Mậu Thân 1968: Kẻ đồ tể & Nhân chứng sống (Cập nhật)
Mậu Thân 1968: Kẻ đồ tể & Nhân chứng sống
(Cập nhật)
Lời người đăng: Tôi
không là người Huế cũng chẳng quen biết anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường và
Hoàng Phủ Ngọc Phan, nhưng qua những tài liệu tôi sưu tầm được về họ
trong sự kiện Mậu Thân 1968 ở Huế và sau khi đối chiếu, tôi nghĩ phải
cho đăng bài này chỉ để chứng minh cùng cư dân mạng rằng hai anh em nhà
Hoàng Phủ là hai tay bất nhất, nói láo. Dám làm mà không dám chịu: công
thì đã lãnh, tội thì vẫn chối quanh! Nếu họ có oán tôi thì tôi xin chịu,
nhưng họ nên oán Internet thì đúng hơn!
*
Hoàng Phủ Ngọc Phan: Tôi không
hề giết ai
[“Sau chiến dịch
Mậu Thân báo chí ở Sài gòn thường nhắc đến anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường
và Hoàng Phủ Ngọc Phan như là hai tên đồ tể khát máu, giết người không
gớm tay ở Huế. Sự thực anh Tường không hề về Huế mà ở lại trên căn cứ để
làm nhiệm vụ tiếp đón các vị khách từ nội thành ra. Tánh anh Tường rất
hiền, không ưa đụng đến vũ khí, dầu chỉ để lau chùi. Cơ quan cấp cho anh
một khẩu súng ngắn K.59, anh không ngó ngàng gì tới đến nỗi súng han
rỉ, rồi đem cho một người bạn nào đó mượn đi công tác. Người này làm mất
súng khiến anh Tường bị phê bình – đúng ra đây là một khuyết điểm đáng
phải bị xử kỷ luật nặng. Nhưng anh Tường không ý thức được điều đó. Anh
cứ cãi khơi
khơi
là tại cơ quan giao súng cho anh chứ anh đâu có yêu cầu. Công tác của
anh chỉ cần ngòi bút. Người như thế mà có thể giết ai được?”] (Hoàng Phủ
Ngọc Phan).
Hoàng Phủ Ngọc Phan khẳng định: “Sự thực anh Tường không hề về Huế mà ở lại trên căn cứ để làm nhiệm vụ tiếp đón các vị khách từ nội thành ra”?
Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời phỏng vấn ngày 01 tháng 3 năm 1981:
[“Tôi
đã đi trên con đường hẻm vào ban đêm, và tôi tưởng rằng tôi đang dẫm
trên đống bùn. Thế mà khi tôi bật cái đèn pile lên, máu khắp mọi nơi. Cả
một khu vực bị bỏ bom bởi bom đạn Mỹ bắn phá. Và thế rồi, những ngày
cuối cùng khi chúng tôi triệt thoái ra khỏi thành phố, kẻ thù của chúng
tôi đã thâu lại và đem đi chôn.”] (từ phút 5:55)
Hoàng Phủ Ngọc Tường
tự xác nhận sự hiện diện của mình trong Tết Mậu Thân 1968, nhưng trong
cuộc phỏng vấn của bà Thụy Khuê trên đài RFI ngày 12 tháng 7 năm 1997
thì ông ta lại chối:
[“Người ta cho tôi là một tên đồ tể Mậu Thân ở Huế thì đó là một sự bịa đặt mang ý định vu khống hoàn toàn. Sự
thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm
1966 và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là
trong thời điểm Mậu thân 1968, tôi không có mặt ở Huế. Điều
quan trọng còn lại, tôi xin tỏ bày ở đây, với tư cách là một đứa con của
Huế, đã ra đi và đã trở về; ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi
tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải
chịu cho hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế vào năm
Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào
biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc và nhìn từ quan điểm chiến
tranh cách mạng”.]
Hoàng Phủ Ngọc Phan viết tiếp:
[“Còn tôi thì có
theo chiến dịch về hoạt động ở Thành nội Huế nhưng tôi không hề giết ai
cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề làm thiệt mạng một con
thú trên rừng chứ đừng nói là con người. Vì lẽ:
- Giết người không phải là chuyện nhỏ, không phải hễ có súng trong tay là có quyền giết người. Tôi không hề có quyền đó.
- Giết người không
phải là chuyện dễ, không phải ai cũng có bản lĩnh đó. Mặc dầu trong
chiến tranh, trên chiến trường và ngay bây giờ vẫn không thiếu gì những
kẻ đáng tội chết nhưng nếu đưa cho tôi một kẻ đáng tội nào đó bảo tôi
giết thì nói thật… không dám đâu.
Chúng tôi theo cách
mạng trước tiên là vì không thể sống chung với cái ác. Nếu chịu làm ác
thì cứ nhảy vào các binh chủng rằn ri của Thiệu – Kỳ hay đầu quân dưới
trướng của Liên Thành thì thiếu gì cơ hội?
Từ sau Tết Mậu Thân
đến nay, đối phương không ngừng vu khống cho anh em tôi đã tàn sát đồng
bào vô tội ở Huế. Tôi nguyên là sinh viên Y khoa nên họ còn trút luôn
lên đầu tôi cái tội khi sư diệt tổ là giết các giáo sư người Đức ở Đại
học Y khoa Huế. Lúc đầu thì có nhiều người tin nhưng hơn ba mươi năm
nay, bà con bạn bè trong nước và cả những người ở nước ngoài có dịp đi
về đều đã hiểu được sự thật. Tất cả chỉ là tin đồn do những người có ác ý
gieo rắc, không cần chính xác và không ai phải chịu trách nhiệm. Nhưng
Liên Thành, là người cầm đầu nhiều cơ quan công lực, rất có điều kiện để
kiểm chứng các tin đồn. Vậy xin hỏi Liên Thành: ông nói tôi say sưa lấy
máu tươi, giết đồng
bào
vô tội nhưng chính xác tôi đã giết những người nào? lúc nào? ở đâu?
Nếu ai đó nói chính mắt họ thấy tôi giết người thì chắc chắn đó là kẻ ăn gian nói dối.
Còn nếu Liên Thành
hay bất kỳ ai đưa ra được bằng chứng không thể chối cãi rằng tôi đã giết
người – như kiểu tên ác ôn Nguyễn Ngọc Loan giết anh Bảy Lốp – thì tôi
xin tự vẫn ngay trước mặt họ để tạ tội với đồng bào và khỏi làm nhục lây
đến bà con dòng họ.”]
(Trích nguyên văn Hoàng Phủ Ngọc Phan: Nhân đọc bài “Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng”), http://daohieu.com hoặc http://daohieu.wordpress.com.
*
* *
"Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó,
Tôi biết nó, đồng bào xứ Huế này biết nó;
Việc nó làm, tội nó phạm ra sao,
Nó là tên trùm đao phủ năm nào…"(*)
Nhân chứng sống thứ nhất
Nguyễn Thị Thái Hoà: Hoàng Phủ Ngọc Phan là đao phủ giết người
[“Tôi xin tường thuật
lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh,
cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau Tết
Mậu Thân như là tiếng kêu oan cho gia đình tôi, cho linh hồn của những
người thân trong gia đình, gia tộc tôi cách riêng, và cho những người
dân Huế nói chung, thay cho tất cả những ai bị sát hại trong Tết Mậu
Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại VN không có cơ hội để nói lên những oan
khiên mà họ đã gánh chịu bởi đảng Việt Gian Cộng Sản, và bè lũ tay sai
khát máu giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng
Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v…
Năm 1968, tôi đang là
sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Ngoài những giờ học
lý thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành
nhiều toán. Mỗi toán từ 8 đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại
bệnh trong BV Trung Ương Huế.
Có những trại bệnh
sinh viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài nơi, như phòng cấp
cứu, phòng bệnh nội thương… thì giờ thực tập được chia làm ba ca: sáng,
chiều và đêm …
Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau.
Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ.
Hai tuần trước Tết, toán của tôi được chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai, tôi và hai anh bạn vào ca đêm.
Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn Tết.
Thường thì mấy anh em
tôi năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 Tết, ở
luôn cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm
viếng bạn bè…
Sau bữa cơm tối mồng một Tết, khoảng 8 giờ 30 anh Hải lấy xe Honda của anh đưa tôi tới BV, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.
Tối mồng một Tết phòng
cấp cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân
viên phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên! Chúng
tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm
chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.
Nhưng qua nửa đêm thì
bắt đầu nghe có tiếng súng. Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một
gần. Chúng tôi thốt giựt mình, băn khoăn nhìn nhau, hoang mang lo sợ.
Bầu không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì nghe
ngóng bàn tán, thắc mắc không biết tiếng súng từ đâu vọng lại…
Lúc đầu chúng tôi
tưởng là thành phố Huế và BV bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3, 4
giờ sáng, bất thần không biết tứ ngõ ngách nào có chừng mười mấy người
tràn vào phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải phóng. Đa số mặc
áo quần đen, súng mang vai, bị rết ngang hông. Họ bắt tất cả chúng tôi
băng bó cho một số người bị thương, đồng thời hò hét chia nhau lục soát,
vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa v.v… Họ
lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cả những bánh mứt chúng tôi để
trong phòng trực.
Trong lúc bọn họ đang
tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nổ rớt rất gần, đâu đó
trong BV, rồi tiếng thứ hai, thứ ba…rớt ngay con đường phía trước cổng
chính BV, kề phòng cấp cứu… Điện trong phòng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc
bọn chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy tìm đường chạy
thoát thân.
Ra khỏi phòng cấp cứu
tôi cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy đi đâu.
Súng nổ tư bề, cứ nằm xuống trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy.
Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người, định thần
ngó lại mới biết đó là cha Trung, tuyên úy của BV. Cha từ phía một trại
bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi. Nét mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ
lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “con ở mô chạy lại đây?”
Tôi nói “từ phòng cấp cứu”.
Vừa nói vừa theo cha,
chạy về phía nhà nguyện của BV và cũng là chỗ ở thường ngày của cha. Đến
đó thì đã có hai bà sơ dòng Áo Trắng và vài người nữa không biết từ
trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi nhận ra trong số đó có sơ giám thị
suốt trong sáu năm tôi nội trú tại trường trung học Jeanne d’Arc.
Cha Trung quen biết
ông nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở
đường Hàm Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại
đó với cha hai bà sơ, và mấy người nữa.
Bốn năm ngày liền
chúng tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng
không liên lạc được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nổ tư bề
nên ai ở thì cứ đâu ở đó.
Sau khi đám người xưng
là “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi chúng tôi không gặp, không
thấy bọn VC nào nữa, hay chúng đang lẫn trốn trong những trại bệnh khác
thì tôi không biết.
Tới ngày thứ năm, ruột
gan như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường
Hàm Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn muốn về nhà.
Cha bảo, không được, súng đạn tư bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và
mấy sơ đi đã, khi mô có lính mình xuất hiện thì mới đi được. Tôi hỏi,
khi mô thì lính mình mới tới, cha nói không sớm thì muộn họ cũng sẽ phản
công thôi, cha nói như để trấn an tôi và mọi người thôi chứ trên mặt
cha thì vẫn đầy vẻ lo âu…
Không biết nghe tin từ
đâu mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ
Cam đông lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần vì
sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi, phần vì đói. Đã mấy ngày không
có gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của Caritas còn sót lại ở nhà
nguyện chúng tôi chia nhau gặm…cầm hơi!
Tôi quyết định chạy về
tìm gia đình. Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục dính đầy
máu, tôi chạy ra phía sau cổng BV, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa lo,
ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng thì nghe rất
gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm bò dậy, vài
bước lại vấp té. Tôi lạnh run , hai hàm răng đánh bò cạp, nhìn cảnh
tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng vũng. Không biết họ bị thương
đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở đây. Quá sợ hải, tôi định chạy
trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt hãi từ cổng sau
BV chạy vô.
Văn là bạn của anh
Hải, anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần
dòng Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp
tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi, thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn
bị bắn ở bên Văn Khoa. Toàn thân run rẫy, tôi khuỵu xuống. Văn đỡ tôi
đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gần. Văn hoảng hốt kéo tôi chạy lại ngồi
xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau BV. Hai đứa tôi run rẫy ngồi
sát vào nhau. Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh lắp bắp kể. Văn nói
mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn đạn trong nhà thờ Chánh
Tòa (nhà thờ Phủ Cam), nhưng rồi đêm qua có mấy sinh viên của mình dắt
một toán VC vô nhà thờ đọc một lô danh
sách, họ lùa người đi đông lắm, không biết họ đưa đi đâu. Văn kể một
hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ tôi không còn nhớ nổi.
Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết.
Sau đó Văn, anh Hải cùng mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường trốn.
Ra khỏi nhà thờ, không
biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà Văn với anh
Hải lại tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không
biết. Hai anh hè nhau chui vô phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài
người đã bị bắn chết từ bao giờ mà những vũng máu đọng dưới họ còn tươi
lắm. Văn, anh Hải hoảng hồn chạy trở ra.
Chưa ra khỏi cửa thì
gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn thị Đoan Trinh cùng mấy sinh viên khác
nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn với Hoàng Phủ Ngọc Phan.
Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y khoa cùng lớp với Phan.
Gặp Văn, Phan nạt nộ: tụi mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi tải thương!
Hải và Văn biết không
thể nào thoát khỏi sự kiểm soát của bọn Hoàng Phủ Ngọc Phan nên vội vàng
chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị
giết.
Bọn Trinh, Phan chạy
xe Honda nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi.
Hải, Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ
là sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời
Hoàng Phủ Ngọc Phan nói.
Vừa vô tới giảng đường
thì anh Hải bị Hoàng Phủ Ngọc Phan bắn gục ngay. Văn mắc đi cầu, tìm
chổ phóng uế nên chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiến súng,
tiếng hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì
bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường đại học, khiến Hoàng Phủ
Ngọc Phan và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo chạy.
Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô BV, và tình cờ gặp tôi trong đó.
Nghe anh Hải bị bắn
trong sân đại học Văn khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn
khoa tìm anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô
BV cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chổ anh Hải. Văn can, Ti đừng
đi, tụi nó có thể trở lại. Tôi mặc kệ Văn ngồi đó, vùa khóc vừa chạy.
Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng thì nói, Ti ơi, vô BV trốn
đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn bước theo tôi. Tôi như người mất
hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là khủng khiếp, chỉ một
đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường VK mà không biết bao nhiêu là
xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.
Chúng tôi chạy mới tới
trường trung học Jeane d’Arc, thì gặp bọn Hoàng Phủ Ngọc Phan lấp ló
trước cổng trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày đằng
đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã
lắp bắp phân trần, em qua BV kiếm con Ti chớ em không có trốn mô, và xin
xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về nhà rồi em trở lại
đi…tải thương!
Phan không trả lời Văn, hắn nhìn tôi ác độc: mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải về.
Tôi líu lưỡi, em không
biết hai anh em ở mô mà kêu. Trước đây tôi không hề biết mặt Hoàng Phủ
Ngọc Phan, mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người này vì trước năm 68
tôi còn là học sinh trung học. Có thể các người anh của tôi thì biết, vì
họ là những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những khó khăn đối đầu
với đám sinh viên theo phe “tranh đấu, lên đường xuống đường” của những
năm trước.
Hoàng Phủ Ngọc Phan to
nhỏ gì với những người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh
Văn đem xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải
về thì Văn thấy một chiếc xích lô của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ
cạnh vách tường trường Jeanne d’Arc.
Văn gọi tôi theo anh.
Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn khoa. Có chừng
10 xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi khiêng
Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã cứng. Đùm ruột lòi ra ngoài trông rất
khủng khiếp. Hai mắt vẫn còn mở trừng. Miệng vẫn còn há ra.
Hoàng Phủ Ngọc Phan vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi: Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau là mi chết!
Văn run rẫy lắp bắp:
dạ lạy anh, em không dám nữa mô. Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc xích lô
mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên. Nhà tôi
ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi cầu một chút. Suốt quảng đường từ đó về
đến nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba.
Chúng tôi không bị bắt giữ lại vì có Hoàng Phủ Ngọc Phan chạy đi trước
ra dấu cho họ để cho chúng tôi đi.
Khúc đường ngang
trường Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rải rác. Nhiều vũng máu
cũng như xác người bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng,
tôi vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi rán sức đẩy chíếc xích
lô, trong lúc Hoàng Phủ Ngọc Phan cùng hai người đàn bà nữa cứ chạy xe
đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe chúng nó hỏi nhau, bên
Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai nữa không? Có mấy chiếc xe Honda chở
gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô trường Thiên
Hựu.
Lúc đó bỗng dưng có
mấy chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhả đạn xuống,Văn nói như reo
bên tai tôi, Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no, thì trời ơi, từ
những cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả
đạn, nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là VC
đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều.
Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại ngồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh đạn.
Phan và đồng bọn biến
đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai
chiếc trực thang bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy Phan với
đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.
Lên tới cầu Kho Rèn,
thấy một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau
ngồi trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít
khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con: nín đi con ơi.
Đi ngang qua họ mà
chúng tôi không dám nhìn. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay
lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ của một chú cùng đơn vị
với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi đoán họ là những người
từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn, Hàm Nghi và những con đường
chung quanh đó chạy xuống tìm đường trốn lên Phú Lương thì bị bắt giữ.
Tôi định dừng lại hỏi thăm thì Hoàng Phủ Ngọc Phan trờ xe tới nạt nộ: “đi mau, ngó chi!”
Trên đoạn đường từ Văn
Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi
thấy nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc
đồ đen đi dép râu, mang súng.
Súng nổ tư bề mà sao không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ dội Bắc Việt khắp nơi.
Trên đường Hàm Nghi,
Nguyễn Thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng
trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà,
người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường
khóc la thảm thiết… Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm
mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…
Hai chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt, lầm lủi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.
Khi gần tới nhà tôi ở
số 24 đường Hàm Nghi thì Hoàng Phủ Ngọc Phan và con hồ ly Trinh rà xe
lại gần bảo tôi: không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!
Đẩy lên trên tê, tôi
hiểu đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng
nhà nội tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần
cầu Kho Rèn.
Tôi cũng không hề biết
mặt Nguyễn Thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn cảnh này tôi mới biết
mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưởng khi Hoàng Phủ
Ngọc Phan biểu cùng tôi đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và
tôi cũng không ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên
đường Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi chung với nhau trong
cuộc đời này.
Lên tới nhà nội, chúng
tôi đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn
chạy vào nhà, nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi.
Nghe tiếng ông nội yếu
ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây, ông nội. Nghe
tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy
lại ôm tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui con sống. Tôi
không khóc được, tôi run rẫy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an
ủi, con còn sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội,
không can chi mô! Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương
rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát được không? Lạy Chúa, lạy Mẹ phù
hộ.
Tôi không nói vì quá mệt, kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô giống thằng Văn rứa bây?
Văn oà khóc, tôi khóc
theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống,
miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà ra nông nỗi ni…
Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.
Hai người anh tôi đang
trốn trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc
giở nắp trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy
cái ghế đẩu qua cho anh. Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu
mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc nhảy xuống. Ông nội ngó lên, quơ
quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông nội lạy con, đừng xuống, ở
trên đó đi mà… Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang khóc. Lộc chưa kịp
nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân người ngoài sân. Anh vội vàng
đóng miếng ván lại thì bọn Hoàng Phủ Ngọc Phan cũng vừa vào đến.
Thấy Phan bước vô, mặt
Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác
về đó ông ơi. Ông nội đứng im không nói. Hai mắt cú vọ của nó ngó ông
nội hỏi: thằng Lộc, thằng Kính ở mô?
Ông nội nói tui không
biết. Phan gằn giọng: ông thiệt không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô
cũng về ăn Tết ở đây mà ông không biết răng được?
Ông nội nói, ba ngày
tư ngày Tết, ăn xong thì tụi hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ
chẳng lẻ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui biết tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!
Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.
Tôi đứng núp sau lưng
ông nội, Hoàng Phủ Ngọc Phan hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên,
nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn:
Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống tau bắn con Ti!
Nó vừa nói, vừa xoáy
mái tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi
sợ, tôi run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông
nội tôi chấp tay lạy nó như tế sao: tui lạy anh tha cháu tui, con gái
con lứa, hắn biết chi mô.
Thằng Phan càng la lớn: tau biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti.
Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai, ba…
Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to: đừng, đừng bắn em tau, tau xuống, để tau xuống…
Ông nội tôi chạy lại
giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc
anh Lộc tìm cách tuột xuống, thò hai chân xuống trước, hai tay còn vịn
trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì Hoàng Phủ Ngọc Phan đã
nổ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn
nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.
Mặc ông nội tôi la hét
thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn
tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó giành lấy cây súng
của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy
miếng ván.
Anh Văn ngồi bệt xuống
đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người tôi tê
cóng, đái ỉa ra cả quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn
trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa
thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông tôi đổ xuống bên cạnh
anh Kính.
Bắn ông tôi xong chúng
kéo nhau đi bắt anh Văn theo. Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy ông
nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt
đẫm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi
lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời
tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt đều mở trừng, ông nội tôi nằm
im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông
lịm đi. Không biết bao lâu thì tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi.
Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân
và nước tiểu đẫm ướt. Tôi không còn sức để ngồi lên. Không biết tôi nằm
bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy
là bao lâu.
Khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm nữa cùng với ông nội đang ở trong nhà.
Họ dọn dẹp, khiêng bộ
ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt xác ông nội cùng với ba
người anh tôi nằm chung với nhau. Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm, phụ
nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác
mặc cho tôi. Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi không còn khóc được,
không còn mở miệng nói được câu nào. Ngày cũng như đêm ngồi rũ rượi bên
cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ chết. Nhưng sao tụi
nó không giết luôn tôi? Trời hỡi, trời ơi!
Nhìn thấy tôi tiều tụy, mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muỗng bột bích chi ép tôi uống.
Thiệt ra nhà nội cũng
chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó khiêng đi hết rồi. Bác
Hậu còn giấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống cầm hơi với nhau.
Ngày hôm sau thằng
Phan trở lại. Bác Hậu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau
vườn nhà nhưng nó không cho, nói cứ để đó.
Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại.
Một buổi tối tụi bộ
đội Bắc Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt sau
nhà để chôn ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi thì
chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.
Vợ chồng bác Hậu khóc
lóc năn nỉ: mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui đào 4
huyệt. Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cả bốn
người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người
trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc…
Chiều tối hôm đó Văn
trở lại với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng
bộ đội khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt. Hai vợ chồng bác Hậu theo
ra vườn.
Tôi kiệt sức nằm vùi
một chỗ nhưng tai tôi vẫn nghe rõ những lời đối thoại trong nhà. Tôi
không đủ can đảm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi lấp những người thân
yêu của tôi. Nằm trong buồng ông bà nội nhưng tôi nghe rõ từng tiếng
cuổng xẻng đang đào đất. Tâm trí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn.
Trời ở đâu, đất ở đâu? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải,
không ai nghe tôi hết…
Khi bốn cái xác người
được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp, thì tôi nghe tiếng súng nổ, tiếng
kêu gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác
Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã
xảy ra cho Văn. Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa
cứt và nước đái trong người tôi túa ra.
Tôi nghe tiếng mấy thằng bộ đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu và những người hàng xóm của nội tôi đành phải làm theo.
Khi tụi bộ đội VC bỏ
đi, bác Hậu chạy vào buồng vò đầu, bức tai, giọng tức tưởi: thằng Văn
nằm chung với ba thằng anh mi rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi. Bác Hậu
đấm ngực: không biết thằng Văn đã chết chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn ơi
là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà ác như rứa…
Tôi lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.
Sau lần đó không đứa nào trong bọn chúng trở lại, kể cả tụi bộ đội.
Chắc nhà ông tôi chẳng còn người để mà giết, chẳng còn của cải chi để mà cướp nữa.
Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.
Hai vợ chồng bác Hậu
không nỡ bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân
Phủ Cam đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nỉ tôi:
rán ăn uống thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ
chết? Con không muốn tìm mạ con răng?
Hôm sau nữa tôi theo
gia đình bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính Mỹ, lính
mình đã thấy xuất hiện chung quanh đây rồi.
Đi xuống ngã cầu Kho
Rèn thì cầu đã bị sập, bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo
như người mất hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã
đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi lấy làm lạ, trên đường chạy giặc,
mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng gánh nhau mà đi,
không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh đạn, người ta nói với nhau: khi mô
mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó thì bọn VC chui vô nhà dân để trốn
đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy người ta cứ
chạy bất kể, dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những
người dân tội nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt
vô tay quân sát nhân
ác độc.
Cuối cùng thì tôi cũng
về đến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ
tôi bị phát điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội.
Ít lâu sau ba tôi trở
về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy
mạ tôi như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi ông mướn nhà ở
tạm tại Phú Lương.
*
Sau khi Huế được giải
thoát. Ba tôi nhờ bà con lối xóm cải táng Văn, ba người anh, và ông nội
tôi, tang lễ được cữ hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ
chủ tế.
Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn được nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.
Ba tôi được giải ngũ
khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba
tôi quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà
nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi (gần dường rầy
xe lửa) thì bán cho ai đó tôi không rõ.
Thưa ông Liên Thành,
Đó là những cái chết
oan khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận
mắt với muôn ngàn đau đớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của
tôi có rất nhiều người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà
thờ dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người.
Tất cả đều là học sinh, sinh viên, thường dân, nông dân, buôn bán ở chợ
An Cựu.
Sau Tết Mậu Thân,
những người bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ
Huế, tản mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…
Sau biến cố tháng 4
đen 75, gia đình tôi lại là những nạn nhân của lũ Việt Gian Cộng Sản ác
độc, vô luân. Ba tôi và những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười
mấy năm bị đày đọa trong lao tù CS.
Đã 40 năm qua, những
vết thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó
là những cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân
Huế.
Tôi là người con duy
nhất trong gia đình còn sống sót sau Tết Mậu Thân cũng như sau những
ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người
Thân Yêu trong gia đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân,
để tố cáo Tội Ác của Việt Gian Cộng Sản, có như thế, oan hồn của ông nội
và anh em tôi mới có thể siêu thoát.
Tôi sẵn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết.
Xin trình tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị sát hại:
Tên ông nội:
- Nguyễn Tín, 70 tuổi.
Ba người anh:
- Nguyễn Xuân Kính, sinh viên Y khoa, sinh năm 1942.
- Nguyễn Xuân Lộc, sinh viên Luật, sinh năm 1946.
- Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949.
Và Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.”]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét