là thức thời và cũng không chê Tướng Phú là gàn dở. Ông chỉ viết thêm một câu ngắn, đại ý là Tướng Phú tự sát ngay sau khi Cộng Sản tràn vào Sài Gòn và thở hơi cuối cùng ở Bệnh Viện Grall. Nhưng một tấm hình in trong tập ảnh kẹp giữa cuốn sách “Decent Interval” lại nói hộ ông Frank Snepp những điều ông không cần viết ra mà vẫn nói lên được về tiết tháo và tinh thần trách nhiệm của một tướng lãnh đã quyết tâm tự sát để được chết với lương tâm thanh thản chứ không đành chạy thoát thân khi đất nước lâm nguy. Đó là bức ảnh kỷ niệm mà Tướng Smith lúc đó phụ trách về việc xếp hạng ưu tiên cho những người được coi là có liên hệ với Hoa Kỳ cùng với việc ấn định giờ giấc của các phi vụ di tản. Ông ta bận đến mức không có thì giờ đi ăn, nên sự kiện Tướng Smith bỏ ra vài chục phút để tiếp chuyện và chụp ảnh lưu niệm với Tướng Phú, chứng tỏ hai người có sự tương kính lắm. Nếu cũng tham sống sợ chết, Tướng Phú có thể xin người bạn thân của mình dành nhiều chỗ cho gia đình ông ung dung ra đi.
Nhưng người anh hùng thất bại Phạm Văn Phú còn đủ liêm sỉ để không đành cúi mặt sống hèn; ông chỉ hỏi xin Tướng Smith một chỗ duy nhất cho cậu con trai của ông, ý hẳn là để giữ cho họ Phạm còn có người nối dõi. Hành động tự giết mình để chết theo Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Côïng Hòa bị bức tử đã được quyết định từ lúc ông đến gặp Tướng Smith để ký thác đứa con côi, chứ không phải là một việc liều lĩnh chỉ được nghĩ tới khi chiến xa Cộng Sản đang hùng hục tiến về phía Dinh Độc Lập.
Trước Frank Snepp hơn 20 năm, hai tác giả người Pháp cũng có dịp tán thưởng phong cách anh hùng của một sĩ quan nhảy dù tên Phạm Văn Phú, một nhân vật mà lẽ ra họ không lưu ý tới, vì đã chỉ mới được đề bạt giữ một chức vụ khiêm nhường là Tiểu Đoàn Phó lại là sĩ quan người bản xứ của một quân đội mới thành hình. Một trong hai tác giả đó là Đại Tá Pierre Langlais, một sĩ quan Pháp đã tự thú là có thành kiến xấu với quân nhân Việt Nam.
Cho đến ngày Trung Úy Phạm Văn Phú theo đơn vị, TĐ5ND, nhảy xuống tiếp viện lực lượng G.O.N.O. trong vùng lòng chảo Điện Biên Phủ, Trung Tá Langlais còn giữ nguyên vẹn cái thành kiến xấu xa của ông ta. Langlais lại có ấn tượng xấu đặc biệt về TĐ5ND, đơn vị mà chính ông ta đã đề nghị trả về Lực Lượng Tổng Trừ Bị hồi cuối năm trước. Langlais có chép lại đầu đuôi vụ ấy trong quyển “Điện Biên Phủ” do nhà xuất bản France-Empire phát hành năm 1963. Cũng trong tập ký sự đó, Langlais còn nhìn nhận rằng ông đánh giá lính Việt Nam thấp. Nhưng cũng trong tập ký sự Điện Biên Phủ về sau, Langlais lại dành hơn 10 đoạn để nói về TĐ5ND, đặc biệt về viên sĩ quan cấp úy tên Phạm Văn Phú, người đã chỉ huy giỏi giang và chiến đấu dũng liệt đến mức làm cho Langlais phải từ bỏ các thành kiến sai lầm của mình về tinh thần chiến đấu của chiến sĩ Việt Nam trên trận tuyến chống Cộng. Đại Tá Langlais viết đến người về sau trở thành vị Tư Lệnh cuối cùng của Quân Đoàn II-Quân Khu 2 của Việt Nam Cọng Hòa:
“Ngày 2-3-1954, khi tình hình Điện Biên Phủ đã nguy ngập tới mức René Pleven, Bộ Trưởng Bộ Quân Lực Pháp, vừa từ Điện Biên Phủ trở về, đã phải ra trước Hội Đồng Liên Bộ, để đề nghị một loạt biện pháp cấp cứu. Tướng Navarre ra lệnh thành lập Liên Đoàn 5 Nhảy Dù Việt Nam, Tiểu Đoàn 2/1 Kỵ Binh Nhảy Dù, và TĐ6ND mà Thiếu Tá Begeard, Tiểu Đoàn Trưởng, là một đơn vị trưởng nổi tiếng từ những năm kháng chiến ở vùng Đức chiếm đóng. TĐ5ND nhảy xuống Điện Biên Phủ trước tiên, vào buổi chiều ngày 24-3-1954. Nhảy ở độ thấp, dưới mưa đạn súng cối và đại bác 105 ly. Địch bắn dữ dội đến mức phải thay đổi bãi nhảy mấy lần.
Trung Tá Langlais là Tư Lệnh Phó Lực Lượng G.O.N.O. nhưng nắm toàn quyền trên thực tế, vì Đại Tá De Castries chỉ làm một việc độc nhất là ký và chuyển đi những gì được Langlais đưa cho. Langlais vốn có thành kiến với các quân nhân người Việt, nhất là với TĐ5ND nên ông đã dự tính là xé lẽ ra để bổ sung chỗ này chỗ nọ, chứ không xử dụng nguyên cả tiểu đoàn như một lực lượng xung kích.
Ngay mấy giờ sau khi nhảy xuống, một đại đội của TĐ5ND đã bị biệt phái cho một đơn vị Lê Dương để tiếp cứu lực lượng trấn giữ ở cứ điểm Gabrielle; cuộc hành quân không đạt được kết quả nên Langlais càng nghi ngờ khả năng và tinh thần chiến đấu của lực lượng vừa gởi tới tăng viện. Nhưng Langlais đã bắt đầu nhìn TĐ5ND với con mắt khác hẳn ngay vài hôm sau. Cùng với TĐ6ND của Thiếu Tá Begeard, TĐ5ND được giao cho trấn giữ đồi Eliane 4 ở phòng tuyến thứ 2, nhiệm vụ vừa nặng nề vừa nguy hiểm, là tự chôn mình dưới hỏa lực địch. Cả hai tiểu đoàn đóng gần đỉnh đồi, TĐ6ND giữ mặt Tây, TĐ5ND giữ hai mặt Đông và Nam. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn có thể bị bắn trực xạ bất kể ngày đêm bởi các xạ thủ địch rình rập thường trực ở phía đối diện. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng tình nguyện trấn giữ vị trí nguy hiểm đó, chiến sĩ tiểu đoàn đào đắp xong công sự và địa đạo giao thông hào trong thời gian kỷ lục; Langlais bắt đầu nghĩ khác về khả năng và tinh thần phục vụ của những quân nhân Việt Nam, đang ép lòng chấp nhận quyền chỉ huy của người Pháp trong giai đoạn chuyển tiếp.
Hồi ấy, Trung Úy Phạm Văn Phú là sĩ quan người Việt Nam độc nhất nắm đại đội trong TĐ5ND và cũng là đại đội trưởng độc nhất mang cấp bậc Trung Úy. Hai đại đội trưởng khác là Đại Úy Armandi và Rouault. Ngày 24-3-54, TĐ5ND được tăng phái thêm Đại Úy Alian Bizard, sĩ quan Tùy Viên của một tướng ở Sài Gòn xung phong ra mặt trận. Do ở thâm niên cấp bậc, ông được cử làm Tiểu Đoàn Phó chịu trách nhiệm trấn giữ hai cứ điểm H6 và H7. Đại Úy Bizard mang theo mấy trung đội lấy từ Đại Đội 1 và 4; trong khi ấy Đại Đội 3 được biệt phái cho cứ điểm Dominique, Eliane và Isabelle. Lính Bắc Phi ở Dominique 1 bị tràn ngập, Đại Đội 3 của TĐ5ND tăng phái chỉ còn 10 người chạy về tới tiểu đoàn bộ.
Tình hình hồi ấy tuyệt vọng đến mức Navarre và Cogny chỉ còn độc một việc là đổ lỗi lên đầu nhau. Langlais luôn miệng réo hết Bruno (ám hiệu của Begeard) đến Dédé (Botella) để động viên tinh thần họ giữ vững đồi Eliane 4 vì để mất cứ điểm ấy là đại bản doanh của De Castries cũng mất luôn. Tuy rằng phải chia xẻ với TĐ6ND của Begeard cái nhiệm vụ tử thủ đó, TĐ5ND, đã mất đi Đại Đội 3, chỉ còn sử dụng được non phân nửa quân số còn lại. Langlais giải nhiệm cho Bizard chức Tiểu Đoàn Phó hư hàm để ông ta mang Đại Đội 1 đi trấn giữ cứ điểm H6, trong khi Trung Úy Phú được tôn vinh bằng một trọng trách không tương xứng với một đại đội là trấn giữ điểm tựa Opéra vừa thiết lập để chận địch trong khoảng giữa các cứ điểm Hugette 1 và Épevier.
Trong thượng tuần tháng 4-1954, tình hình ngày càng tồi tệ hơn. Ngày 14-4-1954, Langlais báo cáo là chỉ còn 3,000 quân khiển dụng vì ông không thèm tính tới các phần tử đã mất hết tinh thần chiến đấu. Ở đoạn này trong sách Điện Biên Phủ, tác giả nhấn mạnh rằng lực lượng đóng cứ điểm Eliane 4 (TĐ6ND và TĐ5ND) vẫn giữ vững tinh thần, và họ nhất quyết sống chết với nhiệm vụ.
Hôm sau, Đại Tá De Castries được thăng Thiếu Tướng, hai Trung Tá Langlais và Ladande cũng được thăng một cấp, cũng như mười sĩ quan khác trong đó có Trung Úy Phạm Văn Phú.
Ngày 19-5-1954, Đại Úy Phú được thay thế bởi Đại Úy Bizard, ông này được lệnh rút khỏi cứ điểm H6 đêm hôm trước. Đại Đội 1 gồm 200 chỉ còn lại 80 người đứng vững để tới điểm tựa Opéra thay thế Đại Đội 2, rồi Đại Úy Phú được đề bạt lên chức Tiểu Đoàn Phó ngày 26/4.
Vào thời điểm ấy, tình hình ở Điện Biên Phủ rõ ràng là vô phương cứu chữa. Sau gần một tháng thí quân không tính đếm, 3 trung đoàn địch đã phá hủy được toàn bộ phi đạo; giải quyết xong 3 điểm tựa trong đó có điểm tựa Opéra mà Đại Úy Phú đã giao lại cho Đại Úy Bizard 5 ngày trước.
TĐ5ND chỉ còn ngót hơn 200 chiến sĩ vì ngoài Đại Đội 2 không toàn vẹn, Bộ Chỉ Huy chỉ sử dụng vài chục người còn sót lại của 3 đại đội đã tan vỡ. Quân số đã hao hụt quá nửa nhưng lại phụ trách nhiệm vụ nặng nề gấp bội là một mình trấn giữ tuyến đầu, án ngữ phía trước cho TĐ6ND (Tiểu Đoàn Trưởng mới là Thiếu Tá Béchignac) giữ liên lạc với Bộ Chỉ Huy Trung Ương. Để làm cái việc không thể làm nổi là ngăn chặn không cho địch quân đông gấp mấy chục lần vượt sông xâm nhập vào trung tâm, ngót 200 chiến sĩ TĐ5ND chỉ được tăng cường bằng mấy chục chiến sĩ còn lại của Tiểu Đoàn 2/1 Kỵ Binh Nhảy Dù do Đại Úy Guillemint chỉ huy. Nhưng lực lượng tử thủ ấy vẫn làm tròn được nhiệm vụ cho tới sáng sớm ngày 7-5-54. Mấy giờ trước đó, hai đại đội lính Lê Dương gởi đến tiếp viện cho TĐ5ND, nhưng họ phải mất 3 giờ mới đến được Bộ Chỉ Huy của Thiếu Tá Botella, và chỉ còn không quá 20 chiến sĩ.
Đến hừng sáng, Đại Úy Phú mở cuộc phản kích với ngót 100 tàn quân của mấy đơn vị hợp lại, đánh cận chiến ở thế 1 chọi 20, nhưng cũng dành lại được hơn 100 thước địa đạo. Nhưng rồi thì mũi xung phá ấy bị bẻ gãy, nhiều chiến sĩ và 3 sĩ quan (Đại Úy Guillemint, Đại Úy Phú, Thiếu Úy Lafanne) lần lượt bị đạn địch quật ngã. Thiếu Úy Mackowak, sĩ quan độc nhất còn đứng vững cùng mấy chục chiến sĩ TĐ5ND tiếp tục tử chiến trong khúc địa đạo dưới sườn đồi phía Đông Nam. Địch chùn bước vì mức thương vong quá cao; nhưng mấy chục phút sau, trận đánh dứt điểm tiếp diễn, lần này địch quân sử dụng loại súng cối có nhiều nòng và bắn tự động hàng loạt đạn, loại vũ khí mới lần đầu tiên xử dụng trên chiến trường Việt Nam, và căn cứ chỉ huy của TĐ5ND thất thủ lúc 9 giờ sáng ngày 7-5-54.”
Trên đây là tóm lược các đoạn nói về TĐ5ND và về Đại Úy Phạm Văn Phú trong cuốn Điện Biên Phủ của Đại Tá Pierre Langlais, người thực sự chỉ huy lực lượng G.O.N.O. ở Điện Biên Phủ trong thời gian tiểu đoàn này tham chiến tại mặt trận đó. Đại Tá Langlais đã đích thân ra lệnh, đã chính mắt nhìn thấy, hay đã được báo cáo tường tận tại chỗ, nên chắc chắn là biết rất đúng sự thật. Viên đại tá Pháp đó, từng mang nặng thành kiến không tốt với các chiến hữu Việt Nam, nên chắc chắn không cố ý nói sai để ca tụng chiến sĩ Việt Nam trong TĐ5ND Việt Nam nói chung và viên Đại Úy anh hùng Phạm Văn Phú nói riêng. Vả chăng, tác giả tập hồi ký Điện Biên Phủ cũng chỉ thuật lại các sự việc, như tác giả quyển Decent Interval về sau, chứ không trực tiếp khen chê gì nhân vật Phạm Văn Phú.
Cũng như Đại Tá Pierre Langlais, người viết quyển “La Bataille de Dien Bien Phu” (xuất bản ở Paris cuối năm 1963) cũng là một sĩ quan cao cấp, cũng từng tham chiến ở mặt trận đó từ đầu đến cuối. Ông Jules, về sau được phép trở lại Bắc Việt thu thập tài liệu để kiện toàn pho sách của ông (gọi là pho vì dày đến 624 trang), bị nghi ngờ là có thiện cảm với phe thắng trận ở Điện Biên Phủ. Sự nghi ngờ đó không phải là vu vơ, quả thật tác giả “La Bataille de Dien Bien Phu” đã đưa ra khá nhiều hình ảnh và luận điệu có lợi cho phe địch. Tuy nhiên trong các đoạn rải rác trên mấy chục trang nói về diễn tiến mấy trận đánh từ sau ngày các cứ điểm Béatrice 1, 2 và 3 thất thủ (đêm 13/3/54), Jules Roy cũng ghi nhận tương tự như Pierre Langlais (khá chi tiết hơn vì viết dài hơn) về các chiến tích của TĐ5ND/VN và nhất là về phong cách anh hùng của Tiểu Đoàn Phó Phạm Văn Phú. Về trận đánh dứt điểm đêm mùng 6 rạng mùng 7/5/54 nhằm vào cứ điểm Eliane 4, Jules Roy bổ túc thêm các chi tiết dưới đây:
“Xế chiều ngày 6, địch pháo kích kịch liệt cứ điểm Eliane 4. Áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung, đến 18 giờ 30, địch mới tấn kích, lực lượng Cộng Quân là Trung Đoàn 98. Bộ Chỉ Huy TĐ5ND chỉ còn xử dụng được không đầy 200 chiến sĩ đã mệt nhừ sau một tuần lễ chiến đấu, đạn dược đã gần cạn mà xin tiếp tế không được. Thiếu Tá Botella ra lệnh cho chiến sĩ kháng cự bằng súng cối và súng không giật, nhưng xạ thủ phải tiết kiệm từng viên đạn một, nên địch quân vẫn tiến được lại gần. Trong thế ưu thắng rõ rệt, Trung Đoàn 98 vẫn phải dè dặt tối đa; đây là lần đầu tiên họ xử dụng đường điện thoại vô tuyến nối liền các đại đội với chỉ huy sở Trung Đoàn.
Chiến sĩ TĐ5ND chiến đấu cực kỳ dũng liệt, đến 21 giờ, Đại Úy Phú chỉ còn 30 người để chỉ huy. Họ bắn đến nòng súng nóng bỏng và địch tràn vào như thác nhưng chẳng ai chùn lại. Họ tử chiến để giành giựt với địch từng đoạn địa đạo; lấy súng của người đã chết để bắn về phía những tên đội nón cối đan bằng nan tre. Một loạt đạn súng cối liên châu nã vào, đất bị cày tung lên và đổ ập xuống ông Tiểu Đoàn Phó vừa bị đốn ngã.
Trên đỉnh đồi vừa rạng sáng, trận cận chiến vẫn tiếp diễn trong ruột đồi Eliane 4. Quân địch tràn ngập khắp nơi, nhưng phép lạ là cứ điểm Eliane 4 vẫn còn cầm cự. Theo lệnh Đại Tá Langlais, Trung Tá Lemeunier, Tư Lệnh Bán Lữ Đoàn Lê Dương số 13, đi tiếp cứu Eliane 4, nhưng không kịp. Vì trong căn hầm chỉ huy đầy nhóc thương binh, Thiếu Tá Béchignac không đồng ý xin bắn vào đầu mình và hơn 10 người còn vững tay súng bị bắt làm tù binh lúc 9 giờ sáng.”
Tác giả “La Bataille de Dien Bien Phu” bị nghi ngờ là có thiện cảm với phe thắng trận ở Điện Biên Phủ. Tác giả hồi ký “Dien Bien Phu” xác nhận vốn có thành kiến xấu với các quân nhân người Việt Nam nói chung và TĐ5ND nói riêng. Nhưng cả hai tác giả đều không thể không ghi nhận phong cách anh hùng của nhân vật Phạm Văn Phú, hồi ấy còn là một sĩ quan cấp úy, tức là cấp nhỏ hơn họ nhiều. Một chiến sĩ có phong cách anh hùng như thế, từ thuở mới bắt đầu binh nghiệp, tất nhiên không thể chà đạp lên tiết tháo và tinh thần trách nhiệm của một tướng lãnh mà cúi mặt ở nước người khi quân tan, nước mất. Việc thất bại, anh hùng Phạm Văn Phú tự sát, để được chết với lương tâm thanh thản chỉ là việc tất nhiên phải có của một tướng lãnh.
Chuẩn Tướng Lê
Nguyên Vỹ
Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh
Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh
Di ảnh cố Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ
Tiểu Sử
Cố
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ sinh ngày 22 tháng 8 năm 1933 tại Tỉnh Sơn Tây, Bắc
Việt trong một gia đình Nho giáo. Lớn lên trong khói lửa nên ông gia nhập quân
ngũ thật sớm khi vừa mới 17 tuổi. Tốt nghiệp khóa 2 trường Võ Bị Địa Phương
Trung Việt vào đầu năm 1951 với cấp bậc Chuẩn Úy hiện dịch.
Đơn vị đầu tiên của ông là Tiểu Đoàn 19 Việt Nam do Thiếu Tá Đỗ Cao Trí chỉ huy. Sau đó, toàn thể tiểu đoàn này được chuyển qua Liên Đoàn Nhảy Dù để trở thành Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù Việt Nam. Ông là một trong số rất hiếm hoi sĩ quan Nhảy Dù được gởi đi tu nghiệp tại Pau (Pháp) để được huấn luyện về huấn luyện viên Nhảy Dù.
Vào năm 1956 khi lực lượng Bình Xuyên nổi loạn chống chánh phủ, ông chỉ huy hai đại đội thuộc Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù chiến đấu rất dũng mãnh và đẩy lui quân phiến loạn ra khỏi trường Trung Học Petrus Ký Sài Gòn. Trong trận này ông đã bị trọng thương và được vinh thăng cấp bậc Đại Úy đặc cách tại mặt trận.
Sau khi tốt nghiệp khóa bộ binh cao cấp, được thuyên chuyển về Sư Đoàn 5 Bộ Binh đảm nhiệm liên tiếp các chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 Bộ Binh và rồi Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Đặc biệt trong trận chiến tử thủ An lộc năm 1972, ông đã được mọi cấp trong Sư Đoàn ca ngợi về cử chỉ gan da,ï một mình đã hạ được 3 chiến xa địch ngay sát Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn.
Tiếp theo đó, ông được gởi đi tu nghiệp khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp tại Fort Leavenworth ở Hoa Kỳ. Sau khi về nước, ông được thuyên chuyển về Bộ Tư Lệnh QĐ III, đảm nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Quân Đoàn.
Vào khoảng giữa năm 1973, bộ Tổng Tham Mưu đã điều động ông về làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh, được chỉ định điều động hầu hết các cuộc hành quân trong khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn. Trong cuộc giải tỏa áp lực địch chung quanh Thị Xã Chương Thiện, trực thăng chỉ huy của ông bị trúng đạn và ông đã bị thương ở chân.
Ngay sau khi xuất viện, được giao phó ngay chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh khi ông còn mang cấp bậc đại tá trong khi vết thương chưa lành hẳn, bước đi còn khập khễnh và chống gậy. Ông được vinh thăng Chuẩn Tướng vào năm 1974.
Khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam vào năm 1975, với tư cách là Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ đã quyết định không đầu hàng địch và tự sát tại bản doanh ở Lai Khê vào sáng 30 tháng 4 để bảo toàn khí tiết của một tướng lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông tự sát khi mới 42 tuổi.
Đơn vị đầu tiên của ông là Tiểu Đoàn 19 Việt Nam do Thiếu Tá Đỗ Cao Trí chỉ huy. Sau đó, toàn thể tiểu đoàn này được chuyển qua Liên Đoàn Nhảy Dù để trở thành Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù Việt Nam. Ông là một trong số rất hiếm hoi sĩ quan Nhảy Dù được gởi đi tu nghiệp tại Pau (Pháp) để được huấn luyện về huấn luyện viên Nhảy Dù.
Vào năm 1956 khi lực lượng Bình Xuyên nổi loạn chống chánh phủ, ông chỉ huy hai đại đội thuộc Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù chiến đấu rất dũng mãnh và đẩy lui quân phiến loạn ra khỏi trường Trung Học Petrus Ký Sài Gòn. Trong trận này ông đã bị trọng thương và được vinh thăng cấp bậc Đại Úy đặc cách tại mặt trận.
Sau khi tốt nghiệp khóa bộ binh cao cấp, được thuyên chuyển về Sư Đoàn 5 Bộ Binh đảm nhiệm liên tiếp các chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 Bộ Binh và rồi Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Đặc biệt trong trận chiến tử thủ An lộc năm 1972, ông đã được mọi cấp trong Sư Đoàn ca ngợi về cử chỉ gan da,ï một mình đã hạ được 3 chiến xa địch ngay sát Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn.
Tiếp theo đó, ông được gởi đi tu nghiệp khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp tại Fort Leavenworth ở Hoa Kỳ. Sau khi về nước, ông được thuyên chuyển về Bộ Tư Lệnh QĐ III, đảm nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Quân Đoàn.
Vào khoảng giữa năm 1973, bộ Tổng Tham Mưu đã điều động ông về làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh, được chỉ định điều động hầu hết các cuộc hành quân trong khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn. Trong cuộc giải tỏa áp lực địch chung quanh Thị Xã Chương Thiện, trực thăng chỉ huy của ông bị trúng đạn và ông đã bị thương ở chân.
Ngay sau khi xuất viện, được giao phó ngay chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh khi ông còn mang cấp bậc đại tá trong khi vết thương chưa lành hẳn, bước đi còn khập khễnh và chống gậy. Ông được vinh thăng Chuẩn Tướng vào năm 1974.
Khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam vào năm 1975, với tư cách là Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ đã quyết định không đầu hàng địch và tự sát tại bản doanh ở Lai Khê vào sáng 30 tháng 4 để bảo toàn khí tiết của một tướng lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông tự sát khi mới 42 tuổi.
Viết Về Tướng Lê
Nguyên Vỹ
Thanh Sơn
Thanh Sơn
Tướng
Lê Nguyên Vỹ về đảm nhận chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, khi ông còn mang cấp
bậc Đại Tá, vào khoảng tháng 6 năm 73, trong lúc vết thương chân của ông chưa
lành hẳn, bước đi còn khập khễnh và chống gậy vì bị tai nạn trực thăng khi ông
còn là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Ông là một vị chỉ huy gan dạ nổi tiếng nhất của Sư Đoàn 5 Bộ Binh từ lúc ông mới làm Trung Đoàn Trưởng: “Nhất Vỹ, nhì Gia” (Trung Tá Gia hình như họ Hà, Hà Văn Gia, vì đã lâu ngày tôi không nhớ rõ). Đây là câu nói được nghe nhiều lần nơi sĩ quan và binh sĩ khi rời quân trường về trình diện Sư Đoàn vào tháng 1-68. Nhiều đồng bào và anh em chiến sĩ thuộc các đơn vị bạn quanh vùng Lái Thiêu, Bình Dương cho đến các tỉnh biên giới Bình Long, Phước Long điều biết đến tên ông. Có lẽ một phần vì tinh thần chiến đấu kiên trì và dũng cảm, một phần vì tính tình nóng nảy như lửa đốt của ông.
Tinh thần kiên trì và dứt khoát chiến đấu chống Cộng của ông đã biểu lộ qua câu chuyện của một sĩ quan tham mưu Sư Đoàn kể cho tôi nghe: “Ông Vỹ có một cô em gái đi theo VC, viết thư khuyên ông nên quay về với “Bác và Đảng” và ông đã trao bức thư này cho An Ninh Quân Đội VNCH để nghiên cứu.”
Tinh thần chiến đấu của ông gần như mọi người thuộc Sư Đoàn điều biết. Vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 72 ở An Lộc, VC lùa 3 Sư Đoàn (Công Trường số 5, 7, 9), Trung Đoàn Thiết Giáp T54 và các đơn vị trọng pháo 130 ly để bao vây và tấn công thành phố An Lộc, Tỉnh Bình Long. Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn cùng với Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn đã tích cực điều động các đơn vị phòng thủ đẩy lui nhiều đợt tấn công ác liệt kéo dài ròng rã 3 tháng trời. Ở vào cao điểm khốc liệt nhất, khi VC quyết định xử dụng toàn bộ lực lượng xung kích chủ yếu, thiết giáp T54 và bộ binh kết hợp tiến thẳng vào trung tâm chỉ huy của Tướng Lê Văn Hưng. Vì bị thiệt hại nặng nề do đạn pháo, các đơn vị phòng thủ VNCH phải co cụm lại từng tụ điểm để chống trả. Khi thấy chiến xa và bộ binh địch xuất hiện từ xa, tất cả các loại súng cối của ta bắn ra xối xả, khiến bộ binh VC phải giật lùi lại phía sau, chỉ còn thiết giáp của VC một hàng dọc, theo đường phố tiến thẳng vào nơi phòng thủ của Tướng Hưng. Vì lần đầu tiên người lính VNCH nhìn thấy chiến xa địch và phần vì không tin tưởng vào vũ khí chống chiến xa M72, hầu hết đều kinh hoàng và tìm nơi ẩn nấp. Ngay cả đến nhũng người lính phòng thủ trước cửa hầm của Tướng Hưng cũng vậy, nhìn thấy chiến xa đã tới gần, tất cả đều nhảy xuống hầm. Đại Tá Lê Nguyên Vỹ đã nhanh nhẹn chụp lấy một khẩu M72 của người lính đứng bên cạnh ông, bước lên miệng hầm. Trong khi ấy, Tướng Lê Văn Hưng đã cầm sẵn một trái lựu đạn nơi tay với ý định nếu VC tràn vào, ông tung ra tất cả cùng chết. Chiếc chiến xa đi đầu đã đến gần, nhưng chúng chưa định ra được hầm nào là của Tướng Hưng đang thủ, chúng quay ngang quay dọc để tìm kiếm. Thừa lúc ấy, Đại Tá Vỹ đã bắn ngay một quả đạn M72 vào hông xe làm xe bốc cháy. Binh sĩ lên tinh thần reo hò, và họ lần theo từng căn nhà, từng bờ tường để bắn vào những chiếc còn lại. Kết quả là gần 50 chiếc chiến xa địch bị bắn cháy ngay trên trận địa.
Tướng Vỹ được thăng cấp khoảng cuối năm 1974. Ông đã phải đương đầu với hoàn cảnh vô cùng khó khăn: vừa phải lo đối phó với áp lực của quân địch, và vừa lo chấn chỉnh và củng cố nhân sự v.v... Ông làm việc không kể giờ giấc, ngày đêm, hết ở Bộ Tư Lệnh căn cứ ở Lai Khê, lại chạy tới các căn cứ của trung đoàn, tiểu đoàn để kiểm tra, đốc thúc đào hào, tu bổ hệ thống phòng thủ, đắp chướng ngại vật để cản chiến xa. Ông cũng lưu tâm đặc biệt việc rèn luyện tân binh, thường xuyên mở lớp huấn luyện và ôn tập cho các cán bộ và binh sĩ.
Đặc biệt về công tác bài trừ tệ tham nhũng, ông rất hăng say. Không ai nghi ngờ thiện chí của Tướng Vỹ, ông rất nhiệt tình. Trong một buổi lễ khai giảng khóa huấn luyện tân binh, đứng trước cả ngàn người vừa tân binh lẫn cán bộ và lính cơ hữu của trung tâm huấn luyện ở Lái Thiêu, ông công kích kịch liệt trong gần một tiếng đồng hồ về tệ nạn tham nhũng. Ông nói rất nhiều, nhưng chỉ có một câu tôi nhớ hoài, không bao giờ quên: “Chúng nó đã móc ngầm với nhau rất chặt chẽ, mình phải gỡ ra từ từ mới được.” Trong thời gian ông làm Tư Lệnh, tệ nạn tham nhũng, nếu không muốn nói đã bị chặn đứng thì cũng phải giảm đi rất nhiều; không còn cảnh ăn chơi phè phỡn trong khi người khác cặm cụi làm việc. Nhìn chung, từ ngày Tướng Vỹ về Sư Đoàn, ông đã cải tổ, xây đựng được nhiều vấn đề. Ông đã mang lại niềm tin tưởng cho mọi người.
Việt Cộng ngày càng di chuyển người, vũ khí, lương thực về gần Sài Gòn hơn. Áp lực quân sự ngày càng gia tăng. Việc tiếp tế bằng phi cơ cho An Lộc và Chơn Thành quá tốn kém mà chỉ để bảo vệ những đống gạch vụn tại thành phố An Lộc và những vùng đất hoang vu, không người ở. Dân cư tại các làng mạc, đồn điền đều đã di tản để tránh bom đạn hồi năm 1972, một số chạy ngược lên Lộc Ninh, số còn lại chạy về Sài Gòn. Vào khoảng cuối năm 1974, các lượng phòng thủ An Lộc và Chơn Thành được lệnh triệt thoái. Một việc làm Tướng Vỹ buồn lòng không ít khi một tiểu đoàn của Trung Đoàn 8 ở Chơn Thành rút lui, ông chỉ thị phải ưu tiên chở hỏa tiễn Tow về trên chuyến phi cơ đầu tiên để ông tái phối trí nơi khác (Tow là loại hỏa tiễn chống chiến xa rất hiệu nghiệm và rất đắt tiền). Ông đích thân ra sân bay đón chờ. Khi chuyến bay đầu tiên hạ cánh, hàng bốc xuống hết, ông không thấy hỏa tiễn Tow đâu cả, mà chỉ toàn là hàng câu lạc bộ như bia, nước ngọt, cà phê, sữa. Thế rồi, ông nổi cơn thịnh nộ, đích thân lái xe Jeep ủi sập hết đống hàng này.
Tình hình quân sự ngày càng nghiêm trọng, Tỉnh Lỵ Phước Long bị VC tràn ngập vào ngày 3-1-75, nhưng QLVNCH không có nỗ lực nào để tái chiếm. Những người chỉ huy quân sự nói chung và của SĐ5BB nói riêng đã bắt đầu lo ngại, nhưng tất cả đều đồng ý rằng, trong chiến tranh, hôm nay mất ngày nay chiếm lại là việc thông thường, không có gì lo âu quá đáng.
Khi Ban Mê Thuột thất thủ, Quân Đội VNCH rút khỏi Cao Nguyên, miền Trung và tuyến phòng thủ miền Đông (Phan Rang, Long Khánh) bị bể, những lực lượng còn lại của QLVNCH đang lui dần về phía cầu xa lộ Biên Hòa, tôi được lệnh chuẩn bị kế hoạch, trang bị nhẹ, dự trù trong trường hợp Sài Gòn thất thủ, sẽ lui dần về Vùng 4 để tiếp tục chiến đấu. Tôi không biết lệnh này xuất phát từ đâu!
Lúc này, những đoàn quân VC ở phía Bắc Sài Gòn đã ép sát với phòng tuyến của SĐ5BB. Ở phía Quận Lỵ Phú Giáo, vào ngày 23 và 27-4-75, phi cơ phản lực, cứ 2 chiếc luân phiên nhau thả bom vào những vị trí tập trung của quân địch để ngăn cản sức tiến quân của chúng. Đường bay nhào lộn kéo tới không phận Lái Thiêu. Cán bộ huấn luyện viên và các khóa sinh đều đưa mắt liếc nhìn, không ai nói với ai một lời, tất cả đã hiểu việc gì đang xảy ra.
Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn chỉ chấm dứt các hoạt động huấn luyện bãi tập vào ngày 28-4-75 và được lệnh cấm trại 100% để lo phòng thủ. Tình hình ở Sài Gòn lúc đó quá lộn xộn và các đơn vị du kích cùng quân địa phương VC đã xuất hiện ở nhiều nơi quanh vùng Lái Thiêu, Bình Dương. Khoảng 10 giờ đêm ngày 28-4-75, tôi đã nhìn thấy bộ binh và chiến xa của VC đang di chuyển trên xa lộ Đại Hàn (Sài Gòn-Bình Dương). Bộ binh đi hai hàng dọc, kẹp sát lề đường, xen kẽ ở giữa là chiến xa T54. Chúng chẳng thèm ngụy trang lá cây gì cả và đang di chuyển về hướng Sài Gòn. Thình lình tiếng súng cối 81 ly của TTHL/SĐ từ phía sau lưng bắn ra để cản bước tiến của chúng. Đạn nổ bốc khói mịt mù xa lộ. Chỉ trong giây lát, chiến xa và bộ binh VC đã giàn hàng ngang tiến thẳng về phía TTHL. Những khẩu phòng không trên pháo tháp của chiến xa địch đang nhả đạn, bỗng dưng khựng lại. Chúng quay ngược ra xa lộ rồi tiếp tục di chuyển về hướng Sài Gòn. Chúng đi rất vội vã, hối hả. Rõ ràng chúng đang được lệnh tránh giao chiến dọc đường, bảo toàn lực lượng tối đa, tiến nhanh về Sài Gòn càng sớm càng tốt. Sài Gòn vào giờ này đang hỗn loạn, miếng mồi thơm ngon, béo bở đang đợi chờ, chúng không thể chậm trễ được!
Khoảng 8 giờ sáng, tôi không còn nhìn thấy một lực lượng nào của VC di chuyển nữa. Tôi vẫn đứng sau phòng tuyến suy nghĩ miên man... Chúng đã lợi dụng đêm tối, len lỏi, vượt nhanh ngang qua hông những điểm phòng thủ chính yếu của SĐ5BB, của Tiểu Khu Bình Dương. Chúng đã bỏ toàn bộ lực lượng của SĐ5BB về phía sau lưng rồi!
Bỗng tôi nhớ tới câu chuyện hơn một năm về trước khoảng tháng 12 năm 73. Hôm ấy, như thường lệ, tới phiên trực, tôi đem bản đồ vào phòng riêng của Tướng Vỹ vào buổi tối để ông duyệt xét lại tình hình tổng quát mà có các chỉ thị cần thiết cho các kế hoạch hành quân hôm sau. Thông thường, ông chỉ lướt qua 15 phút, vì sĩ quan tùy viên đã báo cáo tình hình hàng giờ, rồi ông nói chuyện linh tinh với chúng tôi. Ông người tầm thước, khoảng 1 thước 6, hơi mập, nước da đen sậm vì nắng, giọng nói hơi ồm ồm. Hình như ông đang bị cảm mất tiếng nên giọng nói hơi khó nghe. Tuy nhiên, tôi vẫn còn nghe rõ từng tiếng... Ông đang tỏ vẻ vui mừng về việc xúc tiến phòng thủ trong những tháng qua đạt kết quả tốt đẹp. Bất chợt, ông tâm sự: “Tôi nghi ngờ chúng nó không đánh ở ngoài này mà tìm cách len lỏi đi thẳng về Sài Gòn.” Điều nghi ngờ của ông hôm nay đã trở thành sự thật.
Trước tình thế này Tướng Vỹ sẽ quyền biến ra sao? Tôi chờ đợi, nhưng tôi chợt nghĩ, tình hình sáng hôm nay đang diễn ra trên một qui mô lớn trên toàn quốc, đã vượt qua ngoài vùng trách nhiệm và quyền hạn của một vị Tư Lệnh Sư Đoàn. Ông vẫn phải chờ lệnh, vì ông là một quân nhân có kỷ luật.
Khoảng 9 giờ sáng, TTHL vẫn còn liên lạc tốt với BTL/SĐ. Lệnh từ TTHL/SĐ vẫn truyền đi: “Tất cả sẵn sàng tại chỗ, chờ lệnh.” Tướng Vỹ đang chờ lệnh gì? Lệnh đánh tập kích phía sau lưng địch hay lệnh rút lui về Vùng 4? Ông chờ lệnh ai? Vào giờ này, Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh Quân Đội, Thủ Tướng Chánh phủ, Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn, đã chạy hết rồi! Còn tân Tổng Thống thì hoặc vì quá già nua, hom hem ốm yếu, hoặc vì còn đang bàng hoàng ngơ ngác trước kẻ thù, ai đủ tư cách và uy tín để ra lệnh cho ông?
Khoảng 10 giờ sáng ngày 30-4-75, TTHL hoàn toàn mất liên lạc với BTL/SĐ (có lẽ giờ này, Tướng Vỹ đã tự sát và BTL đang rối loạn). Chỉ Huy Trưởng TTHL vô cùng bối rối. Ông ra lệnh vắn tắt: “Di chuyển về hướng Sài Gòn.” Dẫn đầu hàng quân là các khóa sinh lớp huấn luyện Thái Cực Đạo. Đoàn quân ra khỏi doanh trại chưa được 1/3, tôi đã nghe súng nổ ròn rã ngoài chợ Lái Thiêu (Chi Khu Lái Thiêu đã rút lui từ nửa đêm và VC đã chế ngự khu này). Trung Úy Bích, Trưởng Ban 2 TT đã bị trọng thương và lực lượng đi đầu bị thiệt hại nặng. Đoàn quân phải lùi vào doanh trại để tìm hướng đi khác. Một vài anh em mở radio để nghe tin tức. Thình lình nghe được bản tin của ông Dương Văn Minh trên đài phát thanh. Lúc ấy giọng ông Dương Văn Minh nghe rất thiểu não, tiếng mạnh, tiếng yếu tựa như người sắp hết hơi. Tôi không nhớ hết nguyên bản văn; nhưng có vài đoạn chính yếu, tôi còn nhớ rõ từng tiếng. Đại ý bản văn nói, để tránh cuộc đổ máu vô ích, ông kêu gọi binh lính VC ngừng tấn công và quân đội VNCH ở nguyên vị trí của mình vì ông đã: “Tôi tin tưởng sâu xa vào chính sách hòa giải, hòa hợp dân tộc của chánh phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam VN” và ông tiếp: “Chúng tôi ở đây (tức Dinh Độc Lập) đang chờ những người anh em ở phía bên kia đến để làm lễ bàn giao...” Bản tin được lập lại nhiều lần liên tục.
Sau khi nghe xong bản tin này, mọi người đều xôn xao nhốn nháo. Anh em khóa sinh lo sợ, trong khi làm lễ bàn giao VC nổi hứng đòi bàn giao luôn “cái chỗ đội nón,” thì sao? Thế là hơn 1,500 khóa sinh đủ các lớp huấn luyện, đã hè nhau đẩy sập cả cổng chính lẫn cổng phụ, vứt súng đạn, lột bỏ quần áo, chạy ra đường như một đàn ong vỡ tổ, trước sự ngơ ngác bàng hoàng của cán bộ quân trường.
Tại căn cứ phòng thủ của trung đoàn và tiểu đoàn, sau khi nghe xong bản tin trên đài phát thanh của Dương Văn Minh, anh em binh sĩ đã tự động vứt bỏ súng đạn để chạy về nhà. Tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn ở Lai Khê, cái mệnh lệnh mà Tướng Vỹ trông đợi từ nhiều ngày qua để ông thi hành hôm nay đã đến. Mệnh lệnh không đến bằng hệ thống truyền tin quân đội, mà đến qua làn sóng điện của đài phát thanh Sài Gòn: “lệnh bàn giao!” Từ ngữ nghe thật hiền lành và êm ái. Nhưng, tự cổ chí kim, các kẻ chiến bại, sau khi bị tước đoạt khí giới, thông thường thì chỉ có chết hoặc bị cầm tù, chưa thấy ai làm lễ bàn giao bao giờ. Tại sao hôm nay, tân Tổng Thống miễn cưỡng dùng loại từ ngữ mập mờ này?
VC vẫn bao vây căn cứ ở Lai Khê, đặt chốt ngăn chận ở hai cổng phía Nam và phía Bắc. Chúng bắt loa chĩa vào bên trong căn cứ, phát thanh lời kêu gọi của Dương Văn Minh và kêu gọi Tướng Vỹ ra hàng. Ông chỉ đáp lại: “Yêu cầu các anh đối xử nhân đạo với thuộc cấp của tôi.”
Lúc đó Tướng Vỹ triệu tập một phiên họp bất thường, thật ngắn ngủi, để giải thích cho mọi người rõ lệnh bàn giao và lệnh bắt buông súng đầu hàng. Ông nói: “Lệnh bắt chúng ta buông súng bàn giao, nói thẳng ra là lệnh bắt chúng ta buông súng đầu hàng.” Ông phải nói thẳng vì sợ có người hiểu quanh co, mập mờ. Rồi ông tuyên bố: “Vì tôi là tướng chỉ huy mặt trận, tôi không thể thi hành được lịnh này. Tôi nghĩ thân làm Tướng là phần nào đã hưởng vinh dự và ân huệ của quốc gia hơn các anh em nên tôi phải chọn con đường đi riêng cho tôi.” Đoạn ông bình tĩnh bước ra sân nghiêm trang đúng dưới cột cờ của Bộ Tư Lệnh, tự sát bằng chính khẩu súng chỉ huy của mình.
Tôi không được chứng kiến cảnh Tướng Vỹ tự sát và những diễn biến ở Lai Khê, chỉ viết theo lời tường thuật của anh bạn lúc tôi làm việc tại TTHQ. Tình cờ tôi gặp lại anh ít lâu sau đó. Trung Úy Khang, người sĩ quan trẻ tuổi, có rất nhiều nghị lực và rất giỏi môn võ Không Thủ Đạo. Anh được tuyển chọn là sĩ quan tùy viên kiêm cận vệ của Tướng Vỹ.
Con đường Tướng Vỹ chọn lựa ngày hôm nay đã có Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Lãm và nhiều vị anh hùng khác lựa chọn ngày trước. Ông đã xin nối gót. Ông không đi đơn độc một mình, vì vào giờ này, khắp nơi trên đất nước, đồng đội của ông, nhiều người cũng đang đi trên con đường đó như Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Hồ Ngọc Cẩn v. v...
Trích trong “Đặc San KBC“
Ông là một vị chỉ huy gan dạ nổi tiếng nhất của Sư Đoàn 5 Bộ Binh từ lúc ông mới làm Trung Đoàn Trưởng: “Nhất Vỹ, nhì Gia” (Trung Tá Gia hình như họ Hà, Hà Văn Gia, vì đã lâu ngày tôi không nhớ rõ). Đây là câu nói được nghe nhiều lần nơi sĩ quan và binh sĩ khi rời quân trường về trình diện Sư Đoàn vào tháng 1-68. Nhiều đồng bào và anh em chiến sĩ thuộc các đơn vị bạn quanh vùng Lái Thiêu, Bình Dương cho đến các tỉnh biên giới Bình Long, Phước Long điều biết đến tên ông. Có lẽ một phần vì tinh thần chiến đấu kiên trì và dũng cảm, một phần vì tính tình nóng nảy như lửa đốt của ông.
Tinh thần kiên trì và dứt khoát chiến đấu chống Cộng của ông đã biểu lộ qua câu chuyện của một sĩ quan tham mưu Sư Đoàn kể cho tôi nghe: “Ông Vỹ có một cô em gái đi theo VC, viết thư khuyên ông nên quay về với “Bác và Đảng” và ông đã trao bức thư này cho An Ninh Quân Đội VNCH để nghiên cứu.”
Tinh thần chiến đấu của ông gần như mọi người thuộc Sư Đoàn điều biết. Vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 72 ở An Lộc, VC lùa 3 Sư Đoàn (Công Trường số 5, 7, 9), Trung Đoàn Thiết Giáp T54 và các đơn vị trọng pháo 130 ly để bao vây và tấn công thành phố An Lộc, Tỉnh Bình Long. Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn cùng với Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn đã tích cực điều động các đơn vị phòng thủ đẩy lui nhiều đợt tấn công ác liệt kéo dài ròng rã 3 tháng trời. Ở vào cao điểm khốc liệt nhất, khi VC quyết định xử dụng toàn bộ lực lượng xung kích chủ yếu, thiết giáp T54 và bộ binh kết hợp tiến thẳng vào trung tâm chỉ huy của Tướng Lê Văn Hưng. Vì bị thiệt hại nặng nề do đạn pháo, các đơn vị phòng thủ VNCH phải co cụm lại từng tụ điểm để chống trả. Khi thấy chiến xa và bộ binh địch xuất hiện từ xa, tất cả các loại súng cối của ta bắn ra xối xả, khiến bộ binh VC phải giật lùi lại phía sau, chỉ còn thiết giáp của VC một hàng dọc, theo đường phố tiến thẳng vào nơi phòng thủ của Tướng Hưng. Vì lần đầu tiên người lính VNCH nhìn thấy chiến xa địch và phần vì không tin tưởng vào vũ khí chống chiến xa M72, hầu hết đều kinh hoàng và tìm nơi ẩn nấp. Ngay cả đến nhũng người lính phòng thủ trước cửa hầm của Tướng Hưng cũng vậy, nhìn thấy chiến xa đã tới gần, tất cả đều nhảy xuống hầm. Đại Tá Lê Nguyên Vỹ đã nhanh nhẹn chụp lấy một khẩu M72 của người lính đứng bên cạnh ông, bước lên miệng hầm. Trong khi ấy, Tướng Lê Văn Hưng đã cầm sẵn một trái lựu đạn nơi tay với ý định nếu VC tràn vào, ông tung ra tất cả cùng chết. Chiếc chiến xa đi đầu đã đến gần, nhưng chúng chưa định ra được hầm nào là của Tướng Hưng đang thủ, chúng quay ngang quay dọc để tìm kiếm. Thừa lúc ấy, Đại Tá Vỹ đã bắn ngay một quả đạn M72 vào hông xe làm xe bốc cháy. Binh sĩ lên tinh thần reo hò, và họ lần theo từng căn nhà, từng bờ tường để bắn vào những chiếc còn lại. Kết quả là gần 50 chiếc chiến xa địch bị bắn cháy ngay trên trận địa.
Tướng Vỹ được thăng cấp khoảng cuối năm 1974. Ông đã phải đương đầu với hoàn cảnh vô cùng khó khăn: vừa phải lo đối phó với áp lực của quân địch, và vừa lo chấn chỉnh và củng cố nhân sự v.v... Ông làm việc không kể giờ giấc, ngày đêm, hết ở Bộ Tư Lệnh căn cứ ở Lai Khê, lại chạy tới các căn cứ của trung đoàn, tiểu đoàn để kiểm tra, đốc thúc đào hào, tu bổ hệ thống phòng thủ, đắp chướng ngại vật để cản chiến xa. Ông cũng lưu tâm đặc biệt việc rèn luyện tân binh, thường xuyên mở lớp huấn luyện và ôn tập cho các cán bộ và binh sĩ.
Đặc biệt về công tác bài trừ tệ tham nhũng, ông rất hăng say. Không ai nghi ngờ thiện chí của Tướng Vỹ, ông rất nhiệt tình. Trong một buổi lễ khai giảng khóa huấn luyện tân binh, đứng trước cả ngàn người vừa tân binh lẫn cán bộ và lính cơ hữu của trung tâm huấn luyện ở Lái Thiêu, ông công kích kịch liệt trong gần một tiếng đồng hồ về tệ nạn tham nhũng. Ông nói rất nhiều, nhưng chỉ có một câu tôi nhớ hoài, không bao giờ quên: “Chúng nó đã móc ngầm với nhau rất chặt chẽ, mình phải gỡ ra từ từ mới được.” Trong thời gian ông làm Tư Lệnh, tệ nạn tham nhũng, nếu không muốn nói đã bị chặn đứng thì cũng phải giảm đi rất nhiều; không còn cảnh ăn chơi phè phỡn trong khi người khác cặm cụi làm việc. Nhìn chung, từ ngày Tướng Vỹ về Sư Đoàn, ông đã cải tổ, xây đựng được nhiều vấn đề. Ông đã mang lại niềm tin tưởng cho mọi người.
Việt Cộng ngày càng di chuyển người, vũ khí, lương thực về gần Sài Gòn hơn. Áp lực quân sự ngày càng gia tăng. Việc tiếp tế bằng phi cơ cho An Lộc và Chơn Thành quá tốn kém mà chỉ để bảo vệ những đống gạch vụn tại thành phố An Lộc và những vùng đất hoang vu, không người ở. Dân cư tại các làng mạc, đồn điền đều đã di tản để tránh bom đạn hồi năm 1972, một số chạy ngược lên Lộc Ninh, số còn lại chạy về Sài Gòn. Vào khoảng cuối năm 1974, các lượng phòng thủ An Lộc và Chơn Thành được lệnh triệt thoái. Một việc làm Tướng Vỹ buồn lòng không ít khi một tiểu đoàn của Trung Đoàn 8 ở Chơn Thành rút lui, ông chỉ thị phải ưu tiên chở hỏa tiễn Tow về trên chuyến phi cơ đầu tiên để ông tái phối trí nơi khác (Tow là loại hỏa tiễn chống chiến xa rất hiệu nghiệm và rất đắt tiền). Ông đích thân ra sân bay đón chờ. Khi chuyến bay đầu tiên hạ cánh, hàng bốc xuống hết, ông không thấy hỏa tiễn Tow đâu cả, mà chỉ toàn là hàng câu lạc bộ như bia, nước ngọt, cà phê, sữa. Thế rồi, ông nổi cơn thịnh nộ, đích thân lái xe Jeep ủi sập hết đống hàng này.
Tình hình quân sự ngày càng nghiêm trọng, Tỉnh Lỵ Phước Long bị VC tràn ngập vào ngày 3-1-75, nhưng QLVNCH không có nỗ lực nào để tái chiếm. Những người chỉ huy quân sự nói chung và của SĐ5BB nói riêng đã bắt đầu lo ngại, nhưng tất cả đều đồng ý rằng, trong chiến tranh, hôm nay mất ngày nay chiếm lại là việc thông thường, không có gì lo âu quá đáng.
Khi Ban Mê Thuột thất thủ, Quân Đội VNCH rút khỏi Cao Nguyên, miền Trung và tuyến phòng thủ miền Đông (Phan Rang, Long Khánh) bị bể, những lực lượng còn lại của QLVNCH đang lui dần về phía cầu xa lộ Biên Hòa, tôi được lệnh chuẩn bị kế hoạch, trang bị nhẹ, dự trù trong trường hợp Sài Gòn thất thủ, sẽ lui dần về Vùng 4 để tiếp tục chiến đấu. Tôi không biết lệnh này xuất phát từ đâu!
Lúc này, những đoàn quân VC ở phía Bắc Sài Gòn đã ép sát với phòng tuyến của SĐ5BB. Ở phía Quận Lỵ Phú Giáo, vào ngày 23 và 27-4-75, phi cơ phản lực, cứ 2 chiếc luân phiên nhau thả bom vào những vị trí tập trung của quân địch để ngăn cản sức tiến quân của chúng. Đường bay nhào lộn kéo tới không phận Lái Thiêu. Cán bộ huấn luyện viên và các khóa sinh đều đưa mắt liếc nhìn, không ai nói với ai một lời, tất cả đã hiểu việc gì đang xảy ra.
Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn chỉ chấm dứt các hoạt động huấn luyện bãi tập vào ngày 28-4-75 và được lệnh cấm trại 100% để lo phòng thủ. Tình hình ở Sài Gòn lúc đó quá lộn xộn và các đơn vị du kích cùng quân địa phương VC đã xuất hiện ở nhiều nơi quanh vùng Lái Thiêu, Bình Dương. Khoảng 10 giờ đêm ngày 28-4-75, tôi đã nhìn thấy bộ binh và chiến xa của VC đang di chuyển trên xa lộ Đại Hàn (Sài Gòn-Bình Dương). Bộ binh đi hai hàng dọc, kẹp sát lề đường, xen kẽ ở giữa là chiến xa T54. Chúng chẳng thèm ngụy trang lá cây gì cả và đang di chuyển về hướng Sài Gòn. Thình lình tiếng súng cối 81 ly của TTHL/SĐ từ phía sau lưng bắn ra để cản bước tiến của chúng. Đạn nổ bốc khói mịt mù xa lộ. Chỉ trong giây lát, chiến xa và bộ binh VC đã giàn hàng ngang tiến thẳng về phía TTHL. Những khẩu phòng không trên pháo tháp của chiến xa địch đang nhả đạn, bỗng dưng khựng lại. Chúng quay ngược ra xa lộ rồi tiếp tục di chuyển về hướng Sài Gòn. Chúng đi rất vội vã, hối hả. Rõ ràng chúng đang được lệnh tránh giao chiến dọc đường, bảo toàn lực lượng tối đa, tiến nhanh về Sài Gòn càng sớm càng tốt. Sài Gòn vào giờ này đang hỗn loạn, miếng mồi thơm ngon, béo bở đang đợi chờ, chúng không thể chậm trễ được!
Khoảng 8 giờ sáng, tôi không còn nhìn thấy một lực lượng nào của VC di chuyển nữa. Tôi vẫn đứng sau phòng tuyến suy nghĩ miên man... Chúng đã lợi dụng đêm tối, len lỏi, vượt nhanh ngang qua hông những điểm phòng thủ chính yếu của SĐ5BB, của Tiểu Khu Bình Dương. Chúng đã bỏ toàn bộ lực lượng của SĐ5BB về phía sau lưng rồi!
Bỗng tôi nhớ tới câu chuyện hơn một năm về trước khoảng tháng 12 năm 73. Hôm ấy, như thường lệ, tới phiên trực, tôi đem bản đồ vào phòng riêng của Tướng Vỹ vào buổi tối để ông duyệt xét lại tình hình tổng quát mà có các chỉ thị cần thiết cho các kế hoạch hành quân hôm sau. Thông thường, ông chỉ lướt qua 15 phút, vì sĩ quan tùy viên đã báo cáo tình hình hàng giờ, rồi ông nói chuyện linh tinh với chúng tôi. Ông người tầm thước, khoảng 1 thước 6, hơi mập, nước da đen sậm vì nắng, giọng nói hơi ồm ồm. Hình như ông đang bị cảm mất tiếng nên giọng nói hơi khó nghe. Tuy nhiên, tôi vẫn còn nghe rõ từng tiếng... Ông đang tỏ vẻ vui mừng về việc xúc tiến phòng thủ trong những tháng qua đạt kết quả tốt đẹp. Bất chợt, ông tâm sự: “Tôi nghi ngờ chúng nó không đánh ở ngoài này mà tìm cách len lỏi đi thẳng về Sài Gòn.” Điều nghi ngờ của ông hôm nay đã trở thành sự thật.
Trước tình thế này Tướng Vỹ sẽ quyền biến ra sao? Tôi chờ đợi, nhưng tôi chợt nghĩ, tình hình sáng hôm nay đang diễn ra trên một qui mô lớn trên toàn quốc, đã vượt qua ngoài vùng trách nhiệm và quyền hạn của một vị Tư Lệnh Sư Đoàn. Ông vẫn phải chờ lệnh, vì ông là một quân nhân có kỷ luật.
Khoảng 9 giờ sáng, TTHL vẫn còn liên lạc tốt với BTL/SĐ. Lệnh từ TTHL/SĐ vẫn truyền đi: “Tất cả sẵn sàng tại chỗ, chờ lệnh.” Tướng Vỹ đang chờ lệnh gì? Lệnh đánh tập kích phía sau lưng địch hay lệnh rút lui về Vùng 4? Ông chờ lệnh ai? Vào giờ này, Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh Quân Đội, Thủ Tướng Chánh phủ, Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn, đã chạy hết rồi! Còn tân Tổng Thống thì hoặc vì quá già nua, hom hem ốm yếu, hoặc vì còn đang bàng hoàng ngơ ngác trước kẻ thù, ai đủ tư cách và uy tín để ra lệnh cho ông?
Khoảng 10 giờ sáng ngày 30-4-75, TTHL hoàn toàn mất liên lạc với BTL/SĐ (có lẽ giờ này, Tướng Vỹ đã tự sát và BTL đang rối loạn). Chỉ Huy Trưởng TTHL vô cùng bối rối. Ông ra lệnh vắn tắt: “Di chuyển về hướng Sài Gòn.” Dẫn đầu hàng quân là các khóa sinh lớp huấn luyện Thái Cực Đạo. Đoàn quân ra khỏi doanh trại chưa được 1/3, tôi đã nghe súng nổ ròn rã ngoài chợ Lái Thiêu (Chi Khu Lái Thiêu đã rút lui từ nửa đêm và VC đã chế ngự khu này). Trung Úy Bích, Trưởng Ban 2 TT đã bị trọng thương và lực lượng đi đầu bị thiệt hại nặng. Đoàn quân phải lùi vào doanh trại để tìm hướng đi khác. Một vài anh em mở radio để nghe tin tức. Thình lình nghe được bản tin của ông Dương Văn Minh trên đài phát thanh. Lúc ấy giọng ông Dương Văn Minh nghe rất thiểu não, tiếng mạnh, tiếng yếu tựa như người sắp hết hơi. Tôi không nhớ hết nguyên bản văn; nhưng có vài đoạn chính yếu, tôi còn nhớ rõ từng tiếng. Đại ý bản văn nói, để tránh cuộc đổ máu vô ích, ông kêu gọi binh lính VC ngừng tấn công và quân đội VNCH ở nguyên vị trí của mình vì ông đã: “Tôi tin tưởng sâu xa vào chính sách hòa giải, hòa hợp dân tộc của chánh phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam VN” và ông tiếp: “Chúng tôi ở đây (tức Dinh Độc Lập) đang chờ những người anh em ở phía bên kia đến để làm lễ bàn giao...” Bản tin được lập lại nhiều lần liên tục.
Sau khi nghe xong bản tin này, mọi người đều xôn xao nhốn nháo. Anh em khóa sinh lo sợ, trong khi làm lễ bàn giao VC nổi hứng đòi bàn giao luôn “cái chỗ đội nón,” thì sao? Thế là hơn 1,500 khóa sinh đủ các lớp huấn luyện, đã hè nhau đẩy sập cả cổng chính lẫn cổng phụ, vứt súng đạn, lột bỏ quần áo, chạy ra đường như một đàn ong vỡ tổ, trước sự ngơ ngác bàng hoàng của cán bộ quân trường.
Tại căn cứ phòng thủ của trung đoàn và tiểu đoàn, sau khi nghe xong bản tin trên đài phát thanh của Dương Văn Minh, anh em binh sĩ đã tự động vứt bỏ súng đạn để chạy về nhà. Tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn ở Lai Khê, cái mệnh lệnh mà Tướng Vỹ trông đợi từ nhiều ngày qua để ông thi hành hôm nay đã đến. Mệnh lệnh không đến bằng hệ thống truyền tin quân đội, mà đến qua làn sóng điện của đài phát thanh Sài Gòn: “lệnh bàn giao!” Từ ngữ nghe thật hiền lành và êm ái. Nhưng, tự cổ chí kim, các kẻ chiến bại, sau khi bị tước đoạt khí giới, thông thường thì chỉ có chết hoặc bị cầm tù, chưa thấy ai làm lễ bàn giao bao giờ. Tại sao hôm nay, tân Tổng Thống miễn cưỡng dùng loại từ ngữ mập mờ này?
VC vẫn bao vây căn cứ ở Lai Khê, đặt chốt ngăn chận ở hai cổng phía Nam và phía Bắc. Chúng bắt loa chĩa vào bên trong căn cứ, phát thanh lời kêu gọi của Dương Văn Minh và kêu gọi Tướng Vỹ ra hàng. Ông chỉ đáp lại: “Yêu cầu các anh đối xử nhân đạo với thuộc cấp của tôi.”
Lúc đó Tướng Vỹ triệu tập một phiên họp bất thường, thật ngắn ngủi, để giải thích cho mọi người rõ lệnh bàn giao và lệnh bắt buông súng đầu hàng. Ông nói: “Lệnh bắt chúng ta buông súng bàn giao, nói thẳng ra là lệnh bắt chúng ta buông súng đầu hàng.” Ông phải nói thẳng vì sợ có người hiểu quanh co, mập mờ. Rồi ông tuyên bố: “Vì tôi là tướng chỉ huy mặt trận, tôi không thể thi hành được lịnh này. Tôi nghĩ thân làm Tướng là phần nào đã hưởng vinh dự và ân huệ của quốc gia hơn các anh em nên tôi phải chọn con đường đi riêng cho tôi.” Đoạn ông bình tĩnh bước ra sân nghiêm trang đúng dưới cột cờ của Bộ Tư Lệnh, tự sát bằng chính khẩu súng chỉ huy của mình.
Tôi không được chứng kiến cảnh Tướng Vỹ tự sát và những diễn biến ở Lai Khê, chỉ viết theo lời tường thuật của anh bạn lúc tôi làm việc tại TTHQ. Tình cờ tôi gặp lại anh ít lâu sau đó. Trung Úy Khang, người sĩ quan trẻ tuổi, có rất nhiều nghị lực và rất giỏi môn võ Không Thủ Đạo. Anh được tuyển chọn là sĩ quan tùy viên kiêm cận vệ của Tướng Vỹ.
Con đường Tướng Vỹ chọn lựa ngày hôm nay đã có Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Lãm và nhiều vị anh hùng khác lựa chọn ngày trước. Ông đã xin nối gót. Ông không đi đơn độc một mình, vì vào giờ này, khắp nơi trên đất nước, đồng đội của ông, nhiều người cũng đang đi trên con đường đó như Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Hồ Ngọc Cẩn v. v...
Trích trong “Đặc San KBC“
(2)
Tại Biên Hòa Sư đoàn 18 BB cùng với lực lượng xung kích Quân đoàn 3
VNCH
(Các Chiến đoàn 315, 318, 322),
Lữ đoàn 4 Dù và LÐ 469 TQLC … vẫn giữ được phòng tuyến. Buổi chiều
Bộ Tư lệnh Hải quân và Không quân di tản. Một Liên đoàn BÐQ tại Bến
Tranh Bắc Mỹ Tho được lệnh trực thăng vận về Cần Ðước ngăn chận Việt
Cộng trên liên tỉnh lộ 5A nhưng không có trực thăng, do đó Chợ Lớn
được coi như bỏ ngỏ. Ðến tối Cộng quân đụng độ với các Chiến đoàn
315, 322 tại hai hướng Ðông Bắc thành phố. Trung Tướng Vĩnh Lộc, tân
Tổng Tham mưu trưởng lệnh cho Sư đoàn 18 BB rút về giữ khu vực nằm
giữa Thủ Ðức và nghĩa trang Quân đội.
Phía Bắc, căn cứ Lai Khê của Sư đoàn 5 bị địch pháo kích dữ dội,
quận Bến Cát bị tấn công.
Phía Tây 2 Liên đoàn 8, 9 BÐQ bị thiệt hại nặng , VC bỏ xác cả trăm
tên cùng 18 xe tăng bị bắn cháy, Quốc lộ 1 giữa Sài Gòn và Củ Chi bị
gián đoạn.
Sư đoàn 22 BB vẫn làm chủ được tình hình phía Nam, mặc dù bị tấn
công.
Chiều 29-4 Toà Ðại sứ Mỹ bắt đầu di tản bằng trực thăng, sau 19 giờ
bay liên tục 80 trực thăng đã chở đi được hơn 1,000 người Mỹ và
khoảng 6,000 người Việt Nam ra ngoài hạm đội.
Ngày 30-4 Trung đoàn 24 CSBV
(SÐ 10)
giao tranh ác liệt với quân Dù tại Ngã Tư Bẩy Hiền và Lăng Cha Cả,
địch bị thiệt hại nặng tới 50% quân số. Cộng quân tấn công trại
Hoàng Hoa Thám, BTL không quân, căn cứ Sư đoàn 25 BB VNCH thất thủ,
Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá bị bắt.
Cộng quân xâm nhập Ngã Tư Bẩy Hiền, trong vòng 15 phút có 6 chiến xa
bị Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù bắn hạ, địch bị chận đánh tơi bời phải
rút khỏi ngã tư Bẩy Hiền.
Theo Tướng Hoàng Văn Lạc, ông Dương Văn Minh lại cử người tới Tân
Sơn Nhất để thương thuyết với VC xem có vớt vát được tí nào không
nhưng họ vẫn một mực đòi phải buông súng đầu hàng nếu không sẽ pháo
kích ồ ạt vào Thủ đô. Sài Gòn bây giờ đang nằm trong tầm pháo
của quân thù. Phần vì thấy phòng tuyến của ta đã sụp đổ dưới các
trận tấn công, pháo kích của địch, Cộng quân đã vào sát thành phố
không hy vọng gì cứu vãn được tình thế, ông Dương Văn Minh bèn lên
tiếng trên đài phát thanh vào lúc 10 giờ 30 sáng kêu gọi các vị
Tướng lãnh, các cấp chỉ huy QÐVNCH hãy liên lạc với các đơn vị Cộng
Hoà Miền Nam nơi gần nhất giao nạp vũ khí thực hiện ngưng bắn tại
chỗ để tránh đổ máu vô ích. Khi ấy tiếng súng trận khắp nơi đều đã
im bặt.
Khi có lệnh ngưng bắn của Tướng Dương Văn Minh, Thiếu tá Phạm Châu
Tài, Chiến đoàn trưởng Biệt Cách Dù lấy xe Jeep vào Bộ TTM, lính gác
cho biết ông Vĩnh Lộc đã ra đi từ 6 giờ sáng, các Tướng lãnh, sĩ
quan cao cấp không còn ai. Thiếu tá Tài bèn gọi về phủ Tổng Thống
xin nói chuyện với Ðại Tướng Dương Văn Minh. Tài nói các chiến sĩ
của ông đang tử chiến với VC để bảo vệ BTTM thì có lệnh ngưng bắn
nhưng địch vẫn tiến vào, BTTM không còn ai, xin Tổng thống quyết
định.
"Tướng Minh trả lời "các em chuẩn bị bàn giao đi".
Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại "Bàn giao là như thế nào thưa Ðại
Tướng, có phải là đầu hàng không?
Tướng Minh đáp "Ðúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến
vào Dinh Ðộc Lậïp".
Nghe Tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay "Nếu xe tăng
Việt Cộng tiến vào Dinh Ðộc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống".
Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp " Tổng thống phải chịu
trách nhiệm trước hai ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở
Bộ Tổng tham mưu"
Tướng Minh trả lời "Tuỳ các anh em".
(Vương
Hồng Anh, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH Những Ngày Cuối Cùng.)
Ông Dương Văn Minh tuyên bố ngưng bắn thì Lê Ðức Thọ ban lệnh cho
các Quân đoàn BV không chấp nhận đình chiến cứ tiến thẳng vào Sài
Gòn
"tước vũ khí và bắt quân ngụy đầu hàng không điều kiện".
Cộng quân tiến vào Thủ Ðô đang bỏ ngỏ làm bốn ngả: Cánh thứ nhất từ
Long Khánh theo xa lộ Biên Hoà, thứ hai từ Củ Chi qua Ngã Tư Bẩy
Hiền, thứ ba từ Long An kéo lên qua ngả Phú Lâm Chợ Lớn, cánh cuối
cùng từ Bình Dương theo xa lộ Ðại Hàn vào Hàng Xanh.
Báo Sài Gòn Giải Phóng năm 1976 nhân ngày kỷ niệm chiến thắng 30-4
cho biết đoàn quân vào dinh Ðộc Lập trước nhất là cánh từ Long An,
họ có chụp hình những chiếc xe lội nước PT-76 vào sân dinh và bộ đội
thiết giáp CS trên xe nhẩy xuống. Theo tài liệu của ký giả ngoại
quốc hoặc do lời kể của các viên chức chính phủ trong dinh Ðộc Lập
thì cánh quân từ Biên Hoà cùng với các xe T-54 đã tiến chiếm dinh
Ðộc Lập trước tiên.
Báo Sài Gòn Giải Phóng và Quân Ðội Nhân Dân năm 1976 cho biết người
đi đầu là một viên đại uý, được các viên chức tiếp đón tại cửa vào,
y hỏi thăm đường lên lầu rồi vội kéo cờ vàng của ta xuống để treo cờ
Mặt trận lên để chứng tỏ giang sơn này, đất nước này đã hoàn toàn
thuộc về CS. Trong số các sĩ quan BV vào tiếp thu dinh Ðộc Lập sau
đó, người cấp bậc cao nhất là một Ðại tá ký giả chiến trường (journaliste
de guerre), các tài liệu Mỹ (Vietnam, A History; The World Almanac
Of The Vietnam War) đều nói tên người này là Bùi Tín. Báo chí VC năm
1976 đăng tấm hình ngày 30-4-1975 tại dinh Ðộc Lập, Dương Văn Minh
nói với viên Ðại Tá BV bước vào dinh:
"Chúng tôi chờ các ông đến để bàn giao quyền hành"
Viên Ðại tá
(không thấy nói tên)
người to lớn nắm tay trợn mắt la lối dữ tợn trước ông Dương Văn Minh
và Vũ Văn Mẫu nguyên văn.
"Các
ông còn cái gì nữa để mà bàn giao, các ông phải đầu hàng vô điều
kiện"
Rồi hống hách bắt Tướng Dương Văn Minh phải lên đài phát thanh tuyên
bố đầu hàng. Viên Ðại Tá nói láo hoàn toàn, trong khi ấy Quân khu 4
vẫn còn nguyên vẹn với gần 200 ngàn Ðịa phương quân Nghĩa quân và ba
Sư đoàn BB chủ lực. Sĩ Quan BV phần nhiều quê mùa không biết gì về
nghi lễ chiến tranh quốc tế. Khi tiếp thu một cuộc đầu hàng tại mặt
trận, nếu là cấp bậc thấp hơn phải chào người cấp bậc cao dù kẻ ấy
thua trận, kế đó bắt họ ký giấy đầu hàng không thể chửi bới vô phép
như vậy. Theo lời kể của cựu dân biểu Lý Quí Chung thì cả những cậu
sĩ quan cấp úy tép riu BV khi mới vào dinh cũng quát tháo những
người cầm đầu chính phủ và gọi họ bằng anh:
"Các anh phải hàng hết"
Sau khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì các mặt trận quanh
Sài gòn đều im tiếng súng chỉ còn một vài trận lẻ tẻ như tại Hố Nai,
bốn tiếng sau lệnh đầu hàng, Thiếu Uý Tư, Biệt kích Dù và năm người
lính thân tín dùng súng chống chiến xa M-72 phục kích bắn cháy, lật
một xe Jeep, một T-54, 2 xe Molotova… rồi chạy thoát hết. Khi ông
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
Tư Lệnh Quân đoàn 2 và Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư
đoàn 5 tự sát.
Quân khu 4 vẫn còn nguyên vẹn, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam không cho
giật sập cầu Long An như Tỉnh trưởng đề nghị. Theo lời kể của Trung
úy Lê Ngọc Danh, sĩ quan tùy viên của Tướng Nam thì, trước khi tự
sát ông đã thắp nhang lễ vái trước bàn thờ Phật. Thiếu Tướng Lê Văn
Hưng, Tư lệnh phó tự sát chiều tối 30-4, hôm sau 1-5 Tướng Nam tự
sát lúc 7 giờ rưỡi sáng, Chuẩn tướng Trần Văn Hai Tư lệnh Sư đoàn 7
cũng tự vẫn.
Sự thực có rất nhiều người tuẫn tiết trước ngày tàn của chế độ, của
đất nước như Thiếu tá Ðặng Sĩ Vinh thuộc BTL Cảnh sát Quốc
gia tự sát lúc 2 giờ chiều 30-4 cùng vợ và 7 người con tại nhà riêng.
Trung tá Vũ đình Duy, Trung tá Nguyễn Văn Hoàn thuộc
Ðơn vị 101 tự sát… Các quân nhân Biệt kích Dù cũng như nhiều binh
chủng khác đã mở lựu đạn tự tử vì chán chường thất vọng khi thấy đất
nước lọt vào tay quân thù. Ngoài ra còn nhiều người tự sát ngoài mặt
trận như Trung tá Nguyễn Hữu Thống Trung đoàn trưởng Trung
đoàn 42
(Sư đoàn 22)
khi tầu Hải quân vào Qui Nhơn cứu đám tàn quân của Sư đoàn cuối
tháng 3-75, Trung tá Thống từ chối di tản ở lại tự sát.
Tháng 4 năm 2006 một cựu sĩ quan tham mưu của Quân đoàn 4 VNCH tiết
lộ ngày 30-4-1975 họ đã dự định hành quân qua Miên sang Thái Lan
hoặc ra Phú Quốc lập phòng tuyến chống lại CS, cũng có người cho
rằng Quân khu 4 chờ chính phủ Sài Gòn dời xuống để tiếp tục chiến
đấu nhưng ông Dương Văn Minh lại đầu hàng địch. Theo lời kể của
Trung uý Danh, tuỳ viên của Tướng Nam thì ông là người nhân ái, sùng
đạo Phật không muốn đổ máu, ông hay lễ bái trước bàn thờ Phật tại
văn phòng.
"Là một tư lệnh Quân đoàn, đã nắm trong tay nhiều đơn vị trung thành,
tướng Nguyễn Khoa Nam có thể ra lệnh tiếp tục chiến đấu, nhưng là vị
tướng có lòng nhân ái, không muốn binh sĩ và đồng bào đổ máu vô ích,
ông không cho phá cầu, ông không muốn có người chết thêm"
Thiếu Tướng
Nguyễn Khoa Nam, Bút ký của Trung úy Lê Ngọc Danh.
Nhận xét về Tướng Dương Văn Minh nhiều người hồi đó cũng như bây giờ
chỉ trích chê bai ông là kẻ đầu hàng địch, dâng nước cho CSBV, nhưng
cũng có nhiều người tán đồng quyết định củaTướng Minh cho rằng tiếp
tục chiến đấu sẽ chỉ gây thêm tang tóc đổ máu cho quân dân một cách
vô ích không hy vọng gì cứu vãn tình thế. Sau khi ra định cư tại Hải
ngoại, Ðại Tướng Dương Văn Minh đã trả lời phỏng vấn:
"Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cứu dân".
Quyết định đầu hàng của Dương Văn Minh có thể coi là hợp tình huống
vì dù tiếp tục chiến đấu anh dũng cũng vẫn thua và chỉ gây thêm tang
tóc vô ích cho quân dân nhưng sau này ông lại chấp nhận để CS phục
hồi quyền công dân và đi bầu Quốc Hội nên đã bị dư luận cho là người
thiếu tự trọng.
Những lời chỉ trích ông Dương Văn Minh dâng nước cho Cộng Sản hoàn
toàn sai. Theo Tướng Vanuxem, sáng 30-4-1975 Trung Tướng Vĩnh Lộc
báo cáo với ông Dương Văn Minh tình hình mặt trận , ông xoè bàn tay
cho biết đã hỏng hết rồi, Sư đoàn 25 tại Củ Chi và Sư đoàn 18 tại
Thủ Ðức bị tan rã hoặc rút lui, các lữ đoàn Dù và TQLC tại Vũng Tầu
mất liên lạc, Sư đoàn 5 tại Lai Khê đang bị bao vây… Cộng quân đã
vào tới Ngã Tư Bảy Hiền đang giao tranh với Biệt Cách Dù…
Sau 30-4-1975, Thủ trưởng trường học tập cải tạo Long Thành cho biết
Dương Văn Minh đầu hàng vì ông đã thua hết cả, nếu lực lượng còn
mạnh chưa chắc ông ta đã chịu cho buông súng.
Việt Cộng bắt đầu mở chiến dịch tấn công Sài Gòn từ 26-4- 1975, bốn
ngày sau phòng tuyến của ta đã hoàn toàn sụp đổ. Trước khi Dương Văn
Minh lên làm Tổng Thống người ta đã đoán biết công việc của ông chỉ
là để đầu hàng. Một viên chức hành chánh thân cận của ông Trần Văn
Hương sau này tiết lộ hồi đó ông Hương cho biết người ta đã sắp đặt
sẵn để ông Thiệu bàn giao cho ông Hương rồi ông Hương bàn giao cho
ông Minh, ngay cả việc Dương Văn Minh yêu cầu cơ quan Tuỳ viên quân
sự DAO Mỹ rút lui cũng là do người ta sắp đặt cả. Khi Dương Văn Minh
đang làm lễ bàn giao ngày 28-4 thì đài BBC đã nói:
"Hôm nay tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử giữ chức vụ Quyền
Tổng thống do ông Trần Văn Hương trao lại để chuẩn bị cho một cuộc
đầu hàng"
Trong phim Việt
Nam Thiên Sử Truyền Hình (Vietnam History By Television)
Chuẩn Tướng Phan Phụng Tiên trả lời phỏng vấn và kết luận.
"Chúng
tôi là cấp lớn mà bỏ chạy đi như thế này thì cũng nhục nhã lắm nhưng
mọi việc người ta đã sắp đặt sẵn cả rồi, dẫu muốn gì mình cũng đành
bó tay không thể làm hơn được"
Mọi việc đã được sắp đặt sẵn cả, tất cả chỉ là một tấn tuồng hề
chính trị. Nhiều người không tin tưởng ông Dương văn Minh, họ cho
rằng sau cuộc đảo chính 1-11-1963, cờ đã đến tay mà ông không phất
được thì chẳng bao giờ thành công. Khi hai Tướng Thiệu và Khiêm ra
đi hôm 24-4-1975 , quân dân ai nấy hoàn toàn thất vọng , họ thừa
hiểu số phận của miền Nam như thế nào, lại nữa hai hôm sau đó, Tổng
Thống Trần Văn Hương hiệu triệu đồng bào về tình hình vô cùng bi đát
của đất nước, ông đã khóc lóc trên làn sóng điện về viễn ảnh "cái
núi xương sông máu của thành phố Sài Gòn" khiến cho ai nấy hồn lạc
phách siêu, chuyện bí mật Quốc gia đã được công khai tuyên bố trên
đài phát thanh.
Phần thì ta không đủ lực lượng để chống lại gần 20 sư đoàn Cộng quân,
phần vì đạn dược gần cạn hết do cắt quân viện, lại nữa trong hàng
lãnh đạo nhiều người bỏ trốn, cha chung không ai khóc...Ðài BBC Luân
Ðôn cũng tuyên truyền phá hoại khiến binh sĩ thất vọng chán chường,
tinh thần chiến đấu của quân ta không còn nữa. Lực lượng phòng thủ
dần dần rã ngũ, một số đơn vị cảm tử chiến đấu tới cùng nhưng cũng
không thể địch nổi lực lượng quá đông đảo của địch.
Sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Quân khu 4 vẫn còn nguyên
vẹn 3 Sư đoàn chủ lực và khoảng gần 200 ngàn Ðịa phương quân, một
lực lượng đông đảo chiếm gần một nửa tổng số ÐPQ toàn quốc. Ðiều này
cho ta thấy rõ sự bố trí lực lượng của miền Nam chúng ta sai lầm và
phí phạm. Tháng 3-1975, trong khi QK1 và 2 bị Cộng quân tấn công vây
hãm tơi bời ta vẫn không chịu rút bớt quân từ Vùng 4 lên yểm trợ
tuyến đầu và cuối tháng 4-1975 khi Sài Gòn như người bệnh nhân hấp
hối cũng vẫn không đưa quân từ Vùng 4 lên đánh xả láng một ván cuối
cùng .
Trận đánh cuối cùng đã kết thúc cuộc chiến tranh Ðông Dương chỉ kéo
dài có mấy ngày từ 26-4 cho tới 30-4 -1975, cũng vào ngày này 30 năm
trước đó, năm 1945 tại Bá Linh quân Ðức đầu hàng Nga. Sài Gòn tái
diễn lịch sử nước Ðức Thế Chiến Thứ Hai, có khác chăng tại Bá Linh
giới lãnh đạo không bỏ trốn và ép buộc quân đội của họ chiến đấu tới
người lính cuối cùng.
Kể từ ngày Cộng quân đánh chiếm quận Ðức Lập 9-3-1975 và Ban Mê
Thuột 10-3 để mở đầu cuộc Tổng công kích cho tới 30-4-1975, ngày kết
thúc chỉ vỏn vẹn có năm mươi mấy ngày. Võ Nguyên Giáp ra lệnh tấn
công quân Pháp tại Hà Nội nửa đêm 19-12-1946 là ngày khởi đầu cuộc
chiến tranh dài nhất của thế kỷ đến trưa ngày 30-4-1975 là ngày kết
thúc tính ra đã gần 30 năm.
Theo thời gian những bí mật dần dần được tiết lộ, trận chiến mất
nước 1975 đã được sắp đạt sẵn y như một vở tuồng hề, Việt Nam đã trở
thành bãi chiến trường tan nát vì bom đạn, tệ hại hơn thế nữa, nó đã
trở thành món hàng mua bán đổi chác giữa các thế lực siêu cường .
Trọng Ðạt
(Trích
trong Tấn Thảm Kịch Việt Nam 1975)
Tài Liệu Tham Khảo.
Nguyễn Ðức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng
Văn 2001.
Nguyễn Ðức Phương: Những Trận Ðánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt
Nam, 1963-1975, Ðại Nam, 2000.
Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà,
Vietnambibliography 2003.
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Ðồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh xuất bản,
2005.
Văn Tiến Dũng: Ðại Thắng Mùa Xuân, nhà xuất bản Quân đội Nhân dân,
Hà Nội 2005.
Ðinh Văn Thiên: Một Số Trận Ðánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn, nhà xuất bản
Quân Ðôi Nhân Dân, Hà Nội 2005.
Dương Ðình Lập, Trần Minh Cao: Cuộc Tổng Tiến Công và Nổi Dậy Mùa
Xuân 1975, nhà xuất bản tổng hợp TPHCM 2005.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề
Nhắc Tới Texas 1991.
Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Vietnam, Sphinx publishing
1986.
The World Almanac Of The VietNam War: John S.Bowman, General editor,
A Bison book.
Stanley Karnov: Vietnam - A History, Penguin books 1991.
Marilyn B Young, John J. Fitzgerald, A.Tom Grunfeld: The Vietnam
War, A History In Documents, Oxford University press 2002.
Lâm Lễ Trinh: Tổng Thống Hai Ngày Dương Văn Minh, Người Việt Dallas
30-6-2005.
Trần Việt Ðại Hưng: Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền
Nam 1975, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2002.
Vương Hồng Anh: Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH Những Ngày Cuối Cùng, Việt
Báo 30-4-2007.
Lữ Lan: Cuộc Chiến 30 Năm Nhìn Lại Từ Ðầu, Sài Gòn Nhỏ Dallas
28-4-2006.
Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Ðỏ Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas
7-10-2005.
NgườiMỹ Và Chiến Tranh Việt Nam, Người Việt Dallas 21-6-2006.
Lâm Lễ Trinh: Mạn Ðàm Với Ðại Tướng Cao Văn Viên, Về Nguồn, Thuỷ Hoa
Trang 2006.
Hồ Ðinh: Cơn Phẫn Nộ Cuối Cùng Của Một Quân Ðội Bị Phản Bội, Người
Việt Dallas 23-12-2005.
Lewis Sorley, Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Ðỗ Cung dịch,
Người Việt Dallas 22-11-2006.
Hồ Ðinh: Sư Ðoàn 18 Bộ Binh Và Những Ngày Tử Chiến Tại Xuân Lộc, Sài
Gòn Nhỏ Dallas cuối tháng 4-2005.
Hải Triều, Trung Nghĩa: Bán Tiểu Ðội Biệt Cách Dù & Trận Ðánh Chớp
Nhoáng Sau Lệnh Ðầu Hàng 30-4-75, Sài Gòn Nhỏ, cuối tháng 4-2006.
Lê Ngọc Danh: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam,
(bút ký của sĩ quan tuỳ viên Tướng Nguyễn Khoa Nam),
Bút Việt 28-4-2006.
Ngày 30-04-1975
QLVNCH buông súng Nhưng Không Đầu Hàng Mường Giang Từ chiều 29 cho tới trưa ngày 30-4-1975, súng đủ loại lớn nhỏ đã bắt đầu nổ vang khắp Sài Gòn. Kinh khiếp hơn hết là các loại bích kích pháo B40-41, hỏa tiễn 122 ly, cứ bì bỏm liên tục, rót xuống phi trường Tân Sơn Nhất và các vùng đông dân lân cận. Rốt cục chỉ có mặt nhựa ở phi đạo bị đan làm xoáy tung mà thôi. Nơi nơi bôn hướng, cây cối, dây điện, gạch vôi và thân xác của những người lính quèn lúc đó, vẫn còn ở lại để phòng thủ cái phi trường trống không, chập choạng, ngả nghiêng thảm thê theo làn đạn địch. Ánh lửa hồng từ các đám cháy, quyện với mùi khói khét và sơn vôi gạch vụn, theo gió bốc mùi vào các ô cửa kính bị vỡ vì mãnh đạn bay lạc. Trong Viện Quốc Gia Nghĩa Tử, nằm cạnh khu nghĩa trang Thánh Tây và phi trường, trên đường Võ Tánh, là nơi tạm trú của mấy trăm gia đình di tản thuộc các Ty Cựu Chiến Binh từ Miền Trung chạy vào. Mọi người ai cũng đang co rúm giữa bốn bức tường mỏng manh loang lổ đan, nằm ngồi trên nền xi măng hay các bàn ghế học trò lạnh lẽo, đói khát. Lũ con nít thiếu nước, thiếu sữa nên la khóc inh ỏi. Lúc đó trên đường Võ Tánh từ cổng chính của Bộ Tổng Tham Mưu gần ngã ba Trương Tấn Bửu chạy tới ngã ba Bảy Hiền, xa nhìn ngút mắt, có các đám cháy lớn và nhiều quân xa chở lính cũng như thiết giáp đang dồn dập di chuyển. Khói lửa, điêu linh và chết chóc, đã được đám khoa bảng trí thức vô dụng, ăn chén đá bát của miền Nam, qua cái rổ tự do dân chủ, hòa hợp dân tộc, để rước cộng sản đệ tam quốc tế Hà Nội, mang từ Liên Xô và Trung Cộng, vào tận đất Sài Gòn thơ mộng hiền hòa. Trong nổi câm nín của những ngày Việt Nam sắp mất nước, đất trời như cũng cảm thông chia sớt với thân phận của một dân tộc nhược tiểu, bị chính đồng bào mình, qua nhân danh lãnh tụ, đem bán đứng cho các thế lực ngoại nhân, trong có đế quốc Trung Cộng, là một kẻ thù ngàn đời mãn kiếp của nước Việt. Bởi vậy bốn bề quang cảnh mông mênh sầu thảm, qua cơn mưa hè đầu mùa sụt sùi lệ mắt. Trong góc phòng, có chiếc máy thu thanh của ai đó mở suốt từ đêm qua, nhưng âm thanh tuyệt nhiên vắng ngắt, lâu lâu phát ra những tiếng gió sè sè lãng xẹt. Giữa giờ thứ 25 chết chóc đang chực chờ, bổng thấy thèm những giọng ca thương lính thuở nào, của những nam nữ ca sĩ phong lưu dỏm dáng, trắng trẻo no tròn, với bộ đồ trận rằn ri, lúc nào cũng còn nguyên nếp gắp và mùi thơm vải. Tình nhất là trên túi aó có lúc lắc chùm huy chương đủ loại, cũng như các phù hiệu của những binh chủng dữ dằn như Nhảy Dù, TQLC, BÐQ, Lôi Hổ... Cũng thấy nhớ tới những bài diễn văn bốc lửa, đượm tình mến nước yêu dân của các đấng nguyên thủ, chính khách, lãnh tụ, cha-thầy, kể cả các trí thức khoa bảng của Sài Gòn. Rồi nhưng cuộc biểu tình chống chính phủ, chống tham nhũng, chống đàn áp tôn giáo, báo chí đến nỗi ký giả phải đi ăn mày để có được tự do ngôn luận như các đồng nghiệp đang sống ở Hà Nội, trong thiên đàng xã hôi chủ nghĩa, cái gì cũng có. Nhưng giờ này họ ở đâu ? Vì hôm qua còn thấy chường mặt đủ trên đài truyền hình hay báo chí, hùng hổ phun bọt mép, khua cả tay chân quả đấm đòi này nọ, để có thực quyền đối mặt với mấy trăm ngàn bộ đội miền Bắc, đang lăm lăm súng đạn, mả tấu, để phanh thây xé xác đồng bào. Họ nói có quyền mới có hòa hợp hoà giải,mang lại hòa bình cho đất nước và trên hết người Việt không cần phải bỏ nước ra đi, để phải chết vì thèm mấm tôm cà pháo nơi xứ người. Tất cả gần như chạy hết rồi, bỏ lại đồng bào thân yêu, lính tráng đồng đội đang còn tử chiến với giặc khắp chiến trường, các thương bệnh binh đang rên la trong quân y viện và mảnh đất Sài Gòn ba trăm năm, trong cơn hấp hối : + Sài Gòn, những phút giờ hấp hối : Hai mươi năm chinh chiến, bao giờ cũng vậy, tới lúc cuối cùng chờ chết, vẫn là người lính trận và đồng bào nghèo, không có phương tiện để vượt thoát khỏi cảnh bom đạn. Lính chết thật oan khiên vì chiến đấu trong đơn độc, không có đồng minh cũng như đồng đội yểm trợ, vì vào giờ thứ 25, đâu có ai ngu như người lính VNCH, ở lại chết để không có tiền tử tuất, kể cả chiếc quan tài vùi thây đời lính. Biết nghĩ như vậy, những ai còn sống sót tơí ngày hôm nay, phải nhỏ một giọt nước mắt, dù muộn màng để cảm ơn họ. Lính chết oan khiên chẳng những ngoài chiến trường khi phải đối mặt với kẻ thù hung ác, mà còn chết lãng nhách nơi hậu phương bởi những cái lưỡi tắc kè xanh xanh đỏ đỏ, giờ này nhìn lại cũng đỏ đỏ xanh xanh, đâu có thấy đổi màu. Thảm nhất là trên đầu lính, gần hết là bọn lãnh đạo tồi, thứ này giờ đã hết răng để mà ăn, nhưng lúc nào cũng muốn chường ra giữa bia miệng, chọc cho thuộc hạ và con cháu khinh nhờn, khi cứ xưng chức, đeo huy chương và trả lời những phỏng vấn cuội, như mới đây có đám việt gian ở hải ngoại về Sài Gòn phỏng vấn lũ tướng đầu hàng VC, trong đó có Nguyễn Hữu Hạnh và Triệu Quốc Manh, thuộc hàng tép riu, không quân, không đơn vị trước khi Dương Văn Minh được làm tổng thống hai ngày, để bắt QLVNCH buông súng rã ngủ. Người lính Miền Nam bi hùng là thế đó, như vậy làm sao bảo họ phải chiến thắng khối cộng sản đệ tam quốc tế, trong đó có Liên-Xô và Trung Cộng ? Người lính đã ở lại tới giờ phút cuối cùng vào trưa ngày 30-4-1975, đã là anh hùng thử hỏi có quân đội nào anh hùng hơn, kể cả quân Pháp, Ðức, Anh trong Thế chiến 2. Sau khi Hoa Kỳ cùng Bắc Việt đồng thuận ngụy tạo cuộc ngưng bắn bịp vào tháng 2-1973, chấm dứt sự hiện hữu của Mỹ tại chiến trường. Cũng từ đó, QLVNCH bị đem con bỏ chợ, chiến đấu trong thiếu thốn, thiếu cấp chỉ huy trên thượng tầng, thiếu đạn dược, thuốc men, xăng nhớt, các quân dụng khiến cho nhiều phi cơ, chiến xa phải nằm ụ vì không cơ phận sửa chữa hay thay thế. Tóm lại mọi sự đều do người bạn đồng minh Hoa Kỳ tạo ra, như cắt quân viện, bội ước lời thề" một đỗi một" được chính siêu cường ký nói hứa hẹn bằng giấy trắng mực đen. Trong khi đó thì Bắc Việt, từ **** tới Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng... đã đem mãnh giang sơn gấm vóc của tiền nhân, cầm bán thế chấp cho đệ tam cộng sản, nên được cả khối như Liên Xô-Trung Cộng, Ðông Âu, Bắc Hàn, Cu Ba, các đảng cộng sản Ý, Pháp, Mỹ và những thành phân ăn cơm miền nam lại theo VC miền bắc, giúp đỡ hết lòng, từ cây kim hột gạo, cho tới bom đạn, tăng, máy bay, tiền bạc và những cái lưỡi tắc kè đỏ đỏ xanh xanh đảo lộn sự đời. Tệ nhất là lũ hề hữu danh vô thực, trong cái gọi là Liên Hiệp Quốc, lúc nào cũng bưng bợ Hà Nội, như muốn đổ dầu vào biển lửa thống hận trùng hằng tại Miền Nam. Không chịu nổi cái cảnh ứa gan, hiếp người ngã ngựa, nhà bỉnh bút quân sử thế giới lương thiện và nổi tiếng là Louis A Fanning, đã phải viết lời chửi Mỹ :" Sau hiệp định Paris 1973, hơn 300.000 bộ đội cộng sản quốc tế, được người Mỹ bỗng dưng tự tác cho ở lại trên lãnh thổ của nước khác. Ðó là Miền Nam VN, một quốc gia độc lập, có chủ quyền, quốc hội và không hề là thuộc địa hay các tiểu bang của Hoa Kỳ. Trong lúc đó, VNCH là một đồng minh với Mỹ từ khuya, lại bị chính Mỹ phản bội, lường gạt, cắt viện trợ và sỉ nhục mọi điều. Ðúng là thái độ của bọn con buôn chính trị, hèn chi người Mỹ đã bị thế giới tự do coi thường, vì đã bội tín với nhiều đồng minh của mình." Viết về tình trạng đồng bào VN, sống giữa cảnh chết chóc của chiến tranh mạt kiếp, đáng lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy ra nếu không có đảng cộng sản Hà Nội, khiến cho đất nước sau khi Nhật đầu hàng, thay vì sẽ có hòa bình như nhiều nước trong vùng Á Châu, lúc đó cũng đang là thuộc địa của bọn thực dân da trắng. Ðể diễn tả sự bất hạnh này, nhà báo người Tây Ðức Une Siemon Netto, đã viết trong tờ International Herald Tribune :" giờ thì mọi người đã biết rõ cái thực chất cách mạng cứu nước, mà cộng sản Hà Nội luôn dùng làm chiêu bài, để có cớ gây nên một cuộc chiến vô luân, nồi da xáo thịt. Tiếc thay trước tháng 5-1975, nhiều trí thức khoa bảng và nhà báo Tây Phương, đã biết rõ cộng sản đệ tam quốc tế gây chiến tranh chỉ vì ý thức hệ và trên hết chúng rất dã man tàn bạo. Nhưng vì họ ích kỷ, hám danh và trên hết nhiều kẻ đã táng tận lương tâm, nên muối mặt, bẻ cong ngòi bút, viết láo sai sự thật, để đầu độc môi người, nhất là dân chúng Hoa Kỳ, đang có nhiều người thân tham dự cuộc chiến thần thánh, bảo vệ tự do cho nhân loại tại Ðông Dương, đang bị Ðệ tam cộng sản quốc tế tàn sát nhuộm đỏ.". Hành động vô lương của bọn bồi bút, đã gây nên nhiều nổi oan khiên tội nghiệp, khiến bao oan hồn lương dân vô tội, đã bị bộ đội cộng sản miền bắc tàn sát dã mang trong tết Mậu Thân, nhất là tại Huế. Rồi mùa hè đỏ lửa 1972 trên đại lộ kinh hoàng, từ Ðông Hà về Huế, trên quốc lộ 14 Dakto-KomTum, đường 13 An Lộc-Bến Cát và đoạn đường số 1, từ Tam Quan-Hoài Nhơn-Phù Mỹ về Qui Nhơn, qua những Lai Giang, sông Côn, sông Cả... Nhưng bi thảm nhất cũng vẫn là những ngày cuối cùng di tản tại Vùng I, vùng II trên đường số 7, dân chúng lánh nạn gục chết như ra vì đạn kích pháo của giặc, không cần biếy hay thương hại cho mạng người lá rụng, dù những mạng sống đó vốn cùng bộ đội VC, chung cháu Lạc Con Hồng. Tóm lại tất cả đều vô lý, đã khiến cho nhiều nhà báo ngoại quốc sau này, phải kêu trời không ngớt, vì tự vấn lương tâm khi họ đả vô tình hay cố ý, câm nín trước những thảm trạng của nam VN. Trong lúc đó vụ Mỹ Lai (Quảng Ngãi), do chinh Hà Nội giật dây đạo diễn, đẩy dân lành vô tội ra làm bia đỡ đạn cho lính Mỹ, thì được bao chi Tây phương làm lớn chuyện, tuyên truyền không công cho Hà Nội, trong suốt cuộc chiến. Sài Gòn đã bắt đầu xáo trộn từ tháng 3-1975, từ lúc miền Trung bị mất qua quyết định sai lầm rút bỏ quân đoàn I và II của TT.Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tứớng Trần Thiện Khiêm và Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH lúc đó. Ngày 21-4-1975, Tổng Thiệu qua áp lực của Mỹ, muốn thay ngựa theo ý của cộng sản Bắc Việt, để hòa hợp hòa giải, nên ông phải tuyên bố từ chức tổng thống trong lúc đất nước nguy ngập, ngàn cân treo chỉ mành và đã cùng Thủ tướng Khiêm, được Tòa Ðại Sứ Mỹ, đưa ra khỏi Sài Gòn, tới Ðài Bắc trong đêm tối bằng máy bay quân sự. Việc bỏ nước ra đi của TT. Thiệu, khác với trường hợp của Thủ Tứơng Khiêm hay Ðại Tứớng Viên, vì hai người này chẳng hề bị đe dọa hay bắt buộc. Trái lại Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ thứ 25 của VNCH trong tháng 4-1975, giống như cái chết của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm ngày 2-11-1963, được quyết định bởi bàn tay của người Mỹ. Tổng Thống Diệm không cho người Mỹ đem quân vào VN nên bị giết trong danh dự. TT Thiệu khôn ngoan từ chức ra đi, nên được sống những ngày thừa nơi quê người, chịu bia miệng nguyền rủa, vì ham sống sợ chết, dù rằng con kiến cũng muốn sống. Ðó là sự thật của lịch sử, của thân phận nhược tiều VN, mà các tài liệu Mỹ đã hé mở cho mọi người cùng đọc, trong vài năm trước đây và còn được lưu trữ phổ biến khắp mọi văn khố, kể cả VC. Ngoài ra, cũng theo sử liệu, chính Tổng Thống Trần Văn Hương, muốn người Mỹ đem Tổng Thống Thiệu ra khỏi nước, mà theo TT Hương, đó là kỳ đà cản mũi, nên ông ta không thể trị nước hay chống Cộng được. Thương nhất là Cụ Trần văn Hương lúc đó, đã gần đất xa trời, thêm mắt mũi kém, lại bị Mỹ bắt làm Tổng Thống VNCH, theo điều kiện của Bắc Việt. Nguyên thủ như vậy, nên miền Nam bị mất là cái chắc, dù sớm hay muộn cũng thế thôi.Sau đó lại màn thay ngựa cuối cùng, để Dương Văn Minh danh chánh ngôn thuận, kết thúc cuộc chiến từ đầu cũng do VC sắp đặt và cuối cũng cũng do VC quyết định, qua miệng kẻ cầm quyền của miền Nam, dù chỉ có hai ngày ngắn ngủi. VNCH đang lúc lâm nguy vì thù trong giặc ngoài. Cả triệu quân, công, cán cảnh... lúc đó đang xã thân, dùng xác người thay súng đạn Mỹ, làm công sự cản xe tăng hứng đạn pháo của cộng sản khắp mọi nẻo đường dẫn vào thủ đô, thì cũng lúc đó nhưng sâu bọ nơi hậu trường chính trị, hăng say toắc mồm, áo thụng vái lạy ông, bày ra những trò hề tác tệ, để tự phong quan gắn chức, làm nản chí những người lính đang xả thân nơi chiến trường, bắt QLVNCH phải tan hàng rã ngũ trong tức tủi oan khiên và cuối cùng làm cho cả nước phải sống đọa đày thương đau, trong cùm gông xã nghĩa từ ấy cho tới bây giờ, vẫn không hề thay đổi, vẫn không có tự do dù chút tự do để nói lời chân thật trong đáy hồn mình. Nhưng dù gặp khó khăn nguy hiểm, các lộ quân còn lại của VNCH vẫn cản nổi quân xâm lăng Bắc Việt, trên khắp các tuyến đường dẫn vào Sài Gòn. Chính hành động phi thường này, nên dù VNCH không còn nửa, vẫn được thế giới ngợi khen và kính phục, như Peter Kohn đã viết trên tờ the Wall Street Journal :"Quân đội VNCH là một quân đội can đảm và chiến đấu lão luyện. Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi trên nhiều địa danh, mà người Mỹ hoặc thế giới biết hay chưa biết tới. Quân đội ấy đã hào hùng ngạo nghễ với địch, qua hàng ngàn chiến trận, tiền đồn hẻo lánh hiu hắt. Quân đội ấy không được trang bị như quân Mỹ hay bộ đội cộng sản Hà Nội. Thế nhưng từ khi Hoa Kỳ rút quân về nước hay lúc đầu quân Mỹ chưa vào VN, vẫn hiên ngang chiến đấu trong suốt 20 năm khòi lửa, gần như bảo toàn trọn lãnh thổ của cha ông, từ phía bên này vỹ tuyến 17 cho tới Cà Mâu, đến khi bị Việt gian đâm sau lưng, VC bắn trước mặt, mới đành để mất non sông vào tay đệ tam cộng sản quốc tế. Cũng vì phải chiến đấu khắp các mặt trận, nên đã có hằng tram ngàn người lính phải chết, hằng triệu thương phế binh, cô nhi quả phụ. Tới giờ phút cuối cùng, đã biết nước sắp mất, chết chỉ thêm uổng mạng nhưng họ vẫn hiên ngang chiến đấu tại Khánh Dương, Phan Rang, Phan Thiết, Xuân Lộc, Long An, Tây Ninh, Củ Chi, Biên Hòa và Sài Gòn. Tất cả đều là những chiến tích để đời và lưu danh thiên cổ trong dòng sử Việt Cuối cùng trong giờ thứ 25, QLVNCH đã xử sự một cách mã thượng anh hùng. Thay vì dùng vũ lực bắt trọn Toà Ðại Sứ và Cơ Quan Dao làm con tin, như Iran đã từng làm, để gây áp lực, bắt Hoa Kỳ phải giữ lời hứa, dùng B52 đuổi bộ đội cộng sản rúr về phía bên kia vỹ tuyến 17 như Hiệp định Geneve năm 1954 và 1973. Nhưng họ vẫn không làm như vậy, vẫn tôn trọng kỷ luật quân đội, biểu lộ nét hào hùng văn hiến ngàn đời của một dân tộc có văn minh, văn hóa VN, khi cố gắng phòng thủ và tiếp tục chiến đấu khắp nơi, giúp cho Mỹ và những đồng đội, cấp chỉ huy hèn nhát, bỏ chạy khỏi nước một cách an toàn, trước khi giặc Hồ vào Sài Gòn trưa 30-4-1975. Họ đáng được ca tụng và kính phục". + QLVNCH tử chiến trong giờ thứ 25 : Sau khi được 400.000 quân Trung Cộng phòng thủ đất Bắc, cộng sản Hà Nội xua toàn bộ quân đội xâm lăng miền Nam. Mai mỉa nhất là lúc mà Dương Văn Minh cùng nội các mới, hy vọng được hòa hợp hòa giải với VC, để chúng chia chức nhín cho một chút quyền trong cái chính phủ liên hiệp, nếu có cũng chỉ là thứ bù nhìn, như MTGPMN được dựng lên, từ 12-1960 tới tháng 5-1975. Ðây chính là thời điểm, mà Bắc Bộ Phủ gọi là giờ G, ngày N, để tổng tấn công chiếm Sài Gòn. Ðó là lúc nửa đêm 29-4-1975, thời gian Hà Nội qui định cho tất cả các cánh quân, từ năm hướng tiến vào thủ đô. Ðây cũng là thời gian qui định cho bọn đặc công, biệt động nằm vùng, chui ra khỏi các hang ổ để gây hỗn loạn trong thành phố, chỉ đường, bắt tay cho bộ đội miền Bắc. Tại Mặt Trận Miền Ðông Nam Phần, từ sau ngày SÐ18BB và Lữ Ðoàn 1 Dù, rút lui an toàn về Bà Rịa, Quân Ðoàn III đã tái phối trí lại các phòng tuyến mới vào những ngày cuối tháng 4-1975. Vì SD18BB của Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo bị thiệt hại nặng nề sau 12 ngày ác chiến với cộng sản Bắc Việt. Ngoài Trung Ðoàn 48/18 của Trung Tá Công, tương đối quân số còn nguyên vẹn, các Trung Ðoàn 52/18 của Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng, tại Mặt Trận Ngã Ba Dầu Giây-Túc Trưng, thiệt hại hơn 80% quân số và Trung Ðoàn 43/18 của Ðại Tá Lê Xuân Hiếu, tử thủ trong thị xã Xuân Lộc, thiệt hại trên 30% nhất là Tiểu Ðoàn 2/43/18 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, là đơn vị cuối cùng rời Long Khánh. Do đó sau khi chỉnh đốn lại đơn vi, SD18BB được giao trách nhiệm phòng thủ tuyến phía đông Sài Gòn, từ kho đan thành Tuy Hạ chạy dài tới Tổng Kho Long Bình. Riêng BCH Hành quân của SD18BB đặt tại căn cứ Hải Quân Cát Lái. Phòng tuyến của SD 18BB tiếp giáp với vị trí phòng thủ của Lực lượng Nhảy Dù, Trường Thiết Giáp và Bộ Binh Thủ Ðức. Tỉnh Phước Tuy và Ðặc Khu Vũng Tàu, trong đó có quốc lộ 15 được Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, SD3BB phối họp với các lực lượng DPQ + NQ của Phước Tuy và Bình Thuận di tản từ miền trung tới. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SDTQLC kiêm Tổng trấn đặc khu Vũng Tàu. Riêng SD3BB từ vùng 1CT di tản vào, quân số kể luôn SD1BB cộng được hơn 1000 người, lập thành 2 tiểu đoàn thuộc Trung Ðoàn 2/3 và 56/3 vẫn do Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh. SD3BB được tăng cường thêm Chi đoàn 2/15 Thiết Kỵ và Lữ Ðoàn 1 Dù, bảo vệ QL15, thị xã Bà Rịa-Vũng Tàu. Tỉnh Biên Hòa và phi trường do Lực lượng III xung kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, được tăng phái thêm 2 Lữ đoàn 147 và 258 TQLC phòng thủ. Từ ngày 28-4-1975, để bảo vệ thành phố Biên Hòa, Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù bố trí trong phi trường giữ mặt bắc Bộ tư Lệnh QDIII. Một TD/TQLC thuộc Lữ Ðoàn 2 bảo vệ BTL.QDIII, các thành phần còn lại của Lữ Ðoàn, phòng thủ mặt nam BTL. Quân Ðoàn. Lữ Ðoàn Nhảy Dù giữ hai Cầu Mới và Sắt cùng các nút chận vào thị xã. Riêng Lực Lượng III Xung kích gồm Chiến Ðoàn 315phòng thủ từ Ngã ba Hố Nai đến Ngã tư Lò Than. Chiến đoàn 322 giữ từ Ngã tư Lò Than tới cổng phi trường Biên Hòa và Chiến đoàn 318 từ phi trường tới Cầu Mới. Về phía bắc Sài Gòn có SD25BB của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá được tăng phái thêm hai Liên Ðoàn 8 và 9 Biệt Ðộng Quân, trách nhiệm Tây Ninh và Củ Chi-Hậu Nghĩa. Mặt trận phiá bắc tỉnh Bình Dương là trách nhiệm của SD5BB của Chuẩn Tướng Lê NguyênVỹ, kể cả Trung Ðoàn 8/5 của Ðại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng phái cho Lực Lượng III Xung kích của Tướng Khôi ở Hưng Lộc, vừa được trả về. Phòng tuyến phía nam Sài Gòn là Long An, có SD22BB ở Bình Ðịnh di tản tới, phối hợp với Lực Lượng 99 Tuần Thám Ngăn Chận của Hải Quân và DPQ+NQ.Long An, từ lâu nổi tiếng là kiêu dũng thiện chiến, không kém gì quân chủ lực. Như vậy trừ ba SD7,9 và 21BB của QDIV phải bảo vệ lãnh thổ của các tỉnh thuộc Vùng 4/CT. Phía VNCH chỉ còn lại : sáu Sư Ðoàn gồm SD5,18,22,25 bô binh + Hai Lữ Ðoàn 1 và 4 Nhảy Dù + Sư đoàn TQLC + Lực Lượng III Xung Kích +Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù +4 LiênÐoàn BDQ + DPQ và NQ + 625 chiến xa đủ loại và 400 pháo, tất cả chừng 240.000 người, để bảo vệ Sài Gòn. Trong khi đó VC tung vào 5 lộ quân với quân số trên 280.000, gồm 15 Sư đoàn BB + 5 Lữ đoàn biệt lập + 4 Lữ đoàn thiết giáp + 6 Trung Ðoàn Ðặc công.Tất cả được trang bị đầy đủ với các vũ khí bom đạn hiện đại, không thua gì quân đội Mỹ. Từ chiều ngày 29-4-1975, hai Bộ Tư Lệnh Không quân và Hải quân VNCH đã di tản chiến thuật, kể cả Tướng Nguyễn Văn Toàn (Tư lệnh QDIII) và Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng TMT từ chức. Do đó, tổng thống mới nhậm chức là Dương Văn Minh, cử Tướng Vĩnh Lộc lên thế chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Ðến tối cùng ngày, Tướng Lộc ra lệnh cho SD18BB về bố trí từ Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hoà, tới Thủ Ðức. Từ đầu tháng 4-1975, trường Bộ Binh Thủ Ðức đã dời về Long Thành-Biên Hòa, đông nghẹt sinh viên các khóa, trong đó có hai quân trường từ Ðà Lạt di chuyển về như Trường Võ Bị và Chiến Tranh Chính Trị. Lúc 8 giờ tối ngày 27-4-1975, trường Bộ Binh lại có lệnh di chuyển trở về trường củ ở Thủ Ðức. Tới 8 giờ sáng ngày 30-4-1975, có bốn T54 của cộng sản Bắc Việt từ Xa Lộ Biên Hòa, tấn công trường, bị Pháo Binh 105 bán trực xạ cháy 3 chiếc tại chỗ. Nhưng chiếc còn lại đã nhập dược vào trung tâm, sau khi thoát được các tầm đạn M72 của sinh viên, bắn tử thượng Trung Tá Ông văn Tuyên, Trung sĩ I Nhân và 5 sinh viên, cùng 10 người bị thương, trong số này có Trung Tá Vương Bá Thuần. Cuối cùng chiếc tăng trên bò ra khỏi trường và bi M72 bắn đứt xích, nằm tại Niệm Phật Ðường cạnh Chợ Nhỏ, nhưng vẫn tác xạ dữ dội vào trường. Giờ chót, có hai sinh viên Thủ Ðức, chưa được gắn Alpha, tình nguyện mang lựu đạn lân tinh loại xuyên phá, mới tiêu diệt được chiếc T54 này. Cũng tại Long Bình vào sáng ngày 29-4-1975, Tiểu đoàn 43 thuộc Liên Ðoàn 4 BDQ, do Thiếu Tá Xẻn làm TDT, được lệnh của Biệt Khu Thủ Ðô,tăng phái phòng thủ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Từ 2 giờ 30 chiều cùng ngày, VC đã về tới Trung Chánh-Hóc Môn, sau khi chiếm được Căn cứ Ðồng Dù của SD25BB, căn cứ Pháo binh Lòng Tảo và đánh tan Trung Ðoàn 46/25BB trên QL số 1 từ Củ Chi về Tân phú Trung. Lúc đó Trường Quân Vận đối diện với TTHL Quang Trung cũng đã mất, nên Chiến xa của VC bắt đầu tấn công trung tâm, nhưng không ngờ trong đó không phải chỉ có tân binh quân dịch, mà còn sự hiện diện của một tiểu đoàn BDQ vơí hơn 500 tay súng, suốt cuộc chiến, đã cùng với các TD41,42,44 là những cọp ba đầu rằn tung hoành như chỗ không người trong mật khu sình lầy của Vùng 4 Chiến thuật. Tối 29-4-1975, qua hệ thống truyền tin của TD43BDQ, mới biệt BTL Biệt Khu Thủ Ðô đã bỏ chạy, chỉ còn các sĩ quan cấp uý ở lại nhưng BCH.Biệt Ðộng Quân và Tướng Ðổ Kế Giai vẫn còn nguyên vẹn tại Trại Tô Hiến Thành. Bên trong chiến hào của TTHL Quang Trung, cũng như suốt đoạn đường từ ngã ba Trung Chánh- Hóc Môn, về tới Ngã ba Bảy Hiền, các đơn vị kiệt hiệt nhất của QLVNCH như BDQ, Biệt Cách Dù và Nhảy Dù đang đợi chờ một trận đánh cuối cùng dũng liệt như SD18BB, LD1ND,TD82BDQ và DPQ Long Khánh, tại Xuân Lộc, thì trưa 30-4-1975 bị Dương Văn Minh ban lệnh buông súng rã ngũ, một cách tức tủi đoạn trường. 5 giờ chiều ngày 29-4-1975, các mặt trận, lính vẫn chiến đấu không ngừng nghĩ. Tại Biên Hòa, TQLC, Biệt Cách Dù và các Chiến Ðoàn thuộc Lực Lượng III Xung Kích, đã ngăn chống VC tại các phòng tuyến vô cùng đẫm máu kinh hoàng. Tại BCH.Thiết Giáp trong trại Phù Ðổng, cũng là nơi đặt tạm BTL.QDIII từ Biên Hòa di tản về, cũng như Trung Tâm Hành Quân /BTTM/QLVNCH gần như không còn đại bàng để nhận tin chiến trường và quyết định lệnh lạc. Cho tới 22 giờ 30 đêm 29-4-1975, Phế tướng Nguyễn Hữu Có, người vào năm 1965 bị Nguyễn Cao Kỳ lột chức và bắt ở lại Hồng Kông không cho về nước, cách đó vài giờ, vừa được TT.Dương Văn Minh gắn cho cái lon Trung Tướng, lên máy ra lệnh cho SD18BB của Thiếu Tướng Ðảo và LL3XK của Tướng Khôi, cố gắng giữ yên phòng tuyến trong đêm 29-4-1975, để rạng sáng ngày 30-4-1975 sẽ có hòa bình vì cộng sản Bắc Việt đã chịu hòa họp hoà giải hòa chung máu lệ với TT. Minh và lực lượng thứ ba đối lập. Nhưng 23 giờ 45 đêm 29-4-1975, Bắc Việt đã không hòa hợp mà lại tấn công dữ dội bằng bộ binh và chiến xa khắp các phòng tuyến tại Biên Hòa. Hai bên gần như cận chiến với khoảng cách chừng 10-15m, nhất là tại phòng tuyến do quân Dù, TQLC và Chiến Ðoàn 315 của Trung Tá Ðổ Ðức Thảo có chiếnxa M48. 2 giờ sáng ngày 30-4-1975, phòng tuyến SD18BB của Tướng Ðảo tại Long Bình bị VC tràn ngập, quân ta từ Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa phải rút về Thủ Ðức. Riêng Chiến Ðoàn 3, thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù của Thiếu Tá Phạm Châu Tài, quân số hơn 1000 người, từ Biên Hòa được điều động về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu từ 5 giờ 30 ngày 26-4-1975. Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn đóng tại Building số 1, đối diện vối Trại Võ Tánh. Các Biệt đội 811 của Ðại Uý Lâm đóng trong Lục Quân Công Xưởng. Biệt đội 812 của Ðại Uý Ánh đóng ở giữa cổng sau TTM và Tổng Y Viện Cộng Hòa. Biệt đội 813 ủa Ðại Uý Thạch rải quân từ Ngã Tư Bảy Hiền tới Trại Phi Long của Nhảy Dù và Biệt Ðội 815 của Ðại Uý Lợi là lực lượng trừ bị của Chiến Ðoàn, đóng trước cổng Bộ TTM. Từ ngày 28-4-1975, các đại bàng ở Bộ TTM, Bộ Tư Lệnh QD3, Quân Khu Thủ Ðô... từ Ðại Tướng trở xuống đã di tản chiến thuật, nên coi như không còn ai ra lệnh cho thuộc cấp dưới quyền. Về việc tên phi công nội tuyến Nguyễn Thành Trung, dẫn đoàn máy bay của KQ.VNCH bỏ lại ở Phù Cát, Phan Rang vào oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, không bị Chiến Ðoàn 3 Biệt Cách Dù bắn hạ, vì đã tưởng là phe ta làm đảo chánh. Chiều ngày 29-4-1975, tướng Vĩnh Lộc được TT.Minh cử làm Tổng Tham mưu trưởng thay Cao Văn Viên, còn Nguyễn Hữu Có thỉ gắn ba sao, xưng là Tổng Tham Mưu Phó. Ngoài ra còn có VC nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh, cũng được Dương Văn Minh gắn sao tướng, dù Có và Hạnh đã bị giải ngũ từ lâu. Mới đây VC lại cho các tên hề Có, Hạnh và Triệu Quốc Mạnh làm cuộc phỏng vấn cuội tại Sài Gòn, do bọn Việt gian hải ngoại từ Canada về thực hiện, rồi đem phát trên đài để lừa bịp người Việt trong và ngoài nước, một cách trơ trẽn vì câu chuyện lãng xẹt của đám sâu bọ, từng làm xấu hổ danh dự và thể thống của người lính VNCH năm nào. Từ 6 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, VC pháo kích bừa bãi hỏa tiễn 122 ly vào khu dân cư đông đúc, nhiều trái rớt xuống đường Võ Di Nguy, làm nhiều đồng bào thương vong. Nhiều trái khác rơi vào vòng thành Bộ TTM. Trên các đường phố dẫn tới Ðại Lộ Chí Lăng, chiến xa Bắc Việt đã xuất hiện, bắn vào Bệnh Viện Vì Dân tại Ngã Tư Bảy Hiền nhưng bị Biệt Cách Dù, dùng súng đại bác M90 ly không giựt, chỉ trong vòng 15 phút, bắn cháy 6 chiếc T54, PT76 cùng với một khẩu pháo phòng không có bánh xe kéo, với nhiều đặc công bị chết, nằm rải rác từ Bảy Hiền tới Bộ TTM. 9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, Dương Văn Minh ra lệnh cho Chiến Ðoàn 3 Biệt Cách Dù, lúc đó cũng đang tử chiến với VC, phải ngưng đánh nhau, để chờ đầu hàng. Tuy nhiên nhiều toán không tuân lệnh, vẫn tiếp tục bắn vào các đoàn xe của VC, sau đó tự tử tập thể bằng lựu đạn vào giờ thứ 25. Riêng 2 Chiến Ðoàn Biệt Cách Dù do Ðại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy, sáng ngày 30-4-1975, từ Suối Máu rút về Nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa, khi nghe lệnh Dương Văn Minh bắt đầu hàng, nên cũng rã ngũ tại đây. Khôi hài nhất là lúc mà người lính đang nối tiếp nhau ngã gục khắp các chiến trường, để bảo vệ cho thủ đô Sài Gòn và cuộc di tản bằng máy bay trực thăng của Mỹ, trên các mái nhà tại Cơ quan Dao và Tòa Ðại Sứ, thì gần hết tướng lãnh bỏ chạy trước. Còn Chính phủ Dương Văn Minh vừa mới nhậm chức, thì đã sai Nguyễn Văn Huyền vào Trại David, để thương thuyết với giặc xin đầu hàng, nhưng bị Võ Ðông Giang làm nhục và bắt giam luôn bọn Việt Gian Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần Ngọc Liễng, từ chiều ngày 29-4-1975, khi vào làm sứ giả hòa bình. Trong cuộc di tản ra khỏi nước, ngoài người Mỹ còn có đủ mọi thành phần lúc đó, từ quan tướng, trí thức, thầy cha, nhà báo, ca sĩ, mẹ mìn, đĩ điếm. Tất cả đạp lên đầu lẫn nhau để kiếm một chỗ chạy ra khỏi nước trốn cộng sản. Lúc đó không còn ai thèm nghỉ tới tư cách, thể diện, trinh tiết hay gì gì nửa. Kỳ cục nhất là những chuyên viên đối lâp, phản chiến, phá hoại và nói xấu chính phủ VNCH, giờ phút cuối lại là những thành phần hăng hái chạy trốn nhiều và trước hết. Ba mươi năm sau mới chợt hiểu, thì ra họ chỉ có thể chũi người quốc gia mà thôi. Với cộng sản, dù chỉ mới léng phéng mồm miệng, không bị roi đòn thoi đấm, hay ăn mã tấu, vào tù, bị cột đá neo sông, mới là chuyện lạ. Bởi vậy phải nhanh chân chạy trước ra ngoại quốc, để được tiếp tục đối lập với người Việt tị nạn, lần nữa làm tôi mọi cho cộng sản, dù rằng đã vì chúng mà phải một lần chuốc lấy sự nhục nhã năm nào. Sài Gòn náo loạn khắp nơi, dân chúng ùn ùn kéo tới các ngân hàng rút tiền ký thác. Các Tòa Ðại Sứ lần lượt đóng cửa, cũng như nhiều Hãng Máy bay ngưng hoạt động vì sợ họa lây. Hòn Ngọc Viễn Ðông như đã chết vào những ngày gần cuối tháng 4-1975 Thế rồi 9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, trong lúc mọi người đang mê tỉnh trong cơn hấp hối của đất nước, thì Dương Văn Minh vì quá nghe lời xúi dại của bọn thân Cộng như Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Hữu Hạnh, nên lợi dụng chức vụ tổng thống tổng tư lệnh quân đội, ép QLVNCH buông súng rã ngủ, trong khi tất cả còn đang tử chiến với giặc ngoài biên đình. Hỡi ơi VN chỉ vì một tên hám danh lừng khừng, mà cả một dân tộc chịu cảnh lầm than nô lệ từ ba chục năm qua và không biết tới bao giờ mới thoát khỏi xích xiềng tù ngục. Tất cả đều là ý trời, là số mệnh, là hậu quả tất yếu của một hậu phương miền Nam vô tình bạc nghĩa, chỉ biết hưởng thụ cá nhân, nên chẳng bao giờ chịu chia xẻ nỗi đau cùng cực của người lính, đã vì họ mà vong thân hay tàn phế nữa đời. Nhưng rồi giặc chiếm được nước, tất cả dân lính cùng chịu cảnh tan tác phân ly không chừa hay bỏ sót một thành phần nào, kể cả những người một thời theo giặc. Lính bỏ súng vào tù, dân không còn được lính bảo vệ, nên bị đe dọa mạng sống và mất hết tự do kể cả quyền sống làm người dân thường bên vệ đường. Trưa 30-4-1975, bộ đội Bắc Việt hồ hởi tiến vào Sài Gòn. Người người cùng cười dù đang thúi ruột, vì lần đầu tiên được chạm mặt với lính cụ Hồ, lù khù, ngô nghê. Nhiều chàng nàng cục mịch trong bộ đồ trận, với nón cối, dép râu, y chang những con dã nhân trong sở thú. Vậy mà suốt ba mưới năm qua, tháng tư nào cũng khoe là mùa xuân đại thắng, hay huênh hoang nhận đại là quân đội nhân dân anh hùng. Phút cuối vẫn còn một số đơn vị Dù, TQLC, BDQ, Biệt Cách Dù... không thèm nghe lệnh của Dương Văn Minh. Họ chận đánh cộng sản Bắc Việt, trên các đường phố Hồng Thập Tự, Thị Nghè. Tại Ðại lộ Thống Nhất, lính Dù và BDQ bắn M72 vào xe tâng VC khi chúng tiến vào chiếm Dinh Ðộc Lập. Ðúng 12 giờ 30 trưa ngày 30-4-1975, lá cờ vàng ba sọc đỏ của quốc dân VN treo trên nóc Dinh Tổng Thống VNCH bị giặc tước bỏ. Dương văn Minh và toàn bộ nội các có mặt tại dinh, bị bộ đội miền bắc, nhốt giữ tại chỗ, dù từ lớn tới nhỏ, đã sùi bọt mép nịnh bợ ca tụng chúng. Nhục nhã muôn đời là cả đám bị thu hình trước ống kính của hằng trăm nhà báo ngoại quốc. Cũng vào giờ phút mà Dương văn Minh bị còng tay gục đầu, thì tại Bộ Quốc Phòng, Trung Tá Nguyễn văn Cung, thuộc SD18BB khi nghe tin đầu hàng đã tự sát. Nhiều lính Dù cũng dùng súng M16 kết liễu đời trai trước Tổng Cục Chiến Tranh Chính trị. Trong trại Hoàng Hoa Thám, một toán lính Nhảy Dù, nắm tay làm thành vòng tròn, rồi mở chốt lựu đạn để cùng chết tập thể. Một Ðại Úy Cảnh Sát tự bắn vào đầu chết trước Quốc Hội. Trong khi đó các tướng lãnh Phạm văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Lê nguyên Vỷ, Phạm Văn Hai... cũng quyên sinh khi thành mất. Ðó là những hình ảnh tuyệt vời, ngàn đời khắc sâu trong tâm khảm của người Việt và những trang sử bất diệt của dân tộc. Sài Gòn đã chết từ đó, dân chúng thành đô dửng dưng trước chủ mới. Cùng lúc, có nhiều con khỉ trong sở thú, vừa được sổ chuồng, cổ quàng khăn đỏ, tay phất cờ máu, trang bị súng đạn lượm được của lính bõ bên vệ đường, chễm chệ trên các xe quân đội, tung tăng múa rối khắp đường phố, cổ võ, làm oai, hoan hô, đã đảo một cách lố bịch. Trưa đó, 125 nhà báo ngoại quốc còn nán lại, đổ xô tới chiêm ngưỡng những anh hùng cách mạng, mà từ năm 1960-1975, họ đã không ngớt xưng tụng và tô son đánh phấn khắp thế giới không tiếc lời. Nhưng sự thật đã làm té ngửa các trái tim thú vật, khi biết được tất cả chì là sự tuyên truyền lừa bịp của miệng lưỡi cộng sản, mục đích để cho thế giới có thành kiến không tốt và ghét bỏ VNCH. Có như vậy họ mới bỉ ổi ca tụng một chiều cuộc xâm lăng miền Nam của Bắc Việt, mà không cần phải tìm hiểu sự thật. Từ đó, thế giới mới bắt đầu tỉnh ngộ và chịu viết về một sự thật mà họ đã cố tình dấu diếm :" Không có ai là người miền nam, tất cả đều là bộ đội miền bắc, trong tập đoàn đệ tam cộng sản quốc tế, do Liên Xô-Trung Cộng cầm đầu".Riêng Norman Podhreta, khi về nước đã viết trên tờ Los Angeles times :" Nam VN bị mất, không phải vì cấu xé nội bộ, cũng không do nhiệt thành quốc gia hay vì chính phủ không tranh thủ được lòng dân. Sự thật tất cả do sự xâm lăng của Bắc Việt, qua hậu thuận của khối cộng sản đệ tam quốc tế, trong đó có đảng cộng sản Hoa Kỳ." Còn nữ ký giả Ý từng ca tụng ****, tên Tiziano Tersani thì viết" Binh sĩ tấn công vào Sài Gòn đều là bộ đội Bắc Việt. Sự phân biệt rất dễ dàng nhờ hình vóc và tiếng nói, người miền bắc hoàn toàn khác lạ với VC miền nam.".Một nữ ký giả Pháp, Brigitte Friang thì mai mỉa hơn" Trưa 30-4-1975, bộ đội Bắc Việt vào Sai Gòn. Ðây là một thành phố chết, chỉ có 125 nhà báo ngoại quốc và hơn một chục đứa con nít nam nữ, trương cờ máu đế chào đón chúng. Ba triệu dân miền Nam nhìn chúng bằng thái độ lãnh đạm. Vậy mà Trần văn Trà, Nguyễn Thị Bình đi đâu cũng tuyên bố rằng, chính nhân dân miền nam đã tổng nổi dậy, để lật đổ chính phủ VNCH". Nhưng cay cú nhất, phải là lời viết của Jean Larteguy, một nhà báo Pháp từng cuồng nhiệt ca tụng **** và VC như thần thánh trong nhiều năm qua. Ông viết"Sài Gòn mất bởi đạo quân Bắc Việt. Nhìn đoàn quân chiến thắng đang hồ hởi trên những chiếc tăng T54 hay PT46, treo cờ máu, đâu có khác gì cảnh quân Sô Viết đàn áp, xâm lăng Hung Gia Lợi, Tiếp Khắc, Ba Lan tai Ðông Âu năm nào." Ba mươi hai năm qua, hầu hết đồng bào VN trong cũng như ngoài nước tan nát cửa nhà sau cuộc đổi đời không bao giờ dám nghĩ là sẽ có. Nên cứ mỗi lần tháng tư quốc hận tới, cho dù ai chăng nửa, đại đa số người dân sống thầm lặng bên vê đường thời gian hay thiểu số dấn thân trên con đường đấu tranh quang phục đất nước, đều mang chung tâm trang bi thương, tức tưởi, ngậm ngùi. Tất cả đều là sự thật vì mọi bí mật của cuộc chiến đã được cac phe phái, chính người trong cuộc hay các sử gia tìm hiểu, như giáo sư Morris" cộng sản Hà Nội đã thắng cuộc xâm lăng miền nam, nhờ tuyên truyền, đẻ và thổi phồng bịa đặt các huyền thoại chính trị mà hầu hết, đều là chuyện trên trời dưới biển. Có như vậy, VC mới dụ dỗ và phỉnh gạt được, nhiều trí thức khoa bảng nhà báo trong và ngoài nước. Nhờ thế suốt cuộc, chính thành phần này đã góp phần chiến thắng cho Hà Nội, không phải ở chiến trường, mà là tại Paris, Luân Ðôn và Hoa Thịnh Ðốn." Ba mươi hai năm rồi, xin hãy trả lại cho người lính trận miền nam những gì họ đã mất từ lâu, do những kẽ cứ hay tự xưng mình là trí thức, đã cướp đoạt. Người lính VNCH không cần bất cứ ai phải vinh danh, vì chính cái phẩm cách tuyệt luân phi thường của lính, đã có một vị trí xứng đáng trong lòng dân tộc Bỗng ao ước sao cho đất nước sớm có tự do cuộc đời trở lại như thuở nào, để dân-lính lại thỏa tình cá nước, lính từ dân mà có và dân sống được nhờ sự bảo vệ thần thánh và chân thành của lính, điển hình như các cuộc di tản khỏi vùng chiến cuộc Tết Mậu Thân 1968, mùa hè đỏ lửa 1972, cuộc di tản tại Bình Thuận, Xuân Lộc và những ngày Sài Gòn hấp hối, cuối tháng 4-1975. Ta về cúi mặt đầu sương điểm nghe nặng từ tâm lượng đất trời cám ơn hoa đã vì ta nở thế giới vui vì mọi lẻ loi" (Thơ Tô Thùy Yên) Ba mươi hai năm trước hay bây giờ, người Mỹ cũng chỉ nghỉ đến quyền lợi của quốc gia mình mà thôi. Bởi vậy muốn đem quân vào VN, người Mỹ phải giết một tổng thống dân cử của bản xứ. Rồi để rút quân an toàn về nước, khi đã đạt xong mục đích chiến lược kinh tế của mình, Mỹ lại dùng áp lực quân viện, để bắt buộc đồng minh của mình, ký vào một hiệp ước giả mạo phi luân. Cuối cùng dùng nó để bán đứng quốc gia VN, chôn vùi tương lai của dân tộc anh hùng trong vòng nô lệ của cộng sản đệ tam quốc tế, suốt thời gian từ đó tới bây giờ. Tất cả đúng như lời Sir R.Thompson đã viết năm 1989 trong tác phẩm" Make for the hill", đại ý ông nói rằng, sự sống của miền nam VN đã bị bán đứng, vì cảnh cấu xé của nước Mỹ. Riêng Nixon, nhân vật chính đã cùng Kissiger đạo diễn tấn thảm kịch VN hôm nay, cũng đã viết những lời sám hối trong" No More VietNam".Ông viết rằng, tôi đã nhìn thấy những vấn đề nan giãi của hiệp định Ba Lê, nhất là sự thỏa hiệp, cho phép bộ đội Bắc Việt công khai ở lại và xâm lăng miền Nam. Nhưng đau đớn nhất, có lẽ là lời phát biểu của M. Gauvin, nguyên Ủy Viên Giám Sát Quốc Tế (ISCC) tại VN. Ngay khi thấy CS Hà Nội ngang nhiên xé bỏ hiệp định ngưng bắn mà chúng vừa ký kết chưa ráo mực, tấn công xâm lăng VNCH, bất chấp cả Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc. Vì vậy ông đã viết bài đăng trên tờ The Times số 59362 ngày 5-4-1975 rằng, sự thất bại của VNCH đã bắt nguồn từ hiệp định Ba Lê, vì nó chẳng bao giờ phản ảnh được ý muốn và nguyện vọng của dân-nước VNCH. Một thập niên sau ngày Mỹ bỏ chạy khỏi Sài Gòn trong đêm tối trên mái nhà, do những biến chuyển chính trị thế giới, quan trọng nhất là sự hòa hoãn giữa Nga-Hoa cũng như sự liên hệ của Mỹ và Trung Cộng có chiều hướng thay đổi. Ðể chiếm phần ưu tiên, người Mỹ lại tìm cách mon men trở lại Ðông Dương lần thứ 4 vào tháng 4-1985. Bởi vậy một phái đoàn cao cấp của Mỹ, do Richard Armitage cầm đầu, cùng với phụ tá ngoại trưởng Mỹ là Paul Wolfon Witz (đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương ), lần đầu tới Hà Nội, với chiêu bài "tìm lính Mỹ mất tích và hài cốt quân Hoa Kỳ còn tại VN". Sự kiện giằng co úp mở giữa hai nước, cho tới khi phái đoàn nghiên cứu Mỹ do cưu bộ trưởng quốc phòng Mc.Namara, sau khi thăm viếng Hoa Lục về, đã tiết lộ âm mưu Trung Cộng đang có dã tâm muốn trở thành Á Châu và Thái Bình Dương. Vì thế Hoa Kỳ mới mở phòng liên lạc giữa hai nước vào ngày 3-2-1995 và nối lại bang giao năm 1996. Một Ðại Sứ Mỹ tại Hà Nội được Thượng viện Hoa Kỳ chấp thuận sau 22 năm chiến tranh chấm dứt, đã chính thức xác nhận sự bình thường hoá ngoại giao với VC. Ngày nay, lịch sử đã ngừng lại và quay tròn đúng vào thời điểm củ trên đất nước tội nghiệp VN. Cả hai : Tài phiệt Hoa Kỳ và cộng sản đệ tam quốc tế cũng đều vì quyền lợi riêng tư của mình, nên muối mặt đổi thù thành bạn. Lần này không còn có chiêu bài VN là tiền đồn chống cộng, nên người Mỹ đã công khai tới VN qua danh phận lái buôn lái súng. Hiện trong cộng đảng cầm quyền đã manh nha hai phe theo Tàu, theo Mỹ. Nhưng dù VN có theo phe nào chăng nửa, thì chắc chắn đất nước chúng ta cũng sẽ bị cuốn hút theo vết xe lịch sử, khi Trung Cộng công khai gây nên thế chiến lần thứ 4 tại Á Châu-Thái Bình Dương. Ðọc và viết lịch sử, không phải để khóc hận than thân, mà là lấy đó làm một kinh nghiệm để hành động cứu nước trong thực tại và tương lai. Năm 1954, khi cộng sản đệ tam chiếm được miền bắc, một số ít trí thức khoa bảng chạy vào làm trùm tại VNCH, nên họ chẳng hề biết gì về kinh nghiệm sống chung với VC. Ngày 30-4-1975, khi VC chưa vào Sài Gòn, số trí thức khoa bảng trên lại ù trốn chạy sang Mỹ hay ngoại quốc. Họ không hề biết thế nào là sự đổi đời của phận người xuống hàng súc vật. Ở ngoại quốc, vì quá tự do, nên vẫn chứng nào tật đó, coi sự hiểu biết của mình ngang hàng với lãnh tụ, muốn ai cũng phải theo ý và đứng sau lưng mình. Họ vì không sống thật với lịch sử nên chẳng bao giờ có kinh nghiệm lịch sử, vẫn ảo tưởng xây lâu đài và chức phận trên cát biển, vẫn ngây thơ muốn hòa hợp hòa giải, với một đảng cướp tàn bạo bất lương, qua bảy mươi năm chỉ lừa bịp lường giết đồng bào và ban nước mình mà thôi. Tệ nhất là mình và gia đình lúc nào cũng thích sang giàu hạnh phúc nơi thiên đường Âu Mỹ, mà mồm thì luôn xuí người khác, nếu đi hết biển, thì phải trở về để làm nô lệ cho cộng sản. Cũng may bọn người này không nhiều và ngày nay hầu hết đều giống như những bình vội gìa nua, mà Phan Khôi từng ví với bọn cán ngố miền bắc trong tác phẩm" Trăm Hoa đua nở", chỉ nổ trên giấy hay nằm trơ trọi trong góc đời hiu quạnh về chiều... Thảm thê cho thân phận nhược tiểu VN, hết bị Tàu đô hộ tới Pháp, Nhật, Mỹ, Liên Xô... rồi nay lại làm đầy tớ cho cả thế giới, mà điển hình nhất là hình ảnh của những công nhân lao động và phụ nữ bị bán ra nước ngoài. Không biết bao giờ đất nước và đồng bào mới thoát được nổi thống hận trên, để cho con cháu có cơ hội ngẩn mặt nhìn trời, người Việt tị nạn tha phương, trở về cố quốc, một cõi lòng mà ai cũng hoài vọng ao ước, khi quê hương không còn bóng dáng lá cờ máu và đảng CSQT. Xóm Cồn Mùa Quốc Hận 32 Mường Giang < Sửa đổi: Việt Dương Nhân -- 4/30/2007 11:59:07 AM > _____________________________ Niềm vui dâng tặng cho đời Nỗi buồn xin gởi mây trời mang đi. vdn BUÔNG SÚNG NHƯNG KHÔNG ĐẦU HÀNG (tiếp theo)
Tại BCH.Thiết Giáp trong trại Phù Ðổng,
cũng là nơi đặt tạm BTL.QDIII từ Biên Hòa di tản về, cũng như Trung Tâm
Hành Quân /BTTM/QLVNCH gần như không còn đại bàng để nhận tin chiến
trường và quyết định lệnh lạc. Cho tới 22 giờ 30 đêm 29-4-1975, Phế
tướng Nguyễn Hữu Có, người vào năm 1965 bị Nguyễn Cao Kỳ lột chức và bắt
ở lại Hồng Kông không cho về nước, cách đó vài giờ, vừa được TT.Dương
Văn Minh gắn cho cái lon Trung Tướng, lên máy ra lệnh cho SD18BB của
Thiếu Tướng Ðảo và LL3XK của Tướng Khôi, cố gắng giữ yên phòng tuyến
trong đêm 29-4-1975, để rạng sáng ngày 30-4-1975 sẽ có hòa bình vì cọng
sản Bắc Việt đã chịu hòa họp hoà giải hòa chung máu lệ với TT. Minh và
lực lượng thứ ba đối lập.
Nhưng 23 giờ 45 đêm 29-4-1975, Bắc Việt đã không hòa hợp mà lại tấn công dữ dội bằng bộ binh và chiến xa khắp các phòng tuyến tại Biên Hòa. Hai bên gần như cận chiến với khoảng cách chừng 10-15m, nhất là tại phòng tuyến do quân Dù, TQLC và Chiến Ðoàn 315 của Trung Tá Ðổ Ðức Thảo có chiến xa M48 tham chiến. 2 giờ sáng ngày 30-4-1975, phòng tuyến SD18BB của Tướng Ðảo tại Long Bình bị VC tràn ngập, quân ta từ Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa phải rút về Thủ Ðức. Riêng Chiến Ðoàn 3, thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù của Thiếu Tá Phạm Châu Tài, quân số hơn 1000 người, từ Biên Hòa được điều động về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu từ 5 giờ 30 ngày 26-4-1975. Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn đóng tại Building số 1, đối diện vối Trại Võ Tánh. Các Biệt đội 811 của Ðại Uý Lâm đóng trong Lục Quân Công Xưởng. Biệt đội 812 của Ðại Uý Ánh đóng ở giữa cổng sau TTM và Tổng Y Viện Cộng Hòa. Biệt đội 813 của Ðại Uý Thạch rải quân từ Ngã Tư Bảy Hiền tới Trại Phi Long của Nhảy Dù và Biệt Ðội 815 của Ðại Uý Lợi là lực lượng trừ bị của Chiến Ðoàn, đóng trước cổng Bộ TTM. Chiều ngày 29-4-1975, tướng Vĩnh Lộc được TT.Minh cử làm Tổng Tham mưu trưởng thay Cao Văn Viên, còn Nguyễn Hữu Có thì gắn ba sao, xưng là Tổng Tham Mưu Phó. Ngoài ra còn có VC nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh, cũng được Dương Văn Minh gắn sao tướng, dù Có và Hạnh đã bị giải ngũ từ lâu. Mới đây VC lại cho các tên hề Có, Hạnh và Triệu Quốc Mạnh làm cuộc phỏng vấn cuội tại Sài Gòn, do bọn Việt gian hải ngoại từ Canada về thực hiện, rồi đem phát trên đài để lừa bịp người Việt trong và ngoài nước, một cách trơ trẽn vì câu chuyện lãng xẹt của đám sâu bọ, từng làm xấu hổ danh dự và thể thống của người lính VNCH năm nào. Từ 6 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, VC pháo kích bừa bãi hỏa tiễn 122 ly vào khu dân cư đông đúc, có mấy trái rớt xuống đường Võ Di Nguy, làm nhiều đồng bào thương vong. Các trái khác rơi vào vòng thành Bộ TTM. Trên các đường phố dẫn tới Ðại Lộ Chí Lăng, chiến xa Bắc Việt đã xuất hiện, bắn vào Bệnh Viện Vì Dân tại Ngã Tư Bảy Hiền nhưng bị Biệt Cách Dù, dùng súng đại bác M90 ly không giựt, chỉ trong vòng 15 phút, bắn cháy 6 chiếc T54, PT76 cùng với một khẩu pháo phòng không có bánh xe kéo, với nhiều đặc công bị chết, nằm rải rác từ Bảy Hiền tới Bộ Tổng Tham Mưu. 9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, TT Dương Văn Minh ra lệnh cho Chiến Ðoàn 3 Biệt Cách Dù, lúc đó còn đang tử chiến với VC, phải ngưng đánh nhau để chờ đầu hàng. Tuy nhiên nhiều toán không tuân lệnh, vẫn tiếp tục bắn vào các đoàn xe của VC, sau đó tự tử tập thể bằng lựu đạn vào giờ thứ 25. Riêng 2 Chiến Ðoàn Biệt Cách Dù do Ðại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy, sáng ngày 30-4-1975, từ Suối Máu rút về Nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa, khi nghe lệnh Dương Văn Minh bắt đầu hàng nên cũng rã ngũ tại đây. Khôi hài nhất là lúc mà người lính đang nối tiếp nhau ngã gục khắp các chiến trường để bảo vệ cho thủ đô Sài Gòn và cuộc di tản bằng máy bay trực thăng của Mỹ, trên các mái nhà tại cơ quan DAO và Tòa Ðại Sứ, thì gần hết tướng lãnh bỏ chạy trước. Còn chính phủ Dương Văn Minh vừa mới nhậm chức, thì đã sai Nguyễn Văn Huyền vào Trại David để thương thuyết với giặc xin đầu hàng, nhưng bị Võ Ðông Giang làm nhục và bắt giam luôn Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần Ngọc Liễng từ chiều ngày 29-4-1975, khi vào làm sứ giả hòa bình. Trong cuộc di tản ra khỏi nước, ngoài người Mỹ còn có đủ mọi thành phần lúc đó, từ quan tướng, trí thức, thầy cha, nhà báo, ca sĩ, mẹ mìn, đĩ điếm, gian thương Ba Tàu... Nhiều tên vô liêm sỉ còn đem cả vợ mình dâng cho Mỹ đen lẫn trắng để đổi lấy chổ chạy trên máy bay ra khỏi nước. Loại người này, giờ cũng chính là những tên đầu tiên trở “về nguồn” khi “đi hết biển” để làm ăn hợp tác với VC. Tất cả đạp lên đầu lẫn nhau để kiếm một chỗ chạy ra khỏi nước trốn Cộng Sản. Lúc đó không còn ai thèm nghỉĩ tới tư cách, thể diện, trinh tiết hay gì gì nửa. Kỳ cục nhất là những chuyên viên đối lâp, phản chiến, phá hoại và nói xấu chính phủ VNCH, giờ phút cuối lại là những thành phần hăng hái chạy trốn nhiều và trước hết. Ba mươi bốn năm sau mới chợt hiểu, thì ra họ chỉ có thể chũi người quốc gia mà thôi. Với cọng sản, dù chỉ mới léng phéng mồm miệng, không bị roi đòn thoi đấm, hay ăn mã tấu, vào tù, bị cột đá neo sông, mới là chuyện lạ. Bởi vậy phải nhanh chân chạy trước ra ngoại quốc, để được tiếp tục đối lập với người Việt tị nạn, lần nữa làm tôi mọi cho cọng sản, dù rằng đã vì chúng mà phải một lần chuốc lấy sự nhục nhã năm nào. Sài Gòn náo loạn khắp nơi, dân chúng ùn ùn kéo tới các ngân hàng rút tiền ký thác. Các Tòa Ðại Sứ lần lượt đóng cửa, cũng như nhiều Hãng Máy bay ngưng hoạt động vì sợ họa lây. Hòn Ngọc Viễn Ðông như đã chết vào những ngày gần cuối tháng 4-1975.Thế rồi 9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, trong lúc mọi người đang mê tỉnh trong cơn hấp hối của đất nước, thì ông Dương Văn Minh đã lợi dụng chức vụ tổng thống và quyền tổng tư lệnh quân đội, ép QLVNCH buông súng rã ngủ, trong khi tất cả còn đang tử chiến với giặc ngoài biên đình. Hỡi ơi VN chỉ vì một tên hám danh lừng khừng, mà cả một dân tộc phải chịu cảnh lầm than nô lệ suốt ba mươi bốn năm qua và nay lại đất nước sắp mất vì tập đoàn CS Bắc Việt đã mở cửa rước quân Tàu vào. Tất cả đều là ý trời, là số mệnh, là hậu quả tất yếu của một hậu phương miền Nam vô tình bạc nghĩa, chỉ biết hưởng thụ cá nhân, nên chẳng bao giờ chịu chia xẻ nỗi đau cùng cực của người lính, đã vì họ mà vong thân hay tàn phế nữa đời. Trưa 30-4-1975, bộ đội Bắc Việt hồ hởi tiến vào Sài Gòn. Người người cùng cười dù đang thúi ruột, vì lần đầu tiên được chạm mặt với rợ Hồ, lù khù, ngô nghê. Nhiều chàng nàng cục mịch trong bộ đồ trận, với nón cối, dép râu, y chang những con dã nhân trong sở thú. Vậy mà suốt ba mươi ba năm qua, tháng tư nào cũng khoe là mùa xuân đại thắng, hay huênh hoang nhận đại là quân đội nhân dân anh hùng. Phút cuối vẫn còn một số đơn vị Dù, TQLC, BDQ, Biệt Cách Dù.. không thèm nghe lệnh của Dương Văn Minh. Họ chận đánh cọng sản Bắc Việt, trên các đường phố Hồng Thập Tự, Thị Nghè. Tại Ðại lộ Thống Nhất, lính Dù và BDQ bắn M72 vào xe tâng VC khi chúng tiến vào chiếm Dinh Ðộc Lập. Ðúng 12 giờ 30 trưa ngày 30-4-1975, lá cờ vàng ba sọc đỏ của quốc dân VN treo trên nóc Dinh Tổng Thống VNCH bị giặc tước bỏ. Dương văn Minh và toàn bộ nội các có mặt tại dinh, bị bộ đội miền bắc, nhốt giữ tại chỗ, dù từ lớn tới nhỏ, đã sùi bọt mép nịnh bợ ca tụng chúng. Nhục nhã muôn đời là cả đám bị thu hình trước ống kính của hằng trăm nhà báo ngoại quốc. Cũng vào giờ phút mà Dương Văn Minh bị còng tay gục đầu, thì tại Bộ Quốc Phòng, Trung Tá Nguyễn Văn Cung, thuộc SĐ18BB khi nghe tin đầu hàng đã tự sát. Nhiều lính Dù cũng dùng súng M16 kết liễu đời trai trước Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Trong trại Hoàng Hoa Thám, một toán lính Nhảy Dù nắm tay làm thành vòng tròn, rồi mở chốt lựu đạn để cùng chết tập thể. Một đại úy Cảnh Sát tự bắn vào đầu chết trước Quốc Hội. Trong khi đó các tướng lãnh Phạm văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai.. cũng quyên sinh khi thành mất. Thê thảm nhất là Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng Chương Thiên đã bị VC hành hình dã man tàn khốc trưóc khi bắn Ông tại Cần Thơ. Ðó là những hình ảnh tuyệt vời, ngàn đời khắc sâu trong tâm khảm của người Việt và những trang sử bất diệt của dân tộc. Chúng ta hãnh diện vì có được những Anh Hùng làm rạng danh Nước Việt. Sài Gòn đã chết từ đó, dân chúng thành đô dửng dưng trước chủ mới. Cùng lúc, có nhiều con khỉ trong sở thú vừa được sổ chuồng, cổ quàng khăn đỏ, tay phất cờ máu, trang bị súng đạn lượm được của lính bõ bên vệ đường, chễm chệ trên các xe quân đội, tung tăng múa rối khắp đường phố, cổ võ, làm oai, hoan hô, đã đảo một cách lố bịch. Trưa đó, 125 nhà báo ngoại quốc còn nán lại, đổ xô tới chiêm ngưỡng những anh hùng cách mạng, mà từ năm 1960-1975, họ đã không ngớt xưng tụng và tô son đánh phấn khắp thế giới không tiếc lời. Nhưng sự thật đã làm té ngửa các trái tim thú vật, khi biết được tất cả chỉ là sự tuyên truyền lừa bịp của miệng lưỡi cọng sản, mục đích để cho thế giới có thành kiến không tốt và ghét bỏ VNCH. Có như vậy họ mới bỉ ổi ca tụng một chiều cuộc xâm lăng miền Nam của Bắc Việt, mà không cần phải tìm hiểu sự thật. BUÔNG SÚNG NHƯNG KHÔNG ĐẦU HÀNG (tiếp theo)
Cũng vì phải chiến đấu khắp các mặt trận nên đã có hằng trăm ngàn người
lính phải chết, hằng triệu thương phế binh, cô nhi quả phụ. Tới giờ phút
cuối cùng đã biết nước sắp mất, chết chỉ thêm uổng mạng nhưng họ vẫn
hiên ngang chiến đấu tại Khánh Dương, Phan Rang, Phan Thiết, Xuân Lộc,
Long An, Tây Ninh, Củ Chi , Biên Hòa và Sài Gòn. Tất cả đều là những
chiến tích để đời và lưu danh thiên cổ trong dòng sử Việt
Cuối cùng trong giờ thứ 25, QLVNCH đã xử sự một cách mã thượng anh hùng. Thay vì dùng vũ lực bắt trọn Toà Ðại Sứ và Cơ Quan DAO làm con tin, như Iran đã từng làm để gây áp lực bắt Hoa Kỳ phải giữ lời hứa dùng B52 đuổi bộ đội Cộng Sản rút về phía bên kia vỹ tuyến 17 như Hiệp Định Geneve năm 1954 và 1973 quy định. Họ vẫn không làm như vậy, vẫn tôn trọng kỷ luật quân đội, biểu lộ nét hào hùng văn hiến ngàn đời của một dân tộc có văn minh, văn hóa VN, khi cố gắng phòng thủ và tiếp tục chiến đấu khắp nơi, giúp cho Mỹ và những đồng đội, cấp chỉ huy hèn nhát, bỏ chạy khỏi nước một cách an toàn trước khi giặc Hồ vào Sài Gòn trưa 30-4-1975. Họ đáng được ca tụng và kính phục ‘. Chính hành động phi thường và thái độ mã thượng này mà sau tháng 5-1975, chính phủ và Quốc Hội Hoa Kỳ mới cho phép người Việt vào đất Mỹ, để phần nào trả lại chút Ân Tình cho QLVNCH. Chúng ta đừng quên điều này dù muốn hay không muốn chấp nhận sự thật. + QLVNCH tử chiến trong giờ thứ 25 : Sau khi được 400.000 quân Trung Cộng phòng thủ đất Bắc, cọng sản Hà Nội xua toàn bộ quân đội xâm lăng miền Nam. Mai mỉa nhất là lúc ma TTợ Dương Văn Minh cùng nội các mới, hy vọng được hòa hợp hòa giải với VC, để chúng chia chức nhín cho một chút quyền trong cái chính phủ liên hiệp, nếu có cũng chỉ là thứ bù nhìn, như MTGPMN được dựng lên, từ 12-1960 tới tháng 5-1975. Ðây chính là thời điểm mà Bắc Bộ Phủ gọi là giờ G, ngày N, để tổng tấn công chiếm Sài Gòn. Ðó là lúc nửa đêm 29-4-1975, thời gian Hà Nội quy định cho tất cả các cánh quân từ năm hướng tiến vào thủ đô. Ðây cũng là thời gian quy định cho bọn đặc công, biệt động nằm vùng, chui ra khỏi các hang ổ để gây hỗn loạn trong thành phố, chỉ đường, bắt tay cho bộ đội miền Bắc. Tại Mặt Trận Miền Ðông Nam Phần, từ sau ngày SÐ18BB và Lữ Ðoàn 1 Dù, rút lui an toàn về Bà Rịa, Quân Ðoàn III đã tái phối trí lại các phòng tuyến mới vào những ngày cuối tháng 4-1975. Vì SĐ18BB của Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo bị thiệt hại nặng nề sau 12 ngày ác chiến với cọng sản Bắc Việt. Ngoài Trung Ðoàn 48/18 của Trung Tá Công, tương đối quân số còn nguyên vẹn, các Trung Ðoàn 52/18 của Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng, tại Mặt Trận Ngã Ba Dầu Giây-Túc Trưng, thiệt hại hơn 80% quân số và Trung Ðoàn 43/18 của Ðại Tá Lê Xuân Hiếu, tử thủ trong thị xã Xuân Lộc, thiệt hại trên 30% nhất là Tiểu Ðoàn 2/43/18 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, là đơn vị cuối cùng rời Long Khánh. Do đó sau khi chỉnh đốn lại đơn vi, SD18BB được giao trách nhiệm phòng thủ tuyến phía đông Sài Gòn, từ kho đan thành Tuy Hạ chạy dài tới Tổng Kho Long Bình. Riêng BCH Hành quân của SD18BB đặt tại căn cứ Hải Quân Cát Lái. Phòng tuyến của SD 18BB tiếp giáp với vị trí phòng thủ của Lực lượng Nhảy Dù, Trường Thiết Giáp và Bộ Binh Thủ Ðức. Tỉnh Phước Tuy và Ðặc Khu Vũng Tàu, trong đó có quốc lộ 15 được Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, SD3BB phối họp với các lực lượng DPQ + NQ của Phước Tuy và Bình Thuận di tản từ miền Trung vào. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SDTQLC kiêm Tổng trấn đặc khu Vũng Tàu. Riêng SD3BB từ vùng1CT di tản vào, quân số kể luôn SD1BB cộng được hơn 1000 người, lập thành 2 tiểu đoàn thuộc Trung Ðoàn 2/3 và 56/3 vẫn do Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh. SD3BB được tăng cường thêm Chi đoàn 2/15 Thiết Kỵ và Lữ Ðoàn 1 Dù, bảo vệ QL15, thị xã Bà Rịa-Vũng Tàu. Tỉnh Biên Hòa và phi trường do Lực lượng III xung kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, được tăng phái thêm 2 Lữ đoàn 147 và 258 TQLC phòng thủ. Từ ngày 28-4-1975, để bảo vệ thành phố Biên Hòa, Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù bố trí trong phi trường giữ mặt bắc Bộ tư Lệnh QDIII. Một TD/TQLC thuộc Lữ Ðoàn 2 bảo vệ BTL.QDIII, các thành phần còn lại của Lữ Ðoàn, phòng thủ mặt nam BTL. Quân Ðoàn. Lữ Ðoàn Nhảy Dù giữ hai Cầu Mới và Sắt cùng các nút chận vào thị xã. Riêng Lực Lượng III Xung kích gồm Chiến Ðoàn 315phòng thủ từ Ngã ba Hố Nai đến Ngã tư Lò Than. Chiến đoàn 322 giữ từ Ngã tư Lò Than tới cổng phi trường Biên Hòa và Chiến đoàn 318 từ phi trường tới Cầu Mới. Về phía bắc Sài Gòn có SD25BB của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá được tăng phái thêm hai Liên Ðoàn 8 và 9 Biệt Ðộng Quân, trách nhiệm Tây Ninh và Củ Chi-Hậu Nghĩa. Mặt trận phiá bắc tỉnh Bình Dương là trách nhiệm của SD5BB của Chuẩn Tướng Lê NguyênVỹ, kể cả Trung Ðoàn 8/5 của Ðại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng phái cho Lực Lượng III Xung kích của Tướng Khôi ở Hưng Lộc, vừa được trả về. Phòng tuyến phía nam Sài Gòn là Long An, có SĐ 22 BB ở Bình Ðịnh di tản tới, phối hợp với Lực Lượng 99 Tuần Thám Ngăn Chận của Hải Quân và ĐPQ + NQ. Long An, từ lâu nổi tiếng là kiêu dũng thiện chiến, không kém gì quân chủ lực. Như vậy trừ ba SĐ 7,9 và 21 BB của QDIV phải bảo vệ lãnh thổ của các tỉnh thuộc Vùng 4/CT. Phía VNCH chỉ còn lại 6 sư đoàn gồm SĐ5, 18, 22, 25 Bộ Binh + Hai Lữ Ðoàn 1 và 4 Nhảy Dù + sư đoàn TQLC + Lực Lượng III Xung Kích + Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù + 4 liên đoàn BDQ + DPQ và NQ + 625 chiến xa đủ loại và 400 pháo, tất cả chừng 24.000 người, để bảo vệ Sài Gòn. Trong khi đó VC tung vào 5 lộ quân với quân số trên 280.000, gồm 15 sư đoàn BB + 5 lữ đoàn biệt lập + 4 lữ đoàn thiết giáp + 6 trung đoàn Ðặc Công. Tất cả được trang bị đầy đủ với các vũ khí bom đạn hiện đại, không thua gì quân đội Mỹ. Từ chiều ngày 29-4-1975, tư lệnh QÐIII là Tướng Nguyễn Văn Toàn và Ðại Tướng Cao Văn Viên,Tổng TMT đã di tản ra tàu Mỹ. Do đó, tổng thống mới nhậm chức là Dương Văn Minh, cử Tướng Vĩnh Lộc lên thế chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Ðến tối cùng ngày, Tướng Lộc ra lệnh cho SD18BB về bố trí từ Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hoà, tới Thủ Ðức. Từ đầu tháng 4-1975, trường Bộ Binh Thủ Ðức đã dời về Long Thành-Biên Hòa, lúc đó đông nghẹt sinh viên các khóa, trong đó có hai quân trường từ Ðà Lạt di chuyển về là Trường Võ Bị và Chiến Tranh Chính Trị. Lúc 8 giờ tối ngày 27-4-1975, trường Bộ Binh lại có lệnh di chuyển trở về trường củ ở Thủ Ðức. Tới 8 giờ sáng ngày 30-4-1975, có bốn T54 của cọng sản Bắc Việt từ Xa Lộ Biên Hòa, tấn công trường, bị Pháo Binh 105 bán trực xạ cháy 3 chiếc tại chỗ. Nhưng chiếc còn lại đã nhập dược vào trung tâm, sau khi thoát được các tầm đạn M72 của sinh viên, bắn tử thượng Trung Tá Ông văn Tuyên, Trung sĩ I Nhân và 5 sinh viên, cùng 10 người bị thương, trong số này có Trung Tá Vương Bá Thuần. Cuối cùng chiếc tăng trên bò ra khỏi trường và bi M72 bắn đứt xích, nằm tại Niệm Phật Ðường cạnh Chợ Nhỏ, nhưng vẫn tác xạ dữ dội vào trường. Giờ chót, có hai sinh viên Thủ Ðức, chưa được gắn Alpha, tình nguyện mang lựu đạn lân tinh loại xuyên phá, tới tận chỗ mới tiêu diệt được chiếc T54 này. Cũng tại Long Bình vào sáng ngày 29-4-1975, Tiểu đoàn 43 thuộc Liên Ðoàn 4 BDQ, do Thiếu Tá Xẻn làm TDT, được lệnh của Biệt Khu Thủ Ðô, tăng phái phòng thủ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Từ 2 giờ 30 chiều cùng ngày, VC đã về tới Trung Chánh-Hóc Môn, sau khi chiếm được Căn cứ Ðồng Dù của SD25BB, căn cứ Pháo binh Lòng Tảo và đánh tan Trung Ðoàn 46/25BB trên QL số 1 từ Củ Chi về Tân Phú Trung. Lúc đó Trường Quân Vận đối diện với TTHL Quang Trung cũng đã mất, nên Chiến xa của VC bắt đầu tấn công trung tâm, nhưng không ngờ trong đó không phải chỉ có tân binh quân dịch, mà còn sự hiện diện của một tiểu đoàn BDQ vơí hơn 500 tay súng, suốt cuộc chiến, đã cùng với các TD41,42,44 là những cọp ba đầu rằn tung hoành như chỗ không người trong mật khu sình lầy của Vùng 4 Chiến thuật. Tối 29-4-1975, qua hệ thống truyền tin của TD43BDQ, mới biệt BTL Biệt Khu Thủ Ðô đã bỏ chạy, chỉ còn các sĩ quan cấp uý ở lại nhưng BCH.Biệt Ðộng Quân và Tướng Ðổ Kế Giai vẫn còn nguyên vẹn tại Trại Tô Hiến Thành. Bên trong chiến hào của TTHL Quang Trung, cũng như suốt đoạn đường từ ngã ba Trung Chánh- Hóc Môn, về tới Ngã tư Bảy Hiền, các đơn vị kiệt hiệt nhất của QLVNCH như BDQ, Biệt Cách Dù và Nhảy Dù đang đợi chờ một trận đánh cuối cùng dũng liệt như SD18BB, LD1ND,TD82BDQ và DPQ Long Khánh, tại Xuân Lộc, thì trưa 30-4-1975 bịTT Dương Văn Minh ban lệnh buông súng rã ngũ, một cách tức tủi đoạn trường. 5 giờ chiều ngày 29-4-1975 trên khắp các mặt trận, lính vẫn chiến đấu không ngừng nghĩ. Tại Biên Hòa, các đơn vị TQLC, Biệt Cách Dù và các Chiến Ðoàn thuộc Lực Lượng III Xung Kích, đã ngăn chống VC tại các phòng tuyến vô cùng đẫm máu kinh hoàng.
http://suthatlichsu.blogspot.com/2011/10/buong-sung-nhung-khong-au-hang-tiep_26.html
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét