Sách mới Ride the Thunder làm nên lời giới thiệu mỡ đầu về sự bốp méo cũa gới truyền thông Mỹ thời trước thập niênCuốn sách mới về chiến tranh Việt Nam kể lại nhiều sự thật mà giới truyền thông Hoa Kỳ trước đây tránh né, đang dẫn đầu về số bán ở Amazon.
1960 về cuộc chiến và chế độ VNCH của chúng ta .
Theo tin báo điện tử của World Net Daily, hiện nay trên mạng ở trang nhà của Amazon.com,
cuốn này đang dẫn đầu số bán về thể loại chiến tranh Việt Nam và cũng
dẫn đầu số mua trong giới cựu chiến binh.. Ðồng thời Ride the Thunder
cũng đứng hạng hai vế lượng sách bán trong đề mục Asian History.
Theo viện bảo tàng này,
tác giả Botkin đã khai mào một trào lưu mới khi “kể lại câu chuyện anh
hùng của một số Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và Nam Việt Nam . Họ đã chiến
đấu tuyệt vời và làm khơi dậy ngọn sóng triều của cuộc chiến trong khi
các nhà làm chính sách đã buông tay đầu hàng.”
Botkin kể lại chuyện Ðại Úy John Ripley với hành động táo bạo khi phá sập cây cầu Ðông Hà; chuyện Thiếu Tá Lê Bá Bình cùng bảy trăm chiến binh TQLC đã ngăn chận được làn sóng tấn công của hai mươi ngàn quân Bắc Việt như
thế nào. Trong đó cũng không quên nhắc đến kỳ công của Trung Tá Gerry
Turley trong trận “Mùa Hè Ðỏ Lửa” từ một khách mời ghé lại vùng Hỏa
Tuyến để thăm một số sĩ quan cố vấn, vì kẹt bởi cuộc tấn công bất ngờ
năm 72, đã bất đắc dĩ trở thành vai trò lãnh đạo bên cạnh Tướng Giai can đảm ngăn trở được Quân Khu I khỏi bị tràn ngập bởi làn sóng “đỏ.”
Trong cuộc phỏng vấn đặc biệt dành riêng
cho World Net Daily, tác giả Botkin giải thích người Mỹ hiểu sai về
chiến tranh Việt Nam như thế nào - bởi vì họ ở xa đến 8,000 dặm, và chỉ
nghe thuật lại một chiều. Botkin nói, “Về phía
người Mỹ, theo tôi tất cả đều bị nghe những thông tin về cuộc chiến đã
bị bóp méo và không trung thực. Ða số người Mỹ kể cả những người đã phục
vụ ở Việt Nam đều không nhận thức được sự hy sinh của người dân Nam
Việt Nam . Họ chính là những người yêu chuộng tự do.”
Botkin sưu tập những thông tin cho thấy quân Cộng Sản thường xuyên tấn công người dân vô tội trong có đàn bà, người già và trẻ em bằng hành động pháo kích bừa bãi. Năm 1968, quân Bắc Việt tàn sát từ ba đến sáu ngàn người và đem chôn trong những hố chôn tập thể. Biết
bao gia đình phải chịu tang tóc, đau khổ và tủi nhục mà người Mỹ chưa
bao giờ hiểu đến, trong khi họ dễ dàng tin theo những tài liệu tuyên
truyền của đối phương do giới truyền thông Tây phương chưng ra để phê
bình cuộc chiến. Giới truyền thông này đã làm hoen ố đi nỗ lực của Hoa
Kỳ và Nam Việt Nam, góp phần vào sự xoay chiều của lập trường ủng hộ
cuộc
chiến.
Theo Botkin năm 68 là năm nổ bùng trận
chiến thu phục nhân tâm người dân Hoa Kỳ qua màn ảnh truyền hình, và đối
phương đã biết tận dụng lối tường thuật một chiều của báo chí Tây
phương gây ảnh hưởng tốt cho mình thêm.
Botkin lưu ý rằng báo chí và phim ảnh
Hoa Kỳ vẫn luôn miêu tả người Việt như là những kẻ tham nhũng thối nát,
hèn yếu, khiếp nhược và phản bội hơn là những con người muốn chiến đấu
cho tự do. Ông ta nói rằng “Ride the Thunder” trưng ra cho mọi người
những câu chuyện truyền cảm mà truyền thông trước đây tránh né không
muốn nhắc đến. Ðó là những câu chuyện về tình thân hữu, sự can trường,
lòng yêu nước và lòng can đảm.
Ngày 23 Tháng Giêng năm 1973, Tổng Thống
Mỹ Nixon công bố “Hòa Bình trong Danh Dự” trong một bài diễn văn phổ
biến toàn thế giới trên hệ thống truyền hình.
Botkin kết luận, “Chúng ta nói vậy để
rút chân ra khỏi Việt Nam cho có danh chính ngôn thuận. Lịch sử đầy dẫy
những bài học cho thấy Cộng Sản ngồi xuống đặt bút ký biết bao hiệp định
mà họ thấy có lợi, rồi sau đó lại phủi tay rũ bỏ. Ðúng là rút quân
trong danh dự, hay ‘Hòa Bình trong Danh Dự’ - mà thật ra chẳng có chi là
danh dự mà cũng chẳng có hòa bình gì ráo.” (TP)
------------------------------ ------
CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA
Nguyễn thị Thảo An
Download this file
Không biết bắt đầu từ
thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều
thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân
đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của
chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ
không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, người
lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng
gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ
gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình
ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề
thay đổi.
Người thanh niên tuổi trẻ
Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang
vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong
Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng
dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như
nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm
súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ
cho quê hương.
Bắt đầu từ thập niên Sáu
Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết
ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương,
thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác
hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ
miền Nam.
Ðất nước hai mươi năm
chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm
có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn
sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ
trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời
không nghỉ.
Tiếng mưa bom đạn réo bên
mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã
đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc
đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt
trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ
yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình
yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian
nguy.
Anh với đầu đội súng và
vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã
đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ
bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch
Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành
xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến
Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.
Anh đã đến những nơi mà
anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng
quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở
những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ
Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long,
người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên
ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít
máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng
xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho
chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được
sống no ấm ở hậu
phương.
Những người dân quốc gia,
những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những
người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính
để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách
bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm
của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự
trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi
mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên
tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của
người lính.
Và ở hậu phương, người
lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai
người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu
phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như
người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu
người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và
truyền hình.
Người lính bị bắt cóc vào
văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự
phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con
nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên
trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính
quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng
thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu
thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới
toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời
gọi ái tình. Và người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo
quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn
biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái
gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời
những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu
phương.
Ðó là những người đàn bà
bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng
vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống
bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là
những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm
Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà
gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để
chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.
Hạnh phúc của họ mong
manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà
người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút
tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở
trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời
tháng trước.
Người vợ lính cũng là
những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm,
rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi
lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.
Trong nỗi chịu đựng hy
sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người
chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn,
sự bạc đãi phũ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng
giữa muôn ngàn thù địch.
Ở chiến trường, anh đối
diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu
anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh
anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.
Những người dân của anh,
những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và
điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân
bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là
những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống
của anh.
Những kẻ để trái tim rung
động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã
xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch
lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. Tất cả vây
quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi
thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy
sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.
Ngày Hoà Bình, 28 tháng
Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang
giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc
mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt
Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ
nạn trong cái hoà bình bi thảm.
Người lính vẫn tiếp tục
ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông
sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân
đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?
Những người lính chịu
uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30
ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không
người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái
bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh
giữa cái nắng cháy da.
Người lính, người ở địa
đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm
xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để
tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm
ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh.
Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.
Người lãnh đạo anh còn mè
nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước
nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở
tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê
Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng
ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh
tuyệt đối được bình yên.
Và đồng minh của anh,
người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào,
Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước
cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng
nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?
Cho nên, cả thế giới lặng
câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi
dưới đường đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt
đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm
trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas
mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn
người dân trên đường triệt thoái.
Trên những con đường từ
Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân
chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo.
Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng
mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên
lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.
Bởi lãnh đạo đầu hàng nên
anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa
tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc?
Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm qua? Có thật không? ngày buông
rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không?
Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân
thù?
Anh đã khóc nhiều lần cho
quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính
khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong
chúng ta đã khóc thương cho đời lính?
Thương cho người lính với
trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới
chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống
Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung
phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ
lâu.
Lịch sử đã sang trang, và
loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên
thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son
vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự
thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt
Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập
tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng
Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.
Người Cộng Sản chân chính
có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được
trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế
nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.
Khởi đầu là việc cày nát
nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà.
Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới
thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của
người dân Việt Miền Nam.
Bởi từ khi những người bộ
đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật
sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay
hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con
đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế
mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên
tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ
ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người
Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá
nỗi bi thương.
Hai mươi năm chiến tranh,
hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại
hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên
chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một
khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải
đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những
điều dối gạt chính mình.
Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.
Nhưng lịch sử đã sang
trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những
trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Anh, người lính trong
thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi
thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời
bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê
hương anh.
Bởi Cộng Sản Việt Nam đã
bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng
chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng
và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo
nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới
mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới,
giết người bằng những mỹ từ đẹp đẽ, bằng lao động vinh quang, bằng thời
gian không thể đếm.
Người lính bước vào trận
chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có
án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu
phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. Đày đọa
sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi
chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc
thời gian.
Người lính đã trở thành
vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính
tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã.
Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn. Anh vượt qua sự chết
để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng
minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu
hàng.
Từ
trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã
chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ
địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm,
cuối cùng anh đã trở về:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)
Nước mắt anh không rơi
trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh
bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn
mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù
đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?
Và tuổi trẻ, những mầm
non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi
trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa
mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?
Hai mươi năm chiến chinh,
mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt
xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được
trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.
Anh không có quyền bắt
đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ
ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh,
người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm
Seven Eleven trên đường phố Mỹ.
Ba mươi năm vết thương cũ
hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c,
đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng
anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự
xót thương anh.
Chúng ta đã quá may mắn,
quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính
Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những
anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.
Nhưng cho tới nay, ta đã
làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia
đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con
sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc
nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.
Chúng ta, những người
quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần
đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc
thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu
gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có
ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì
ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.
Ngày nay, Người Cộng Sản ở
quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy
còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và
nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi
tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những
tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên
góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.
Ðể một mai, khi quê hương
không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được
đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi
sinh.
Bao nhiêu chuyên gia nhóm
họp nhan đề "xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai
đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết
tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở
từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân
bản.
Hãy
vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà. Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần
Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân
tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với
thế hệ tương lai.
Nguyễn thị Thảo An
Theo nguồn,
https://mail.google.com/mail/u/0/?shva=1#inbox/13a3f1e1fb38465a
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét