Anh chị em bỏ chút thì giờ đọc bài nầy để thông cảm, để thương cảm, để hãnh diện, cùng là nhân viên phi hành của phi đòan 219, ngừơi ở tù lâu nhất 71-84.
Mục sư Chung tử Bửu bay trong
flight với tôi. Sau khi rút từ Kontum về Đànẳng ngày kế
tiếp phi cơ của ông bi bắn ở đồi 31 hạ Lào. Chính chúng tôi đã
bay vào đồi 31 để rứơt phi hành đoàn về, nhưng phải tản thương trứơc.
Chuyến thứ hai vào để đón phi hành đoàn ra không thực hiện đựơc-
đồi 31 bị overrun.
Dầu cứng lòng mấy cũng phải chảy
nước mắt cho câu chuyện đọan trừơng này.
Như Chuyện Không Tưởng
Chung Tử Bửu
Khi cánh cửa phòng giam trại thẩm vấn tù binh Ngã
Tư Sở, Hà Nội, đóng lại cài then khóa chặt phía ngoài vào buổi chiều ngày 9
Tháng Ba năm 1971, mọi dự tính trốn thoát của tôi trở thành vô hi vọng. Tụi ma
giáo nầy sẽ giở trò quỉ quái gì đây? Bao giờ thì mình sẽ bị đưa lên các trại khổ
sai nơi thâm sơn cùng cốc? Mình sẽ chịu nổi các đòn tra tấn tới mức nào? Bao giờ
thì chúng sẽ đem mình đi thủ tiêu? Có khi nào mình sống sót trở về gặp lại bao
người thân yêu nhất không?
Phương trời Nam xa xôi ấy, người mẹ góa, đàn em dại, cô vợ trẻ, con đầu lòng đang chập chững tập đi, đơn vị cũ, khung trời xưa, bạn bè, chiến hữu, bây giờ ra sao? Biết bao nhiêu hình ảnh hiện lên trong trí não. Những khổ đau của bao người thân ở miền Nam vời vợi ấy có lẽ sẽ dần nguôi. Bóng hình, tên tuổi mình ở phi đoàn rồi sẽ phai dần vào quên lãng. Các bạn cùng khóa có lẽ thấy thầm tội nghiệp cho số phận hẩm hiu của mình được vài ngày rồi cũng quên. Nhưng mình phải sửa soạn đương đầu với một cảnh ngộ chưa hề chuẩn bị đối phó: Ðời tù binh trong các nhà giam cộng sản!
Phương trời Nam xa xôi ấy, người mẹ góa, đàn em dại, cô vợ trẻ, con đầu lòng đang chập chững tập đi, đơn vị cũ, khung trời xưa, bạn bè, chiến hữu, bây giờ ra sao? Biết bao nhiêu hình ảnh hiện lên trong trí não. Những khổ đau của bao người thân ở miền Nam vời vợi ấy có lẽ sẽ dần nguôi. Bóng hình, tên tuổi mình ở phi đoàn rồi sẽ phai dần vào quên lãng. Các bạn cùng khóa có lẽ thấy thầm tội nghiệp cho số phận hẩm hiu của mình được vài ngày rồi cũng quên. Nhưng mình phải sửa soạn đương đầu với một cảnh ngộ chưa hề chuẩn bị đối phó: Ðời tù binh trong các nhà giam cộng sản!
Khi cánh cửa phòng giam trại thẩm vấn tù binh Ngã
Tư Sở, Hà Nội, đóng lại cài then khóa chặt phía ngoài vào buổi chiều ngày 9
Tháng Ba năm 1971, mọi dự tính trốn thoát của tôi trở thành vô hi vọng. Tụi ma
giáo nầy sẽ giở trò quỉ quái gì đây? Bao giờ thì mình sẽ bị đưa lên các trại khổ
sai nơi thâm sơn cùng cốc? Mình sẽ chịu nổi các đòn tra tấn tới mức nào? Bao giờ
thì chúng sẽ đem mình đi thủ tiêu? Có khi nào mình sống sót trở về gặp lại bao
người thân yêu nhất không?
Mỗi lần nhìn thấy hai người đàn em của tôi cùng bị
bắt tại mặt trận, thiếu úy Khánh và thiếu úy On bị giam khác phòng, nhưng cùng
một dãy là tim tôi nhói lên vì thương các đàn em của mình. Các cậu mới ra trường
được vài tháng, bay hoa tiêu phó cho tôi một thời gian, chưa dạn dày chiến trận
đã bị lôi theo con chim đầu đàn gãy cánh. Trong số mười sáu sĩ quan tù binh bị
bắt trong cùng một trận đánh, tuy hai cậu ấy là người gần gũi nhất của tôi,
nhưng nếu hỏi rằng tôi biết gì về tánh tình, khả năng, tài vặt, hoặc đời tư của
hai chàng, thì tôi cũng mù tịt. Tôi chỉ cảm nhận một điều, mình phải có bổn phận
khích lệ và an ủi hai người em cùng phi đoàn. Năm tháng bị thẩm
vấn căng thẳng rồi cũng quen, nhưng cái loa điện tổ chảng chĩa thẳng vào mấy cửa
sổ cao sát trần nhà phòng giam phát tiếng the thé của đài nói dối Việt nam; nào
là buổi trưa hát bài chòi, giữa đêm hát chèo, với lại mấy thứ nhạc lai tàu bắt
chước giọng Liên sô hát nhanh như ma đuổi, cộng thêm đủ thứ bản tin phịa thứ
thiệt đẳng cấp thế giới, thì chịu không thấu bà con ạ! Một hôm đi
ngang qua cửa phòng Khánh và On, Khánh cầm hai hột nhãn lượm ngoài sân ra dấu
bảo tôi hãy lấy hột nhãn, rửa sạch, nút lỗ tai để đỡ phải
nghe. Bao đêm khuya canh
vắng suy nghĩ về tương lai đen tối của mình, có một câu hỏi vấn vương không rứt
ra được: “Nếu thật có thiên đàng, hỏa ngục và linh hồn, khi mi chết hồn mi sẽ đi
đâu? Lên hay xuống?” Sau một số ngày thành thật suy nghĩ thì câu trả lời rất rõ
ràng là sẽ đi xuống! Tại sao? Bởi vì mặc dù có đạo, nhưng giữa tôi với cõi thiên
đàng chẳng có mối liên hệ chặt chẽ nào bảo đảm một vé đi lên. Nhìn lại mặt đạo
đức của mình thì chỉ toàn là những điều xấu hổ. Ðúng là đầu xanh mà vô số tội!
Bị đối diện với sự thật nghiệt ngã, tôi mới nhận ra rằng dù có biết, có tin, có
là đạo vòng vòng, chẳng thứ nào tạo được tình liên hệ thân ái với Ðấng Tối Cao
là Ðấng sẽ ban quyết định cho mình lên hoặc xuống. Lấy lẽ công bằng mà nói, thần
nào, cõi thánh thiện nào chịu chứa chấp một thằng có đủ thứ tội lỗi xấu xa như
tôi? Ðứng trước số phận
vĩnh cửu của mình, tôi không thể khinh suất đặt niềm tin vu vơ vào những điều
chỉ nghe người ta truyền lại chứ chưa bao giờ biết rõ. Trong cõi nhân loại có
nhiều niềm tin tôn giáo khác hẳn nhau, thì không thể nào mọi niềm tin đều là
chân lý. Nếu có anh đúng thì phải có nhiều anh sai. Làm thế nào biết được ai
đúng ai sai? Hoàn cảnh bấy giờ không phải là lúc lý sự về Ðấng Tạo Hóa hiện hữu
hay không hiện hữu, vì chẳng ai giải thích được nguồn gốc sự sống, trật tự tuần
hoàn của cõi thiên nhiên, và sự hình thành vũ trụ bao
la.
Ðối với tôi, đứng
trước số phận chắc chắn là hẩm hiu và bất hạnh, bản năng khôn ngoan của con
người là tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh bế tắc, chẳng ai gàn dở ngồi lý sự về
những điều không chứng minh nổi. Vì thế, nỗi trăn trở của tôi ngoài việc suy
tính phương cách đối phó với những cuộc hỏi cung diễn ra suốt 6 ngày mỗi tuần,
còn là nghĩ cách tìm ra lời giải đáp cho thắc mắc làm thế nào tạo được mối liên
hệ thân ái với cõi thần linh trên thiên đàng. Ðể rồi đây, nếu có phải sớm qua
thế giới bên kia thì mình cũng còn có chút hi
vọng! Trong hoàn cảnh
tuyệt vọng và cấp bách, tôi muốn biết vấn đề cách rõ ràng rành mạch, vì sự biết
lõm bõm chẳng giải quyết được gì. Càng suy nghĩ càng hối tiếc, vì từ khi còn nhỏ
tôi đã được tiếp xúc với Thánh Kinh là quyển sách nói về vấn đề nầy, nhưng tôi
đã thờ ơ với số phận vĩnh cửu của mình. Tôi nhớ đến một lời tuyên bố của Ðức
Chúa Giêsu trong sách phúc âm nào đó được nhắc tới trong các bài giảng về đức
tin mà tôi đã nghe, rằng: “Nếu các con có đức tin lớn bằng hột cải, sẽ khiến núi
nầy đời đi, thì nó sẽ dời đi...” Như vậy có phải là với chút lòng tin thì sẽ
được ban cho quyển Thánh Kinh không? Ðối với tôi, lời tuyên bố chắc nịch thì một
là thật, hai là dỏm, chứ không thể có kiểu lừng
chừng. Làm sao ai có nổi
thứ đức tin cỡ đó? Nếu tôi có chút đức tin nào thì giỏi lắm nó chỉ lớn cỡ bằng
hột bụi bay vơ vẩn là tối đa! Giống như lênh đênh giữa biển bao la, vớ được cái
gì làm phao thì cứ bám lấy. Thứ mà tôi cần nhất lúc nầy là quyển Thánh Kinh.
Nhưng nhìn lại thực tại của mình trong nhà tù cộng sản thì vô cùng thối chí. Bọn
nầy thù ghét Cơ-đốc-giáo hơn mọi thứ trên đời, làm sao nó cho phép mình có được
quyển Thánh Kinh, nếu có? Thế còn lời tuyên bố của Thánh Kinh nói rằng Thiên
Chúa là Ðấng Toàn Năng thì sao? Lấy cái gì để chứng minh? Nếu Thiên Chúa không
trị nổi bọn cộng sản thì có gì đáng tin? Chẳng lẽ Ðấng Tối Cao không đủ quyền
phép buộc tụi xảo quyệt nầy phải cho tôi quyển Thánh Kinh hay
sao? Muốn biết có thật
hay không thì phải thử là cách tốt hơn hết. Từ hôm đó tôi đã bắt đầu cầu xin như
thế nầy: “Kính lạy Thiên Chúa, nếu Ngài hiện hữu và toàn năng, xin ban cho con
một quyển Thánh Kinh trong nhà tù cộng sản nầy.” Thật vậy nếu Thiên Chúa có thật
và toàn năng thì sá gì mấy thằng Việt Cộng láo toét. Tôi cung kính dâng lời khẩn
cầu của mình mỗi ngày hai lần vào buổi sáng thức dậy và buổi tối trước khi
ngủ.
Cùng thời gian đó,
có một tên đại tá đến thẩm vấn tôi suốt một tuần về các vấn đề xã hội, thông tin
báo chí, văn hóa văn nghệ của Miền Nam. Hắn ba hoa khoác lác về vấn đề tự do tín
ngưỡng ở miền Bắc rồi khoe về các nơi thờ tự hiện đang có tại Hà Nội. Tôi hỏi
móc một chuyện:
- "Thưa ông, mặc dù tôi không được ra
ngoài để thấy cuộc sống xã hội ở miền Bắc nầy, nhưng tôi đoán là vấn đề tự do
tín ngưỡng như ông nói chắc không có. Vì tôi nghe phía bên ngoài tường rào có
tiếng dân chúng đi lại sinh sống quanh đây rất nhiều. Mà đa số người Việt Nam
theo đạo Phật. Có dân ắt phải có chùa. Có chùa ắt phải có chuông. Có chuông thì
tôi phải nghe. Nhưng mấy tháng nay tôi chẳng bao giờ nghe tiếng chuông chùa cả,
chỉ nghe toàn là tiếng kẻng thôi. Tại sao vậy?"
Hắn trả
lời: “Anh nhầm rồi! Chùa ở ngoài nầy không dùng chuông mà gõ kẻng anh
ạ!”
Biết là hắn phịa,
nhưng tôi không có cớ nào để bẻ hắn. Tuy vậy, sau một tuần thẩm vấn xong hắn hỏi
một câu:
“Anh có nguyện vọng gì không? Tôi có thể giúp anh được gì không?”
Tôi trả lời: “Dạ có, tôi muốn có một quyển Thánh Kinh để đọc.”
“Anh có nguyện vọng gì không? Tôi có thể giúp anh được gì không?”
Tôi trả lời: “Dạ có, tôi muốn có một quyển Thánh Kinh để đọc.”
Hắn giãy như đỉa
phải vôi:
“Ô ô ô ô... cái... cái... cái đó thì không được! Vì chúng tôi không tin, không cho phép, và cũng chẳng đào đâu ra để có cho anh.”
“Ô ô ô ô... cái... cái... cái đó thì không được! Vì chúng tôi không tin, không cho phép, và cũng chẳng đào đâu ra để có cho anh.”
- "Ông nói
các ông không tin, và không cho phép; tôi tin ông nói đúng. Nhưng về việc ông
nói là không có để cho, thì tôi nghĩ là ông nói dối đấy!" Tôi
nói.
- "Sao... sao anh lại dám nghĩ là tôi nói
dối? Anh biết cái... cái... cái gì ở ngoài nầy? Anh lấy lý do nào
nào?" Hắn la
lên.
- "Thưa ông, mới hồi nãy ông khoe cạnh phố
Hàng Da gần Cửa Nam vẫn còn nhà thờ Tin Lành, vẫn có mục sư, và tín đồ vẫn được
đi nhà thờ dự lễ. Có phải vậy không ạ? Thế mà ông nói là không đào đâu ra Thánh
Kinh. Chẳng nhà thờ Tin Lành nào mà không có sẵn Thánh Kinh cả. Nếu nhà thờ ấy
có thật, ông cứ đến xin một quyển là họ biếu ông
ngay." Tôi
nói.
-
"Tôi đã nói là không được." Hắn nói.
- "Vì ông
hỏi nguyện vọng của tôi thì tôi thật lòng nói rằng đó là thứ tôi cần. Chứ có bao
giờ các ông theo nguyện vọng của tôi trả tự do cho tôi trở về Miền Nam
đâu." Tôi nói.
- "Anh đừng đòi hỏi những gì mà tôi không thể
giúp." Hắn ta
nói.
- "Vậy xin cảm ơn ông đã quan
tâm." Tôi
nói.
Không ai biết rằng tôi sẽ phải tiếp tục ở tù thêm
12 năm nữa, và cái Tổng cục Chính trị đó cũng không nghĩ rằng họ sẽ nhốt tôi
thêm mười hai năm nữa. (Cho tới cuối năm 1978, khi tôi bị cái đói hành hạ dai
dẳng ở trại cải tạo Nam Hà. Một đêm tôi nằm trách móc Chúa tại sao Ngài để cho
tôi bị đói như thế nầy, bỗng cuốn phim ký ức về con gà mái xổng khỏi lồng làm
trì hoãn đoàn xe chở tù binh vào ngày 16 tháng 4, 1972, diễn ra rõ mồn một trong
trí. Có tiếng hỏi rất nhỏ nhẹ vang trong trí “Nếu ngày ấy Ta
không tháo cho con gà xổng ra ngoài, trì hoãn đoàn xe để cứu cả đoàn khỏi bị máy
bay bắn cháy, liệu ngày nay con còn sống sót để nằm đó trách móc Ta
chăng?” Một tuần sau tôi “bị” điều động sang đội nấu bếp mới thành
lập).Chuyện đời tù của tôi quá dài không thể kể hết
trong một bài viết ngắn.
Sau khi không được trao trả cho Việt Nam Cộng Hòa, nhóm tù binh Hạ Lào chúng tôi bị đưa ngược lên vùng Trung du Bất Bạt rồi Yên Bái.Tôi tiếp tục bị nhốt riêng, vì dám tổ chức tuyệt thực và tập họp cả trại hát vang những bài quân hành để kỷ niệm ngày quân lực 19 tháng 6, 1973. Trong những ngày phải đi rừng đốn gỗ, chặt nứa, chặt chổm, của hai năm 73 và 74, biết bao ký ức của thời quân trường, thời du học các trường bay ở Mỹ cuồn cuộn kéo về trong tâm khảm. Mỗi đêm nhìn thấy đèn xóm nhà dân dài theo chân núi bên kia ruộng, nhớ sao hàng đèn phi đạo của những chuyến bay đêm.Nhìn đàn chim bay phía đỉnh núi xa, nhắc nhớ những vùng trời quê hương tôi đã bay qua. Ôi quê hương ra sao bây giờ? Trên đất Bắc dong chân qua những miền đất lạ, người xử người dã man nghiệt ngã. Bọn cáo chồn lộ nguyên hình tàn độc, bỉ ổi, và man trá. Quyển Thánh Kinh, cái gai trong mắt tụi coi trại, là nguồn an ủi vô biên của người tù binh trong những ngày gian khổ.
Sau khi không được trao trả cho Việt Nam Cộng Hòa, nhóm tù binh Hạ Lào chúng tôi bị đưa ngược lên vùng Trung du Bất Bạt rồi Yên Bái.Tôi tiếp tục bị nhốt riêng, vì dám tổ chức tuyệt thực và tập họp cả trại hát vang những bài quân hành để kỷ niệm ngày quân lực 19 tháng 6, 1973. Trong những ngày phải đi rừng đốn gỗ, chặt nứa, chặt chổm, của hai năm 73 và 74, biết bao ký ức của thời quân trường, thời du học các trường bay ở Mỹ cuồn cuộn kéo về trong tâm khảm. Mỗi đêm nhìn thấy đèn xóm nhà dân dài theo chân núi bên kia ruộng, nhớ sao hàng đèn phi đạo của những chuyến bay đêm.Nhìn đàn chim bay phía đỉnh núi xa, nhắc nhớ những vùng trời quê hương tôi đã bay qua. Ôi quê hương ra sao bây giờ? Trên đất Bắc dong chân qua những miền đất lạ, người xử người dã man nghiệt ngã. Bọn cáo chồn lộ nguyên hình tàn độc, bỉ ổi, và man trá. Quyển Thánh Kinh, cái gai trong mắt tụi coi trại, là nguồn an ủi vô biên của người tù binh trong những ngày gian khổ.
Khoảng gần cuối năm 1973, nhóm tù binh 7 người
chúng tôi bị chia cách khỏi đám đông ngày nào đi lao động hái trà cũng phải đi
ngang qua cái nhà của tụi chỉ huy trại. Chúng trương len một tấm bảng
đen giữa sân, mỗi ngày lấy phấn trắng vẽ mặt trận tiến quân của Ai cập đánh Do
thái. Ðài phát thanh thì oăng oẳng hí hửng từng giờ loan tin chiến thắng của Ai
cập. Ðược đâu vài bữa huênh hoang, bỗng cái bảng đen biến mất, và bản tin về
chiến sự vùng Trung đông cũng đột ngột im re. Chắc là “phe ta” thua to
rồi!
Một ngày Tháng Sáu 1974, chúng tôi được tin 4 anh
trong đám đông đã vượt ngục. Ôi! Vui chi kể xiết, dù chúng tôi bị gò bó nhiều
hơn. Tụi Việt Cộng gửi tới Yên Bái một sư đoàn tập trận để lùng bắt cho bằng
được những người tù binh đã bỏ trốn. Ba tuần trôi qua, bóng các anh vẫn biệt mù
tăm cá, tôi hứng chí làm bài thơ “Tiếng Rừng Xôn Xao” (với bút hiệu Phù
Vân) tặng các bạn mình. Nói làm sao hết nỗi tự hào của các chiến sĩ
Cộng Hòa hiên ngang bất khuất. Niềm tin càng ngày càng vững trong gian lao, dù
ngày về quê hương vẫn còn xa mờ mịt.
Từ ngày được tin Phước Long, rồi Ban Mê Thuột thất
thủ, tôi xem những lời tiên tri trong Thánh Kinh Cựu ước và biết rằng miền Nam
sẽ sụp đổ, mấy tháng liền nước mắt khóc quê hương cứ ràn rụa thâu canh. Ngày 11
tháng 4, 1975, tôi bị đưa về tạm giam tại nhà tù Hỏa Lò. Ngày 25 tháng 4 bị đưa
trở lại Ðông khê, Cao Bằng. Trại giam năm xưa bây giờ trở thành trại kỷ luật.
Tôi gặp lại 4 anh vượt ngục đã bị bắt lại và bị đưa lên đây trừng trị từ nhiều
tháng trước. Bốn chục thằng Việt Cộng lo trông coi và hành hạ chỉ có 11 người tù
binh. Ôi! Buồn không chi tả xiết! Rồi Sài Gòn thất thủ, niềm hi vọng lâu nay bám
víu cũng trôi xa. Tôi tưởng chừng lòng mình đã thành chai đá. Nước
mắt không còn để khóc. Quyển Thánh Kinh bị tịch thu vì là trại kỷ luật. Bị giam
riêng một mình ở tòa nhà đá trên đầu dốc, tôi chỉ còn là cái xác không
hồn.
Cuối năm 1975, chúng tôi được cho phép viết thư về
nhà lần đầu tiên. Tôi quyết định không viết. Có lẽ gia đình tôi chẳng còn ai.
Còn vợ tôi, nếu nàng đã đi bước nữa mà nhận thư tôi chỉ khiến nàng thêm bẽ bàng.
Thôi, tôi tự xem mình như đã chết. Và tôi cũng muốn gia đình tôi đừng biết tin
tôi còn sống. Tôi sẽ ở tù không có ngày ra. Bọn Việt Cộng đã tuyên bố vậy. Báo
tin tôi còn sống chỉ làm người thân đau khổ thêm một lần nữa, ích lợi gì! Nhưng
Thiếu úy Chờ, người bạn cưa xẻ với tôi, theo tôi năn nỉ khuyên nhủ suốt mấy
ngày. Ðể làm vừa lòng bạn, tôi viết qua quít một thư cho mẹ tôi, mà tôi nghĩ sẽ
chẳng bao giờ tới, vì có lẽ mẹ và các em tôi đã được đưa đi Mỹ
rồi.
Mùa Ðông năm ấy rét chưa từng thấy. Ban ngày nhiệt
độ trung bình là 2 độ C. Ban đêm 5, 6 độ âm. Vẫn phải lao động, cưa gỗ, đẵn củi,
đập đá, đắp đường. Bụng lúc nào cũng đói, cái đói triền miên hành hạ không
nguôi. Nếu không có bãi cỏ hắc âu làm thuốc, có lẽ, tất cả chúng tôi đã gục ngã
vì bệnh thấp khớp sưng đầu gối. Rau dấp cá mọc hoang trở thành nguồn lương thực
cứu đói chanh yếu của chúng tôi. Cỏ gì xực được là bứt. Tôi lại vận dụng trí não
làm một bài thơ tựa đề là "Mùa Ðông Thạch An" thuộc nằm
lòng chứ không bao giờ ngu viết ra giấy.Khoảng ba tháng sau, nhằm mùa Xuân, một buổi trưa
rất bất ngờ, thằng cai tù tên là Tòng đem đưa cho tôi thư nhà gửi ra, thật dày.
Tôi rất bình thản mở thư ra xem. Trong thư có rất nhiều ảnh chụp. Tấm hình màu
nằm trên cùng là ảnh hai đứa con gái của tôi khoảng 4, 5 tuổi. Ôi! chúng xinh
đẹp và dễ thương làm sao. Tôi chợt òa khóc không thể nào ngưng. Bao nhiêu nước
mắt và nỗi lòng thương nhớ bị đè nén từ lâu đầy ngập trong linh hồn, nay tràn ra
như nước vỡ bờ. Một mình giữa xà lim vắng lặng, tôi nghe tiếng khóc hu hu của
mình trộn lẫn tiếng nấc. Khi thấy lại hình ảnh của những người thân yêu nhất,
mọi cảm xúc bỗng bừng sống dậy, dạt dào... Từng lời thư yêu thương của vợ làm
tôi quá hối hận vì đã nghi ngờ lòng chung thủy của nàng. Ôi em! Ôi hai con!
Vâng, sẽ có ngày... sẽ có ngày tôi được gặp lại người xưa.
Tháng 6 năm 1976, tôi được trả lại quyển Thánh
Kinh, được ra khỏi trại kỷ luật và bị đưa đi trại Sơn La vùng Tây Bắc. Chẳng
phải vì chúng tôi đã mãn hạn, nhưng vì bọn Việt Cộng dùng trại Ðông Khê để trừng
trị những người chiêu hồi bị chúng tóm lại được. Ở Sơn La, tù
nhân lao động quần quật hai năm rưỡi, lội khắp các cánh rừng của bản
Mường Thải rồi về trại Ba Sao Nam Hà ở ba năm rưỡi nữa. Sau đó chuyển về trại
Z30C Hàm Tân thêm hai năm 7 tháng. Suốt thời gian ấy, tôi được báo trước trong những
giấc mơ đủ thứ chuyện sẽ xảy ra, thì đều diễn ra y như tôi đã thuật lại cho các
bạn cùng phòng. Trong gần 14 năm trôi nổi gian truân và cả sau nầy, bàn tay bảo
vệ và gìn giữ của Thiên Chúa vẫn theo tôi không bao giờ rời xa. Ôi, Thiên Chúa
đầy yêu thương đã đoái đến một con chiên ghẻ bướng bỉnh. Không món quà nào trong thời khổ đau quý hơn món
quà quyền phép giúp tôi biết mình luôn được bảo hộ, được chỉ dẫn cho biết con
đường chân lý. Suy gẫm về những ngày gian khổ đó, tôi luôn biết ơn Ðấng đã che
chở bảo vệ tôi, thậm chí một cái tát cũng đã không xảy ra, mặc dù tôi là người
tù bị bọn Việt Cộng ghét nhất trại. Có lẽ tôi là người duy nhất thuộc khóa 65
Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã trải qua những kinh nghiệm như đã kể. Có người
bạn như vậy kể cũng “hãnh riện” lắm chứ, phải không các bạn!
Nguồn: http://www.anhdao.org/D_1-2_2-66_4-328_5-4_6-2_17-80_14-2_15-2/#nl_list_bookmark
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét